Professional Documents
Culture Documents
Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh Ii
Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh Ii
Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh Ii
*Tóm ý : Kitô giáo thừa hưởng phần Cựu Ước của Do Thái giáo. Tuy nhiên, đức tin
Kitô giáo không đơn thuần là sự tiếp nối quá khứ của dân Do Thái, vì so với Cựu
Ước, Tân Ước có những nét mới mẻ hẳn.
BÀI 2 :
ĐỌC TIN MỪNG NHƯ THẾ NÀO?
BÀI 3 :
NƯỚC DO THÁI THỜI CHÚA GIÊSU (Lc 3, 1-3)
Bài 4:
THIÊN CHÚA ĐÃ SAI CON NGÀI ĐẾN (Gl 4, 4 – 7)
*Tóm ý toàn bài : Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa ,bởi quyền năng Chúa Thánh
Thần đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh nữ Maria để cứu độ nhân loại.
Mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài
bằng lời đáp trả từng ngày trong cuộc sống chúng ta.
BÀI 5 :
CHÚA GIÊSU Ở NA-DA-RÉT SỐNG MỖI NGÀY THẬT ĐẸP
Lc 2, 51 – 52
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con dâng lên Chúa giờ học hôm nay. Xin Chúa ban
Chúa Thánh Thần xuống trên mỗi người chúng con, giúp chúng con hiểu biết, yêu
mến và noi gương Chúa sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một hôm, du khách đến Đất Thánh dừng lại trước một di tích cổ đã đổ nát…
Lúc sau, có một người đàn bà Ả rập đi tới bên di tích cổ, cúi nhặt một viên đá rồi
ném vào cái cột đó, đứa bé đi theo mẹ cũng làm như vậy. Hỏi bà lý do, bà đáp :
-Đây là mồ của một đứa con xấu, đã phản phúc với cha mình.
Hỏi tên cha hắn là gì, bà đáp :
- Đavít
Nói xong bà tiếp tục đi… Du khách biết đây là mồ chôn Absalôm, đứa con
phản nghịch. Mồ chôn hắn đã trở thành bia ghi sự nhuốc nha muôn đời. Khi một
người Hồi giáo đi qua, họ vừa ném đá, vừa nói :
-Absalôm hãy bị nguyền rủa! Và chúc dữ cho tất cả những đứa con nào ngụy
nghịch, bất hiếu với cha mẹ.
Ngược lại, ngôi mộ của Chúa Giêsu được mọi du khách kính cẩn suy tôn, bởi
Chúa Giêsu là một người con hiếu thảo với Thiên Chúa Cha và đối với cha mẹ Ngài ở
Nadarét. Và Đức Giêsu cũng luôn sống tốt với mọi người như đoạn Lời Chúa chúng
ta sẽ công bố giờ đây.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Lc 2, 51-52 (Thinh lặng giây lát)
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
-Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Thánh Luca
-Thời gian viết ? Khỏng năm 70 – 80
Thánh Luca kể lại biến cố Đức Giêsu được cha mẹ Ngài dẫn đi hành hương
Đền Thờ Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua, lúc Đức Giêsu được 12 tuổi.
Xong kỳ lễ, mọi người ra về nhưng Đức Giêsu còn ở lại Đền thờ. Sau một
ngày đàng, cha mẹ Ngài mới biết không có Ngài trong đoàn lữ hành. Ông bà lo lắng
trở lại Đền thờ tìm con. Sau ba ngày, ông bà mới tìm thấy Đức Giêsu đang trong
Đền thờ, ngồi giữa các Thầy dạy, vừa nghe và hỏi họ. Sau đó Đức Giêsu trở về
Nadarét với cha mẹ và hằng vâng phục các Ngài.
2. Các em học sinh hội thảo
Đây là đoạn kinh thánh thuộc loại chuyện kể.
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Đức Giêsu, Cha mẹ Ngài, Thiên Chúa, mọi người.
-Nhân vật chính : Đức Giêsu
b.Câu tóm ý : câu 52
c.Đặt tựa đề ngắn : Na-da-rét : Trường Chúa dạy
Hoặc : Tuổi trẻ của Chúa Giêsu tại Na-da-rét
3. Bài học giáo lý
Để cứu chuộc nhân loại, Đức Giêsu đã vâng phục Chúa Cha : xuống thế làm
người trong một gia đình lao động nghèo. Kinh thánh không mô tả chi tiết cảnh
sống từng ngày của Đức Giêsu ở Nadarét, nhưng cho chúng ta biết rằng Ngài ngày
càng tấn tới về nhân đức, càng đẹp lòng Thiên Chúa và mọi người. Chúng ta cùng
nhau tìm hiểu để nhận ra những điều Chúa muốn dậy chúng ta qua đời sống ẩn dật
của Ngài.
3.1 Con người
Là con người, chúng ta có những mối tương quan với Thiên Chúa và với tha
nhân. Để những mối tương quan đó ngày càng bền vững và tốt đẹp, con
người cần phải có nhân đức.
Nhân đức bao gồm :
-Các nhân đức đối thần : Tin – Cậy – Mến
-Các nhân đức tự nhiên : khôn ngoan, dũng cảm , tiết độ và công bằng
…
Hình ảnh Đức Giêsu tại Nadarét là : Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững
mạnh, đầy khôn ngoan…
Tại Nadarét, chúng ta bắt gặp một cậu bé, rồi một thiếu niên, một thanh
niên…Đức Giêsu lớn lên theo năm tháng như tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, nếu chỉ “lớn xác” mà thôi thì chưa chắc đã được “mọi người
thương mến”. Đức Giêsu ngày càng khôn lớn : mỗi ngày một thêm khôn
ngoan, thêm hiểu biết, thêm nhân đức. Một cách nào đó, Ngài đã kết hợp
với mọi người. Ngài đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí
óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim
con người. Sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, Ngài đã thực sự trở nên một người
giữa chúng ta, giống như chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. (MV 22 )
*Tóm ý : Ở Nadarét, Chúa Giêsu đã sống thật đẹp tuổi trẻ của Ngài :
đạo đức, hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, chăm học, chăm làm, yêu thương
mọi người.
3.2 Con Thiên Chúa
Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?(Lc2,49)
Bổn phận ở đây có thể hiểu là sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha giao phó cho
Đức Giêsu.
Khi bước vào trần gian, Đức Kitô nói: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để
thực thi ý Ngài (Dt10,7)
Nhờ chiêm ngắm Đức Giêsu, chúng ta biết được người con của Thiên Chúa là
như thế nào. Đó là người hằng thưa vâng với Cha, luôn ước mong thi hành ý
muốn của Cha và hoàn tất công trình của Ngài (Ga 3,34)
Giáo hội gọi Đức Giêsu là Ađam mới , trái ngược với Ađam cũ , Đức Giêsu là
Thiên Chúa nhưng đã vâng phục Đức Chúa Cha , xuống thế làm người .
Việc Chúa Giêsu vâng phục Mẹ Ngài và cha nuôi chứng tỏ Ngài đã chu toàn
điều răn thứ tư. Đó là hình ảnh Ngài vâng phục Cha trên trời như con thảo,
vâng phục đến tận cùng.( x.SGLC 532 )
Gia đình Nadarét, đó là trường học của con Thiên Chúa. Ngài đã sống 30
năm ở đó để chuẩn bị cho sứ mạng của mình. Gia đình chúng ta cũng vậy.
Chính trong gia đình mình, với những vất vả thường ngày, những hy sinh cố
gắng âm thầm, qua tương quan với bố mẹ, anh chị em mà mỗi người chúng
ta được mời gọi sống đời sống làm con Thiên Chúa.
*Tóm ý: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người đã sống cảnh đời bình
thường như mọi người chúng ta để ta có thể kết hợp với Ngài bằng
chính cuộc sống thường ngày của chúng ta.
3.3 Từng ngày vươn lên
Từ khi ông bà nguyên tổ phạm tội, môt cuộc chiến cam go chống lại quyền
lực bóng tối tiếp diễn trong suốt lịch sử nhân loại. Dấn thân vào cuộc chiến
này, con người phải luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện.
Trong các bài giảng, Đức Giêsu thường nhắc đến sự phát triển của hạt
giống, của thân cây ( Mt 13,31-33 ). Đó là sự phát triển kiên trì và đều đặn,
từng ngày trong cuộc sống, , từ những việc âm thầm bé nhỏ nhất, mỗi ngày
vươn lên một chút, dần dần hình thành nơi ta những thói quen tốt như siêng
năng cầu nguyện, quan tâm đến mọi người, chăm chỉ học hành và làm
việc…Những điều ấy đòi ta khép mình vào kỷ luật hằng ngày, cố gắng bền bỉ
từng ngày là một việc vừa sức ta và sẽ giúp ta trở nên giống Chúa Giêsu
hơn.
*Tóm ý : Cuộc sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết noi
gương Chúa Giêsu : cố gắng luyện tập từng ngày, từ những việc rất
nhỏ của bổn phận trong giây phút hiện tại mà Chúa đang chờ đợi ta.
*Tóm ý toàn bài: Nadarét là trường học của Chúa Giêsu. Nơi đó, chúng ta bắt
đầu hiểu về cuộc đời Đức Giêsu, đó là trường dạy của Tin mừng : trước hết, là bài
học về khiêm tốn và thinh lặng. Tâm hồn cần thinh lặng để kết hợp với Thiên Chúa.
Kế đến là bài học về đời sống gia đình và xã hội : hoà hợp, yêu thương, đạm bạc,
đơn sơ và bền vững. Tiếp theo là bài học về lao động, tuy nhọc nhằn nhưng mang
lại ơn cứu độ
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay lớp chúng con đến thăm nhà của Chúa. Chúng con
thấy cuộc sống ở đây âm thầm, lặng lẽ cũng gần gũi với cuộc sống học hành và lao
động của gia đình chúng con quá.
Chúa đã sống, học hành và làm việc ở đây suốt 30 năm trường trong tình yêu
mến, vâng phục Chúa Cha, hiếu thảo với Cha mẹ, cùng lòng yêu thương ,gắn bó với
mọi người.
Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Chúa : đón nhận cuộc sống Chúa
ban cho chúng con hàng ngày trong thinh lặng để kết hợp với Chúa Cha. Xin cho
chúng con biết sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ.yêu thương, bác ái với mọi người.
Và xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận những vất vả trong công việc, trong học
tập, cùng những kỷ luật của cuộc sống. Để chúng con được cộng tác với Chúa trong
công cuộc cứu độ nhân loại. Và làm cho Danh Chúa ngày càng được tôn vinh khắp
nơi. Chúng con cầu xin, vì Chúa là…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Để cứu độ chúng ta Đức Giêsu đã : (câu a)
a. Làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi
b. Phạm tội như chúng ta để cứu độ chúng ta
c. Làm thợ mộc và sống khiêm tốn tại Nadarét. d. Cả 3 câu đều đúng.
2. Cuộc sống của Chúa Giêsu ở Nadarét đã dạy em những bài học: (câu d)
d. Khiêm tốn và thinh lặng b. Đời sống gia đình và xã hội: hoà hợp, yêu
thương, đạm bạc
e. c. Chăm chỉ học tập và lao động d. Cả 3 câu đều đúng.
VIII. ĐIỀU ĐỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Khi đặt chúng ta vào thế giới này, Thiên Chúa có một chương trình cho mỗi
người chúng ta. Ngài ban cho chúng ta đủ ơn và tạo điều kiện giúp ta có thể thực
hiện điều Ngài muốn, kể cả khi ta gặp nghịch cảnh.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi cần nhận ra những khả năng mà Thiên Chúa ban cho tôi để tìm cách phát
triển chúng, hầu hoàn thiện bản thân tôi như ý Chúa muốn, và làm đạp thế giới
này hơn mỗi ngày.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con qua giờ học
hôm nay, chúng con được hiểu biết hơn về cuộc sống ẩn dật của Chúa tại
Nadarét, để rồi chúng con sẽ noi gương Chúa áp dụng vào đời sống chúng
con. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện điều chúng con đã dốc lòng hôm
nay. Chúng con tin rằng : với sự soi sáng và trợ giúp của Chúa, cuộc sống
chúng con sẽ được biến đổi ngày càng nên tốt hơn. Và chúng con cũng được
Thiên Chúa Cha và mọi người thương mến như Chúa. Amen.
BÀI 6: Dậy men tin mừng 1
SỐNG TỐT VỚI HÀNG XÓM LÁNG GIỀNG
BÀI 7 :
ĐỨC GIÊSU SÁNG SUỐT CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Mt 4, 1 – 14
BÀI 9 :
LẠY CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI
Mt 6, 9 - 13
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay, xin Chúa ban
Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập tâm hồn chúng con, giúp chúng con đón
nhận lời dậy của Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Cha với tất cả lòng yêu
mến của chúng con. Amen
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Con gái ông K.Marx có lần đã thú nhận với người bạn của bà rằng: từ nhỏ, bà
đã không được hướng dẫncho biết cóThiên Chúa, tôn giáo và tín ngưỡng.
Chính bà cũng không hề cảm thấy có một tâm tình tôn giáo nào.Tuy nhiên,
một ngày kia, tình cờ đọc được một lời kinh của người Kitô hữu,bà hằng
mong ước những câu kinh ấy sẽ biến thành sự thực…Nghe nói thế, người bạn
của bà không khỏi ngạc nhiên và hỏi: “ Kinh gì mà hay thế?”.Thay vì trả lời,
người con gái của ông K.Marx chậm rãi đọc Kinh Lạy Cha. Vâng , đây là lời
kinh của chính Đức Giêsu dạy các môn đệ và Hội thành.là lời kinh căn bản
của Kitô giáo. Thánh Luca ghi lại bản Kinh Lạy Cha ngắn ( có 5 lời nguyện
xin).Còn Thánh Matthêu ghi lại bản dài hơn ( có 7 lời nguyện xin ). Truyền
thống phụng vụ của Hội thánh sử dụng bản văn Matthêu. Mời các em cùng
lắng nghe bản kinh tuyệt hảo này.
BÀI 11 :
ĐỨC GIÊSU YÊU THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI YẾU ĐUỐI
Mt 11, 28 – 30
I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đến với Chúa để được gặp Chúa trước khi chúng
con bắt đầu giờ học giáo lý hôm nay. Chúng con tin Chúa đang ở giữa chúng con.
Xin cảm tạ tình yêu Chúa đã luôn yêu thương, nâng đỡ, săn sóc cuộc đời chúng con.
Và giờ đây, Chúa cho chúng con được cùng nhau chia sẻ về lòng nhân từ của Chúa.
Xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự xuống tâm hồn mỗi người chúng con, xin Ngài
mở lòng trí chúng con đón nhận Lời Chúa Giêsu, xin chúc lành và thánh hoá giờ học
của chúng con.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II- DẪN VÀO LỜI CHÚA
Có một người Thanh niên mơ một giấc mơ : Đức Giêsu và anh ta đồng hành
trên một bãi cãt dài ven biển. Bốn dấu chân in trên cát. Nhưng khi anh ta gặp phải
khó khăn, anh nhìn xuống thì thấy chỉ còn dấu hai bàn chân. Anh kinh ngạc và thất
vọng kêu lên:
-Thưa Thầy, lúc con gặp khó khăn Thầy trốn đi đâu mà để con bước một mình
thế ?
Đức Giêsu nhỏ nhẹ nói với anh:
-Con nhìn kỹ lại xem đó là nững bước chân của ai ?
Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới biết đó là những dấu chân của Đức Giêsu.
-Vậy thưa Thầy- Chàng thanh niên la lên- Vậy lúc đó con ở đâu?
-Con ạ- Đức Giêsu trả lời- Những lúc con gặp khó khăn đó, Thầy biết con
không đủ sức chịu đựng và vì thế, Thầy đã vác con trên vai Thầy !
Câu chuyện cảm động trên đây cho chúng ta ý thức hơn rằng: Thiên Chúa
không bao giờ bỏ rơi con người như con người vẫn thường nghĩ . Nhưng khi con
người càng yếu đuối, đau khổ, thì Chúa càng gần gũi và yêu thương nâng đỡ nhiều
hơn như trong đoạn Tin Mừng chúng ta sẽ cùng nhau lắng nghe giờ đây.
III- CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 11, 28-30
Thinh lặng giây lát
IV- GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
-Đoạn Kinh thánh này của ai viết? Mt
-Thời gian viết ? khoảng năm 80
Qua những bài học trước, chúng ta đã tìm hiểu về tình thương của Thiên Chúa
dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô : Con Thiên Chúa làm người, sống ẩn dật
tại Na-da-rét, và những bước đầu của cuộc đời rao giảng công khai. Đức Giêsu đã
từ từ mạc khải Mầu nhiệm Nước Trời cho dân chúng qua những lời rao giảng và
những công việc cụ thể Ngài làm.
Qua đoạn Tin Mừng Mt 11, 28-30 này, Chúa Giêsu mạc khải Nước Trời cho
những người “ thấp cổ bé họng”. Ngài kêu gọi những con người yếu đuối, đau khổ,
nhỏ bé hãy đến với Ngài để được Ngài bổ sức, nâng đỡ.
Mời các em cùng thảo luận để thấy rõ hơn lòng nhân từ của Chúa Giêsu.
2. Các em học sinh thảo luận.
Đoạn Tin Mừng Mt 11, 28-30 này là một câu chuyện kể
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Chúa Giêsu, tất cả những ai mang gánh nặng nề…
- Nhân vật chính : Chúa Giêsu
b.Câu tóm ý cả đoạn ? Câu 28
c.Đặt tựa đề ngắn : Chúa Giêsu nhân từ.
Hoặc : Đến với Chúa Giêsu ta sẽ được nâng đỡ.
3. Bài học giáo lý
Chúa Giêsu đã kêu gọi : “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy
đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”
Những người “đang vất vả mang gánh nặng nề” ở đây là những ai? Đó là những
người đang phải mang vác những gánh nặng khổ đau vì bịnh tật, vì qui định này,
quy luật nọ, vì những lỡ lầm yếu đuối, vì bị hắt hủi bỏ rơi.
-Chúa mời gọi họ : “Hãy mang lấy ách của Ta”.
Aùch là gì ? Aùch là đoạn gỗ cong mắc trên vai trâu bò để buộc dây kéo cày,
kéo xe. Nghĩa bóng: sự áp bức (Lv26,13; 1V 12,14). Nô lệ (1Tm 6,1); Nô lệ
lề luật ( luật Do thái; Cv 15,10; Gl5,1). Kỷ luật ( Hc 3, 27 ).
-“Aùch Ta thì êm ái và nhẹ nhàng” ( câu 30) : Luật của Chúa thì nhẹ nhàng,
giúp người ta vươn lên chứ không đè nén họ, khác với những lề luật do thái mà các
Kinh sư và Pharisêu chất lên vai dân chúng. Bởi Chúa Giêsu là đấng hiền lành và
khiêm nhường trong lòng. Người luôn quan tâm tới :
3.1 Những người đau khổ
Các em thân mến, ai trong chúng ta cũng đã có kinh nghiệm gặp gỡ, tiếp xúc
với những người bệnh tật, hay chính bản thân chúng ta đã trải qua những cơn đau
bịnh. Bệnh tật làm người ta đau đớn thể xác, và có khi đau khổ cả về tinh thần nữa.
Có những bệnh bị người ta xa lánh như bệnh cùi, HIV…Có những bệnh làm cho họ
không có khả năng tham gia vào một số công việc của xã hội như câm, điếc,mù…Và
có khi phải sống tách biệt khỏi cộng đồng như những trại phong.
Vào thời Chúa Giêsu,đối với người Do thái: tai hoạ, bệnh tật là hậu quả của tội
lỗi; vì đã phạm tội nào đó nên bị Thiên Chúa đánh phạt ( Dnl 28,20; Ga 9,1-2; Lc
13,1-5).Nước Do thái thời đó không có trại cùi, những người bịnh cùi bị đuổi ra
những vùng hoang vắng, sống chết không ai quan tâm. Chính vì vậy, những người
bệnh không chỉ đau khổ về phần xác mà còn đau khổ về tinh thần vì bị khinh bỉ,
hắt hủi.
Vì yêu thương những con người đau khổ, Chúa Giêsu đã dám đi ngược lại luật
lệ: Chúa chữa bệnh ngày Sabát ( Mt 12,9-14 ). Chúa đụng vào người phong cùi để
chữa trị cho họ. Tình yêu của Chúa lớn hơn sự sợ hãi lây bệnh ( Mc8,1-4; Lc 5,12-
16 ), và lớn hơn lòng ganh ghét muốn làm hại Chúa của các Biệt phái ( Mt 12,9-
14).
*Tóm ý: Đối với Chúa Giêsu, con người dù nghèo khổ, bệnh hoạn, tật nguyền…
đều đáng quý trọng vì là hình ảnh của Thiên Chúa. Bởi đó, phải coi trọng con người
hơn của cải, công việc, tiền bạc, thời gian…
3.2 Trẻ em
Một trong những đối tượng được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt, đó là trẻ
em.
Chúng ta thấy: trẻ em thì đơn sơ, ngay thật, chưa có đủ khả năng để tự vệ, chỉ
biết lãnh nhận mọi sự từ người lớn.
Thời Chúa Giêsu, không phải mọi trẻ em đều được cắp sách đến trường. Trong
những năm đầu, đứa trẻ chỉ được một mình người mẹ chăm sóc. Đến 4 tuổi, con
trai sẽ được cha coi sóc và học nghề của cha, được dạy cho biết đọc và giải thích
Sách Thánh, biết lề luật. Còn con gái vẫn ở với mẹ, học làm bếp, nội trợ, chỉ cần
biết những khoản luật cấm và những khoản liên quan đến phụ nữ là đủ.
Các em thường được dạy dỗ một cách nghiêm khắc bằng roi vọt, được gia đình
yêu thương nhưng không chiều chuộng.
Nhưng Chúa Giêsu lại rất yêu thương, chiều chuộng và đề cao trẻ em: “ Cứ để
trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai
giống như chúng” (Mc 10,13-16). Và “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm
hồn trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào” (Mt 19,13-15 ). Ngài ôm lấy trẻ em và nói: “Ai
tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy…” ( Mc9,33-
37;Mt 18,1-5; Lc9,46-48 )
*Tóm ý: Chúa Giêsu đã yêu thương và đề cao trẻ em. Ngài mời gọi chúng ta hãy
sống đơn sơ, ngay thật và khiêm tốn như trẻ thơ để được vào Nước Trời.
3.3 Phụ nữ
Phụ nữ trên khắp thế giới ngày nay càng ý thức được giá trị của mình, tìm được
chỗ đứng bên cạnh nam giới và đóng góp xuất sắc trong các ngành nghề,giáo dục
và khoa học.
Ở Paléttin thời Chúa Giêsu, người phụ nữ không có giá trị bằng nam giới. Thế
giới của họ chỉ là gia đình và các việc nội trợ. Họ không được đi học cả đạo lẫn đời.
Họ không được làm chứng trước toà án cũng như không được lên tiếng trong các
nghi lễ phụng tự. Trong Hội đường, họ có chỗ ngồi riêng, và nếu không đủ mười
người đàn ông trưởng thành thì dù có bao nhiêu phụ nữ cũng không thể cử hành
nghi lễ tôn giáo.
Khi ra đường, họ phải đội khăn che đầu để đừng ai nhận ra mình, và chịu nhiều
luật lệ khắt khe khác nữa.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không đối xử với phụ nữ như vậy. Ngài coi trọng và quý
mến họ không kém gì nam giới:
-Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Samari ( Ga 4 )
-Ngài đón nhận họ vào đoàn các môn đệ của Ngài ( Lc8,1-3; Mt 27,55-56)
-Chúa bênh vực cho người phụ nữ ngoại tình, Ngài không kết án họ ( Ga
8,2-11)
Trong Tin Mừng có nhiều đoạn cho thấy Chúa Giêsu luôn bênh vực, cứu giúp
phụ nữ. Và sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra trước hết cho các phụ nữ, và
trao cho họ sứ mạng đi báo tin cho các môn đệ( Mt 28,9-10).
· Tóm ý: Chúa Giêsu luôn quan tâm đến những người bị xã hội
coi thường. Ngài không trọng nam, khinh nữ nhưng đã xác định
phẩm giá người phụ nữ một cách chắc chắn, giải phóng họ khỏi
những phân biệt của lề luật và xã hội.
3.4 Những người tội lỗi
Chúng ta thấy ở đâu và thời đại nào, người ta cũng thường căm ghét những
người thu thuế vì họ áp đặt lên dân chúng những khoản thu nặng nề. Và khinh bỉ
những cô gái điếm.
Thời Đức Giêsu, hai hạng người này bị xã hội coi là tội lỗi, cần xa tránh. Vì giao
thiệp với hạng tội lỗi sẽ bị ô uế, không thể tham dự việc phụng tự được. Thế mà
Đức Giêsu lại đồng bàn với họ và để họ lại gần tiếp xúc với Chúa ( Lc 5,29-30;7,36-
39;15,1-2 ). Ngài trở nên bạn của họ để giúp họ nhận ra họ được yêu thương, được
quý trọng và họ có thể thay đổi. Ngài đến với họ bằng sự cảm thông chứ không
phải bằng sự kết án. Ngài giúp họ nhận ra những chỗ sai sót để sửa chữa, như
người đàn bà ngoại tình, Giakêu…
Đặc biệt, chúng ta thấy Đức Giêsu không ngần ngại kêu gọi một người thu thuế
vào nhóm Môn đệ thân tín nhất, đó là Thánh Matthêu hay còn gọi là Lêvi ( Mt 9,9 ).
Vì đối với Chúa Giêsu “người khoẻ mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau yếu
mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi
sám hối ăn năn” (Lc5,31-32)
*Tóm ý : Chúa Giêsu đến không phải để kêu gọi người đạo đức, mà để kêu gọi
người tội lỗi sám hối ăn năn.
Khi ta sám hối ăn năn, Chúa Giêsu ban cho ta ơn tha thứ để ta được sự bình an và
niềm vui của con cái Thiên Chúa. Ta phải yêu mến, kính trọng mọi người, kể cả
những người tội lỗi.
*Tóm ý toàn bài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng
Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.Lời mời gọi của Chúa Giêsu trước hết nhắm đến
gánh nặng của lề luật Cựu ước mà người Do thái thời Chúa Giêsu phải gánh chịu,
với bao nhiêu điều khoản tỉ mỉ các Kinh sư đã thêm vào( Mt23,4). Tuy nhiên ,gánh
nặng Ngài nói tới còn có thể hiểu là nhữngkhổ đau cả về vật chất lẫn tinh thần.
Chính vì thế, Ngài mời gọi mọi người đến với Ngài để được an ủi, nâng đỡ. Và hãy
học nơi Chúa: Trong ánh mắt Ngài, mọi người đều được coi trọng.
Bài 12 :
NGÀI CÓ ĐÚNG LÀ ĐẤNG PHẢI ĐẾN
Mt 11, 2-6
*Tóm ý : Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc nhân loại bằng con đường yêu
thương và phục vụ. Chúng ta cần mở lòng đón nhận và thay đổi cách nhìn, cách suy
nghĩ và hành động theo ý Chúa.
1.2 Những dấu hỏi hôm nay
Khi nghe những lời đồn thổi về Đức Giêsu, Vua Hêrôđê rất muốn gặp Ngài để
mong được xem một vài phép lạ. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp ứng đòi hỏi đó,
và nhà Vua đã tỏ thái độ khinh dể Ngài (Lc 23,8-11)
Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ bánh, dân chúng muốn tôn Ngài làm Vua.
Họ kéo đến với Ngài để mong Chúa làm phép lạ nữa. Nhưng Đức Giêsu chỉ nói
đến Bánh Hằng Sống. Họ lẩm bẩm: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Họ
đã bỏ đi hết, kể cả nhiều môn đệ của Ngài (Ga 6,22…)
Nến như ngày xưa, có nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu với hy vọng để được
ăn no (Ga 6), để thấy dấu lạ (Mt12,26-39)…Thì ngày nay,nhiều người cũng tìm
đến với Chúa Giêsu với hy vọng: sẽ được Ngài đáp ứng những nhu cầu vật chất,
chính trị hay xã hội…Thay vì được đáp ứng, họ chỉ thấy Chúa im lặng hay Chúa
đòi hỏi phải từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày. Nhiều người đã bỏ Chúa theo
các giáo phái, đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa.
*Tóm ý : Tin là từ bỏ chính mình, phó thác cuộc đời chúng ta cho tình yêu thương
quan phòng của Thiên Chúa không điều kiện.
1.3 Câu hỏi của chính bạn
Các em thân mến, khi còn bé chúng ta đã tiếp nhận đức tin từ Cha mẹ, người
đỡ đầu, từ Cha xứ, các Giáo lý viên…Và chúng ta được học hỏi về Chúa tuần tự
qua các lớp giáo lý và được lãnh nhận các Bí tích Khai tâm Kitô giáo mà ít khi hay
chưa biết suy nghĩ và lựa chọn sống niềm tin của mình.
Chúng ta bắt đầu lớn, nhìn lại cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra những sự trợ giúp
cũng như những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy những vấn nạn trong
đời sống đức tin. Chúng ta phải tự hỏi : “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải
đến không, hay chúng con phải chờ đợi ai khác ?” Và chính chúng ta phải tìm cho
ra câu trả lời, để cho đức tin của chúng ta trở thành một thái độ do chính chúng
ta quyết chọn.
Hãy tự vấn : Cuộc sống tôi có luôn tìm Chúa không? Hay đang tìm gì khác
ngoài Chúa? Tôi có tin Chúa, theo Chúa lúc an vui cũng như lúc gặp thử thách
không? Hay tôi chỉ mong Chúa đáp ứng những mong muốn của riêng tôi ?
Hãy đến với Chúa Giêsu, hãy nhìn và lắng nghe Ngài như các môn đệ của Gioan
Tẩy giả. Hãy để Chúa Giêsu uốn nắn, sửa chữa những sai lạc của chúng ta. Hãy
làm theo lời dậy dỗ của Chúa.
*Tóm ý: Hãy đến với Chúa Giêsu và bạn hãy hỏi Ngài: Thưa Thầy, Thầy có đúng là
Đấng phải đến không ? Và hãy thinh lặng để nghe Ngài trả lời.
*Tóm ý toàn bài: Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô trong bí tích rửa tội,
đòi hỏi chúng ta ngày càng thao thức tìm kiếm, yêu mến và sống gắn bó với Chúa
Giêsu theo đường lối của Người là cứu độ nhân loại bằng yêu thương và phục vụ .
Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu không phải vì những nhu cầu vật chất nhưng
là tìm sự sống đời trước mọi vấn nạn của cuộc sống , ta hãy hỏi Chúa Giêsu và
nghe Ngài trả lời .
Bài 13 :
NHẬN BIẾT CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU THẾ
Mt 11,25-27
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ:
Lạy Thiên Chúa là Cha rất yêu thương chúng con, này chúng con đây, đang
bắt đầu giờ học giáo lý trong tình yêu thương quan phòng của Cha. Chúng con xin
cảm tạ Tình yêu Cha đã, đang và vẫn mãi trải dài trong cuộc sống chúng con.
Chúng con tin rằng: Cha đang hiện diện giữa chúng con để yêu thương, soi sáng và
dạy dỗ chúng con. Xin Cha ban Chúa Thánh Thần để Ngài mở lòng trí chúng con,
cho chúng con lắng nghe lời của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Cha, giúp chúng con
nhận biết Ngài và noi gương Ngài trong cuộc sống chúng con.
Hát : Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA:
Năm 1904, trong một cuộc triển lãm do Hàn lâm viện Hoàng gia Anh tổ
chức, họa sĩ Smith Kosê đã cho trưng bày một bức tranh mang tên: “Bị con người
khinh thường và chối bỏ”.
Bức tranh đó vẽ cảnh Chúa Giêsu đang đứng trên thềm của nhà thờ chính
toà Thánh Phaolô, một ngôi nhà thờ nguy nga nằm giữa khu trung tâm Luân Đôn.
Một đám đông dân chúng thuộc đủ mọi hạng người đi ngang qua, thế nhưng, không
một ai thấy Chúa Giêsu.
Đầu tiên là một người đàn ông. Ông ta vừa đi vừa dán mũi vào một tờ báo
đến nỗi suýt đâm sầm vào Chúa Giêsu.
Tiếp theo là một nhà khoa học. Đầu óc của ông còn đang để cả ở phòng thí
nghiệm với những chai lọ, những hoá chất, nên ông đi qua, không thấy Chúa Giêsu.
Rồi một nhân vật cao cấp trong hàng giáo phẩm tiến đến, nghiêm trang và
tự mãn, nhưng không hề để ý sự có mặt của Chúa Giêsu.
Nối gót theo sau là một nhà thần học. Vị này vừa đi vừa lý luận về Thiên
Chúa, về đời sống và sứ mạng của Đức Giêsu. Ông bước nhanh qua Ngài mà không
biết.
Gần đó có một diễn giả đang vung tay, vung chân thuyết trình cho đám
đông về quyền lợi của con người, nhưng ông ta cũng không buồn liếc nhìn Chúa
Giêsu.
Duy chỉ có một nữ y tá ngước mắt nhìn Chúa Giêsu nhưng bà vẫn tiếp tục
con đường của mình.
Bức hoạ trên nói lên một điều nghịch lý đang xảy ra ngay giữa chúng ta:
Người ta không thấy Chúa không phải vì Chúa vắng mặt. Chúa có đó nhưng chẳng
ai nhận ra. Có muôn ngàn lý do để không nhận ra Chúa đang ở bên mình.
Nhận biết Chúa Giêsu, đó là một ơn Chúa Cha ban (Ga 6,44). Nhưng để đón
nhận ơn này, cần mở lòng ra, trở nên kẻ bé mọn đơn sơ như Chúa Giêsu đã sống
với Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta cùng lắng nghe những tâm tình của Chúa Giêsu
ngợi khen Tình yêu của Chúa Cha đã dành cho Người.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA: -Mt 11, 25-27
.Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe được Thánh Matthêu viết trong trình thuật
về Mầu nhiệm Nước Trời : đó là sự mạc khải về Nước Trời cho những người “thấp
cổ bé miệng”. Để làm nổi bật ý tưởng, tác giả thường nối kết những cái đối nghịch
với nhau, tạo nên một sự tương phản: bậc khôn ngoan> < người bé mọn.
Những người tự cho mình là khôn ngoan học rộng, thường tự phụ về những hiểu
biết của mình, khiến nhiều người trong họ rơi vào thành kiến, nhắm mắt, bịt tai
trước sự thật (Ga9,40-41). Trong khi đó, những kẻ bé mọn là những kẻ đơn sơ,
chất phác lại thấy được sự thật.Chúa Giêsu chúc tụng Chúa Cha vì đã bày tỏ sự kín
nhiệm cho những kẻ bé mọn.
Mời các em cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng Mt 11,25-27 này là một bài giảng
a. Đoạn văn có những từ ngữ hoặc cụm từ nào quan trọng ?
-Biết, mạc khải, giấu bậc khôn ngoan, mạc khải cho những người bé mọn.
-Từ ngữ chính : biết, mạc khải.
b. Câu tóm ý : câu 25
“Con xin ngợi khen Cha, vì cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông
thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn”.
c. Tựa đề ngắn : Thiên Chúa mạc khải cho kẻ bé mọn.
3. Bài học giáo lý
Trong bài học hôm nay, chúng ta sẽ cùng gặp gỡ hai con người bé mọn
đã được ơn nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, đó là người phụ nữ
Samari và anh mù được Chúa chữa cho sáng mắt.
3.1 Bên bờ giếng
Người phụ nữ Samari trong Ga 4 nhận biết Chúa Giêsu như thế nào ?
Chị biết Chúa Giêsu qua cuộc đàm thoại ngắn bên bờ giếng Gia-cop.
Câu chuyện xoay quanh việc Chúa Giêsu xin nước uống. Từ một thứ nước
hằng ngày dùng cho sinh hoạt, Chúa Giêsu đã dẫn chị đến nguồn nước hằng sống là
chính Thiên Chúa, thứ nước uống vào sẽ không bao giờ còn khát. Chị đã được Chúa
Giêsu chỉ cho biết phải thờ phượng Thiên Chúa thế nào cho đúng. Đó là thờ phượng
trong Thần khí và Sự thật.
Thường dân Do thái và dân Samari không tiếp xúc với nhau, nếu vì óc kỳ thị
địa phương mà chị tránh né Chúa Giêsu, thì làm sao chị khám phá được Chúa Giêsu
chính là Đấng Cứu thế mà các ngôn sứ đã loan báo từ xưa.
Chúa Giêsu đến với chị ngay trong công việc thường nhật của chị và từ đó,
Ngài giúp chị khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống.
Tóm ý : Trong mỗi công việc hàng ngày, ta hãy để cho Chúa Giêsu đến và cùng
làm với chúng ta. Ta hãy mở lòng ra trước ơn Chúa soi sáng , lắng nghe và thưa
chuyện với Ngài. Chắc chắn, Ngài sẽ dạy chúng ta biết phải làm thế nào , như Ngài
đã dạy cho người phụ nữ Samari nọ.
3.2 Nguồn sáng trong đời
Còn anh mù từ thuở mới sinh trong Ga 9 nhận biết Chúa Giêsu như thế nào?
Ngoài yếu tố gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa như người phụ nữ Samari, nơi anh
mù còn thêm yếu tố : phải nghe những lời người khác chống đối Chúa, và ngay
chính bản thân anh cũng bị làm khó dễ vì Chúa.
Chính những người khác ( những thắc mắc, những lời đả kích…) đã khiến anh
mù nhìn lại ân huệ Chúa đã ban cho mình(chữa cho sáng mắt ), và từ chỗ không
biết Chúa Giêsu là ai ( c.12), từng bước anh khám phá ra Ngài là “một vị ngôn sứ”
(c.17) , “người bởi Thiên Chúa mà đến” (c.33). Những khám phá đó giúp anh mau
mắn mở lòng ra đón nhận Chúa Giêsu và tin nhận Ngài : “Thưa Ngài , tôi tin” . Rồi
anh sấp mình xuống trước mặt Người .(c.38) .
Qua phép lạ của Chúa Giêsu , những người đui mù (=những kẻ bé mọn ) trở
nên sáng mắt ( nhận được ơn đức tin ) , còn những người sáng mắt ( những người
khôn ngoan thông thái ) lại trở nên đui mù ( thêm cứng lòng tin).Như lời Chúa đã
nói : “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được
thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (c.39)
Tóm ý: Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian (c.5), để đón nhận ánh sáng của Chúa,
chúng ta cần gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, nhận ra những ơn Chúa ban cho ta .Tin
tưởng vào Chúa dù phải nghe những lời người khác chống đối Chúa, hay chính bản
thân mình cũng bị người khác chống đối, loại trừ như anh mù đã được Chúa chữa
lành trong Ga 9.
3.3 Nghe, nhìn và rung cảm
Muốn nhận biết một người, phải gặp gỡ người ấy, phải đổi trao, phải tâm sự.
Nhiều người đã đến với Đức Giêsu nhưng không nhận biết Ngài là Đấng Cứu thế.
Chỉ có một số người nhận biết Ngài cách đúng đắn. Những người ấy làm gương cho
chúng ta biết thật lòng đến với Đức Giêsu để nhận ra Ngài là ai, như người phụ nữ
Samari và anh mù được Chúa chữa cho sángmắt.
Trong thực tế, chúng ta làm thế nào ?
Trước tiên, bạn dành vài giây phút thinh lặng cho lòng trí lắng xuống.
Bạn cầu xin Chúa Thánh Thần, rồi mở đoạn Tin Mừng được chọn, đọc đi, đọc
lại nhiều lần cho đến khi bạn được đánh động. Cầm bút gạch dưới hay ghi lại những
từ hay những câu làm bạn được đánh động. Đó là nghe.
Bạn xin Chúa Thánh Thần giúp hình dung lại khung cảnh, dẫn bạn nhập cuộc
để chăm chú nhìn các nhân vật, cảm nhận các tâm tình của họ. Bạn xin cho mình
hiểu được tình yêu của Chúa đang diễn ra trong hoạt cảnh ấy, nhất là hiểu rằng
tình yêu ấy đang dành riêng cho bạn. Đó là nhìn.
Đang khi nghe và nhìn, thỉnh thoảng bạn có thể dừng lại để bộc lộ tình cảm
và tâm sự với Chúa. Đó là rung cảm.
Tóm y ù: Từ việc nghe, nhìn và tâm sự với Chúa, chúng ta sẽ được Chúa Thánh
Thần dẫn vào rung cảm và nhờ đó, được uốn nắn theo tình yêu Chúa. Càng yêu
Chúa hơn, chúng ta sẽ càng hiểu biết Chúa hơn và càng gắn bó theo Chúa hơn.
Tóm ý toàn bài : Để nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Ngài, chúng ta cần năng gặp
gỡ, đổi trao, tâm sự với Chúa và mở lòng ra trước ơn soi sáng của Chúa. Càng sống
gắn bó Chúa, niềm tin của chúng ta sẽ càng được ánh sáng Chúa soi dẫn giúp
chúng ta can đảm bước theo Chúa dù gặp những khó khăn, chống đối trong cuộc
sống.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vui mừng dâng lời chúc tụng Chúa Cha, vì Cha đã
giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những Mầu nhiệm Nước
trời, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Xin cho con biết khiêm tốn, đơn
sơ mở lòng ra trước Chúa, để Chúa đến gặp gỡ con, cho con được sáng mắt mà
sống tin tưởng vào Chúa ; để con ra khỏi những ích kỷ và khép kín, dám lội
ngược dòng với những mời mọc, quyến rũ của thế gian, dám tiến bước trong
những khó khăn, đau khổ . Vì con nhận biết rằng Chúa là Đấng Cứu Thế và con
luôn được Chúa yêu thương nâng đỡ ngay giữa sa mù của cuộc sống. Và rồi,
từng ngày trong cuộc đời con luôn là lời chúc tụng Thiên Chúa Cha đã yêu
thương những người bé mọn. Chúng con cầu xin, vì Chúa là Đấng hằng sống
…….
VI. SINH HOẠT
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ : Em hãy chọn câu đúng nhất
1. Người phụ nữ Samari đã nhận biết Chúa Giêsu vì :
a. Chị đã cho Chúa Giêsu uống nước. b. Chị là người samari.
c. Chị đã mở lòng ra trước ơn soi sáng của Chúa, lắng nghe và thưa
chuyện với Chúa.
d. Cả 3 câu đều đúng. ( đáp án : câu c)
2. Anh mù đã được sáng mắt vì :
a. Chúa Giêsu yêu thương anh.
b. Anh cảm nhận được những ơn lành Chúa ban.
c. Anh mở lòng đón nhận Chúa Giêsu và tin vào Ngài. d. Cả 3 câu
đều đúng ( câu d ).
3. Muốn nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế em cần :
a. Trải qua nhiều khó khăn trong cuộc sống.
b. Có tấm lòng đơn sơ, khiêm tốn, lắng nghe Lời Chúa.
c. Đọc Kinh thánh và đi hành hương. ( câu b )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Thiên Chúa thích tỏ mình ra cho những kẻ đơn sơ, bé mọn.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Để nhận biết Chúa Giêsu, cần có tấm lòng đơn sơ, khiêm tốn, lắng
nghe.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa, một giờ học giáo lý đã trôi qua trong tình yêu thương dẫn dắt của
Chúa. Chúng con xin cám ơn Chúa. Xin Chúa tiếp tục đồng hành với chúng con
trong cuộc sống hàng ngày. Xin giúp chúng con biết đem ra thực hành những
điều Chúa vừa dạy dỗ chúng con hôm nay. Amen.
Bài 14:
SÁNG SUỐT NHẬN ĐỊNH
Lc 10,38-42
I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, thật hạnh phúc cho chúng con được cùng nhau đến đây để
dâng lời cảm tạ Chúa, để lắng nghe lời Chúa và được Chúa dạy bảo. Chúng con
cũng xin dâng lên Chúa cuộc sống của chúng con với những nỗi lo toan, nhiều ước
mơ, hoài bảo. Để rồi, nhiều lúc chúng con không còn biết nên chọn điều nào là tốt
hơn. Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên mỗi người chúng con, để Ngài soi
sáng, thánh hoá, giúp chúng con trong giờ học này gặp được Chúa, lắng nghe Chúa
dạy và chọn sống ý Chúa.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một thương gia người Mỹ, lúc chết , có để lại một gia tài lớn: một triệu
dollars. Gia tài này sẽ thuộc về người con gái của ông- cô Grace. Với điều kiện
theo di chúc là cô phải bỏ đạo Công Giáo và rời Nữ tu viện Đaminh ở Newyork,
nơi cô vào tu năm lên 23 tuổi. Nếu cô từ chối điều kiện trên, cô sẽ chẳng nhận
được một đồng xu nào. Nữ tu Grace tuyên bố rằng không có gì ở trên đời này
có thể làm cho cô từ bỏ tu viện và tôn giáo của cô và vì thế, cô vui vẻ từ bỏ
phần gia tài của cô! Đó là sự lựa chọn của cô Grace : giữa Chúa và tiền của, cô
đã dứt khoát chọn Chúa.
Cuộc sống của chúng ta cũng luôn có những điều phải lựa chọn. Chúng
ta hãy lắng nghe chính Chúa Giêsu dạy chúng ta nên chọn điều gì là tốt hơn
qua đoạn Tin Mừng sau đây:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Lc 10, 38-42
. Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Đoạn Tin Mừng này được Thánh Luca viết trong trình thuật “ Đức Giêsu lên
Giêrusalem”. Thánh Luca nhấn mạnh tính khẩn trương đối với môn đồ cũng như
những ai theo Đức Giêsu phải nhanh chóng có quyết định, phải chọn ngay một kiểu
sống với những đòi hỏi quyết liệt tương xứng với việc tiến bước đi theo Ngài. Với
câu chuyện hết sức đời thường là chuyện tiếp khách nhưng lại hàm chứa nhiều điều
lý thú liên quan đến chúng ta. Để thấy rõ vấn đề hơn, mời các em thảo luận đoạn
Tin Mừng trên.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng Lc 10, 38- 42 này là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Chúa Giêsu, Mác-ta và Maria
-Nhân vật chính : Maria
b. Câu tóm ý : câu 42
c. Đặt tựa đề ngắn : Cô Mac-ta và Maria
3. Bài học giáo lý
3.1 Một giằng co, hai lựa chọn
Bê-ta-ni-a là một ngôi làng nằm bên sườn núi Oâliu, cách Giêrusalem
khoảng 3 km về phía đông bắc. Trong làng này có ba chị em Mac-ta, Maria và
La-da-rô rất thân với Chúa Giêsu. Mỗi lần lên Giêrusalem, Chúa Giêsu và các
môn đệ thường ghé lại đây nghỉ đêm.
Hôm ấy, Chúa Giêsu ghé Bê-ta-ni-a, Mác-ta chạy ra đón, mời Chúa vào
nhà nghỉ ngơi. Rồi Mácta tất bật lo cơm nước để thết đãi Chúa. Còn Maria ngồi
bên chân Chúa, nghe Ngài nói. Mỗi người một việc, hai chị em đã phân công
với nhau cách tự phát và hợp lý.
Thế nhưng rồi hình như Mácta quá lo lắng, chị đã cắt ngang câu chuyện
giữa Chúa Giêsu và Maria.
Chúa đã phản ứng thế nào? Chúa không bảo Maria xuống bếp phụ với
Mácta. Chúa cũng không bảo Mácta bỏ mọi chuyện bếp núc lên ngồi nói
chuyện với Chúa. Chúa an ủi Mácta và giúp cô nhận định : điều Chúa vui lòng
về chị không phải là những việc chị làm cho Ngài nhưng là chính tình yêu mến
đang thúc giục chị làm những việc ấy. Chị quên rằng Chúa mong chờ tấm lòng
và chính con người của ta hơn là những việc ta có thể làm cho Ngài. Chúa
khen Maria đã chọn phần tốt nhất, dù Maria đã chẳng làm gì hơn là trìu mến
ngồi nghe Chúa.
Tóm ý : Chúng ta hãy luôn tự hỏi đâu là điều làm đẹp lòng Chúa nhất trong lúc này
để thực thi, và hãy chu toàn mọi việc bổn phận vì lòng yêu mến Chúa. Vì Chúa
mong chờ tấm lòng và chính con người của ta hơn là những công việc ta có thể làm
cho Ngài.
Tóm ý toàn bài : Cuộc sống luôn có những điều phải lựa chọn. Khi phải lựa chọn
giữa hai điều tốt, chúng ta có thể bị đánh lừa. Do đó cần bình tâm,tỉnh thức và cầu
nguyện , để với ơn Chúa soi sáng chúng ta mới biết chọn điều đẹp lòng Chúa nhất
mà thi hành với tất cả tình yêu của chúng ta.
V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giúp cho cô Mácta nhận định : bầu khí vui vẻ thì hơn
những món ăn thịnh soạn.Bản thân Chúa thì quan trọng hơn những món ăn để đãi
Chúa. Trong mọi việc hãy làm vì lòng yêu mến Chúa, và khi phải lựa chọn giữa hai
việc tốt hãy chọn làm điều nào làm đẹp lòng Chúa hơn.
Cũng như cô Mácta, nhiều khi chúng con cũng làm việc mà không tìm ý Chúa,
đang khi làm công việc bổn phận của mình nhưng lại khó chịu với người khác để rồi
kêu trách Chúa. Và lạy Chúa, ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt, nhưng khi phải
chọn giữa hai điều tốt, con thường dễ bị đánh lừa chọn điều không phải ý Chúa
muốn.
Xin Chúa giúp con luôn biết sống cầu nguyện, để nhờ đời sống kết hợp mật
thiết với Chúa,con sẽ được sáng suốt để nhận ra đâu là ý Chúa, để con mau mắn
đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, luôn chọn làm điều đẹp lòng Chúa hơn. Chúng con cầu
xin, vì Chúa….
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII- BÀI TẬP GIÁO LÝ :
Em hãy chọn câu đúng nhất
1. Hình ảnh Maria ngồi bên chân Chúa diễn tả :
a. Bà không quan tâm đến việc làm bếp. b. Bà yêu mến Chúa và
tha thiết nghe lời Chúa.
c. Trong gia đình mỗi người có một bổn phận khác nhau. d. Cả ba câu
đều đúng. ( Câu b )
2. Để nhận định sáng suốt ta cần:
a. Thường xuyên cầu nguyện và xét mình kỹ mỗi ngày. b. Tham khảo ý
kiến của những người khác.
c. Thi hành ngay những việc mình thích cách tận tình. ( câu a.)
3. Thái độ bình tâm là :
a. Tha thiết yêu mến Chúa b. Giữ lòng được thăng bằng, không
nghiêng trước về bên nào.
c. Giữa hai điều tốt, chọn điều đẹp lòng Chúa hơn. d. Cả ba câu đều
đúng. ( Câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG.
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Thiên Chúa không đánh giá chúng ta theo công việc chúng ta đã làm, nhưng
là tình yêu mến của chúng ta trong các công việc.
2. Gương tốt nên theo :
Theo gương Maria: yêu mến và tha thiết lắng nghe Lời Chúa.
3. Qua đoạn văn này,hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
- Điều quan trọng không phải là làm điều tôi ưa thích, mà là làm điều Chúa
muốn.
- Chu toàn việc nhỏ nhất với tất cả lòng yêu mến.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ tình yêu Chúa đã dành cho chúng con
trong giờ học giáo lý hôm nay. Chúa cho chúng con biết Chúa nhìn vào tâm hồn chứ
không ở hình dáng bên ngoài. Xin Chúa giúp chúng con từ nay đừng quá lo lắng, bối
rối trước những vấn đề, những lo lắng của cuộc sống, nhưng biết siêng năng cầu
nguyện để đón nhận nguồn ánh sáng của Chúa mà thi hành những điều Chúa muốn
nơi chúng con .
Sáng Danh Đức Chúa Cha…
BÀI 15 :
PHẦN CÁC CON, CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI?
Mt 16, 13 – 20
Tóm ý toàn bài: Câu hỏi : “Đức Giêsu Kitô, Ngài là ai ?” vẫn luôn chất vấn con
người mọi thời, và câu trả lời vẫn tùy vào cách sống của mỗi người. Từng ngày,
Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta: “phần các con, các con bảo thầy là ai?” Hãy trả lời
Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta.
V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu,Chúa đã đặt câu hỏi cho những ai theo Chúa : “Phần các con,
các con bảo thầy là ai?” Xin cho chúng con luôn biết trả lời : “Thưa Thầy, Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và xin Chúa giúp chúng con sống điều chúng
con đã tuyên xưng bằng việc can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày, qua những
chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con, và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa .Chúng con cầu xin, vì Chúa là Đấng
hằng sống…
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII- BÀI TẬP GIÁO LÝ
Nếu bạn bè của em ( cùng lớp, cùng khu xóm vv…) hỏi em : “Đức Giêsu là
ai?” Em sẽ trả lời thế nào ?
Hoặc câu hỏi trắc nghiệm sau :
1. Để trả lời câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” Em cần :
a. Siêng năng cầu nguyện và để Chúa làm chủ đời mình.
b. Tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật
c. Đọc lại lời tuyên xưng của ông Phêrô
( câu a )
2. Chúa Giêsu đã đặt câu hỏi “Ngài là ai?” cho :
a. Các môn đệ.
b. Ông Phêrô.
c. Mỗi người chúng ta.
d. Cả ba câu đều đúng
( câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG
1- Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
2- Gương tốt nên theo : noi gương Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu :
“ Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống”.
3- Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Hãy luôn tự hỏi mình : “ Đức Giêsu là ai đối với tôi?” Là bạn, là Thầy, là
Đấng Cứu độ… và hãy sống tâm tình của những mối tương quan đó.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học vừa
qua. Qua lời tuyên xưng của Thánh Phêrô, Chúa đã mạc khải cho chúng con Chúa là
Đấng Kitô, Đấng Cứu độ chúng con, là Thiên Chúa thật và là người thật. Xin Chúa
giúp chúng con vừa biết tuyên xưng ngoài miệng ,vừa sống niềm tin vào Chúa từng
ngày trong cuộc sống chúng con.Amen
Bài 17 :
CHÚA GIÊ-SU BỊ CHỐNG ĐỐI
Mc 8, 31-33
Bài 18:
BỮA TIỆC LY VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Ga 3, 1-15
PHẦN III :
ĐỨC GIÊ-SU CỨU CHUỘC TA
Con ngưới thời nào cũng phải đối đầu với đau khổ và sự chết. Tại sao có
những người chất phác hiền lành lại gặp cảnh đau khổ, oan trái? Tại sao con người
phải chết? Làm sao để vượt thắng những bế tắc do sự chết gây ra?
Đức Giê-su đã không trốn tránh đau khổ và sự chết. Ngài đã trải qua nỗi đau
đớn và cô đơn tột cùng đến độ đã phải thốt lên : “Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?”.
Chính khi chịu thương khó và chịu chết trên thập giá như thế, Con Thiên
Chúa làm người đã giọi ánh sáng vào những câu hỏi trên đây của chúng ta. Nhờ đó,
ta hiểu rằng :
1. Chính tội lỗi loài người là đầu mối đưa đến đau khổ và sự chết.
2. Đau khổ và sự chết trở nên có ý nghĩa và giá trị khi ta đón nhận với
tình yêu thương.
3. Nếu được liên kết với Thập giá của Đức Ki-tô, đau khổ và sự chết của
mỗi người có thể làm phát sinh ơn ích cho bản thân và cho người
khác.
“Hạt lúa rơi xuống đất, nếu không mục nát đi, thì chỉ trơ trọi một
mình. Nhưng nếu mục nát đi mới trổ sinh nhiều bông hạt” ( Ga12,24 )
“Nếu ta cùng chết với Đức Ki-tô, ta sẽ cùng sống vơi Ngài. Nếu ta
cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” ( 2Tm2,11-12 )
Mục đích của phần 3 :
Giúp các em hiểu và sống mầu nhiệm Tử nạn và Phục Sinh.
Ý nghĩa và giá trị của đau khổ và của những hy sinh vất vả dưới ánh sáng
tình yêu cứu chuộc.
Mở lòng mình ra quan tâm đến nỗii đau khổ của người khác.
Bài 19 :
ĐỨC GIÊ-SU CHẾT ĐỂ CHIẾN THẮNG ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT
Mt 26, 36-46
Bài 21:
CHÚA ĐÃ CHẾT VÀ SỐNG LẠI ĐỂ CỨU CHUỘC TA
Mt 28, 1-8
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã thương dẫn dắt chúng con đến
đây để được lắng nghe Lời Chúa, được chia sẻ với nhau niềm vui của những người
con được Chúa yêu thương cứu chuộc.
Chúng con xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay, xin Chúa giúp chúng con hiểu Chúa
hơn, yêu Chúa hơn và dấn thân phụng sự Chúa hết tâm hồn và thân xác chúng con.
Cúi xin Chúa sáng soi…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Abraham từ khi được Thiên Chúa chọn càng ngày càng trở nên sống thân tình
với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế vua Ramos cho gọi
Abraham tới và hỏi:
- Tại sao nhà ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của Vương quốc?
Abraham trả lời giọng cương quyết không chút sợ hãi:
- Tâu Hoàng thượng bởi vì lửa thiêu rụi các thần tương ấy.
- Như vậy thì hãy tôn thờ lửa. –Vua trả lời Abraham nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt lửa.
- Thế thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu Hoàng thượng, không, vì hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, vì nước
bởi mây mà ra.
- Thế thì hãy tôn thờ mây.
- Tâu Hoàng thượng, không, vì gió mạnh hơn mây và nó có thể làm cho
mây tan biến.
- Vậy thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế Abraham trả lời vua:
- Như vậy chúng ta hãy tôn thờ con người vì con người có hơi thở.
Vua kiên nhẫn:
- Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời:
- Thưa Hoàng thượng, không, bởi vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lớn:
- Thế thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói:
- Đấng duy nhất phải tôn thờ là chủ tể cả sự sống và sự chết, đó là Thiên
Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc tranh cãi với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên
Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn
gửi: Thiên Chúa là chủ tể cả sự sống và sự chết. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm
người, Ngài đã chết để giao hoà ta với Thiên chúa và Ngài đã sống lại để ban cho ta
sự sống mới làm con Thiên Chúa. Chúng ta hãy lắng nghe thánh Mat-thêu thuật lại
trong đoạn Tin Mừng sau đây:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 28, 1-8
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Giải thích đoạn Kinh Thánh vừa công bố :
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe nằm trong chương cuối của Tin Mừng theo
thánh Mat-thêu. Kể lại biến cố Chúa Giê-su sống lại với những yếu tố : ngôi mộ
trống và những lần Chúa Giê-su hiện ra.
Thánh Mat-thêu đã mô tả thời gian, nơi chốn, các nhân vật và diễn tiến một cách
chi tiết để nhằm mục đích khẳng định Chúa Giê-su đã sống lại thực và đây là biến
cố có nền tảng vững chắc.
Chúng ta hãy cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này để thấy rõ hơn sứ điệp mà tác giả
muốn loan báo.
2.Các em học sinh thảo luận:
Đoạn Tin Mừng Mt 28,1-8 này là một câu chuyện kể
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
-Bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, thiên thần, lính canh, Chúa Giê-su, các
môn đệ.
-Nhân vật chính: Bà Ma-ri-a Mac-đa-la
b.Câu tóm ý cả đoạn : câu 6
c. Đặt tựa đề ngắn : Các bà đi thăm mộ Chúa Giê-su
hoặc : Chúa Giê-su đã sống lại.
3.Bài học giáo lý
Sáng ngày thứ nhất trong tuần ( tức sáng Chúa nhật Phục sinh), các phụ nữ,
Phê-rô và Gio-an đã đến mộ Chúa Giê-su. Họ đã gặp ngôi mộ trống không, tảng đá
lấp cửa mộ đã bị lăn qua một bên. (Lc 24,2-3.12; Mc 16,4; Ga 20,1-7). Đứng trước
mộ trống có nhiều phản ứng khác nhau :
- Xác của Chúa đã bị trộm lấy. Đây là ý nghĩ đầu tiên của bà Ma-ri-a Mác-đa-
la. (Ga 20,2.13.15)
- Ngạc nhiên, chẳng hiểu ra làm sao! Đây là phản ứng của các môn đệ. (Lc
24,12.22-24). Nói chung, trừ duy nhất một mình Gio-an “đã thấy và đã tin”
(Ga 20,8), còn tất cả mọi người khi đứng trước ngôi mộ trống đều bàng
hoàng, không hiểu. Phải đợi cho đến khi được Chúa Giê-su Phục sinh hiện ra,
các môn đệ mới hiểu tại sao.
3.1 Những lần hiện ra:
a- Với các phụ nữ :
Hai thánh sử Mat-thêu và Mác-cô kể lại việc Chúa Giê-su hiện ra với các
bà sáng sớm ngày Chúa nhật Phục sinh khi các bà ra thăm mộ (Mt 28, 9-
10 ;Mc 16,9-11). Còn thánh Gio-an kể việc Chúa Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-
a Mác-đa-la (Ga 20,11-18)
Khi gặp Chúa Giê-su Phục sinh, các phụ nữ đã được Chúa trao cho sứ
điệp : loan báo tin Chúa Giê-su đã sống lại.
b- Với các môn đệ :
Trong nhóm các Tông đồ thì Phê-rô là người đầu tiên được gặp Chúa Lc
24,34)
Với hai môn đệ trên đường về Em-mau. Họ đã nản lòng bỏ về quê, nhưng
dọc đường Chúa Giê-su đã tiến đến nói chuyện với họ. Lúc vào quán trọ họ
với nhận ra Ngài, thì Ngài đã biến mất. Họ chạy về báo tin cho anh em.
( Lc24,13-35; Mc 16,12-13).
Với các Tông đồ :ai nấy đang ở trong phòng đóng kín cửa lại vì sợ người Do
Thái, thì Chúa Giê-su hiện ra, đứng giữa họ. Thấy Ngài, họ sợ hãi, không tin
được, tưởng là ma. Nhưng rồi Ngài cũng ăn uống với họ và nói chuyện ( Ga
29,19-19; 21,1-24; Lc 24,36-39; Mc 16,14-20; Mt 28,16-20; Cv1, 3-9).
Có một môn đệ tên là Tô-ma vắng mặt hôm ấy nên không tin. Tám ngày
sau, cũng trong căn phòng ấy, Tô-ma đang ở với anh em thì Chúa Giê-su
xuất hiện, đưa các vết thương cho Tô-ma xem.
Chúa Giê-su còn tỏ mình cho các môn đệ vào một buổi sáng trên bãi biển,
ăn sáng và nói chuyện với họ.
Lần khác, Ngài tỏ mình cho 500 người đang tụ họp. Ngài cũng tỏ mình cho
một người về sau này mới được chọn làm Tông đồ, tức là Phao-lô.
-Tóm ý : Chúa Giê-su đã chết thật sự và được an táng như mọi người, nhưng ngày
thứ ba Ngài đã sống lại. Ngài hiện ra nhiều lần với các môn đệ, cùng trò truyện, ăn
uống thân mật với họ.
3.2 Chúa Giê-su đã sống lại thật :
Chúa Giê-su đã sống lại thật hay các môn đệ đã dựng chuyện lên hoặc đã
tưởng tượng ra những lần gặp gỡ ?
a. Các môn đệ là những kẻ cứng lòng, chậm tin (Mc 16,14; Lc 24,25.38).
Chính các môn đệ đã không dễ dàng tin vào việc Chúa Giê-su sống lại từ cõi
chết như :
-Khi nghe các bà báo tin, các ông không tin, cho là chuyện vớ vẩn ( Lc 24,11;
Mc 16, 11)
-Khi nghe các môn đệ nói đã được thấy Chúa, Tô-ma đã không tin. Bởi vậy, lần
hiện ra sau đó Chúa Giê-su bảo Tô-ma : “Hãy đặt ngón tay vào đây…Đừng
cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (Ga 20, 27)
-Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giê-su đã nhiều lần khiển trách các ông cứng
lòng, “chậm tin”, “ngờ vực” (Mc 16,14; Lc 24,25.38). Ngài đã phải chứng minh
cho các ông thấy rằng Ngài không phải là hồn ma : “Nhìn chân tay Thầy coi,
chính Thầy đây mà ! Cứ rờ mà xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy
Thầy có đây?” (Lc 24,39).
-Phao-lô, nếu không thực sự gặp gỡ được Chúa Phục sinh, chắc chắn Phao-lô
không thể nào từ một người hăng say bắt đạo (Cv 8,3; 9,1-2.21;22,4-5) lại
trở lại Ki-tô giáo và trở nên vị Tông đồ của dân ngoại.
b. Những lần hiện ra :
Chúa Giê-su Phục sinh không chỉ hiện ra một lần mà nhiều lần với nhiều người
khác nhau (các phụ nữ, các môn đệ). Ở nhiều nơi khác nhau (trong phòng,
trên đường đi, bên bờ biển). Và nhiều lúc khác nhau ( sáng, chiều, tối vv…).
Hơn nữa, Ngài còn ăn uống với các môn đệ, để cho các ông sờ đến chân tay
của Ngài. Bởi thế, trong bài giảng ngày lễ Ngũ Tuần trước đám đông tại Giê-
ru-sa-lem, thánh Phao-lô đã khẳng định : “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa
đã làm cho sống lại. Về điểm này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32).
c. Sự biến đổi của các môn đệ :
Tất cả những ai được gặp Đức Giê-su Phục sinh đều có sự biến đổi :
.Các phụ nữ đang buồn phiền, than khóc đã vội vã loan báo Tin Mừng Phục
sinh.
.Khi Chúa Giê-su bị bắt và bị giết, các môn đệ đã lẩn trốn, ẩn núp trong nhà,
có người thất vọng bỏ về quê. Thế nhưng sau khi gặp lại Ngài, họ không còn
sợ hãi. Họ đi loan báo khắp nơi rằng Ngài đã sống lại. Nhóm môn đệ ít ỏi và
quê mùa ấy đã lên đường rao giảng từ Giê-ru-sa-lem cho đến các thành
phố của đế quốc, rồi từ Rôma đến Châu Phi, Tiểu Á, vượt cả ranh giới đế
quốc sang tận Aán Độ trong thế kỷ đầu và sẵng sàng hy sinh ngay cả tính
mạng mình cho niềm tin và lời rao giảng về Đức Ki-tô Phục sinh.
-Tóm ý : Đức Giê-su đã sống lại thật. Ngài đã củng cố niềm tin và
biến đổi cả lối sống cho các môn đệ của Ngài.
3.3 Nền móng của Ki-tô giáo:
Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, đó là nền tảng Đức tin Ki-tô giáo. Trong
kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng : “Người chịu đóng đinh vào Thập giá vì
chúng tôi, chịu khổ hình và mai táng thời Phong-xi-ô phi-la-tô. Ngày thứ ba
Người sống lại như lời Thánh Kinh”.
Đức Giê-su đã sống lại, không phải sống lại để kéo dài cuộc sống thêm ít lâu
như La-da-rô, nhưng sống lại để không bao giờ chết nữa. Ngài sống lại để ở
mãi giữa chúng ta. Ngài sống lại để làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được
sống đời đời.
Ki-tô giáo bắt đầu bằng sự kiện : Đức Giê-su đã sống lại. Mọi bài giảng
trong Hội Thánh xưa nay đều bắt nguồn từ sự kiện ấy. Tất cả sách vở Ki-tô
giáo đều chỉ nhắm nói điều ấy. Toàn thể cuộc sống, tình yêu thương, sự thật
và niềm hy vọng của Ki-tô giáo cũng là điều ấy : Đức Giê-su người Na-da-rét
đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết và Ngài chính là Đấng Cứu chuộc
nhân loại.
Là một thiếu niên, ít khi chúng ta nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ đến sự
sống. Chúa Giê-su cũng đã chết và Phục sinh để đem lại ý nghĩa cho cả cuộc
sống trần thế của chúng ta. Ngài làm cho cuộc sống chúng ta không những
mở ra với thiên nhiên vạn vật và với mọi người chung quanh, mà còn mở ra
với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Vâng, cuộc sống thường ngày của ta được
phong phú hơn gấp muôn ngàn lần khi, nhờ Đức Ki-tô Phục sinh, chúng ta
được sống trong tình thân mật với Cha trên trời.
- Tóm ý : Tin vào Chúa Giê-su Phục sinh, đó là nền tảng Đức tin Ki-tô giáo. Tin
vào Chúa Giê-su Phục sinh, ta luôn sống lạc quan tin tưởng, dù có bị thiệtthòi, mất
mát ở đời này, ta vẫn can đảm theo đường lối Chúa vì tin rằng ta sẽ dược dự phần
vinh quang với Người.
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Đức Giê-su đã chết và đãõ sống lại thực sự. Đây là biến cố có
nền tảng vững chắc.
Phục sinh vừa là một biến cố lịch sử, được các môn đệ chứng thực vì họ đã thực sự
gặp Đấng Phục sinh, vừa là biến cố siêu việt vì nhân tính của Đức Ki-tô đi vào trong
vinh quang Thiên Chúa.
Sự Phục sinh của Chúa Ki-tô mở đường đưa nhân loại vào hạnh phúc đích thật và
vĩnh hằng.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa đã đến với các môn đệ để ban
bình an và niềm vui Phục sinh cho các Ngài. Xin Chúa cũng đến với chúng con lúc
chúng con khóc lóc, chán nản và bỏ cuộc, lúc chúng con sợ hãi, âu lo, lúc chúng
con cố chấp không tin, hay khi chúng con mệt mỏi, thất vọng… Để chúng con
thấy Chúa mỗi ngày, để chúng con tin Chúa đang sống, đang đến và đang ở thật
gần bên chúng con, giúp chúng con sống tin tưởng và đáp trả tình yêu Chúa mỗi
ngày như ý Chúa muốn. Vì Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT :
Hát : Chúa nay thực đã Phục sinh…
VII. BÀI TẬP
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Ta tin chắc Chúa đã sống lại thật dựa vào những yếu tố:
a.Ngôi mộ trống, không có xác Ngài ở đó.
b.Ngài hiện ra nhiều lần cho các môn đệ.
c.Các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu d)
2. Nền tảng Đức tin của Ki-tô giáo là:
a.Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô.
b.Thánh Phê-rô và các Tông đồ
c.Đức Giê-su đã chết và sống lại.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu c)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Đức Giê-su đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta.Nhờ phép Rửa, tất cả
chúng đã chết cho tội lỗi để cùng sống lại với Đức Ki-tô và sống đời sống mới
làm con cái Thiên Chúa.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi phải mặc lấy tâm tình của thánh Phao-lô để sống làm con cái Thiên Chúa :
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện
nay tôi sống kiếp phàm nhân trong trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng
đã yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20)
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa qua từng giờ giáo lý, chúng con được hiểu
biết hơn về tình thương Chúa đã dành cho chúng con. Xin Chúa ban thêm đức tin
cho chúng con, xin Chúa chúc lành cho những cố gắng của chúng con hôm nay và
luôn mãi. Amen.
Bài 22 :
THIÊN CHÚA GIAO HOÀ TA VỚI NGƯỜI
Ep 2,11 -18
Bài 23 :
NHỮNG NGƯỜI BẠN CỦA CHÚA GIÊ-SU
Ga 15, 10 – 17
-Tóm ý : Bí tích Rửa tội còn giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Đức Ki-tô Tử
nạn và Phục sinh bằng việc liên lỉ từ bỏ tội lỗi, lột bỏ con người cũ để mặc lấy con
người mới của Ngài.
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Chúa Giê-su lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là Ngài
chấm dứt sự hiện diện hữu hình ở trần gian để bước vào vinh quang và danh dự
dành cho Thiên Chúa. Ngự bên hữu Chúa Cha, Chúa Giê-su là Thủ lãnh của ta, là
trung gian hằng chuyển cầu với Chúa Cha cho ta và hằng ban Thánh Thần hướng
dẫn ta trong Hội Thánh.
Ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang để tổng kết lịch sử. Ngài sẽ
hoàn tất cuộc chiến thắng cuối cùng của sự thiện trên sự ác và quy tụ vạn vật để
dâng lên Thiên Chúa Cha trong Trời mới Đất mới.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con hoan hỉ dâng lời cảm tạ, vì
Con Một Chúa đã lên Trời vinh hiển. Là Thủ lãnh, người đã đi trước mở đường dẫn
chúng con vào Nước Chúa, khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc
phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Xin cho chúng con luôn
nghiệm thấy Người ở giữa chúng con hằng ngày cho đến tận thế như lời Người đã
hứa; để dù đang sống ở trần gian này nhưng chúng con luôn biết hướng lòng về
quê hương đích thực trên Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ: Hát : Chúa về Trời
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ: Em hãy chọn câu đúng nhất :
1.Chúa Giê-su lên trời có nghĩa là:
a.Ngài không ở với con người nữa mà chỉ trở lại vào ngày tận thế.
b.Ngài vẫn ở với con người cách hữu hình và vô hình.
c.Ngài ở với loài người cách trọn vẹn hơn. ( câu c)
2. Chúa Giê-su vẫn ở với chúng ta hằng ngày trong :
a.Hội thánh và Kinh nguyện của Hội thánh.
b.Lời Chúa và các bí tích.
c.Những người nghèo khó, đau yếu, tù đày… d.Cả 3 câu đều
đúng. ( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngừơi?
Chúa Giê-su về Trời là để thực hiện sứ mạng ở với loài người cách trọn vẹn
hơn : Ngài vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúa Giê-su hằng ban
Thánh Thần để hướng dẫn Hội thánh.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Trong niềm mong đợi ngày Chúa Giê-su trở lại, dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần, tôi phải trở nên nhân chứng của Chúa qua đời sống yêu thương,
phục vụ, góp phần đem ơn cứu độ đến cho anh chị em mình.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con gìờ học giáo lý
hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện điều quyết tâm mà Chúa đã soi sáng
cho chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sống theo sự hướng dân của Chúa
Thánh Thần để trở nên nhân chứng Tình yêu của Chúa giữa lòng đời hôm nay.
Amen.
PHẦN IV
CHÚA GIÊ-SU DẪN TA VÀO MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA
Mục đích : Giúp các em đi sâu hơn vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và có
những tương quan gắn bó mật thiết với từng Ngôi.
Làm lan toả Tình yêu Ba Ngôi trong việc góp phần xây dựng một xã hội
chân thật, yêu thương và hướng thượng.
Tất cả cuộc đời Đức Giê-su, từ lời nói cho đến hành động đều nhắm tỏ cho ta
biết Chúa Cha và tình thương của Ngài dành cho mỗi người chúng ta.
Trong Bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su nói : “Thầy không gọi các con là tôi tớ, vì tôi
tớ không biết việc chủ mình làm. Thầy đã gọi các con là bạn hữu, vì mọi điều Thầy
đã nghe nói nơi cha Thầy, Thầy đã tỏ cho các con biết” (Ga 15,15). Chúa Giê-su đã
bày tỏ cho ta biết tất cả những điều kín nhiệm nơi Ngài : Ngài bởi Chúa Cha mà
đến, nay Ngài trở về cùng Chúa Cha và sẽ cử Chúa Thánh Thần đến với ta. Chúa
Thánh Thần là tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần cũng nối
kết chúng ta vào sự sống thâm sâu của chính Thiên Chúa, như lời cầu nguyện của
Chúa Giê-su : “Để hết thảy chúng nên một, cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và
Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở
trong Chúng Ta, và thế gian tin rằng Cha đã sai Con” ( Ga 17, 21)
Bài 27 :
CHÚA GIÊ-SU LÀ THIÊN CHÚA NHƯ CHÚA CHA
Ga 20, 24-29
c. Chúa Giê-su chỉ có một bản tính là bản tính Thiên Chúa:
Các lạc thuyết này chối bỏ nhân tính của Chúa Giê-su mà chỉ nhìn nhận thiên
tính (thần tính) SGLC 465
Ai chủ trương ? Chủ trương thế Hội Thánh tuyên xưng thế nào?
nào?
-Thời các Tông đồ có những người chủ -Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn
trương thuyết Aûo thân, cho rằng Con khắp thế gian, họ là những kẻ không
Thiên Chúa chỉ giả vờ làm người chứ tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã
không là người thật. đến và trở nên người phàm (2 Ga 7).
-Giám mục A-pô-li-na-ri-ô (chết năm -Thần Khí nào tuyên xưng Đức Giê-su
390) : Chúa Giê-su không có linh hồn Ki-tô đã đến và trở nên người phàm, thì
con người như ta, Ngôi Lời thế chỗ cho Thần khí ấy bởi Thiên Chúa (1Ga 4,1-
linh hồn (bị Công đồng Công-tăng-ti- 3).
nốp kết án năm 381) -Công đồng Ê-phê-xô (431) và Công
-Tu viện trưởng Eutychès (chết năm đồng Khan-kê-đô-ni-a (451) : Chúa
454) cho rằng Chúa Giê-su chỉ có một Giê-su là Thiên Chúa thật và là người
bản tính là bản tính Thiên Chúa (bị thật, một ngôi vị trong hai bản tính.
Công đồng Khan-kê-đô-ni-a kết án năm
451)
-Tóm ý : Về Mầu nhiệm Chúa Ki-tô, ta có thể thấy 3 lạc thuyết chính :
1. Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa mà chỉ là một thụ tạo.
2. Chúa Giê-su có 2 Ngôi vị.
3. Chúa Giê-su chỉ có một bản tính là bản tính Thiên Chúa.
Bài 28 :
CHÚA GIÊ-SU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC TÔNG ĐỒ
Ga 15,26-27; 16,7.12-13
Bài 30 :
CHÚA THÁNH THẦN LÀ THIÊN CHÚA CHA VÀ CHÚA CON
Ga 14, 15-17.25-26