Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ


KHOA NGỮ VĂN
~~~~~~*~~~~~~

BÀI TẬP NHÓM


HỌC PHẦN
VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI II

ĐỀ TÀI
LÝ GIẢI NHẬN ĐỊNH HỒ XUÂN HƯƠNG LÀ
“BÀ CHÚA THƠ NÔM”

Giảng viên hướng dẫn : Trần Thị Thanh Nhị


Sinh viên thực hiện : Nhóm 03
Lớp : 216011A

Huế, 2023

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
I. Đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương:.........................................................................2
1. Cuộc đời:..................................................................................................................2
2. Vị trí:........................................................................................................................2
3. Sự nghiệp:................................................................................................................3
4. Phong cách sáng tác.................................................................................................3
II. Đôi nét về thơ Nôm Đường luật..............................................................................4
1. Khái niệm:................................................................................................................4
2. Đặc điểm:.................................................................................................................4
3. Lịch sử xuất hiện và phát triển.................................................................................5
B. NỘI DUNG CHÍNH....................................................................................................6
I. Đặc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương qua nội dung............................................6
1. Nổi bật với các tác phẩm bằng chữ Nôm.................................................................6
2. Hồ Xuân Hương viết nhiều về người phụ nữ trong xã hội phong kiến...................6
3. Hồ Xuân Hương đã chạm đến các vấn đề cấm kỵ trong văn học thời đó................7
4. Ngoài đồng cảm với số phận bất hạnh của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn
hướng ngòi bút của mình vào trật tự phong kiến.........................................................8
II. Đặc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương qua nghệ thuật.......................................9
1. Về ngôn từ................................................................................................................9
2. Về phương thức biểu hiện......................................................................................14
3. Các nhận định về thơ của Hồ Xuân Hương..........................................................26
C. TỔNG KẾT................................................................................................................27
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................

2
MỞ ĐẦU
Hồ Xuân Hương và sự nghiệp thơ ca của bà vốn là niềm tự hào vủa người Việt
Nam, là di sản chủa chúng ta, đên hôm nay đã trở thành di sản văn học, trở thành
một trong những giá trị văn hóa của toàn thế giới. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương
trước tiên chính là tấm gương phản ánh con người và trí tuệ của tác giả, là một
hiện tượng độc đáo vượt ngoài quỹ đạo văn chương thời trung đại Việt Nam. Tính
dị biệt của “tác giả” cũng như tính đa nghĩa của “thơ Nôm” khiến cho “thơ Nôm
Hồ Xuân Hương” suốt hơn hai thế kỷ nay luôn là một vấn đề mở với nhiều hướng
tiếp cận, nhiều cách đánh giá, cảm nhận, thậm chí trái ngược nhau. Có thể nói,
chất phong tình, tâm thức phản kháng, khát vọng hạnh phúc, tự do chính là những
biểu hiện rõ nét của sự phát triển và biến hóa của các mẫu gốc trong thơ Nôm Hồ
Xuân Hương. Viết về người phụ nữ là phần nhiều, các sáng tác chữ Nôm của bà
mang một cá tính mạnh mẽ, độc đáo động chạm đến nhiều khía cạnh mà đa số các
nhà văn, nhà thơ nào thời đó cũng phải dè chừng. Với nhiều tác phẩm thơ Nôm
độc đáo của mình, Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm” của
văn học trung đại Việt Nam.

1
I. Đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương:
1. Cuộc đời:
- Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế
kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi
- Hồ Xuân Hương là một nữ nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học của dân tộc. Đối
với người Việt Nam, tên tuổi của ba rất quen thuộc và không hề kém cạnh bất cứ một
nhà thơ nào. Tuy nhiên về cuộc đời của nữ sĩ, chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ
Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi.
- Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng
mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với
Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839).
- Ý kiến truyền thống cho rằng, Hồ Xuân Hương là con của cụ Hồ Phi Diễn (1704),
quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Họ Hồ vốn là dòng họ lớn, từng
có nhiều đỗ đạt, lại làm quan những đến đời của Hồ Phi Diễn thì lại sa sút. Nhà nghèo,
không có tiền học thêm nên ông phải ra Bắc dạy học kiếm sống. Từ đây ông gặp gỡ và
kết duyên cùng một cô gái Bắc Ning, họ Hà làm vợ lẽ, sinh ra Hồ Xuân Hương. Nhưng
ý kiến của một số nhà nghiên cứu gần đây lại cho rằng, Hồ Xuân Hương là con của Hồ
Sĩ Danh (1706 – 1783), anh em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738 – 1786), cũng
cùng quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Sĩ Danh đậu hương
cống (cử nhân) năm 1732. Tuy không ra làm quan nhưng vì có con làm quan to nên ông
vẫn được phong chức Hàn lâm thừa chỉ và làm Thái bảo. Mẹ của Hồ Xuân Hương cũng
là người họ Hà, chỉ làm hầu thiếp của Hồ Sĩ Danh. Khi thân phụ qua đời, Hồ Xuân
Hương còn quá nhỏ, không còn nơi nương tưa, Hồ Xuân Hương được mẹ dắt ra đất
Thăng Long.
- Cuộc đời của Hồ Xuân Hương có nhiều éo le, ngang trái. Một cuộc đời không toại
nguyện do số phận riêng và do hoàn cảnh chung của xã hội. Bà từng sống trong cảnh
tình duyên muộn màng, mang thân đi làm lẽ và cũng từng sống trong cảnh góa bụa.
- Theo thống kê của nhiều tài liệu, bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy
tàn, sống hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng
lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã
hội.
- Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm,
bà đi rất nhiều nơi, đặt chân đến nhiều miền quê của đất nước; giao du rộng rãi với bạn
bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Trong đó có thể có Cần
chánh học sĩ Nguyễn Hầu, tức Nguyễn Du. Tất cả những điều này đều góp phần tạo nên
một Hồ Xuân Hương hết sức độc đáo.

2. Vị trí:
- Thơ của Xuân Hương đã góp phần làm cho đời sống văn học trở nên sôi nổi với
hàng trăm bài viết, hàng trăm ý kiến khác nhau về thơ bà.

2
- Ý kiến về thơ của bà, đặc biệt là mảng thơ Nôm, dù khen hay chê, tất thảy đều mạnh
mẽ, quyết liệt và thậm chí trái ngược nhau như nước với lửa.
- Thời gian trôi qua, những xúc cảm nóng bỏng và đầy tính nhân bản về những gì bà
viết ở người đọc chuyển dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng. Và người đời cũng đã đánh
giá tài năng văn chương của Xuân Hương một cách khách quan hơn qua những trang
viết thận trọng. Điều đó thật dễ hiểu khi tên tuổi của Hồ Xuân Hương được đặt cạnh thi
hào Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…
- Hơn thế nữa, cái tên ấy đã vượt tầm biên giới tổ quốc để sánh vai cùng các thi sĩ đại
tài, nổi tiếng trên thế giới khi thơ của bà được chọn dịch và giới thiệu ra nước ngoài.
- Nữ sĩ họ Hồ có được vị trí đặc biệt ấy trên văn đàn là bởi những tư tưởng, những
vấn đề mà bà đã đề cập được soi sáng ở mọi thời điểm và vào lúc nào vấn đề đó cũng
mới, cũng lạ, cũng gây hứng thú vô cùng cho người đọc. Những điều đó không nằm
ngoài khát vọng của con người về hạnh phúc, về tình yêu… nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu
“tự nhiên”, rất “bản chất” của con người.

3. Sự nghiệp:
Trước đây người ta chỉ biết đến Hồ Xuân Hương là tác giả thơ Nôm nhưng từ khi tập
thơ Lưu hương ký được phát hiện vào năm 1964 thì người ta còn nhắc tới nữ sĩ với vai
trò là một tác giả của thơ chữ Hán
- Thơ Nôm của bà con lại đến nay đều do lưu truyền trong dân gian và được người đời
sau ghi chép lại. Bản in thơ Nôm Hồ Xuân Hương sớm nhất hiện còn là cuốn Xuân
Hương thi tập, được phiên âm ra chữ quốc ngữ do Xuân Lan xuất bản năm 1913. Do
tính chất truyền miệng, thơ của Hồ Xuân Hương có những dị bản và nhầm lẫn với các
tác giả khác như Bà Huyện Thanh Quan,..
- Dựa vào sự thống nhất về phong cách, các nhà nghiên cứu cho rằng có khoảng trên
dưới 40 bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Tuy không nhiều nhưng nội
dung của tập thơ khá phong phú. Mỗi vần thơ có thể nói là một phần tâm hồn, con người
của tác giả. Nội dung thơ Xuân Hương tuy không phải là tiếng nói đại diện của cả một
giai đoạn nhưng cũng đã chứa đựng được những giá trị tư tưởng sâu sắc.

4. Phong cách sáng tác


-Hồ Xuân Hương là thiên tài đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Bà không lạ gì với những
câu hát, ca dao, tục ngữ, những truyện tiếu lâm, với những câu đố “thanh mà tục, tục mà
thanh”.
-Xuân Hương chịu ảnh hưởng của cuộc sống bình dân nên khi làm thơ thì những cảnh
vật, phong tục … của người bình dân hiện lên rõ nét trong thơ bà.
- Lối thơ tả sự vật diễn đạt tâm tình cũng như lối biểu hiện và phô diễn của nàng đều
mang nặng dấu ấn sâu sắc của thể cách bình dân đó. Hồ Xuân Hương sống vào thời Lê
Mạc, thời mà các nhà nho thường gọi là “phong hóa suy đồi, cương thường đảo ngược”
thời dâm ác của chúa Trịnh Sâm và bè lũ, thời anh giết em, con giết cha, vợ giết chồng
… thời đắc thắng của Nguyễn Huệ, của bình dân Việt Nam.

3
-Tuổi thanh niên của Hồ Xuân Hương phải sống hoàn toàn trong xã hội suy đọa ấy
nên lòng khát sống, thèm hạnh phúc ở người đàn bà phiêu lưu đó, kết tinh lại thành một
ham muốn hạnh phúc lứa đôi sôi nổi. Đời Hồ Xuân Hương chỉ là một sự tìm chồng. Lẽ
dĩ nhiên, trong sự kết tinh ấy, tính chất đặc biệt của cơ thể bà, của di truyền cũng có
tham dự một phần khá lớn.
- Trong thơ bà thường có những bài buồn bã ủ ê, thương thân, trách đời, tiếc xuân,
nhớ mộng ( Oán hận trông ra khắp mọi chòm), đó là dấu vết của thời kỳ này. Nhưng Hồ
Xuân Hương không phải là một tâm hồn đành chịu sự đè nén của xã hội. Nàng đã vùng
dậy chống lại. Những bài thơ chứa những ý tưởng làm rợn tóc gáy các nhà Nho “thị thập
tứ hiếu” (không có nhưng mà có mới ngoan), là sự phát hiện của sức sống chống đối cực
đoan ấy.
- Thơ Hồ Xuân Hương là một chuỗi tiếng ấm ức, oán hận, nguyền rủa của một con
người giàu sức sống bị kìm hãm, yếu nhưng không chịu thua, ngã vẫn không chịu đầu
hàng kỷ luật phong kiến.
- Thơ Xuân Hương là sự đòi quyền sống của con người trong một chế độ áp bức con
người, giày xéo con người.
- Hồ Xuân Hương là hiện thân của sự đòi quyền sống, nhất là quyền hưởng tình yêu
và nhục dục. Những con người sung sức ấy là kẻ thù của lễ giáo phong kiến.
=> Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời cuộc,
Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng
mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình
tượng. Từ đó, bà được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm” của thời đại.
II. Đôi nét về thơ Nôm Đường luật
1. Khái niệm:
- Thơ Nôm Đương luật là những bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật,
bao gồm cả những bài thơ theo thể Đường luật hoản chỉnh (số câu, kết cấu bài, luật về
đối, về vần, về thanh điệu) và cả những bài thơ theo thể Đường luật phá cách (có xen
câu ngũ ngôn, lục ngôn vào bài thơ thất ngôn)
2. Đặc điểm:
* Đặc điểm của thơ Nôm Đường luật là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chữ Nôm (nôm
na, dân dã) và yếu tố Đường luật (tao nhã, ước lệ).
- Yếu tố Nôm được biểu hiện như sau:
+Chủ đề: hướng đến vấn đề của đất nước, dân tộc Việt Nam - Văn tự: chữ Nôm
+Ngôn ngữ: âm từ tiếng Việt bình dân, thân thuộc, gẫn gũi, dễ hiểu.
+Hình ảnh: chân thực, bình dị của đời sống thực tế con người
+ Câu thơ: có sự phá cách - xen kẻ câu lục ngôn, ngũ ngôn trong bài thất ngôn
+Ngắt nhịp: phá cách ở chỗ ngắt nhịp 3/4 trong câu thơ thất ngôn (không như cách ngắt
nhịp quen thuộc của thơ Đường luật là 2/3, 4/3
- Yếu tố Đường luật được biểu hiện như sau:
+Chủ đề: Hướng tới những quan niệm, những phạm trù Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo.

4
+Ngôn ngữ: dùng từ Hán Việt, điển cố, điển tích, thi liệu Hán học; trau chuốt từ ngữ rất
kỹ lưỡng.
+Hình ảnh: trang nhã, tượng trưng, ước lệ
+Nhịp điệu, cấu trúc câu: tuân thủ nghiêm ngặt những quy định chặt chẽ mang tính qui
phạm của thơ luật Đường về luật bằng trắc, niêm, đối…
3. Lịch sử xuất hiện và phát triển
Thơ Nôm Đường luật trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam được chia làm bốn
giai đoạn. Mỗi giai đoạn, thể loại được ghi nhận với những thành tựu tương ứng từng
bước như sau:
- Từ thế kỉ X – thế kỉ XIV: dấu hiệu xuất hiện thơ Nôm Đường luật được giới nghiên
cứu văn học nhận định bằng những từ “có lẽ”, “tương truyền” để đoán định khoảng thời
gian xuất hiện kèm theo tên người có công lao đóng góp. Cũng không biết chắc chắn về
thời gian sớm nhất là từ lúc nào. Có người cho là thơ Nôm Đường luật xuất hiện từ
khoảng thế kỷ XIII với sáng tác của Hàn uyên, ý kiến khác lại cho là của nàng Điểm
Bích. Nhưng đó đều là những ý kiến đoán định chứ không có văn bản gốc lưu trữ để
minh chứng.
- Từ thế kỉ XV – thế kỉ XVII: thơ Nôm Đường luật được khắc dấu ấn khá sâu đậm với
nhiều sáng tác được in trong ba tập thơ: Hồng Đức quốc âm thi tập của Hội Tao Đàn,
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Từ thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX: thơ Nôm Đường luật đạt đến mức phát triển
rực rỡ song hành với nhiều thể loại khác của văn học Việt Nam thời trung đại. Nhiều tác
phẩm để đời được lưu truyền đến tận ngày nay. Đây chính là giai đoạn xuất hiện một
“Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương với sự cách tân đột phá, một phong cách Đường
thi mẫu mực trang nghiêm Bà Huyện Thanh Quan. Đặc biệt với hiện tượng Hồ Xuân
Hương, thơ Nôm Đường luật đã thực hiện một cuộc cách tân đầy ý nghĩa khi lấy cuộc
sống và tâm lý của con người đời thực làm đối tượng thẩm mỹ trong sáng tác văn
chương
+ Cuối cùng là nửa cuối thế kỉ XIX: thể thơ tiếp tục được phát huy giá trị với hai tác
gia tiêu biểu là Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương. Đây là hai tác giả lớn cuối cùng của
dòng thơ Nôm Đường luật.

 Như vậy, thơ Nôm đã hình thành từ thời Trần, chịu ảnh hưởng nhiều của thơ Đường Trung Quốc. Đến TK XV, XVI thơ Nôm đã ra đời thể

thất ngôn xen lục ngôn; TK XVII, XVIII là thời kì thịnh đạt của thơ Nôm, đánh dấu sự thoát ly ảnh hưởng của thơ Đường Trung Quốc. Ở TK XIX

nhiều sáng tác thơ Nôm có giá trị đã đánh dấu sự vững vàng của thể thơ dân tộc.

5
B. NỘI DUNG CHÍNH
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài năng và độc đáo bậc nhất trong lịch sử Văn học Việt
Nam. Thi sĩ Xuân Diệu tôn vinh “Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm”. Vậy, “bà chúa
thơ Nôm” là gì ?
- Bà chúa: là người đứng đầu, người tiên phong, người có tài năng vượt trội
- Thơ Nôm: là những bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật, bao gồm
cả những bài thơ theo thể Đường luật hoàn chỉnh và cả những bài thơ theo thể Đường
luật phá cách.
=> "Bà chúa thơ Nôm" có thể hiểu là người phụ nữ có tài năng đặc biệt ở thể loại
thơ Nôm, khó ai sánh kịp.
I. Đặc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương qua nội dung:
1. Nổi bật với các tác phẩm bằng chữ Nôm
- Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng và tài năng nhất trong văn học
Việt Nam thế kỷ XIX. Bà được gọi là "bà chúa thơ Nôm" vì tác phẩm của bà nổi bật với
việc sáng tạo bằng ngôn ngữ Nôm, một hệ thống chữ viết phổ biến dùng trong văn bản
dân gian Việt Nam.
- Hồ Xuân Hương không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà văn, một nhà nghệ
thuật vượt thời gian. Bà sử dụng ngôn ngữ Nôm để truyền tải tình cảm, tư duy và sáng
tạo của mình một cách tinh tế và sắc bén. Tác phẩm của bà thể hiện sự đa dạng và phong
phú với các thể loại như thơ ca, bi kịch, truyện ngắn và nhạc phẩm.
- Một trong những đặc điểm đáng chú ý của tác phẩm của Hồ Xuân Hương là sự sắc
bén và hài hước trong diễn đạt ý kiến cá nhân và châm biếm xã hội. Bà táo bạo và thẳng
thắn trong việc thể hiện những khía cạnh xã hội phức tạp như tình yêu, tình dục và bất
công xã hội. Bà thường sử dụng từ ngữ tinh tế và hình ảnh sắc bén để tạo nên hiệu ứng
mạnh mẽ và thu hút người đọc.
- Tuy tác phẩm của Hồ Xuân Hương được viết bằng ngôn ngữ Nôm, nhưng sức ảnh
hưởng của bà vượt ra ngoài ranh giới địa lý và thời gian. Bà không chỉ là một nhà thơ,
mà còn là một nhà sử học, nhà triết học và một nhân vật mang tính biểu tượng trong văn
hóa Việt Nam.
2. Hồ Xuân Hương viết nhiều về người phụ nữ trong xã hội phong kiến
- Hồ Xuân Hương còn được mệnh danh là “nhà thơ của phụ nữ” bởi thơ của bà là tiếng
nói tâm tình của người phụ nữ - những người phụ nữ rất đỗi bình thường trong xã hội cũ
phải gánh chịu biết bao nhiêu thiệt thòi, bất hạnh nhưng không ai dám lên tiếng đấu
tranh, qua các tác phẩm như: Bánh trôi nước, Tự tình II,...

Thân em vừa trắng lại vừa tròn


Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặng
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước)

6
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
(Tự tình II)
Vấn đề người phụ nữ được đặt ra với quy mô sâu rộng và được soi sáng ở nhiều góc
độ rất tinh tế. Có thể nói, Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc
mang đến cho thơ văn tiếng nói của phái nữ.
- Ngoài ra, Hồ Xuân Hương còn đề cập đến vai trò của người phụ nữ: Bản thân bà là
một người phụ nữ dũng cảm và tài năng trong một thời đại kháng cự và thay đổi. Thông
qua các tác phẩm của mình, Hồ Xuân Hương thể hiện vẻ đẹp,
Lược trúc chải dài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.
(Thiếu nữ ngủ ngày)
hay
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
(Mời trầu)
vai trò và sức mạnh của phụ nữ. Và đồng thời đặt ra câu hỏi và thách thức các quan
điểm xã hội về vai trò cũng như các định kiến về người phụ nữ. Hồ Xuân Hương không
hề ngần ngại thể hiện sự phê phán và bất công của xã hội đối với người phụ nữ và tầng
lớp lao động.
3. Hồ Xuân Hương đã chạm đến các vấn đề cấm kỵ trong văn học thời đó
- Hồ Xuân Hương táo bạo và mạnh mẽ trong việc khám phá và miêu tả khía cạnh tình
yêu và tình dục. Bà không ngại sử dụng một loạt các từ ngữ mang tính hình tượng cao,
các hình ảnh sắc bén để mô tả những cảm xúc, những khao khát và mối quan hệ tình
dục. Bà còn sử dụng thái độ châm biếm và hài hước để phê phán những giới hạn và bất
công trong vấn đề này.
Một lỗ xâu xau mới cùng vừa
Duyên em dính dán tự ngàn xưa
Chành ra ba góc da còn thiếu
7
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng:
“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
(Vịnh cái quạt)
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mắn mó, nhựa ra tay
(Quả mít)
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
(Ốc nhồi)

4. Ngoài đồng cảm với số phận bất hạnh của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn
hướng ngòi bút của mình vào trật tự phong kiến
- Tác phẩm của Hồ Xuân Hương thể hiện tính tự do và táo bạo trong cách diễn đạt. Bà
không ngại sử dụng ngôn ngữ hài hước và châm biếm để truyền đạt những ý kiến sâu
sắc về tình yêu, tự do, cảnh giác và nhân văn. Bà sử dụng những hình ảnh tinh tế và lời
nói chế nhạo để đưa ra những suy nghĩ sâu sắc về các vấn đề xã hội và nhân văn. Điều
này làm cho tác phẩm của bà trở nên độc đáo và thu hút nhiều sự chú ý.
Từ những cảm xúc cá nhân, Hồ Xuân Hương mang đến một tầm nhìn xã hội sâu sắc
và tạo nên sự phê phán và châm biếm đầy sắc màu. Tác phẩm của bà gợi mở suy nghĩ và
truyền đạt những thông điệp quan trọng về tình yêu, tự do, cảnh giác và nhân văn.

 Có thể thấy rằng, một trong những đặc điểm nổi bật của thơ Nôm của Hồ Xuân
Hương là sự táo bạo và thẳng thắn trong việc truyền đạt tư tưởng. Bà sử dụng ngôn
ngữ hài hước, châm biếm và đôi khi phê phán một cách gián tiếp để diễn tả ý kiến cá
nhân và chống lại các quy tắc xã hội và nhân văn.Tác phẩm của Hồ Xuân Hương
thường thể hiện những khía cạnh xã hội phức tạp như tình yêu, tình dục, bất công xã
hội và vai trò của phụ nữ. Bà khéo léo sử dụng từ ngữ tinh tế và hình ảnh sắc bén để
miêu tả các tình huống và nhân vật, tạo nên hiệu ứng mạnh mẽ và sắc nét.Tuy tác
phẩm của Hồ Xuân Hương thường mang tính chất tự do và táo bạo, nhưng bà cũng
biết cách truyền đạt những thông điệp sâu sắc về tình yêu, tự do, cảnh giác và nhân
văn. Từ những cảm xúc cá nhân, bà nâng cao tầm nhìn xã hội, mang đến sự phê phán
và sự châm biếm đầy sắc màu.Với sự sáng tạo và tài năng của mình, Hồ Xuân Hương
đã tạo nên một trang sách đặc sắc trong văn học Việt Nam.

8
II. Đặc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương qua nghệ thuật
1. Về ngôn từ
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ tài năng là người nghệ sĩ biết sáng tạo
“Chất liệu” ngôn ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình, xây dựng hình tượng
nghệ thuật của riêng mình và tạo cho mình một giọng điệu riêng, một phong cách riêng,
không nhầm lẫn được.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên tạo nên phong cách tác giả. Nhà văn có phong cách ngôn
ngữ là nhà văn biết sử dụng ngôn ngữ toàn dân, của dân tộc để tạo nên một giọng điệu
riêng, một chất giọng riêng không hề nhầm lẫn mà được mọi ngưòi thừa nhận. Chất
giọng riêng ấy trước hết thể hiện ở ngôn ngữ, sự sáng tạo ngôn ngữ. Sự sáng tạo ngôn
ngữ này chính là sự đóng tạo của nhà văn làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ của
dân tộc.
 Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học dân gian

- Thơ Hồ Xuân Hương mang đậm sắc thái của dân gian đặc biệt là sử dụng thành
công và điệu luyện thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong sáng tác. Nếu như tục ngữ là những
câu nói mang đặc điểm ngắn gọn, súc tích có hình ảnh giàu vần điệu nhằm đúc kết kinh
nghiệm, tri thức thực tiễn về tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người và cuộc đấu
tranh sinh tồn của nhân dân lao động, thì thành ngữ là những đoạn câu, cụm từ tương đối
ổn định, bền vững nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hấp dẫn
có tác dụng tô điểm và nhấn mạnh ý nghĩa của những từ cần diễn đạt. Thành ngữ còn là
một cấu trúc mở về mặt ý nghĩa. Cái ý không trọn vẹn trong thành ngữ, người sử dụng
có thể làm cho nó trở thành trọn vẹn theo ý định chủ quan của mình.
 Ngôn ngữ bình dân, lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động trong thơ Hồ Xuân Hương

Thơ Hồ Xuân Hương là một lối thơ rất tự nhiên, thật gần gũi với đời sống thường
nhật, với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động. Lời thơ không cầu kỳ, gọt
dũa mà vẫn thiết tha, nhẹ nhàng rót vào lòng người những cung bậc rất thanh thót, ngân
vang. Thơ bà đã thoát ra ngoài khuôn sáo, ít dùng điển cố Hán văn. Với thơ Hồ Xuân
Hương Đường luật Nôm tiếp tục xu hướng dân tộc hóa đồng thời chuyển nhanh trên con
đường dân chủ hóa nội dung và hình thức thể loại. Xu hướng dân chủ hóa đường luật là
xu hướng mạnh mẽ nhất ở hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Trong văn học trung đại
Việt Nam, Hồ Xuân Hương gần như là trường hợp duy nhất không viết dưới bất cứ ánh
sáng của học thuyết tôn giáo nào, một học thuyết chính trị nào từ phía tư tưởng chính
thống. Thơ Hồ Xuân Hương là sự giải tỏa hoàn toàn khởi giáo điều phong kiến, là sự
đoạn tuyệt khá triệt để với tinh thần “đẳng cấp” của Nho giáo. Với thơ Hồ Xuân Hương,
Đường luật Nôm không còn ở địa vị “đẳng cấp trên” trong hệ thống thể loại văn học
trung đại. Đến thơ Hồ Xuân Hương, Đường luật Nôm đã thực hiện một cuộc cách tân
đầy ý nghĩa: cuộc đời thường, nguyên sơ, chất phác, dân dã trở thành đối tượng thẫm mĩ.
Cái bản năng, tự nhiên, trần tục vốn xa lạ với phong cách trang trọng, cao quý của
Đường luật bỗng trở nên thích dụng với phong cách trữ tình trào phúng của thơ Hồ Xuân

9
Hương. Những ngôn ngữ bình dân, những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân
được Hồ Xuân Hương sử dụng rất thành công:
“Này của Xuân Hương đã quyệt rồi.”
“Lại đây cho chị dạy làm thơ.”
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
“ Này chị em ơi chớ vội cười…”
- Ngôn ngữ đời sống dưới tay Bà chúa thơ Nôm biến hóa khôn lường. Bà đúng là nghệ
sĩ ngôn từ, biểu diễn ngôn ngữ trên những dòng thơ như nghệ sĩ xiếc dây. Ngôn ngữ đời
sống trong thơ bà là ngôn ngữ thông tục nhất mà đắt nhất, hay nhất :
“Thân này đâu đã chịu già tom?”
(Tự tình I)
“Ai về nhắn bào phường lòi tói,
Muốn sống đen vôi quét trả đền”.
(Mắng học trò dốt-II)
Thơ Hồ Xuân Hương phát ra tự nhiên như những lời giao tiếp thường ngày, ta không
thấy trong ngôn ngữ Bà sự gò bó, trau chuốt, gọt giũa hay gia công công phu nào để ép
ngôn ngữ thơ vào khuôn khổ của thể thơ Đường Luật ngọn ngữ (thơ Hồ Xuân Hương
khác ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan rất chuẩn mực bà là người có sự dụng vốn từ
Hán Việt nhiều nhất).những từ Hán Việt làm đậm phong vị Đường thi cho thơ Bà Huyện
Thanh Quan cả nội dung cảm hứng nghệ thật biểu hiện: “các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng
đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những
trẻ chăn trâu, những bến xe, những người đài cao, những người khách trọ, cảnh ấm lạnh
của cuộc đời. Thơ Bà Huyện Thanh Quan tiêu biểu cho một tân hồn hoài cổ. Ngược lại,
ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương cũng như thơ Hồ Xuân Hương là mang đậm đà
phong vị dân giã, bình dân.

1.1. Từ láy
Từ láy là từ loại được sử dụng rộng rãi trong dân gian nói chung và trong
thơ Hồ Xuân Hương nói riêng. Theo thống kê của Lã Nhân Thìn trong tổng số 268 câu
thơ có 79 từ láy (chiếm 29,4%). Từ láy trong thơ có nhiều tác dụng, nó có chức năng
hạn chế tính công thức ước lệ, làm cho câu thơ trở nên biểu cảm hơn, đậm tính dân tộc
hơn và góp phần thể hiện phong cách tác giả. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của sức sống
của chân đạp, tay vung, thơ của nhịp điệu cơ thể và cuộc sống con người, thơ của tâm
trạng. Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương thường có tác dụng biểu lộ tình cảm, thể hiện
con người tác giả.
- Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương rất phong phú:
từ láy phụ âm đầu:
“Da nó xù xì, múi nó dày
“Xin đừng mân mó nhựa ra tay”

“Nâng niu ướm hỏi người trong trướng”,


10
“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền”,

“Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”,


“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
từ láy phần vần:
“Gió vật sườn non kêu lắc rắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”

“ Ai về nhắn bảo phường lòi tói”


(Tiễn người làm thơ)
“Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom
Kẽ hầm rêu mọc trơ toen toẻn
Luồng gió thông reo vỗ phẩp phòm”
(Hang cắc cớ)
- Vần trong từ láy trong thơ của Hồ Xuân Hương cũng được dùng rất độc đáo. Chẳng
hạn khuôn vần "un" "um" dùng để cấu tạo một số từ mang nghĩa tập hợp nhiều sự vật,
nhiều biểu hiện ở cả dáng vẻ và hành vi : Tùm hum, lún phún, um tùm, khúm núm.
"Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu"
(Đèo Ba Dội).
Câu thơ thể hiện rõ gam màu "đỏ tùm hum", với hàng loạt những rêu xanh đang mọc
"lún phún" trên đỉnh đèo. Bên cạnh lớp nghĩa đen là miêu tả cảnh vật hoang sơ, thanh
tịnh, cảnh núi non hiểm trở của đèo của hang. Nhà thơ còn ngầm sử dụng một lớp nghĩa
bóng đó là những hình ảnh biểu hiện tính phồn thực. Hình ảnh đèo, hang, giếng
nước...đó chính là những bộ phận trên cơ thể người phụ nữ, một sự kết hợp âm dương
hài hòa, mang đậm giá trị nhân văn nhân bản.
- Khuôn vần "eo" dùng để cấu tạo một số từ láy miêu tả tâm trạng buồn rầu, nhỏ bé,
hiu quạnh, hàm ý chỉ sự khó khăn cách trở: Cheo leo, hắt heo, khéo khéo, leo teo, leo
léo, tẻo tèo teo, lộn lèo, lắt lẻo...Trong bài thơ "Quán nước bên đường" Khuôn vần "eo"
đã được bà sử dụng đến bốn lần :"hắt heo, leo teo, cheo leo, lộn lèo". Bài thơ là một loạt
những cảnh tượng thật buồn, vắng lặng, heo hắt, con đường làng thì quanh co, nhà cửa
thì tiêu điều, xơ xác, con người thì "leo teo", thưa thớt ...Tất cả hiện lên là một bức tranh
thôn quê thật nghèo nàn, xác xơ. Chỉ bằng một khuôn vần "eo" với sự thông minh, khéo
léo Hồ Xuân Hương đã tạo nên một loạt từ láy mang nhiều cung bậc của cảm xúc đem
lại giá trị biểu đạt cao, nhằm đưa đến cho người đọc có một cảm giác man mác buồn, cô
đơn, vắng lặng.
“Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.
11
Ba trạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc, cỏ leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai thả lộn lèo”

- Bên cạnh đó khuôn vần "om" cũng đã được Hồ Xuân Hương sử dụng khá nhiều
trong các sáng tác của mình. Nếu như khuôn vần "eo", biểu hiện cảm giác buồn thì
khuôn vần "om" lại biểu thị một ý nghĩa khác, nó thể hiện sự dở dang
"Sau giận vì duyên để mõm mòm"
(Ngẫu cảm),
không vững vàng, yếu ớt
"Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom"
(Trăng thu).
Ở đây ta thấy nghĩa của từ láy biểu thị ở một mức độ mạnh hơn so với hình vị gốc :
“Hỏm hòm hom, lõm bõm, om om, mõm mòm, phập phòm”...Điều đó cho thấy mức độ
ngữ nghĩa cứ tăng dần lên, biểu thị sự gấp gáp, cuống quýt, dồn nén, một cảm giác như
muốn nổ tung ra, bung ra, phơi bày ra tất cả để người đọc có thể hình dung một cách bao
quát nhất. Phải chăng đó là con người Hồ Xuân Hương, một người không bao giờ tự bó
hẹp mình trong một khuôn khổ, phạm vi nào cả mà lúc nào bà cũng tự đặt mình ngang
hàng với các đấng mày râu để nói lên tiếng nói phê phán đả kích, châm biến xã hội bảo
vệ quyền sống, quyền bình đẳng cho những người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi, khổ
đau. Đó mới chính là bản ngã Hồ Xuân Hương.

1.2. Từ tượng thanh


- Với thơ Hồ Xuân Hương, thi sĩ thường dẫn bạn đọc đi lối tắt. Ta hãy nghe âm thanh
của tiếng mõ và tiếng chuông bất ngờ vang lên trong bài thơ “Tự tình” của bà:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”.
Tiếng “cốc” và “om” quả thực rất tài tình và bất ngờ. Nhất là tiếng “cốc” đã làm
người đọc giật mình, phá vỡ quy luật của cảm xúc, mà vang lên đột ngột, lạ lẫm, đầy
thách thức. Điều kỳ lạ ở đây là tiếng “cốc” lại vọng ra từ “mõ thảm”, mà trước đó không
ai động vào chiếc mõ đó. Lối viết ma mị này rất ít thấy trong thơ trung đại ở nước ta.
- Trong ca dao Việt Nam cũng nhắc nhiều đến tiếng mõ, nhưng nó thường văng vẳng
trong không gian buồn tênh, xa vắng:
“Sư đi chùa mốc sân rêu
Mõ khuya ai gõ, chuông chiều ai khua?”
- Vẫn cách biểu đạt âm thanh “trực tiếp”, Hồ Xuân Hương đã vận dụng tối đa cách
nói dân gian, dân giã, để tạo nên những câu thơ sinh động mà mang hàm nghĩa mới cho
những từ tượng thanh:
“Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu”
12
(Vô âm nữ)
“Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm”
(Hang Cắc Cớ)
“Thương chồng nên phải khóc tì ti”
(Khóc chồng làm thuốc)
“Gió vật sườn non kêu lắc rắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”
(Núi Kẽm Trống)
“Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa”
(Tát nước)
Hệ thống các từ tượng thanh trong thơ Hồ Xuân Hương như “rúc rích”, “phập phòm”,
“lõm bõm”, “tì ti”, “lắc rắc”, “long bong”, “xì xòm”… cho thấy, chúng được phát ra
trong tâm thế một kẻ du ca, luôn có ý thức phá vỡ cái nghiêm trang, giả tạo chốn cung
đình, khuê các, mà hồn nhiên ăn nằm, cười khóc với nhân gian lấm láp, nhọc nhằn. Qua
cách sử dụng từ ngữ nêu trên, nhà thơ cũng cho ta thấy cái tâm trạng, tâm thế của người
viết thật trẻ trung, hóm hỉnh và tinh nghịch.
- Có một số câu thơ của Hồ Xuân Hương không nằm trong hệ thống các từ tượng
thanh, nhưng khi đọc lên ta lại thấy vang vọng những âm thanh được phát ra từ những
hình ảnh táo bạo, lạ lùng:
Người quen cửa Phật chen chân xọc
(Chùa Hương Tích)
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh”
(Duyên kỳ ngộ)
Động từ “xọc” và tính từ “phanh phanh” trong hai câu thơ trên cũng hiếm thấy trong
ngôn ngữ văn chương “chính thống” hồi đó. Nó táo tợn đến mức người đọc cảm nhận
nhà thơ đã bóc lớp vỏ từ ngữ đến trần trụi, làm cho nghĩa của động từ, tính từ phát ra âm
thanh rất kỳ lạ và sống động.
- Cách sử dụng âm thanh độc đáo của bà có lẽ phải nhắc đến bài thơ “Thân phận
người đàn bà”. Các hình ảnh trong bài thơ này cứ liên tục nhấp nhô và phát ra âm thanh
vừa quen vừa lạ, ấm áp và xa xót:
“Bố cu lổm ngồm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
Tất cả những là thu với vén,
Vội vàng nào những bống cùng bông”
Nghệ thuật sử dụng âm thanh trong thơ ca vốn mang đặc trưng vùng miền, rộng hơn
là trong phạm vi cộng đồng, dân tộc. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn những từ tượng
thanh trong tiếng Việt đều có hình thức láy, ví dụ: oa oa, oe oe, ti tỉ, oai oái, chí chóe, ú
ớ, ha hả, hô hố, khì khì, hu hu, ằng ặc, gừ gừ, ăng ẳng, chít chít, chiếp chiếp, cạc cạc…

13
Nhưng trong thơ Hồ Xuân Hương, ngoài những từ láy, ta thấy tác giả còn dùng từ đơn
âm tượng thanh rất độc đáo, như “cốc”, “om”, “phòm”…

 Hồ Xuân Hương đã có những đóng góp đáng kể trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc vào mục đích đả kích, trào phúng. Sáng tác của Hồ
Xuân Hương số lượng không nhiều, nhưng chắc chắn, nếu Hồ Xuân Hương không phải là một bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc thì nhà thơ không thể

nào viết phóng khoáng, tự nhiên, hóm hỉnh một cách đặc sắc như thế. Ngôn ngữ dân tộc dưới ngồi bút của Hồ Xuân Hương vừa súc tích, chính xác

lại vừa uyển chuyển, linh hoạt, phong phú về nghĩa, đặc sắc về tạo hình, dồi dào về âm thanh, góp phần quan trọng bải biến thể thơ Đường luật vốn

của Trung Quốc, không thoát thai từ ca dao như lục bát, đó là một thể loại khó làm, dễ đứng động thành ra công thức hoặc có đạt đến mức hay

cũng thường mang dáng điệu nho sĩ, cao sang thành một thể thơ mang đậm phong vị Việt, nôm na, bình dân, tự nhiên với một thế giới đời thường

thắm tươi, một thiên nhiên đầy sức sốngmột triết lí tự nhiên của cuộc đời trần thế, của sự say mê một cái đẹp góc cạnh, của sự vận động hối hả.

2. Về phương thức biểu hiện


2.1. Thành ngữ tục ngữ
- Hồ Xuân Hương thường sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong thơ. Khảo sát tập Thơ Hồ
Xuân Hương do Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu (NXB văn học, 1987), trong số 39
bài thơ, có 15 bài sử dụng thành ngữ, tục ngữ. Đó là một số bài tiêu biểu, cho thấy Hồ
Xuân Hương thấy được vai trò, vị trí quan trọng của thành ngữ, tục ngữ trong thơ. Như
bài Mời trầu tác giả đã sử dụng đến 2 thành ngữ chỉ trong 1 câu thơ (Câu thứ tư):

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi


Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi

Hai thành ngữ xanh như lá, bạc như vôi đã giúp tác giả nói lên bằng hình ảnh lời nhắn
nhủ của mình: “Đừng xanh như lá, bạc như vôi”, hãy giữ tấm lòng son, hãy giữ tấm lòng
trong trắng, thủy chung giữa cuộc đời đen bạc.

- Hoặc như bài Làm lẽ, chỉ 8 câu thơ mà có đến 3 câu dùng thành ngữ:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng


Chém cha cái kiếm lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm


Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong

14
Ba thành ngữ: Năm thì mười họa, Cố đấm ăn xôi, Cầm bằng làm mướn cùng với các
câu thơ khác trong bài đã làm cho bài thơ có sức công phá ghê gớm vào chế độ đa thê
của xã hội phong kiến, lớn tiếng đòi quyền sống, đòi hạnh phúc lứa đôi cho người phụ
nữ.

- Hay như trong bài Bánh trôi nước:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn


Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Ở đây bảy nổi ba chìm lấy từ thành ngữ gốc ba chìm bảy nổi. Thành ngữ này cùng với
các câu thơ trong bài đã dùng cách nói ẩn dụ để khẳng định rằng dù trong cuộc sống có
gặp muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng người phụ nữ vẫn luôn giữ được tấm lòng trong
sạch, phẩm chất cao quý.

- Thành ngữ, tục ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương là phương tiện để thể hiện tình cảm,
làm chức năng biểu đạt tâm trạng. Tất cả các thành ngữ nói về những hoạt động xã hội
khác nhau như về hoạt động kinh tế: “Làm mướn khoong công’’, “Thăm ván bán
thuyền’’, về quan hệ ứng xử: “Bạc như vôi’’, “cố đấm ăn xôi’’, “Qua sông phụ sóng’’,..
khi vào thơ Hồ Xuân Hương đều có một chức năng thể hiện duyên phận của người phụ
nữ
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
(Mời trầu)
Ấy ai thăm ván cam lòng
(Tự tình II)

Hồ Xuân Hương đã tâm trạng hóa thành ngữ, làm cho thành ngữ in đậm dấu ấn cá
tính sáng tạo của bà. Trong khuynh hướng dân tộc và dân chủ, thơ Nôm đường luật đã
tìm về cội nguồn văn học dân gian, tiếp thu ở đó không chỉ nội dung mà cả hình thức
biểu đạt.

2.2. Điển tích điển cố


Không chỉ là thiên tài tiếng Việt, nữ sĩ Hồ Xuân Hương còn là bậc thầy trong nghệ
thuật dụng điển. Điển cố chính là một trong những phương diện thể hiện rõ nhất tài năng
thơ ca của “Bà chúa thơ Nôm”. Qua nghệ thuật dùng điển của nữ sĩ, có thể thấy rõ
những đặc trưng trong phong cách, phẩm tính thơ Nôm của bà: thiên tính nữ và cá tính
sáng tạo.

 Thiên tính nữ qua nghệ thuật dùng điển


15
- Thơ Nôm Hồ Xuân Hương mang đậm thiên tính nữ. Tính nữ được xem là thuộc tính
hàng đầu, chi phối toàn bộ thế giới thơ Xuân Hương, trong đó có nghệ thuật dùng điển,
những thi liệu vốn được xem công thức, sáo mòn, nặng tính từ chương, bác học.

- Tính nữ trong nghệ thuật sử dụng điển cố trong thơ Hồ Xuân Hương thể hiện rõ nét
qua khuynh hướng lựa chọn điển cố của nhà thơ. Kho tàng điển cố trong văn chương
trung đại vô cùng phong phú nhưng hầu như nữ sĩ chỉ quan tâm, chọn lấy những điển
phù hợp với các vấn đề tính nữ nêu ra trong thơ. Hệ thống chủ đề điển cố trong sáng tác
của Xuân Hương cho thấy rõ điều này.

- Điển trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương khá đa dạng nhưng thống nhất, tập trung chủ
yếu vào các chủ đề gắn liền với người phụ nữ. Đây là một hiện tượng độc đáo, cá biệt
trong nghệ thuật dùng điển của văn học trung đại. Dưới đây là những chủ đề tiêu biểu:

+ Chủ đề thân thể, sắc đẹp người phụ nữ có các điển: Bồng đảo, Đào nguyên (Thiếu nữ
ngủ ngày); con chuột nhắt, cái ong bầu:
“Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu”

(Vô âm nữ)

khuynh quốc khuynh thành:


“Lấy ai khuynh quốc lại khuynh thành”
(Thị Điểu thi).

+ Chủ đề thân phận người phụ nữ có các điển cố:

chiếc bách
“Chiếc bách buồn về phận nổi nênh”
(Chiếc bách)

mưa gieo xuống giếng:


“Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong”
(Thương ôi phận gái).

+ Chủ đề tình yêu đôi lứa có các điển:

vàng đá, cầm sắt:


“Trăm năm vàng đá quyết cho đành,
Cầm sắt phen này quyết tấp tênh”
(Đàn gảy)

Tần Tấn, Ngô Lào:


“Tần Tấn đã đành duyên gặp gỡ
16
Ngô Lào chỉ quản chuyện xa xôi”
(Tình có theo ai).

+ Chủ đề mai mối, nhân duyên vợ chồng có các điển:

lão nguyệt:

“Lão nguyệt lẽ nào trêu quải mãi”

(Chi chi chuyện ấy)

nguyệt ông:
“Ghét bỏ chi nhau hỡi nguyệt ông”
(Thương ôi phận gái)

ông nguyệt:
“Ông nguyệt nỡ nào trêu quải mãi”
(Thương thay phận gái)

trăng già:
“Trăng già có nhẽ trêu nhau mãi”
(Đàn gảy)

thả lá trôi dòng ngự:


“Tuy không thả lá trôi dòng ngự”
(Duyên kỳ ngộ)

thơ lá, tin băng:

“Muốn trôi thơ lá mà than thở

Phải mượn tin băng để dập dìu”

(Giong thuyền thưởng nguyệt)

lá thơ:

“Duềnh Ngự lênh đênh một lá thơ”

(Ký Sơn Nam Thượng trấn Hiệp trấn Trần Hầu 2)

chỉ đào, lá thắm:


“Muốn chắp chỉ đào thêu trướng gấm
Mà đem lá thắm thả sông Tô”

(Ngụ ý Tốn Phong 1)


17
tơ nguyệt:
“Tơ nguyệt rày xe ba mối lại”
(Tặng Tốn Phong tử).

+ Chủ đề hôn nhân, cảnh chồng chung, không chồng có các điển:

vợ chồng Ngâu:

“Cầu ô muôn thước vợ chồng Ngâu”


(Hữu cảm)

thăm ván, ôm đàn:


“Ấy ai thăm ván cam lòng vậy/
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh”
(Chiếc bách)

phiếu mai:
“Phiếu mai chi dám đường trăng gió”
(Đề tranh tố nữ)

+ Chủ đề hạnh phúc bản năng có các điển:

nương dâu:

“Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu”


(Vô âm nữ)

mây mưa:
“Anh hùng đua chí hội mây mưa”
(Vịnh đánh cờ)

giấc Vu:

“Giấc Vu man mác năm canh nguyệt”


(Ký Sơn Nam Thượng trấn Hiệp trấn Trần Hầu 2).

Ngoài ra, trong thơ Xuân Hương còn có nhiều điển có nhân vật chính là nữ hoặc tích
truyện gắn liền với người phụ nữ như: hồn mai: “Hồn mai phảng phất tiếng sênh
bay” (Hỡi nguyệt đê mê); chị Hằng “Chị Hằng khéo nhẽ éo le thôi” (Thương thay phận
gái); Hằng Nga: “Đã có Hằng Nga ghé mắt dòm” (Hỏi trăng 2); Tây Thi: “Tây Thi
giống trước hãy còn ương” (Vịnh hoa cúc); duềnh Tương (Hữu cảm)…

 Có thể thấy, trong văn chương trung đại Việt Nam, hiếm có tác giả nào dẫn điển
liên quan đến những vấn đề tính nữ một cách chủ động, tập trung và có hệ thống như
Hồ Xuân Hương. Các điển này được sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả, đã mang
18
lại nhiều giá trị độc đáo, góp phần quan trọng trong việc kiến tạo các diễn ngôn về
nữ quyền. Trong văn học trung đại nước ta, Hồ Xuân Hương “xứng đáng hơn ai hết
là nhà thơ của phụ nữ”. Thơ bà “trước hết là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ”,
là điển hình của thiên tính nữ trong văn chương trung đại. “Thơ ca của Hồ Xuân
Hương thể hiện một ý thức nữ tính đặc biệt mãnh liệt và mang một sắc thái cá nhân”.
Một trong những sắc thái cá nhân trong ý thức nữ tính mãnh liệt của Xuân Hương thể
hiện qua nghệ thuật dùng điển như ta đã thấy.

 Cá tính sáng tạo qua nghệ thuật dùng điển


- Hồ Xuân Hương là nhà thơ cá tính bậc nhất trong văn học trung đại Việt Nam.
Trong thơ Nôm của bà, người ta dễ dàng nhận ra “một Xuân Hương trái tính trái nết,
mạnh mẽ, ngang bướng, đanh đá, chua ngoa, hay gây gổ”. Cá tính sáng tạo mạnh mẽ,
riêng biệt, không pha lẫn là một trong những phẩm tính của thơ Nôm Xuân Hương.

- Với cá tính đặc biệt của mình, Xuân Hương tất nhiên không trùng lặp với ai trên
nhiều phương diện nghệ thuật, trong đó có việc dùng điển. Không bằng lòng với những
giá trị vốn quen thuộc, công thức, cố định, đôi khi sáo mòn của điển, nhà thơ của chúng
ta luôn tìm cách thay đổi diện mạo, mở rộng phạm vi hành chức, gia tăng giá trị biểu đạt
của điển cố bằng nhiều phương thức. Trong đó, lạ hóa ngữ nghĩa và lạ hóa sắc thái biểu
cảm của điển là hai phương thức thể hiện rõ cá tính Xuân Hương trong nghệ thuật sử
dụng điển cố.

- Trước hết, nhà thơ lạ hóa điển bằng cách tạo nghĩa mới cho điển. Hồ Xuân Hương
có “biệt tài tạo nghĩa”, thơ Nôm của bà “rất đặc biệt ở lĩnh vực tạo nghĩa”. Mỗi điển cố
thường mang một ý nghĩa khái quát được dùng cố định. Tuy nhiên, vào thơ Hồ Xuân
Hương, qua tài năng tạo nghĩa của nhà thơ, chúng phái sinh những nét nghĩa mới lạ, bất
ngờ. Tiêu biểu cho điều này là hai điển Bồng đảo, Đào nguyên trong bài “Thiếu nữ ngủ
ngày”:
“Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông”.

Đây là hai điển hết sức quen thuộc trong văn chương trung đại, được dùng để chỉ cảnh
đẹp như chốn thần tiên. Tuy nhiên, Xuân Hương với cái nhìn đầy thiên tính nữ cùng cá
tính độc đáo lại dùng với nghĩa khác lạ, chưa từng có: chỉ trực tiếp cơ quan sinh dục nữ.
Dùng điển cố, thi liệu là hình ảnh thiên nhiên để miêu tả cơ thể con người một cách ước
lệ là thủ pháp quen thuộc có tính chất đặc trưng của văn học trung đại. Nhưng dùng để
chỉ trực tiếp cơ quan sinh dục một cách bất ngờ, hợp lí và gợi cảm, thi vị như Xuân
Hương là hiện tượng cá biệt, “xưa nay hiếm”. Cách dùng điển mang “thương hiệu” Hồ
Xuân Hương này khiến hậu thế phải ngỡ ngàng, ngưỡng mộ và thích thú. Lối nói “đôi
gò Bồng đảo” để ám chỉ đôi vú của người phụ nữ rất phổ biến trong ngôn ngữ báo chí,
ngôn ngữ mạng hiện nay là minh chứng cho sức sống, sức lan tỏa của ngôn ngữ thơ Hồ

19
Xuân Hương nói chung, điển cố qua tài năng dùng điển của nữ sĩ nói riêng. Đây cũng là
một di sản Hồ Xuân Hương để lại trong tiếng Việt hiện đại.

- Ý thức lạ hóa nội dung điển của Hồ Xuân Hương mang đậm thiên tính nữ. Bên cạnh
“Thiếu nữ ngủ ngày”, “Tức cảnh Tề, Sở” là bài thơ tiêu biểu cho đặc tính này:
“Đằng quốc tôi nay vốn nhỏ nhen.
Hai bên Tề, Sở ép hai bên.
Ngoảnh mặt sang Tề e Sở giận,
Quay đầu về Sở sợ Tề ghen”.

Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Đằng là nước nhỏ nằm giữa hai nước lớn Sở, Tề luôn
trong thế giằng co, tranh đoạt. Điển Sở, Tề thường được dùng trong văn chương để chỉ
cảnh xưng hùng tranh bá. Nhưng với Xuân Hương, nữ sĩ lại dùng chúng với ngữ nghĩa
rất nữ tính: Chỉ cảnh chồng chung. Đặc biệt, cá tính mạnh mẽ mang tính phản kháng của
Xuân Hương còn thể hiện qua cách “phân phối” ngữ nghĩa của điển: Dùng hai nước lớn
(Tề, Sở) để chỉ hai người vợ; trong khi đó, người chồng chỉ được ví với nước Đằng nhỏ
bé, lại luôn ở trong trạng thái e ngại, lo sợ bị Sở, Tề giận, ghen. Có thể nói, cách dùng
điển độc đáo, đầy cá tính này gần như chỉ có ở Hồ Xuân Hương.

- Cùng với lạ hóa ngữ nghĩa, điển vào tay Hồ Xuân Hương còn bị lạ hóa sắc thái biểu
cảm. Thông thường, nhắc đến điển cố, người ta thường nghĩ ngay đến lớp từ ngữ mang
sắc thái nghiêm túc, đĩnh đạc, trang nhã; chủ yếu được dùng trong dòng thơ văn tỏ lòng,
chở đạo, vịnh sử, miêu tả thiên nhiên… Tuy nhiên, với Xuân Hương, điển cố “đa năng”,
“lợi hại” hơn nhiều. Nhà thơ thường dùng điển vào mục đích trào lộng, phê phán. Tiêu
biểu như các điển cố Phật giáo vốn trang nghiêm được lạ hóa bằng sắc thái mỉa mai, đặt
cạnh lối nói lái, nước đôi thanh tục được dùng cho mục đích châm biếm tầng lớp tu hành
biến chất:
Gậy thần Địa Tạng khi chèo chống,
Tràng hạt Di Đà đếm lại đeo.
(Vịnh ni sư)

Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,


Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(Kiếp tu hành)

Hồ Xuân Hương là người “sáng tạo những cấu trúc ngôn ngữ thơ đầy tài năng, đến
nay, chưa dễ ai hiểu hết”. Điển cố lạ hóa là một trong những “cấu trúc ngôn ngữ thơ đầy
tài năng” ấy. Sự linh hoạt, mới lạ cùng ý thức đổi mới trong nghệ thuật dùng điển là một
trong những phương diện thể hiện rõ nhất cá tính Hồ Xuân Hương. Xuân Hương dùng
điển rất Xuân Hương. Điển cố vào tay Xuân Hương cũng cá tính, khác biệt như chính
thơ Nôm của bà.

20
 Có thể khẳng định, Hồ Xuân Hương còn góp vào nền văn học dân tộc và thế giới
một phong cách hết sức độc đáo. Ý thức nữ tính, cá tính sáng tạo trên nền tảng tinh
thần dân tộc là những phẩm tính làm nên phong cách thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Nghệ thuật dùng điển của nhà thơ thể hiện rõ nét đặc điểm trên. Với điều này, Hồ
Xuân Hương là một trong những tác giả dùng điển tài hoa, độc đáo bậc nhất trong
văn học trung đại Việt Nam.

 Hồ Xuân Hương - bậc thầy điển cố Hán học

Hồ Xuân Hương là người sành điển. Điển cố Hán học có nguồn gốc từ kho tàng lịch
sử, văn hóa, văn chương đồ sộ của Trung Hoa vốn xa lạ, cầu kỳ vào tay bà lại hóa đơn
giản, như không. Nữ sĩ có biệt tài giáng cấp điển cố, khiến chúng đánh mất dần tư cách
điển, trở thành những từ ngữ thông thường, lẫn vào trong văn bản. Đó là lý do khiến
người đọc không nhận ra sự hiện diện của điển cố trong nhiều tác phẩm của bà.

Tài năng ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương là điều không cần bàn cãi. Trong nghệ thuật
dụng điển, bà xứng đáng được xem là bậc thầy. Hai thủ pháp nổi bật làm nên phong
cách dùng điển độc đáo của bà là Việt hóa và lạ hóa điển cố gốc Hán.

 Việt hóa điển cố gốc Hán

- Am tường về điển, Hồ Xuân Hương nhận ra những giới hạn của điển cố ngoại lai
trong việc thể hiện tâm hồn, tình cảm người Việt. Bằng ý thức dân tộc sâu sắc, nhà thơ
đã tích cực diễn giải, Việt hóa lớp điển gốc Hán bằng nhiều phương thức, trên nhiều cấp
độ. Trước hết, nhà thơ chủ động thay đổi cấu trúc ngữ pháp của điển, đưa chúng từ ngữ
pháp Hán văn trở về ngữ pháp tiếng Việt. Chẳng hạn, với điển nguyệt lão, nguyệt ông
(dạng rút gọn của nguyệt hạ lão nhân, chỉ người mai mối, nhân duyên vợ chồng) được
Hồ Xuân Hương đổi thành ông nguyệt, lão nguyệt như trong:
Ông nguyệt nỡ nào trêu quải mãi
(Thương thay phận gái)

Lão nguyệt nhẽ nào trêu quải mãi


(Chi chi chuyện ấy)

- Thậm chí, điển nguyệt lão còn được nhà thơ chuyển dịch sang hình thức ngữ âm
thuần Việt thành trăng già:
Trăng già có nhẽ trêu nhau mãi
(Đàn gảy)

- Điển nhân danh, địa danh chiếm số lượng khá lớn trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Đây là nhóm điển có hình thức cố định, ít thay đổi. Để Việt hóa, nhà thơ sử dụng
phương thức giáng cấp cấu trúc ngữ pháp của điển bằng cách thêm vào yếu tố chỉ loại,

21
đưa điển từ danh từ thành cụm danh từ dựa trên quy tắc ngữ pháp Việt, theo công thức:
Từ/ cụm từ + điển => cụm từ. Chẳng hạn:
Xin theo ông Khổng về Đông Lỗ
(Con cua)
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con
(Hỏi trăng 1)
Chị Hằng khéo nhẽ éo le thôi
(Thương thay phận ấy)
Giọt nước duềnh Tương đã đến đâu
(Hữu cảm)

- Với nhiều điển gốc Hán khác, nhà thơ cũng sử dụng phương thức giáng cấp cấu trúc
này, ví như:
Một vũng tang thương nước lộn trời
(Chơi Khán Xuân đài)
Hỏi con ngọc thỏ đà bao tuổi
(Hỏi trăng 1)
Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu
(Vô âm nữ)
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh
(Chiếc bách)

- Cũng như điển nhân danh, địa danh, điển gốc Hán dạng thành ngữ thường có hình
thức cố định, công thức, từ lâu đã trở nên quen thuộc, khó thay đổi. Đối với nhóm điển
này, Hồ Xuân Hương thường đảo lộn hay chêm xen vào nội bộ điển yếu tố mới nhằm
xóa mờ tư cách thành ngữ, chẳng hạn:
Kén chọn làm chi thế ối anh
Lấy ai khuynh quốc với khuynh thành
(Thị Đểu thi)

- Cùng với thay đổi cấu trúc điển, Hồ Xuân Hương còn chuyển dịch điển gốc Hán
bằng cách diễn giải nội dung điển, gây mờ nhòe hình thức tồn tại của điển trong câu thơ.
Chẳng hạn, với điển hồng diệp (thường đi chung với xích thằng, Nguyễn Du chuyển
dịch thành lá thắm chỉ hồng; gắn với tích truyện đề thơ trên lá thả trôi theo dòng nước,
chỉ nhân duyên đôi lứa, vợ chồng), bên cạnh hình thức ngắn gọn thơ lá (trong câu Muốn
trôi thơ lá mà than thở - bài Giong thuyền thưởng nguyệt), nhà thơ còn có hình thức diễn
giải cụ thể hơn:
Tuy không thả lá trôi dòng ngự
Chim tới vườn đào thế mới xinh
(Duyên kỳ ngộ)

22
 Bằng những phương thức đa dạng, độc đáo, Hồ Xuân Hương đã thành công trong việc Việt hóa nhiều điển cố gốc Hán, khiến chúng đánh
mất dần tư cách điển ngoại lai cùng tính chất xa lạ, bí hiểm; đưa chúng trở về gần gũi với tiếng Việt, cách nói cách nghĩ của người Việt. Nhờ đó,

điển gốc Hán trong thơ bà mang những diện mạo mới, có khả năng biểu đạt phong phú, sinh động và phù hợp hơn, đem lại nhiều giá trị thẩm mĩ

khác lạ. Thành công ấy của Hồ Xuân Hương nói riêng, các tác giả thơ Nôm nói chung là một biểu hiện sinh động cho sự vận động, phát triển của

văn học trung đại Việt Nam theo khuynh hướng dân tộc trong quá trình tiếp biến, Việt hóa các giá trị văn hóa ngoại lai trên nhiều phương diện,

trong đó có điển cố, thi liệu.

 Lạ hóa điển cố gốc Hán

-Không bằng lòng với những giá trị cố định trở thành công thức, sáo mòn, ước lệ của
điển cố Hán học, Hồ Xuân Hương với cá tính sáng tạo độc đáo thường xuyên lạ hóa lớp
điển này. Lạ hóa ngữ nghĩa và lạ hóa sắc thái biểu cảm là hai phương thức chính. Tiêu
biểu cho phương thức thứ nhất là hai điển Bồng đảo và Đào nguyên trong câu:
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)

Đây là hai điển quen thuộc trong văn chương trung đại, được dùng để chỉ cảnh đẹp
như chốn thần tiên. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương dùng chúng với nghĩa khác: Chỉ các cơ
quan sinh dục nữ. Sử dụng điển cố, thi liệu thuộc trường nghĩa chỉ thiên nhiên cảnh vật
để miêu tả cơ thể con người một cách ước lệ là thủ pháp quen thuộc có tính chất đặc
trưng của văn học thời trung đại. Tuy nhiên, sử dụng chúng để chỉ trực tiếp cơ quan sinh
dục một cách hợp lý, bất ngờ và đầy gợi cảm như Hồ Xuân Hương là hiện tượng cá biệt.

Với khả năng liên tưởng phong phú, Hồ Xuân Hương thể hiện tài năng dùng điển
bằng cách bổ sung cho điển những nét nghĩa mới, lạ. Tài năng ấy khiến nhiều điển cố
vào tay Hồ Xuân Hương có sức sống lâu bền và khả năng lan tỏa sâu rộng, làm cho hậu
thế phải ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Cách nói “đôi gò Bồng đảo” để chỉ đôi vú của người
phụ nữ rất phổ biến trong ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ sinh hoạt hiện nay (3) chính là
một di sản mà Hồ Xuân Hương để lại trong tiếng Việt hiện đại.

- Cùng với lạ hóa ngữ nghĩa, Hồ Xuân Hương còn lạ hóa sắc thái biểu cảm của điển
cố gốc Hán. Do nhiều nguyên nhân lịch sử, văn hóa (vay mượn từ thư tịch, kinh sách…),
nội dung chuyển tải (đạo lý thánh hiền, ý thơ kinh điển…), điển gốc Hán thường mang
tính chất nghiêm túc, trang nhã. Bởi đó, lớp điển này thường được dùng trong thơ nói
chí, tỏ lòng, ca ngợi trung hiếu tiết nghĩa hay vịnh sử, miêu tả thiên nhiên... Tuy nhiên,
Hồ Xuân Hương lại sử dụng nhiều điển cố gốc Hán với sắc thái trào lộng nhằm mục
đích phê phán. Chẳng hạn, cùng với lối nói lái, nước đôi thanh tục và giọng điệu mỉa
mai, các điển cố Phật giáo với sắc thái trang nghiêm lại được nữ sĩ dùng với sắc thái tiêu
cực để châm biếm, đả kích tầng lớp tu hành biến chất:
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
(Kiếp tu hành)
23
Gậy thần Địa Tạng khi chèo chống
Tràng hạt Di Đà đếm lại đeo
(Vịnh ni sư)

 Rõ ràng, thay đổi nội dung ngữ nghĩa và sắc thái biểu cảm của điển cố gốc Hán,
Hồ Xuân Hương đã mở rộng phạm vi hình chức của điển, mang đến cho điển những
khả năng biểu đạt mới. Những ấn tượng, hiệu quả thẩm mỹ mới lạ, độc đáo mà lớp
điển được lạ hóa này mang lại cho thơ Hồ Xuân Hương là điều không thể phủ nhận.
Hồ Xuân Hương là nhà thơ tài hoa và cá tính bậc nhất của thơ ca Việt Nam. Chỉ một
phương diện nhỏ trong thế giới thơ của bà là nghệ thuật dùng điển cũng đủ nói lên
điều này.

 Hồ Xuân Hương – nhà thơ trân trọng điển cố dân tộc


Cùng với ý thức Việt hóa, lạ hóa điển cố ngoại lai có nguồn gốc Hán học, Hồ Xuân
Hương còn tích cực tìm về với điển cố nội sinh, đưa lớp điển này trở thành đối trọng với
điển cố gốc Hán.

Điển cố nội sinh có nguồn gốc từ lịch sử, văn hóa, văn chương dân tộc. Lớp điển này
ra đời cùng với khuynh hướng trở về, đề cao các giá trị nội sinh của văn học trung đại
trên diễn trình thoát ly khỏi từ trường của văn hóa, văn chương Trung Hoa. Trong tiến
trình vận động của văn học Việt Nam, thành tựu của điển cố nội sinh chủ yếu gắn liền
với sự phát triển của bộ phận văn học chữ Nôm. Trên phương diện lựa chọn thi liệu, văn
liệu, điển cố nội sinh là một trong những biểu hiện quan trọng cho tinh thần dân tộc
trong sáng tạo nghệ thuật của các tác giả văn học trung đại Việt Nam mà Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, Nguyễn
Khuyến… là những tác giả tiêu biểu cho hướng đi này.

- Điển cố nội sinh trong thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu có nguồn gốc từ thơ ca dân gian
người Việt. Tìm về với mạch nguồn thơ ca dân tộc, nhà thơ tìm thấy ở đó nhiều chất liệu
quý giá cho sáng tạo nghệ thuật. Nhiều hình ảnh của ca dao, thành ngữ, tục ngữ được Hồ
Xuân Hương đưa vào sáng tác với tư cách là những điển cố. Chẳng hạn, điển mưa gieo
xuống giếng chỉ thân phận người phụ nữ trong câu: Mưa gieo xuống giếng uổng lòng
mong ( trong bài Thương ôi phận gái) bắt nguồn từ câu ca dao quen thuộc:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ruộng cày.

- Hoặc như trong bài Vô âm nữ, nhà thơ dùng liên tiếp hai điển con chuột nhắt, cái
ong bầu để ám chỉ sự bất công của tạo hóa đối với những người đồng tính nữ, trong câu:
Rúc rích thay cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Các điển này bắt nguồn từ hai bài ca dao sau:
Con gái mười bảy mười ba
24
Đêm nằm với mẹ, chuột tha mất l…

Bà cốt đánh trống long tong
Nhảy lên nhảy xuống, con ong đốt l…

=> Hồ Xuân Hương là nhà thơ yêu quý, trân trọng thơ ca dân gian bậc nhất trong lịch
sử văn học dân tộc. Am hiểu, tìm về với văn học dân gian, bà không chỉ sử dụng các
chất liệu của văn học dân gian một cách điêu luyện, tài tình mà còn tái tạo chúng thành
những sinh thể mới. Điển cố có nguồn gốc thơ ca dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương là
những đóng góp quan trọng của “bà chúa thơ Nôm” vào gia tài điển cố nội sinh, góp
phần đưa điển cố nội sinh trở thành đối trọng của điển cố ngoại lai. Trên diễn trình đưa
nghệ thuật dùng điển thoát khỏi sự chi phối của điển Hán học để tìm về điển cố trong
kho tàng lịch sử, văn hóa dân tộc của văn học trung đại, Hồ Xuân Hương có một vị trí
trang trọng.

2.3. Khẩu ngữ


- Khẩu ngữ là ngôn ngữ nói thông thường nó được dùng trong đời sống hằng ngày có
đặc điểm đối lập với phong cách viết. Đây là thứ ngôn ngữ bình dân giản dị và dễ hiểu.
Thường thì trong các tác phẩm văn học người ta hạn chế sử dụng. Hồ Xuân Hương là
người đi ngược với quy tắc dùng ngôn ngữ văn chương vào tác phẩm văn học. Ngôn ngữ
trong thơ của bà giản dị, dân dã mang đậm phong cách khâu ngữ dân gian.
- Xuân Hương cũng đưa khẩu ngữ vào thơ mình khi cần thiết: tí con con, lại đây, muốn
sống… kể cả tiếng chửi: bá ngọ, chém cha, cha kiếp, lũ ngẩn ngơ …Đặc biệt từ tự xưng
cho thấy Xuân Hương đứng ở nhiều vị trí: tôi, chị, em, thân em, và cả tên Xuân Hương
nữa. Cách xưng tên Xuân Hương trong bài Mời trầu rất lạ. Thế kỷ XVIII–XIX không ai
dùng từ tự xưng như Xuân Hương, tiếng em ngọt ngào đã quá mới, lại thêm tiếng xưng
tên Xuân Hương hết sức thiết tha, đặm thắm trói buộc tình cảm con người. Tuy nhiên
không chỉ có thế, tiếng xưng tên của Xuân Hương còn có cái gì đó tinh quái, liêu trai,
sắp ngửa… khơi trêu những khách đa tình, tiếng em, hay xưng tên của Xuân Hương
người đọc hình dung đi kèm theo đó là cái liếc mắt đưa tình, hoặc một cú huých vai cần
thiết, chứ không chỉ đơn giản đậm thắm thiết tha.

3. Các nhận định về thơ của Hồ Xuân Hương


Hồ Xuân Hương với tài thơ độc đáo đã trở thành trung tâm thu hút của biết bao thế hệ
nhà nghiên cứu và độc giả yêu quý Hồ Xuân Hương cũng như thơ của bà vào cuộc tìm
kiếm. Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đã được giới nghiên cứu tiếp nhận ở nhiều góc độ
khác nhau như: phế bình văn học, văn bản văn học, xã hội hóa học, vấn đề dâm, tục,..
- Trước hết phải kể đến Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu, đầu những năm hai mươi của
thế kỉ XX, phê bình “Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câu thơ hay đọc lên đến
ghê ngườ. Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa” nghĩa là trong thơ có vẽ, những Hồ
Xuân Hương thì lại là: “Thi trung hữu quỷ” nghĩa là trong thơ có ma! Song mà nhận ra
thời tục”. Như thế, Tản Đà đã khẳng định thơ Hồ Xuân Hương có yếu tố “tục”
25
- Tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương theo hướng này còn có Văn Tân, trong bài Ý
nghĩa và giá trị thơ Nôm Hồ Xuân Hương trích quyển: Hồ Xuân Hương với các giới phụ
nữ, văn học và giáo dục, Văn Tân có đặt vấn đề dâm tục, nhưng khi phân tích thì ông bị
lôi cuốn theo cái ám ảnh của vấn đề thiếu thốn cái sinh lí: “Ở Xuân Hương, dâm và tục
gặp một khu đất màu mỡ thuận tiện cho sự phát triển: sự khủng hoảng tính dục luôn luôn
sôi sục và trầm trọng của con người rất mực đa tình là Xuân Hương. Dâm và tục đã ăn
sâu vào ý thức tư tưởng của Hồ Xuân Hương, chi phối hầu hết thi phẩm của bà”
- Tiêu biểu cho các tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn giới tính mà tên
gọi vấn đề dâm tục là Nguyễn Lộc. Trogn bài “Lời giới thiệu in trong tập Thơ Nôm Hồ
Xuân Hương (1982). Hồ Xuân Hương tỏng bài viết này của Nguyễn Lộc là hình tượng
đại diện cho toàn thể người phụ nữ bị áp bức trong xã hội phong kiến Việt Nam. Vì vậy
đối với ông, những nội dung trữ tình trong thơ của Hồ Xuân Hương cũng phản ánh nội
dung tình cảm của người phụ nữ bị áp bức. Tuy nhiên, Nguyễn Lộc không xem vấn đề
nghĩa ngầm, dâm và tục là phương tiện chính đả kích sự dâm đãng. Mặt khác, ông luôn
đặt hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương trong tiến trình lịch sử văn học, bên cạnh trào lưu
nhân văn chủ nghĩa trong văn học thế kỉ XVIII – XĨ. Điều này soi sáng được mối liên hệ
giữa thơ Hồ Xuân Hương và các sáng tác khác, góp phần cho thấy hiện tượng thơ Hồ
Xuân Hương không phải là hiện tượng lạ lẫm, bất thường.

C. TỔNG KẾT
Trong tâm thức người Việt Nam, Hồ Xuân Hương là nhà thơ vô cùng độc đáo. Độc
đáo về nội dung. Độc đáo về thủ pháp nghệ thuật. Xứng danh là" bà chúa "của thơ Nôm,
từ đề tài đến hình ảnh, sắc màu, thơ Hồ Xuân Hương không bao giờ tĩnh lặng, bằng
26
phẳng, đăng đối mà ngược lại, chúng luôn sống động, gai góc, gồ ghề… xa là với chừng
mực hài hòa của phong khí văn chương đương thời. Không đài các như Bà Huyện Thanh
quan; không bác học, trữ tình một cách đằm thắm và đau đáu nỗi đoạn trường cùng"
thập loại chúng sinh "như Nguyễn Du; cũng chẳng quý phái, vàng son, trang trọng tới
từng câu chữ mà sự gọt giũa đến độ tinh xảo như chạm, như khắc của cụ Nguyễn Gia
Thiều… thơ Nôm Hồ Xuân Hương chỉ có thể sánh với lời ăn, tiếng nói của dân gian.
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thơ Nôm Hồ Xuân Hương lừng lửng biểu hiện một
cách sinh động, trực quan khả năng giàu có mà hóc hiểm đến lạ kì của ngôn ngữ dân tộc.
Như một cuộc" đổi mới "vô cùng lớn lao, Hồ Xuân Hương đã đưa vào chiếc bình cũ của
thể thơ Đường luật một lượng" rượu mới "về chất – mà ở đó, lần đầu tiên hình ảnh tục,
lối nói lái, chữ dùng thật là táo bạo của lời ăn tiếng nói dân gian…đã ùa vào thơ như từ
lâu lắm rồi, như vốn đã ngự trị trên văn đàn như thế. Nó ùa vào, nhảy vào chiếm lĩnh mà
không cần sự dè dặt của một bước chuẩn bị hay thử nghiệm
Nhìn vào phân tích về đặc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, chúng ta có thể kết luận
rằng Hồ Xuân Hương thực sự là "bà chúa thơ Nôm". Tác phẩm thơ Nôm của bà có
những đặc điểm nổi bật và độc đáo trong việc truyền đạt tư tưởng và ý kiến cá nhân.
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ hài hước, châm biếm và đôi khi phê phán gián tiếp, Hồ
Xuân Hương đã tạo ra những tác phẩm thơ mang tính biểu tượng và sắc nét, đánh bại
các quy tắc xã hội và nhân văn.
Bằng sự sáng tạo và tài năng của mình, Hồ Xuân Hương đã tạo nên một di sản văn
hóa quý giá trong văn học Việt Nam. Tác phẩm thơ Nôm của bà không chỉ đóng vai trò
quan trọng trong việc tôn vinh giá trị của ngôn ngữ dân gian mà còn thể hiện tư duy tự
do. Bằng cách truyền đạt những thông điệp sâu sắc, bà đã khơi gợi sự suy ngẫm và thách
thức người đọc về các vấn đề quan trọng trong cuộc sống và xã hội. Với những công
trình và đóng góp của mình, Hồ Xuân Hương đã trở thành một biểu tượng văn hóa quan
trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm thơ Nôm của bà không chỉ là một sự tự
hào của dân tộc mà còn đã được công nhận và truyền cảm hứng cho các thế hệ sau này.

27
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] La Nhâm Thìn, Vũ Thanh (2016), Giáo trình Văn học Việt Nam trung đại – tập 2,
NXB Giáo dục.
[2] Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (2008), Văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X – cuối
thế kỷ XIX), NXB Giáo dục.
[3] Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương
http://nguyenhongnhi.blogspot.com/2012/05/ngon-ngu-trong-tho-ho-xuan-huong.html
[4] Tìm hiểu vê fnhaf thơ Hồ Xuân Hương
https://dehoctot.edu.vn/tim-hieu-chi-tiet-ve-nha-tho-ho-xuan huong.html?
fbclid=IwAR2ba5GTYUfzAYL92d0VBwYjWJLdiF6dCqSSoVnwrkAQB
sIuXxzo7RV7No
[5] Giọng điệu khẩu ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương – Vũ Thị Huế
Hồ Xuân Hương - một tài năng văn học độc đáo (thethaovanhoa.vn)

28
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

STT HỌ VÀ TÊN NHIỆM VỤ


Thuyết trình, Mở đầu, Tổng kết, Chỉnh sửa và
1 Nguyễn Thị Hân (NT) lọc nội dung, Thiết kế slide, Các nhận định về
thơ Hồ Xuân Hương
Thuyết trình, Đặc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân
2 Trần Phương Linh
Hương qua nghệ thuật (Về ngôn từ)
Đắc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương qua nghệ
3 Nguyễn Văn Hiếu
thuật (Về các biểu thức)
4 Trần Thị Khánh Huyền Đôi nét về thơ Nôm Đương luật
5 Nguyễn Thị Hiền Lương Đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương
Đặc sắc thơ Nôm của Hồ Xuân Hương qua nội
6 Tôn Thị Huyền
dung

29

You might also like