Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh Ii

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 133

PHẦN I : ĐỨC GIÊSU LÀ LỜI CỦA THIÊN CHÚA

BÀI 1 : DẪN VÀO TÂN ƯỚC

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Thiên chúa là Cha của chúng con. Chúng con cảm tạ Cha đã yêu thương
quy tụ chúng con lại đây, để chúng con được cùnh nhau học hỏi về Chúa Giêsu Kitô,
Con yêu dấu của Cha: Người đã yêu thương chúng con vô cùng, đến nỗi đã giáng
trần làm người, đã hy sinh chịu chết trên Thánh giá và đã phục sinh để cứu độ
chúng con.
Chúng con xin dâng lên Cha buổi học đầu tiên hôm nay và trọn năm học mới
của chúng con đây. Xin Cha ban Chúa Thánh Thần, để Ngài soi sáng, dạy dỗ, thánh
hoá, giúp chúng con ngày một hiểu biết, yêu mến và noi gương Chúa Giêsu sống
mỗi ngày một tốt đẹp hơn như ý Cha muốn .
Chúng con tin tưởng và phó thác từng người chúng con trong tình thương
quan phòng của Cha.Amen.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Các em thân mến,
Ai trong chúng ta cũng được sinh ra trong một gia đình có Tổ tiên, Ông bà,
Cha mẹ, anh chị em, họ hàng…Ai cũng có tên tuổi, được sống trong thời gian,
không gian với những công việc cụ thể…Thế nhưng, ai trong chúng ta có thể kể lại
tên, tuổi và những công việc, lời nói, nơi ở… của ông bà cụ tổ của mình cách đây vài
trăm năm? Chúng ta không thể trả lời được vì không có ai ghi chép lại.
Còn Thiên Chúa Cha, Ngài đã có từ thuở đời đời. Và cách đây hơn 2000 năm,
Ngài đã ban cho nhân loại chính người Con Một của Ngài để cứu độ chúng ta.
Vậy, làm sao chúng ta biết được Chúa Giêsu đã dạy chúng ta điều gì, đã làm
những gì ? Đã sống thế nào để noi theo ?
Thưa, cuộc đời của Chúa Giêsu và công trình cứu độ của Ngài đã được ghi lại
trong các sách Tân ước. Học hỏi Tân ước là chúng ta được nghe chính những lời
Chúa Cha ngỏ với chúng ta qua Chúa Giêsu như đoạn thư Do thái sau đây đã nói tới
:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Dt 1, 1 – 2 (Thinh lặng giây lát)
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Qua đoạn Kinh Thánh trên, tác giả thư Do thái nói với chúng ta hai điều:
-Thiên Chúa đã nói với loài người chúng ta. Thiên Chúa nói, tức là Thiên Chúa
bộc lộ cho chúng ta biết về Ngài, về ý định của Ngài đối với chúng ta.
- Thiên Chúa nói với loài người chúng ta không phải một lần, nhưng nhiều
lần, qua nhiều giai đoạn. Thuở xưa là thời trước khi Chúa Giêsu sinh ra, tức là
thời Cựu Ước. Trong thời đó, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ mà nói với dân It-ra-
en là dân riêng Ngài đã chọn, để họ biết về Ngài và về Đấng Cứu Thế( Đấng Mê-si-
a) mà Ngài sẽ đến trong trần gian. Còn vào thời sau hết này, kể từ khi Chúa
Giêsu đến trần gian, là thời Tân Ước. Vào thời này, Thiên Chúa nói với chúng ta
qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Các thánh Tông đồ có nói gì thì cũng là
do lệnh của Chúa Giêsu và nói về Chúa Giêsu.
2. Các em học sinh thảo luận :
Đoạn thư Do thái 1, 1-2 là một bài giảng
a. Đoạn văn có những từ ngữ hoặc cụm từ nào quan trọng ?
Thuở xưa, Thiên Chúa đã phán, cha ông, Ngôn sứ, thời sau hết này, qua
Thánh Tử
-Từ ngữ chính : Thiên Chúa đã phán dạy.
b. Câu tóm ý : câu 2
c. Tựa đề ngắn : Thiên Chúa nói với ta qua Con của Ngài
3. Bài học giáo lý
Đức Giêsu Kitô là ai ? Ngài đã sống thế nào, đã làm những gì, đã dạy những
gì? Phải sống thế nào mới là Kitô hữu?…
Đó là những thắc mắc mà những người mới tin theo Chúa thường đặt ra, đặc
biệt là thời Hội thánh sơ khai.
Trước những thắc mắc đó, các tông đồ đã trả lời, hoặc bằng những bài giảng,
hoặc bằng những lá thư v.v…Sau này, từ những bài giảng, những bài giáo lý,
những mẩu truyện được truyền miệng hoặc được viết ra đó mà dần dần các sách
Tân Ước được hình thành.
3.1 - Các sách Tân ước
Các sách Tân Ước gồm 27 cuốn, do các Tông đồ hoặc cộng sự viên của các
Ngài viết. Tất cả được viết bằng tiếng Hy Lạp là tiếng thông dụng thời ấy.
Các sách Tân Ước có thể được chia làm 4 loại dựa trên bốn thể văn khác
nhau:
a- Thể văn Tin Mừng:
Thể văn Tin Mừng là một thể văn đặc biệt, nó có lịch sử tính nhưng lại không
phải là một bài phóng sự, tường thuật tại chỗ những gì đang xảy ra (lịch sử thuần
tuý). 4 sách Tin mừng được viết ra sau những năm dài nghiền ngẫm, cầu nguyện
và thực hành của cả Cộng đoàn Giáo Hội. Bốn sách Tin Mừng bổ túc cho nhau để
cho ta có một cái nhìn trọn vẹn về Đức Giêsu , con Thiên Chúa.
Các sách Tin Mừng thuật lại đời sống và lời dạy của Đức Giêsu: từ khi sinh ra
cho đến khi về Trời.
Stt Tên sách Tác giả Ký Năm biên
hiệu soạn
1 TM theoThánh Mat- Mt quãng 80
Matthêu thêu
2 TM theoThánh Mác- Mác-cô Mc quãng 65 –
cô 75
3 TM theoThánh Lu- Lu-ca Lc quãng 80
ca
4 TM theoThánh Gio- Gio-an Ga quãng 80- 90
an
b- Thể văn Lịch Sử Tôn Giáo :
Sách Công vụ Tông đồ tóm tắt lịch sử Hội Thánh sơ khai với hai khuôn mặt
nổi bật là Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Thánh Luca là tác giả đã biên soạn sách
này vào khoảng năm 80.
c- Thể văn Thư Tôn Giáo hay Giáo huấn : 14 thư của Thánh Phaolô và 7
thư chung (thư mục vụ)
-Các thư của Thánh Phaolô: Là những giáo huấn của Chúa Kitô được
Thánh Phao lô áp dụng vào những nhu cầu của Hội Thánh sơ khai và vào
đời sống thường ngày của các kitô hữu.
-Các thư chung : Giáo huấn của các Tông đồ gửi cho mọi tín hữu.
Stt Tên sách Tác giả Ký Năm
hiệu biên
soạn d. Th
6 Thư gửi tín hữu Rô-ma Phao-lô Rm 57 – 58 ể
7 Thư 1 gửi tín hữu Cô-rin- Phao-lô 1 Cr 56 văn

8 Thư 2 gửi tín hữu Cô-rin- Phao-lô 2 Cr 56

9 Thư gửi tín hữu Ga-lát Phao-lô Gl 56
10 Thư gửi tín hữu Ê-phê- Phao-lô Ep 61-63

11 Thư gửi tín hữu Phi-lip- Phao-lô Pl 56-57
phê
12 Thư gửi tín hữu Cô-lô-xê Phao-lô Cl 61-63
13 Thư 1 gửi th Thê-xa-lô- Phao-lô 1 Tx 51
ni-ca
14 Thư 2 gửi th Thê-xa-lô- Phao-lô 2.Tx 51
ni-ca
15 Thư 1 gửi ông Ti-mô-thê Phao-lô 1 Tm 63-66
16 Thư 2 gửi ông Ti-mô-thê Phao-lô 2 Tm 66
17 Thư gửi ông Ti-tô Phao-lô Tt 63-66
18 Thư gửi ông Phi-lê-mon Phao-lô Pl 61-63
19 Thư gửi tín hữu Do ? Dt 66-67
thái
20 Thư của thánh Gia-cô-bê Gia-cô-bê Gc quãng
80
21 Thư 1 của thánh Phê-rô Phê-rô 1 Pr quãng
64
22 Thư 2 của thánh Phê-rô Phê-rô 2 Pr quãng
125
23 Thư 1của thánh Gio-an Gio-an 1Ga 80-90
24 Thư 2 của thánh Gio-an Gio-an 2 Ga 80-90
25 Thư 3 của thánh Gio- Gio-an 3 Ga 80-90
an
26 Thư của thánh Giu-đa Giu-đa Gđ 70-80
Khải Huyền hay Tiên tri : Sách Khải huyền được viết để củng cố
niềm hy vọng cho cáctín hữu đang bị bách hại vì đức tin. (có nhiều
hình ảnh và con số, phải hiểu theo nghĩa tượng trưng, qui chiếu về
các sách Cựu Ước).

Stt Tên sách Tác giả Ký hiệu Năm biên soạn


27 Sách Khải huyền Gio-an Kh 95

Như vậy, chúng ta thấy :


-Kinh Thánh Tân ước gồm 27 cuốn, bao gồm :4 sách Tin Mừng, sách Công vụ Tông
đồ, 21 thư ( 14 thư của Thánh Phao-lô và 7 thư chung) và sách Khải huyền.
Trong 27 quyển đó, 4 sách Tin Mừng là quan trọng nhất vì trực tiếp cho ta biết
đời sống và lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
-Thứ tự các sách Tân ước như chúng ta có hiện nay không phải là thứ tự theo năm
được biên soạn, nhưng là thứ tự theo thể loại. Tác phẩm Tân Ước được hoàn
thành trước nhất là thư 1 và 2 gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca ( năm 51 ). Mãi đến
năm 65 –70, Tin Mừng Mác-cô mới xuất hiện
-Tác phẩm Tân Ước cuối cùng là 2 thư của Thánh Phê-rô. Bức thư này được biên
soạn vào quãng năm 125.

3.2 Tân Ước tiếp nối và hoàn tất Cựu Ước


Năm Kinh thánh 1, Các em đã tìm hiểu phần Cựu Ước: Vì yêu thương, Thiên
Chúa đã dựng nên loài người chúng ta để chúng ta được chia sẻ hạnh phúc với
Người. Thế nhưng, loài người lại từ chối tình thương đó, nhưng Thiên Chúa đã
không bỏ mặc con người trong vực sâu tội lỗi, đau khổ và sự chết. Ngài hứa sẽ ban
Đấng Cứu Thế đến để cứu chuộc con người .Thiên Chúa đã dọn đường cứu độ qua
lịch sử dân Itraen.
Trước hết, Thiên Chúa đã chọn cụ Ap-ra-ham để gây dựng một dân tộc. Tiếp
theo, Ngài đã lập Ít-ra-en làm dân riêng của Ngài khi giải thoát họ khỏi nô lệ Ai cập.
Qua ông Mô-sê, Ngài ký kết với họ Giao ước Xi-nai và ban cho họ Lề Luật. Qua Đa-
vít, Thiên Chúa hứa sẽ cho Đấng cứu Thế đến từ dòng dõi ông. Qua các Ngôn sứ,
Thiên Chúa dọn lòng họ đón chờ Đấng Cứu Thế.
Năm Kinh thánh 2, Các em sẽ tìm hiểu phần Kinh thánh Tân ước :Khi đến
thời đã định,Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và
sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được
ơn làm con của Ngài ( Gl4,4-5 )
Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu. Ngài là Con Một của Thiên Chúa, đã trở thành con
người để làm cho ta trở thành con Thiên Chúa. Ngài đến sống giữa chúng ta để tỏ cho
chúng ta biết tình thương của Chúa Cha và để quy tụ chúng ta về cùng Chúa Cha
trong gia đình con cái Thiên Chúa là Hội Thánh. Ngài đã chết để hoà giải ta với Thiên
Chúa và đã sống lại để ban cho ta sự sống mới làm con Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh của Đức Kitô chính là trung tâm của lịch sử
cứu độ
Sau khi Chúa Giêsu về Trời, Chúa Thánh Thần đã được Chúa Cha và Chúa
Giêsu gởi đến để hướng dẫn Hội Thánh tiếp tục sứ mạng của Chúa ở trần gian và
vẫn còn tiếp nối cho đến ngày tận thế, ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang để
hoàn tất chương trình cứu độc của Chúa Cha. Ngày đó, mọi loài mọi vật sẽ đạt tới
cùng đích của mình là được hiệp thông đời đời vào sự sống của thiên Chúa Ba Ngôi,
trong trời mới, đất mới.
*Tóm ý : Lịch sử cứu độ là một chương trình do Thiên Chúa Cha khởi xướng
và quy tụ về Ngài. Chúa Giêsu Kitô là trung tâm của chương trình ấy
và là Đấng Cứu Thế.

3.3 Những điểm mới của Tân Ước


- Tập trung vào Chúa Giêsu Kitô. Mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh là trung tâm
điểm của lịch sử cứu độ.
- Chúa Giêsu tỏ cho biết thêm: Thiên Chúa thì duy nhất nhưng có ba Ngôi:
Cha ,Con và Thánh Thần.
- Ơn cứu độ không còn giới hạn nơi dân Ítraen nhưng mở rộng ra cho cả loài
người : ơn cứu độ phổ quát.
- Lề luật : mến Chúa, yêu người dựa trên đức ái…

*Tóm ý : Kitô giáo thừa hưởng phần Cựu Ước của Do Thái giáo. Tuy nhiên, đức tin
Kitô giáo không đơn thuần là sự tiếp nối quá khứ của dân Do Thái, vì so với Cựu
Ước, Tân Ước có những nét mới mẻ hẳn.

*Tóm ý toàn bài :


Cựu Ước và Tân Ước có một tương quan gắn bó với nhau. Cựu Ước là lời hứa còn
Tân Ước là sự thực hiện lời hứa ấy. Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước. Tân Ước hoàn
tất Cựu Ước. Đức tin Kitô giáo chính là sự hoàn tất Cựu Ước.
Khi đọc Cựu Ước, chúng ta cần đọc dưới ánh sáng của Tân Ước. Ngược lại, nhờ Cựu
Ước, chúng ta có thể hiểu Tân Ước hơn. Thánh Aâu-tinh nói : “Tân Ước ẩn giấu
trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ hiện trong Tân Ước”.

V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, hôm nay là buổi học giáo lý đầu năm. Chúng con đến đây để
đáp lại lời Chúa mời gọi chúng con. Khi xưa, Chúa đã mời các Tông đồ và những
người trẻ đến với Chúa, để ở với Chúa và trở nên bạn thân của Chúa, cùng chia sẻ
mọi đắng cay ngọt bùi với Chúa trong sứ mạng cứu thế. Lúc này đây, chúng con
cũng muốn thưa với Chúa những tâm tình của chúng con : Xin Chúa cho chúng con
luôn yêu mến, tha thiết học hỏi lời Chúa, và xin cho chúng con luôn hăng say đáp
lại lời Chúa kêu gọi chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Để cuộc sống chúng con
luôn làm Vinh Danh Chúa hơn.
Chúng con cầu xin vì Chúa là Đấng hằng sống, hằng trị cùng với Chúa Cha,
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ : Hát : Lắng nghe Lời Chúa
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất.
1. Các sách Tân ước gồm : (câu b)
a. 26 cuốn: 4 Tin Mừng, Công vụ Tông đồ, 14 thư Phaolô,và 7 thư chung.
b. 4 Tin Mừng, Công vụ Tông đồ, 14 thư Phaolô,và 7 thư chung và sách
Khải huyền.
c. 27 cuốn : 4 Tin Mừng, 21 thư chung, Thư gửi Titô và sách Khải huyền.
2. Tân Ước được chia thành : (câu a)
a. 3 loại : Lịch sử, Giáo huấn và Tiên tri
b. 4 loại : Lịch sử, Giáo huấn, Ngôn sứ và Châm ngôn
c. 4 loại : Tiên tri, Lịch sử, Thi phú và Huấn giáo.
3. Những điểm mới của Tân Ước : (câu e)
a. Tập trung vào Chúa Giêsu Kitô.
b. Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi : Cha-Con- Thánh Thần.
c. Ơn cứu độ phổ quát
d. Giới luật : Mến Chúa, yêu người, dựa trên đức ái.
e. Cả 4 câu đều đúng
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn cho ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến để nói với chúng ta.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi sẽ siêng năng đọc Kinh Thánh hằng ngày vì Chúa Giêsu đang nói với
tôi qua những trang Kinh Thánh, đặc biệt là những trang Tin Mừng. Tôi ao
ước được gặp gỡ Chúa Giêsu. Tôi khao khát được nghe Chúa đang nói với
tôi hằng ngày qua những trang Tin Mừng.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học giáo
lý vừa qua. Xin Chúa giúp chúng con biết đem ra thực hành những điều Chúa đã
dạy chúng con hôm nay. Amen.
Hát : Tâm tình hiến dâng

BÀI 2 :
ĐỌC TIN MỪNG NHƯ THẾ NÀO?

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay với tất cả
lòng yêu mến Chúa và để cứu rỗi các linh hồn. Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần
xuống trên tâm hồn mỗi người chúng con, để Ngài soi sáng, hướng dẫn và thánh
hoá giờ học của chúng con, giúp chúng con đạt được những kết quả tốt nhất như ý
Chúa muốn.
Hát : Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Các em thân mến,
Trong bài học tuần trước, chúng ta đã biết sơ qua các sách Tân Ước. Giả sử
cần phải giới thiệu cho một ai đó về quyển Tân Ước, em sẽ nói thế nào ? có thể
trình bày một số nét chính được không? ( Tân ước gồm bao nhiêu cuốn ? Chia làm
mấy loại ? Trọng tâm các sách Tân ước là gì? v.v…)
Như chúng ta đã biết, các sách Cựu Ước hầu hết được viết bằng tiếng Hipri
( tiếng Do thái cổ ), một phần nhỏ được viết bằng tiếng Aram ( tiếng Do thái thời
Chúa Giêsu) và tiếng Hylạp. Riêng Tân ước, tất cả đều được viết bằng tiếng Hy Lạp.
Trong lớp chúng ta, nhà bạn nào có quyển Kinh Thánh trọn bộ ? bạn nào có
quyển Kinh Thánh Tân Ước? Quyển Kinh Thánh các em đang có trong tay là bản
dịch của ai ? (xem ở đầu sách )
Kể từ khi được viết ra cho đến nay, Kinh Thánh luôn là cuốn sách được đọc,
được nghiền ngẫm, nghiên cứu, được dịch và được in ra nhiều nhất.
Tại sao Kinh Thánh luôn là cuốn sách được đọc, được nghiền ngẫm, nghiên
cứu, được dịch và được in ra nhiều nhất như vậy?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta hãy nghe Thánh Gioan cho biết mục đích của
Ngài khi chép sách Tin Mừng, và đây cũng là chìa khóa giúp chúng ta hiểu tại sao
Kinh Thánh, đặc biệt các sách Tin Mừng lại là bộ sách kỳ diệu như vậy .
Mời các em đứng lên, chúng ta cùng lắng nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 20, 30-31 ( Xin giữ THINH LẶNG giây lát )
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa nghe
Thánh Gioan là người đã gặp được Đức Giêsu và đã đi theo Ngài. Những năm
tháng sống với Thầy Giêsu đã giúp Thánh Gioan khám phá ra Đức Giêsu chính là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng muôn dân đợi trông.
Khám phá đó là niềm vui. Niềm vui này lớn lao đến độ Ngài muốn cùng chia
sẻ cho mọi người chúng ta : “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng
Đức Giêsu là Đấùng Kitô, Con Thiên Chúa và để anh em tin mà được sự sống nhờ
danh Ngài”
2.Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một bài giảng
a. Đoạn văn có những từ ngữ ( hoặc cụm từ) nào quan trọng ?
Dấu lạ, những điều đã được chép, để anh em tin, Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên
Chúa, sự sống.
- Từ ngữ chính : Dấu lạ, Tin
b. Câu tóm ý : câu 31
c. Đặt tựa đề ngắn : Chủ đích của tác giả sách Tin Mừng.
3.Bài học giáo lý:
Thánh Césaria la Jeune nói : “ Không có giáo lý nào tốt hơn, quý hơn và sáng
chói hơn các sách Tin Mừng. Hãy xem và ghi nhớ những gì Đức Giêsu Kitô, Đấng là
Chúa và là Thầy của chúng ta, đã dạy qua các lời nói và thực hiện qua các hành
động của Ngài”.
Muốn biết Chúa Giêsu, cần chiêm ngắm Ngài qua việc đọc các sách Tin Mừng.
Nhưng nên đọc các sách Tin mừng như thế nào ?
Chúng ta biết rằng, khởi đầu các sách Tin Mừng là những mẩu tường thuật về
Chúa Giêsu. Những mẩu tường thuật này phát sinh độc lập nhau trong các cộng
đoàn tín hữu, nhằm giải đáp những thắc mắc của họ về Chúa Giêsu. Sau đó, bốn
tác giả sách Tin Mừng đã sưu tập chúng và sắp xếp thành những sách Tin Mừng
khác nhau (x. Lc 1,1-4 ), mỗi sách Tin Mừng bộc lộ cho chúng ta thấy khuôn mặt
của Chúa Giêsu dưới một khía cạnh.
Như vậy khi đọc Tin Mừng, chúng ta có thể đọc theo một trong hai cách đơn
giản sau đây :
3.1 Cách thứ nhất :
Đọc từng đoạn nhỏ, để ý đến những mẩu chuyện này, phép lạ nọ, diễn từ kia.
Vì những mẩu chuyện này phát sinh từ những thắc mắc của các Kitô hữu thời Hội
Thánh sơ khai nên chúng ta có thể đi từ những bàn văn để tìm hiểu xem đâu là vấn
đề các Kitô hữu thời ấy và đâu là vấn đề của chúng ta hôm nay.
Trường hợp một câu chuyện, một sự kiện được hai hay ba tác giả sử dụng, ta
có thể đối chiếu các bản văn đó với nhau để tìm ra ý tác giả muốn nhấn mạnh về
điều gì dựa vào những điểm dị biệt.
Ví dụ : Bão táp yên lặng Mt 8,12- 27; Mc 4,36-41; Lc 8,23-25.
3.2 Cách thứ hai :
Đọc riêng rẽ từng quyển Tin Mừng và để ý đến cái nhìn của mỗi tác giả, tìm
cách khám phá khuôn mặt của Chúa Giêsu như các cộng đoàn khác nhau đã nhận
thấy được.
Trước khi đọc bản văn, chúng ta nên đọc phần dẫn nhập trước để nắm được:
-Bố cục (dàn bài) của sách Tin Mừng chúng ta sắp đọc.
-Tác giả là ai ?
-Tác giả viết cho loại độc giả nào ?
-Thời gian và nơi biên soạn ?
-Mục đích của tác giả ?
-Đạo lý hoặc những tư tưởng chính của sách ?
Tuy nhiên, những cách đọc trên mới chỉ là bước đầu giúp ta yêu mến việc đọc
Tin Mừng. Dần dần sau này, khi đọc, chúng ta cần tập đào sâu đoạn văn hơn.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu là Lời của Chúa Cha, Chúa đã đến tỏ cho chúng con biết lòng
Cha yêu thương chúng con. Chúa cũng đã sống một đời mẫu mực cho chúng con
noi theo. Xin Chúa giúp chúng con chăm chỉ lắng nghe, học hỏi và suy niệm Lời
Chúa để áp dụng điều Chúa dạy vào trong cuộc sống hàng ngày. Chúng con cũng
hứa sẽ bắt chước Chúa sống hết mình cho Cha và tận tình phục vụ mọi người.
Chúng con cầu xin vì Chúa là Đấng…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ : Hát : Lắng nghe Lời Chúa
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất :
1.Muốn biết Chúa Giêsu là ai, em cần : (câu a)
a. Chiêm ngắm Ngài qua việc đọc các sách Tin Mừng.
b. Thực hành các việc bác ái.
c. Tìm hiểu những dấu lạ trong thiên nhiên.
2.Những cách đơn giản để đọc sách Tin Mừng: (câu c)
a. Đọc từng đoạn nhỏ
b. Đọc riêng rẽ từng quyển Tin Mừng và để ý đến cái nhìn của mỗi tác
giả.
c. Cả hai câu đều đúng
VIII.ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài?
“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian quá đỗi, nên mới ban Con Một của
mình, để ai tin vào Ngài sẽ khỏi hư đi, nhưng được sống muôn đời” (Ga
3,16)
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tin trước hết là đón nhận Lời Thiên Chúa vào lòng mình và để cho lời ấy
lớn lên hàng ngày, bằng việc siêng năng đọc Tin Mừng và đem ra thực
hành theo gương Chúa Giêsu
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa về tất cả những ơn Chúa đã ban cho
chúng con trong giờ học giáo lý hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con ngày một yêu
mến Lời Chúa và sống gắn bó với Chúa hơn. Amen.

BÀI 3 :
NƯỚC DO THÁI THỜI CHÚA GIÊSU (Lc 3, 1-3)

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, chúng con cùng tụ họp nhau đây trong tình thương của
Chúa. Chúng con tin rằng Chúa đang hiện diện giữa chúng con để soi sáng, dậy dỗ.
Xin Chúa giúp chúng con học giờ giáo lý này thật tốt, để chúng con hiểu biết hơn về
đất nước mà Chúa đã sống khi làm người cứu chuộc chúng con.
Cúi xin Chúa sáng soi…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
So sánh các Thánh sử khởi đầu sách Tin mừng của mình như thế nào, khởi đi
từ biến cố nào… ta thấy:
Thánh Matthêu bắt đầu sách Tin mừng bằng việc kể về gia phả của Chúa
Giêsu ( Mt 1,1 ). Sau đó, ngài kể về việc sứ thần truyền tin cho thánh Giuse để nói
rõ hơn “gốc tích” của Chúa Giêsu.
Thánh Mác-cô thì bắt đầu bằng hình ảnh tiền hô của thánh Gioan Tẩy Giả
(Mc1,2).
Còn thánh Lu-ca thì sao ? Có thể nói ngài là một “ tổng hợp”: vừa kể về gốc
tích của Chúa Giêsu (như thánh Matthêu), vừa nói đến vai trò tiền hô của Thánh
Gioan Tẩy Giả (thánh Mac-cô) : Tin Mừng Lu-ca khởi đầu bằng chuyện “Truyền tin
cho ông Da-ca-ri-a”, tiếp theo là chuyện “Truyền tin cho Đức Maria”.
Riêng chuyện thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, nếu so sánh Mac-cô với Lu-ca,
chúng ta thấy Lu-ca cung cấp cho chúng ta nhiều chi tiết hơn, đặc biệt là bối cảnh
nước Do thái thời Chúa Giê-su, như trong đoạn Tin Mừng chúng ta sẽ công bố giờ
đây.
Mời các em đứng lên, chúng ta cùng lắng nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Lc 3,1-3 (Thinh lặng giây lát)
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Lời Chúa vừa công bố.
Bài Tin Mừng trên đây phác hoạ cho chúng ta thấy bối cảnh nước Do Thái
khi Thánh Gioan Tẩy giảû bắt đầu sứ mạng . Bối cảnh này giúp ta hiểu phần nào
hoàn cảnh đất nước của Chúa Giêsu .
2. Các em học sinh hội thảo :
Đoạn Tin Mừng Lc 3,1-3 là một câu chuyện kể
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Hoàng đế Ti-bê-ri-ô, Tổng trấn Phi-la-tô, Hê-rô-đê, Phi-lip-phê, Kha-nan,
Cai-pha,Thiên Chúa, Gio-an, người ta.
-Nhân vật chính : Ông Gio-an
b. Câu tóm ý : câu 3
c. Đặt tựa đề ngắn : Khung cảnh ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng.
3. Bài học
Trong năm Kinh Thánh II này , chúng ta sẽ cùng với Chúa Giêsu rong ruổi
các ngả đường Do Thái. Chúng ta sẽ nhìn xem những gì Ngài làm , lắng nghe những
lời Ngài giảng dạy , gặp gỡ những người bạn của Ngài , để dần dần khám phá ra
Ngài là ai , như các Tông Đồ ngày xưa .
Để làm một cuộc rong ruổi như vậy, trước hết, chúng ta cần biết qua đôi chút
về xứ Pa-lét-tin, quê hương của Chúa Giêsu.
3.1 Địa lý:
a. Diện tích: Xứ Pa-lét-tin rộng chừng 25.000 Km2 ( chỉ rộng bằng một
tỉnh của nước ta ). Chiều dài nhất: 240 Km, chiều rộng từ 40-
150 km
b. Biên giới tự nhiên
-Phía Bắc : Núi Khe-môn (Hermon),cao 2.800 m, mỏm núi cuối cùng
của dãy Li-băng.
-Phía Nam : Sa mạc, bắt đầu từ ngang Biển Chết xuống phía Nam.
-Phía Tây : Địa Trung Hải.
-Phía Đông : sa mạc Xi-ri
c. Hình thể : Vào thời Đức Giêsu, nước Do Thái chia làm 3 phần:
-Phía bắc là miền Ga-li-lê: Tại đây có các làng Na-da-rét, Ca-na và Na-
im. Bên cạnh hồ Ti-bê-ri-a có làng Ca-phac-na-
um.
- Ở giữa là miền Sa-ma-ri : Dân miền này cũng thờ kính Thiên Chúa và
giữ luật Mô-sê, nhưng có nhiều điều bị ảnh
hưởng ngoại giáo, nên họ bị người Do Thái ở phía
Bắc và phía nam khinh ghét.
3.2 Chính trị
Năm 63 trước CN, lợi dụng cơ hội anh em nhà Ma-ca-bê tranh dành quyền
hành, tướng Pom-Pê kéo quân đến chiếm Giê-ru-sa-lem và đặt pa-lét-tin dưới sự đô
hộ của đế quốc Rô-ma.
Năm 40 trước công nguyên, Hê-rô-đê Cả được Rô-ma phong vương. Oâng
này cai trị Pa-lét-tin đến năm 4 trước CN. Vào quãng năm thứ 7 trước CN, dưới triều
Hê-rô-đê Cả , Chúa Giêsu giáng sinh. Lúc Đức Giêsu ra giảng đạo, vua Hê-rô-đê cai
trị vùng Ga-li-lê và vùng Pê-rê. Cònvùng Sa-ma-ri và Giu-đa do một viên quan Rô-
ma cai trị, tức là tổng trấn Phi-la-tô.
Về mặt tôn giáo, đế quốc Rô-ma không can thiệp. Họ để cho người Do Thái
có một toà án riêng gọi là Hội đồng Cộng toạ hay Toà Công Nghị. Đây là toá án tôn
giáo tối cao gồm 71 thành viên là các kỳ lão, cựu thượng tế , tư tế và ký lục, đứng
đầu tất cả là vị Thượng tế
3.3 Giai cấp xã hội :
a. Giới tư tế :
- Thượng tế : Đứng đầu giới tư tế là vị thương tế. Vị này đứng đầu
Thượng Hội Đồng và được coi như thủ lãnh của dân. Chỉ mình vị
thượng tế mới được vào Nơi Cực Thánh mỗi năm một lần để dâng lễ
xá tội cho dân ( Dt 9,7)
- Các tư tế : Có khoảng 7.200 tư tế trong cả nước, chia thành 24
nhóm thay phiên nhau phục vụ trong đền thờ
- Các thầy Lê-vi: có khoảng 10.000 thầy, có nhiệm vụ đàn hát, giữ
cửa, bảo quản và bảo vệ đền thờ.
b. Giới kỳ mục : Gồm các phú ông và bậc niên trưởng.
c. Giới kinh sư: Còn gọi là ký lục , luật sĩ hay các thầy thông Luật. Đó
là những nhà chuyên môn về Kinh Thánh (Lề Luật), phần đông là giáo
dân thuộc nhóm Pha-ri-sêu.
d. Dân chúng : Đa số là nông dân, thợ thủ công, tiểu thương hay những
người làm thuê.
3.4 Các nhóm tôn giáo và xã hội
a. Nhóm Xa-đốc : Gồm phần lón các tư tế ở Giê-ru-sa-lem và một số kỳ
mục. Đây là nhóm bảo thủ. Họ quý trọng đặc biệt Ngũ Thư hơn các
sách thánh khác.
b. Nhóm Pha-ri-sêu : Hay còn được gọi là Biệt phái, có vào thời Ma-ca-
bê.Nhóm này gồm phần đông là những giáo dân đạo đức, một ít tư tế
vùng quê và một số thầy Lê-vi. Vào thời Chúa Giê-su, các Pha-ri-sêu
rất được kính trọng. Họ chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuân giữ
tỉ mỉ mọi luật lệ.
c. Nhóm Eùt-xê-nô : Nhóm này được tổ chức hết sức chặt chẽ và có
tôn ti trật tự. Họ sống nghèo khó, độc thân, và vâng phục những
người lãnh đạo
d. Nhóm Sa-ma-ri : Là những người gốc Do Thái ở Sa-ma-ri. Họ bị pha
trộn nhiều với dân ngoại, kể cả về mặt tôn giáo.
e. Nhóm Hê-rô-đê : Đây không phải là nhóm tôn giáo mà chỉ là những
người ủng hộ Vua Hê-rô-đê và do đó, ủng hộ nhà cầm quyền Rô-ma.
Nhóm Pha-ri-sêu liên kết với họ để chống Chúa Giêsu. (Mt22,16;
Mc3,6;12.13)
3.5 Các ngày lễ
a. Lễ Vượt Qua : Lễ quan trọng nhất trong năm, kéo dài trọn một
tuần.từ chiều ngày 14 tháng Ni-xan. Lễ Vượt qua nhằm giúp mỗi
người sống lại kinh nghiệm của cha ông xưa kia được giải phóng khỏi Ai
Cập. Chúa Giêsu đã lập bí tích thánh thể và chức Linh mục trong bữa
tiệc Vượt Qua lần cuối cùng với các môn đệ( Mt 26,17-29; Mc 14,12-25;
Lc 22,1-10 )
b.Lễ ngũ Tuần : Được cử hành 50 ngày sau lễ Vượt Qua (Đnl 16,9),
tưởng niệm việc Chúa ban giao ước và Luật trên Núi Xi-nai. Chính trong
ngày lễ Ngũ Tuần Chúa Thánh Thần đã được ban xuống ( Cv 2), chính
thức khai mạc dân mới của Thiên Chúa là Hội Thánh.
c. Lễ Lều : Lễ này cử hành vào mùa thu, khi vụ thu hoạch đã kết thúc
(Lv23,39)
Ngoài ba đại lễ trên, còn có những ngày lễ khác như : Lễ xá Tội, Lễ
Cung Hiến đền thờ,Lễ Tân Niên, Lễ Số Phận.
d. Ngày sa-bát : Ngày sa-bát bắt đầu từ chiều thứ sáu đến chiều thứ
bảy. Đây là ngày nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa sau sáu ngày lao động.
Với thời gian luật giữ ngày sa-bát trở nên cứng nhắc. Chúa Giêsu đã trả
lại cho nó ý nghĩa nguyên thủy: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con
người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” ( Mc 3, 27)
*Tóm ý toàn bài :
- Quê hương Chúa Giêsu là xứ Pa-lét-tin , một nước rất nhỏ nằm ở cuối phía tây
Châu Á .
k- Vào thời Chúa Giêsu nước Do Thái đang bị đế quốc Rô-ma đô hộ và được chia
làm 3 miền
§ Miền Bắc là Ga-li-lê , do Vua Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị . Tại Ga-li-lê
có làng Na-da-rét là nơi gia đình Chúa Giêsu , Mẹ Maria và thánh
Giuse sinh sống . Bên cạnh hồ Ti-bê-ri-a có thành Ca-phác-na-um là
trung tâm hoạt động rao giảng của Chúa Giêsu tại Ga-li-lê .
§ Miền Trung là Sa-ma-ri do tổng trấn Rô-ma là Phi-la-tô trực tiếp cai trị .
§ Miền Nam là Giu-đê do tổng trấn Rô-ma là Phi-la-tô trực tiếp cai trị . Tại
Giu-đê có làng Bê-lem nơi Chúa Giêsu sinh ra , và có thủ đô Giê-ru-sa-
lem , nơi Chúa Giêsu chịu thương khó , chết và sống lại .
l- Vào thời Chúa Giêsu , về mặt tôn giáo do Thượng Hội Đồng Do Thái điều hành .
Đứng đầu Thượng Hội Đồng này là vị thượng tế .

V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, con đường của Chúa thật lạ lùng !
Khi đến trần gian, Chúa cũng muốn có một quê hương như chúng con .
Nhưng Chúa đã không chọn một đế quốc hùng cường, rộng lớn mà lại chọn một đất
nước nhỏ bé , một đất nước đang bị đô hộ . Chúa muốn đến với chúng con, những
con người nghèo khổ . Chúa muốn cho chúng con , những kẻ bé mọn , được gần gũi
Chúa, có thể trở thành những người bạn thân của Chúa.
Xin cho chúng con trong năm nay, khi dõi theo những ngã đường xứ Pa-lét-
tin mà Chúa đã đi qua , dần dần khám phá ra khuôn mặt của Chúa, ánh mắt của
Chúa, con tim của Chúa. Chúa đang vẫy gọi chúng con. Ước gì ngày hôm nay chúng
con biết mở lòng ra cho Chúa.Chúng con cầu xin vì Chúa là Đấng
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ : Mỗi tổ các em thay phiên lên bảng, mỗi em ghi tên một
địa danh của Xứ Pa-lét-tin. Sau mấy phút, tổng kết xem
tổ nào ghi được nhiều nhất.
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất
1.Chúa Giêsu sinh ra tại Be-lem, thuộc: (câu c)
a. Miền Ga-li-lê, nước Pa-lét-tin
b. Miền Sa-ma-ri, nước Do Thái
c. Miền Giu-đê, nước Pa-lét-tin.
2.Thời Chúa Giêsu, nước Do Thái chia làm: (câu a)
a. 3 phần : Ga-li-lê, Sa-ma-ri và Giu-đê
b. 4 phần : Ga-li-lê, Sa-ma-ri và Giu-đê và sa mạc Xi-ri.
c. 3 phần : Núi Khê-mon, Ga-li-lê và Giê-ru-sa-lem.
VIII.ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Đức Giêsu đã chọn sống trong một đất nước nhỏ bé, đang bị đô hộ để đồng
cảm với con người, nhất là những người bé mọn. Ngài đã giải thoát con người
khỏi những luật lệ nặng nề.
2. Qua đoạn văn này hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi cũng phải trở nên một Gioan Tẩy Giả để giới thiệu Chúa cho những người
sống chung quanh tôi.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã cùng đồng hành với chúng con
trong giờ học hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con biết chăm chỉ học hành và cầu
nguyện để hiểu biết Chúa nhiều hơn, hầu chúng con có thể giới thiệu Chúa cho
những người chúng con gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống chúng con.Amen.
Sáng Danh Đức Chúa Cha…

PHẦN II : ĐỨC GIÊSU LÀ THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

Bài 4:
THIÊN CHÚA ĐÃ SAI CON NGÀI ĐẾN (Gl 4, 4 – 7)

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa, chúng con xin bắt đầu giờ học giáo lý hôm nay trong tình thương
và ý muốn của Chúa.
Xin Chúa Thánh Thần hãy đến với mỗi người chúng con ,để giúp chúng con
hiểu biết và sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn.
Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một người vô thần đứng giữa chợ nói xúc phạm vô lễ với Chúa, dám thách
Chúa chứng minh quyền uy của Ngài bằng cách quật ngã anh trong vòng 5 phút.
Năm phút trôi qua nhanh chóng, người ấy ngạo mạn tự đắc, nói với đám đông : “Tôi
đã nói gì với các bạn?” Một bà già đứng bên cạnh hỏi anh: “Anh bạn, anh có con
không?” Anh ngạc nhiên hỏi lại: “Bà hỏi để làm gì?” Bà già mới nói: “ Nếu đứa con
bạn đưa cho bạn một con dao và nói: Ba giết con đi, bạn có giết không?” –“Không,
bà ạ, vì tôi thương con tôi lắm”. Bà già tiếp lời: “Chúa cũng thế, Chúa đã không
phạt bạn chết ngay, vì Ngài yêu mến bạn quá nhiều”.
Vâng, vì yêu thương nhân loại vô cùng nên cho dù con người tội lỗi, Chúa đã
không khai trừ nhưng đã ban cho nhân loại chính Con Một yêu dấu của Ngài để cứu
độ nhân loại như những lời trong thư gửi tín hữu Ga-lát chúng ta sẽ lắng nghe giờ
đây.
Mời các em đứng, chúng ta lắng nghe lời Chúa.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Gl 4, 4-7 (Thinh lặng giây lát)
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Khoảng 700 năm trước Chúa Giáng sinh, Tiên tri Isaia đã loan báo : “Này
đây, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel” ( Is
7,14 ). Và rồi, khi đến giờ đã định, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài là chính
Đức Giêsu Kitô đến thế gian, sinh làm con một người phụ nữ, để giải thoát nhân loại
khỏi cảnh nô lệ tội lỗi và được gọi Thiên Chúa là Cha. Như trong đoạn thư của thánh
Phao lô gửi giáo đoàn Ga-lát chúng ta vừa lắng nghe.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn lời Chúa chúng ta vừa nghe là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu, người phụ nữ,anh em.
-Nhân vật chính : Thiên Chúa Cha
b. Câu tóm ý : câu 4. 5
c. Đặt tựa đề ngắn : Chương trình cứu độ của Thiên Chúa
3. Bài học giáo lý
3.1 Con thưa vâng và Mẹ cũng thưa vâng
Vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Chúa Cha đã sai chính Con Một yêu dấu của
Người đến trong trần gian. Không như Ađam xưa, Đức Giêsu Kitô hoàn toàn phó
mặc cho ý Chúa Cha. Nói về giây phút đầu đời của Chúa Cứu Thế, thư gửi tín hữu
Do thái đã viết : “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói : Chúa đã không ưa hy lễ và hiến
tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể…Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để
thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7)
Trái ngược với Ađam: là con người nhưng muốn bằng Thiên Chúa. Còn Đức
Giêsu Kitô: là Thiên Chúa nhưng lại khiêm nhường nhập thể làm người, phó mình
cho chương trình của Chúa Cha: “Đức Giêsu kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế”
(Pl 2,6-7 )
Tuy nhiên , để điều ấy được thực hiện, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Con của
Ngài một người Mẹ xứng đáng nhất, tuyệt vời nhất, đó là Đức Trinh nữ Maria (Mt
1,18-23). Ngược với sự bất tuân của E-và xưa, Đức Maria đã thay lời cho cả nhân
loại thưa lên hai tiếng Xin vâng để đáp lại tình yêu Thiên Chúa: “Này tôi là tôi tá
Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” ( Lc 1, 38 )
*Tóm ý : Khi tới thời gian đã định, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống
thế. Vâng ý Cha, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ Maria đã đáp lại với lời “Xin
vâng”.
3.2 Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập thể trong lòng
Trinh nữ Maria.
-Thiên Chúa đã cho Con của Ngài nhập thể cách nào ?
Ngay sau lời thưa “Xin vâng” của Đức Maria, Chúa Thánh Thần đã tạo nên
hình hài Chúa Giêsu trong lòng Bà, và Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể đã được thực
hiện như lời Kinh thánh đã chép: “Và Ngôi lời đã trở thành nhục thể”
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ( Lc 1,35 ), được chúa Cha sinh ra từ trước
muôn đời (Kinh Tin kính). Chính vì thế, Thiên Chúa không có người cha trần thế là
cha mà chỉ có mình Thiên Chúa là Cha.
Việc sinh hạ đồng trinh của Đức Maria muốn nói rằng: chúa Giêsu vừa là
người thật vì được sinh ra bởi một người nữ, vừa là Thiên Chúa thật vì Ngài chỉ có
một mình Thiên Chúa là Cha.
Để quả quyết Đấng mà Đức Maria cưu mang và sinh ra thật sự là thiên
Chúa, là Con Một của Chúa Cha, và là Ngôi Hai xuống thế làm người, năm 431, Hội
thánh đã họp Công đồng Eâphêxô và long trong tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa.
Để Đức Maria xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên Chúa, thiên Chúa đã gìn giữ
Mẹ luôn tinh tuyền, nghĩa là được khỏi mọi tội lỗi, kể cả tội tổ tông, và ơn trọn đời
đồng trinh, ngay cả khi sinh Chúa Giêsu. ( Mẹ Vo nhiễm nguyên tội )
*Tóm ý: Do quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Maria đã mang thai và sinh ra
Chúa Giêsu mà vẫn đồng trinh. Điều đó cho thấy Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa
như Chúa Cha, vừa là người thật như chúng ta. Vì sinh Con Thiên Chúa làm
người nên Đức Maria được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
3.3 Chúa muốn con làm gì ?
Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con…( Gl 4, 7 )
Người nô lệ là người không làm chủ mình, nhưng bị điều khiển bởi một ai đó
ở bên ngoài. “Một ai đó” cũng có thể ở ngay chính trong mỗi người : những đam
mê, thói hư tật xấu…
Con Thiên Chúa xuống thế làm người, trút bỏ mọi vinh quang, mang thân nô
lệ chính là để giải phóng con người chúng ta khỏi mọi thứ nô lệ, cho chúng ta trở
nên những người con tự do của Thiên Chúa. Và có khả năng thốt lên: “Ap-ba, Cha
ơi !”
Ngày hôm nay, chúng ta hãy ý thức ơn được làm con cái của Thiên Chúa.Hãy
ý thức Thần Khí của Người Con đang ngự trong lòng chúng ta. Hãy để thần khí ấy
giúp ta mở rộng lòng mình ra đón nhận Lời Thiên Chúa đi vào cuộc sống của ta và
thưa với Ngài : “ Con đây, lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?”
*Tóm ý : Ta tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu thế, là Con Thiên Chúa
và là Thiên Chúa như Chúa Cha . Ta suy phục uy quyền tối cao của
Ngài và để cho Ngài làm chủ đời ta.

*Tóm ý toàn bài : Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa ,bởi quyền năng Chúa Thánh
Thần đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh nữ Maria để cứu độ nhân loại.
Mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài
bằng lời đáp trả từng ngày trong cuộc sống chúng ta.

V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ


Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ , Vì yêu thương chúng con, Cha đã cho Con
Một yêu dấu của Cha xuống thế làm người để cứu độ chúng con. Xin Cha giúp
chúng con luôn biết phó thác đời con cho Cha, xin cha cứ định đoạt về con như ý
Cha muốn. Dù Cha làm cho con ra sao, con vẫn tạ ơn Cha. Con sẵn sàng đón nhận
tất cả, miễn là Thánh ý Cha được thể hiện nơi con và nơi các tạo vật của Cha.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô con Cha, Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện do : (câu b)
a. Sự bất tuân của Ađam và Evà
b. Ba Ngôi Thiên Chúa với lời Xin vâng của Đức Maria.
c. Thánh Giuse và mẹ Maria.
2. Ta có thể tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là :
a. Thiên Chúa
b. Con Thiên Chúa
c. Đấng Cứu Thế
d. Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, giải phóng chúng ta khỏi mọi thứ
nô lệ, làm cho ta trở nên những người con của Thiên Chúa, có khả năng đáp lại ý
Thiên Chúa trong cuộc sống của mình.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều
gì?
Tôi sẽ đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa cộng tác vào chương trình cứu độ
của Ngài nơi bản thân tôi, nơi gia đình tôi, nơi giáo xứ, nơi quê hương đất nước của
tôi.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, cảm tạ Cha đã ban cho chúng con giờ học
hôm nay, xin Cha giúp chúng con từ hôm nay biết dứt khoát ra khỏi những
ràng buộc của tội lỗi, để chúng con tự do sống phụng thờ Cha như Cha đã
dạy chúng con hôm nay. Amen.

BÀI 5 :
CHÚA GIÊSU Ở NA-DA-RÉT SỐNG MỖI NGÀY THẬT ĐẸP
Lc 2, 51 – 52
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con dâng lên Chúa giờ học hôm nay. Xin Chúa ban
Chúa Thánh Thần xuống trên mỗi người chúng con, giúp chúng con hiểu biết, yêu
mến và noi gương Chúa sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một hôm, du khách đến Đất Thánh dừng lại trước một di tích cổ đã đổ nát…
Lúc sau, có một người đàn bà Ả rập đi tới bên di tích cổ, cúi nhặt một viên đá rồi
ném vào cái cột đó, đứa bé đi theo mẹ cũng làm như vậy. Hỏi bà lý do, bà đáp :
-Đây là mồ của một đứa con xấu, đã phản phúc với cha mình.
Hỏi tên cha hắn là gì, bà đáp :
- Đavít
Nói xong bà tiếp tục đi… Du khách biết đây là mồ chôn Absalôm, đứa con
phản nghịch. Mồ chôn hắn đã trở thành bia ghi sự nhuốc nha muôn đời. Khi một
người Hồi giáo đi qua, họ vừa ném đá, vừa nói :
-Absalôm hãy bị nguyền rủa! Và chúc dữ cho tất cả những đứa con nào ngụy
nghịch, bất hiếu với cha mẹ.
Ngược lại, ngôi mộ của Chúa Giêsu được mọi du khách kính cẩn suy tôn, bởi
Chúa Giêsu là một người con hiếu thảo với Thiên Chúa Cha và đối với cha mẹ Ngài ở
Nadarét. Và Đức Giêsu cũng luôn sống tốt với mọi người như đoạn Lời Chúa chúng
ta sẽ công bố giờ đây.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Lc 2, 51-52 (Thinh lặng giây lát)
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
-Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Thánh Luca
-Thời gian viết ? Khỏng năm 70 – 80
Thánh Luca kể lại biến cố Đức Giêsu được cha mẹ Ngài dẫn đi hành hương
Đền Thờ Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua, lúc Đức Giêsu được 12 tuổi.
Xong kỳ lễ, mọi người ra về nhưng Đức Giêsu còn ở lại Đền thờ. Sau một
ngày đàng, cha mẹ Ngài mới biết không có Ngài trong đoàn lữ hành. Ông bà lo lắng
trở lại Đền thờ tìm con. Sau ba ngày, ông bà mới tìm thấy Đức Giêsu đang trong
Đền thờ, ngồi giữa các Thầy dạy, vừa nghe và hỏi họ. Sau đó Đức Giêsu trở về
Nadarét với cha mẹ và hằng vâng phục các Ngài.
2. Các em học sinh hội thảo
Đây là đoạn kinh thánh thuộc loại chuyện kể.
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Đức Giêsu, Cha mẹ Ngài, Thiên Chúa, mọi người.
-Nhân vật chính : Đức Giêsu
b.Câu tóm ý : câu 52
c.Đặt tựa đề ngắn : Na-da-rét : Trường Chúa dạy
Hoặc : Tuổi trẻ của Chúa Giêsu tại Na-da-rét
3. Bài học giáo lý
Để cứu chuộc nhân loại, Đức Giêsu đã vâng phục Chúa Cha : xuống thế làm
người trong một gia đình lao động nghèo. Kinh thánh không mô tả chi tiết cảnh
sống từng ngày của Đức Giêsu ở Nadarét, nhưng cho chúng ta biết rằng Ngài ngày
càng tấn tới về nhân đức, càng đẹp lòng Thiên Chúa và mọi người. Chúng ta cùng
nhau tìm hiểu để nhận ra những điều Chúa muốn dậy chúng ta qua đời sống ẩn dật
của Ngài.
3.1 Con người
Là con người, chúng ta có những mối tương quan với Thiên Chúa và với tha
nhân. Để những mối tương quan đó ngày càng bền vững và tốt đẹp, con
người cần phải có nhân đức.
Nhân đức bao gồm :
-Các nhân đức đối thần : Tin – Cậy – Mến
-Các nhân đức tự nhiên : khôn ngoan, dũng cảm , tiết độ và công bằng

Hình ảnh Đức Giêsu tại Nadarét là : Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững
mạnh, đầy khôn ngoan…
Tại Nadarét, chúng ta bắt gặp một cậu bé, rồi một thiếu niên, một thanh
niên…Đức Giêsu lớn lên theo năm tháng như tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, nếu chỉ “lớn xác” mà thôi thì chưa chắc đã được “mọi người
thương mến”. Đức Giêsu ngày càng khôn lớn : mỗi ngày một thêm khôn
ngoan, thêm hiểu biết, thêm nhân đức. Một cách nào đó, Ngài đã kết hợp
với mọi người. Ngài đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí
óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim
con người. Sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, Ngài đã thực sự trở nên một người
giữa chúng ta, giống như chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. (MV 22 )
*Tóm ý : Ở Nadarét, Chúa Giêsu đã sống thật đẹp tuổi trẻ của Ngài :
đạo đức, hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, chăm học, chăm làm, yêu thương
mọi người.
3.2 Con Thiên Chúa
Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?(Lc2,49)
Bổn phận ở đây có thể hiểu là sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha giao phó cho
Đức Giêsu.
Khi bước vào trần gian, Đức Kitô nói: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để
thực thi ý Ngài (Dt10,7)
Nhờ chiêm ngắm Đức Giêsu, chúng ta biết được người con của Thiên Chúa là
như thế nào. Đó là người hằng thưa vâng với Cha, luôn ước mong thi hành ý
muốn của Cha và hoàn tất công trình của Ngài (Ga 3,34)
Giáo hội gọi Đức Giêsu là Ađam mới , trái ngược với Ađam cũ , Đức Giêsu là
Thiên Chúa nhưng đã vâng phục Đức Chúa Cha , xuống thế làm người .
Việc Chúa Giêsu vâng phục Mẹ Ngài và cha nuôi chứng tỏ Ngài đã chu toàn
điều răn thứ tư. Đó là hình ảnh Ngài vâng phục Cha trên trời như con thảo,
vâng phục đến tận cùng.( x.SGLC 532 )
Gia đình Nadarét, đó là trường học của con Thiên Chúa. Ngài đã sống 30
năm ở đó để chuẩn bị cho sứ mạng của mình. Gia đình chúng ta cũng vậy.
Chính trong gia đình mình, với những vất vả thường ngày, những hy sinh cố
gắng âm thầm, qua tương quan với bố mẹ, anh chị em mà mỗi người chúng
ta được mời gọi sống đời sống làm con Thiên Chúa.
*Tóm ý: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người đã sống cảnh đời bình
thường như mọi người chúng ta để ta có thể kết hợp với Ngài bằng
chính cuộc sống thường ngày của chúng ta.
3.3 Từng ngày vươn lên
Từ khi ông bà nguyên tổ phạm tội, môt cuộc chiến cam go chống lại quyền
lực bóng tối tiếp diễn trong suốt lịch sử nhân loại. Dấn thân vào cuộc chiến
này, con người phải luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện.
Trong các bài giảng, Đức Giêsu thường nhắc đến sự phát triển của hạt
giống, của thân cây ( Mt 13,31-33 ). Đó là sự phát triển kiên trì và đều đặn,
từng ngày trong cuộc sống, , từ những việc âm thầm bé nhỏ nhất, mỗi ngày
vươn lên một chút, dần dần hình thành nơi ta những thói quen tốt như siêng
năng cầu nguyện, quan tâm đến mọi người, chăm chỉ học hành và làm
việc…Những điều ấy đòi ta khép mình vào kỷ luật hằng ngày, cố gắng bền bỉ
từng ngày là một việc vừa sức ta và sẽ giúp ta trở nên giống Chúa Giêsu
hơn.
*Tóm ý : Cuộc sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết noi
gương Chúa Giêsu : cố gắng luyện tập từng ngày, từ những việc rất
nhỏ của bổn phận trong giây phút hiện tại mà Chúa đang chờ đợi ta.
*Tóm ý toàn bài: Nadarét là trường học của Chúa Giêsu. Nơi đó, chúng ta bắt
đầu hiểu về cuộc đời Đức Giêsu, đó là trường dạy của Tin mừng : trước hết, là bài
học về khiêm tốn và thinh lặng. Tâm hồn cần thinh lặng để kết hợp với Thiên Chúa.
Kế đến là bài học về đời sống gia đình và xã hội : hoà hợp, yêu thương, đạm bạc,
đơn sơ và bền vững. Tiếp theo là bài học về lao động, tuy nhọc nhằn nhưng mang
lại ơn cứu độ
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay lớp chúng con đến thăm nhà của Chúa. Chúng con
thấy cuộc sống ở đây âm thầm, lặng lẽ cũng gần gũi với cuộc sống học hành và lao
động của gia đình chúng con quá.
Chúa đã sống, học hành và làm việc ở đây suốt 30 năm trường trong tình yêu
mến, vâng phục Chúa Cha, hiếu thảo với Cha mẹ, cùng lòng yêu thương ,gắn bó với
mọi người.
Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Chúa : đón nhận cuộc sống Chúa
ban cho chúng con hàng ngày trong thinh lặng để kết hợp với Chúa Cha. Xin cho
chúng con biết sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ.yêu thương, bác ái với mọi người.
Và xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận những vất vả trong công việc, trong học
tập, cùng những kỷ luật của cuộc sống. Để chúng con được cộng tác với Chúa trong
công cuộc cứu độ nhân loại. Và làm cho Danh Chúa ngày càng được tôn vinh khắp
nơi. Chúng con cầu xin, vì Chúa là…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Để cứu độ chúng ta Đức Giêsu đã : (câu a)
a. Làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi
b. Phạm tội như chúng ta để cứu độ chúng ta
c. Làm thợ mộc và sống khiêm tốn tại Nadarét. d. Cả 3 câu đều đúng.
2. Cuộc sống của Chúa Giêsu ở Nadarét đã dạy em những bài học: (câu d)
d. Khiêm tốn và thinh lặng b. Đời sống gia đình và xã hội: hoà hợp, yêu
thương, đạm bạc
e. c. Chăm chỉ học tập và lao động d. Cả 3 câu đều đúng.
VIII. ĐIỀU ĐỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Khi đặt chúng ta vào thế giới này, Thiên Chúa có một chương trình cho mỗi
người chúng ta. Ngài ban cho chúng ta đủ ơn và tạo điều kiện giúp ta có thể thực
hiện điều Ngài muốn, kể cả khi ta gặp nghịch cảnh.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi cần nhận ra những khả năng mà Thiên Chúa ban cho tôi để tìm cách phát
triển chúng, hầu hoàn thiện bản thân tôi như ý Chúa muốn, và làm đạp thế giới
này hơn mỗi ngày.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con qua giờ học
hôm nay, chúng con được hiểu biết hơn về cuộc sống ẩn dật của Chúa tại
Nadarét, để rồi chúng con sẽ noi gương Chúa áp dụng vào đời sống chúng
con. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện điều chúng con đã dốc lòng hôm
nay. Chúng con tin rằng : với sự soi sáng và trợ giúp của Chúa, cuộc sống
chúng con sẽ được biến đổi ngày càng nên tốt hơn. Và chúng con cũng được
Thiên Chúa Cha và mọi người thương mến như Chúa. Amen.
BÀI 6: Dậy men tin mừng 1
SỐNG TỐT VỚI HÀNG XÓM LÁNG GIỀNG

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được sinh sống
trong một mái ấm gia đình, với tình làng nghĩa xóm và mọi người chúng con gặp
gỡ, liên hệ hằng ngày.
Chúng con xin dâng Chúa giờ học hôm nay với lòng yêu mến của chúng con,
để lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy và noi gương Chúa. Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần
xuống trên chúng con, giúp chúng con học, hiểu và sẵn sàng đáp lại Tình yêu Chúa
đã dành cho chúng con bằng cách sống với Chúa và mọi người ngày càng tốt đẹp
hơn như ý Chúa muốn.
Hát : Hãy chiếu soi lửa hồng…
II. GIẢI THÍCH BÀI HỌC VÀ THẢO LUẬN
1.Giải thích bài học
Tuần qua, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về đời sống ẩn dật của Chúa
Giêsu tại Nadarét, và chúng ta đã thấy được những gương sáng trong cuộc
sống thường ngày của Chúa với Chúa Cha, với Cha mẹ, và với mọi người.
Hôm nay, chúng ta hãy đem áp dụng vào cuộc sống cụ thể của chúng ta với
hàng xóm láng giềng quanh ta.
1.1 Khiêm nhường kính trọng mọi người
- Thomas Merton đã viết một cuốn sách với tựa đề: “Không ai là một
hòn đảo”.
Vâng, cuộc sống của con người là sống cùng, sống với, sống vì người
khác. Trong cuộc sống luôn có những mối tương quan với người khác,
cần có lòng khiêm tốn, kính trọng, yêu thương người khác chúng ta
mới nhận ra giá trị của họ để học hỏi. Vì không ai tự đủ cho mình.
Danh ngôn cũng có câu : “Bất cứ người nào tôi gặp, cũng có chỗ hơn
tôi đáng cho tôi học.”
Khi lên Đền Thờ năm 12 tuổi, Đức Giêsu ngồi giữa các Tiến sĩ luật, sự
khôn ngoan, đối đáp của Chúa khiến mọi người sửng sốt, nhưng thái
độ của Ngài thật khiêm nhường :lắng nghe và học hỏi.
Cuộc sống hằng ngày ở Nadarét cũng vậy, Đức Giêsu luôn khiêm tốn
học hỏi : học nơi cha mẹ, học nơi mọi người, học cầu nguyện, học làm
việc…
Noi gương Chúa Giêsu sống khiêm nhường, kính trọng mọi người,
chúng ta sẽ học được rất nhiều hữu ích ngay trong làng xóm, trường
lớp, xã hội và Giáo hội.
1.2 Gây tình thân ái
Người Việt chúng ta rất quý trọng tình nghĩa xóm làng: “Bán anh em
xa mua láng giềng gần”. Các em thấy, trong Giáo Xứ chúng ta, trong khu
xóm các em : Khi một gia đình nào tổ chức lễ cưới hỏi, tạ ơn, giỗ hay có đám
tang… thì thường mời hàng xóm thân cận trước, và thường được làng
xóm ,láng giềng cùng chia vui sẻ buồn, giúp đỡ nhau như việc của gia đình
mình. Những tình cảm này làm cho niềm vui được nhân lên và nỗi đau được
chia bớt.
Nhưng trong cuộc sống không thể không tránh khỏi những hiểu lầm, nên cần
biết kiềm chế, tha thứ, thông cảm để duy trì những tình cảm tốt đẹp với mọi
người. Tập thói quen chỉ nói chuyện tốt của người khác, quan tâm giúp đỡ
những người yếu kém hơn mình.
1.3 Quan tâm đến ích chung
Cuộc sống chung trong Giáo hội, xã hội luôn có những nơi chốn, những
công việc không thuộc riêng ai, do đó mọi người cần tập sống quên mình,
biết nghĩ đến ích chung, giữ gìn của chung như Nhà thờ, Nhà Nguyện,
Phòng giáo lý, tượng đài, trường lớp, đường xá, công viên…
Khu xóm là nơi cho ta tập sống vì người khác. Người văn minh làm gì
cũng cân nhắc, tránh phiền hà cho người khác, luôn quan tâm đến nhu
cầu của tha nhân. Sống vì người khác, vì ích chung, chúng ta thường phải
chịu thiệt thòi về phần mình và lắm khi chẳng được ai biết đến. Nhưng
chúng ta hãy sống vì, sống cho người khác. Bởi cách sống này góp phần
làm cho làng xóm thêm tốt đẹp và Chúa muốn chúng ta sống như thế.
2. Các em học sinh thảo luận
1.1 Theo em, hiện nay Xóm (Xứ đạo)em cần duy trì hay sửa đổi điều gì
để gây tình thân ái với nhau? Cá nhân em cần làm gì ?
1.2 Nhìn chung, mọi người trong Giáo xứ có quan tâm đến ích chung
không ? Em hãy kể một số việc vì ích chung trong Giáo xứ?

III. DẪN VÀO LỜI CHÚA


Một sinh viên Nhật bản đến văn phòng của một Linh mục ở Boston nói :
“Thưa cha, con đang tìm một đời sống đẹp. Cha có thể chỉ cho con biết phải
tìm ở đâu ?”
Linh mục đáp: “ Chắc anh muốn trao đổi về Tôn giáo ?”.
-Thưa không, con không muốn trao đổi về lý thuyết. Việc đó con thấy nhan
nhản rồi. Con cần thứ khác. Cha biết không, khi còn ở ký túc xá Đại
học Cambridge, con ở chung phòng với một anh thợ mộc mà con cho là có
đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người
khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén đĩa lung tung, đồ ăn để
bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì, nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn,
một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.
Nghe thế, linh mục đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói : “ Hãy cầm lấy. Nếu
anh muốn tìm một đời sống đẹp, anh hãy tìm trong đó.”
Hai năm sau, một người Nhật đến gặp linh mục và nói:
-Cha có nhận ra con không ?
-Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ.
Anh đưa cuốn Thánh kinh ra và nói:
-Con đã tìm thấy đời sống đẹp. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô.
Vâng, để có cuộc sống tốt đẹp với làng xóm và với mọi người. Mỗi người
chúng ta cần biết quên mình,quan tâm đến người khác, vì ích lợi chung của
mọi người. Và không có gương mẫu nào cho chúng ta noi theo đẹp hơn
gương Chúa Giêsu. Và Chúa còn dạy chúng ta yêu thương mọi người không
phân biệt thân hay lạ, bằng những việc cụ thể, thiết thực chứ không chỉ bằng
những lời nói suông như đoạn Tin mừng chúng ta sẽ lắng nghe giờ đây.
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA Lc 10, 25 –37
Thinh lặng giây lát
V.CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nêu gương và dạy chúng con sống yêu thương mọi
người bằng những việc làm cụ thể. Xin Chúa giúp chúng con biết thực thi Lời
Chúa bắt đầu từ trong làng xóm chúng con, đến mọi người con gặp gỡ trong
cuộc sống bằng cách sống khiêm nhường, kính trọng, gây tình thân ái, quan
tâm đến ích chung. Để chúng con ngày càng trở nên giống Chúa hơn hầu đạt
tới sự sống đời đời
Chúng con cầu xin vì Chúa…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
Hát : “gần nhau…” ( Hoài – thương – nhớ )
VII. BÀI TẬP: Em hãy chọn câu đúng nhất :
Để trở thành một thanh thiếu niên được mọi người thương mến, em cần:
a.Kính trọng mọi người, khiêm nhường, lắng nghe và học hỏi.
b.Chia vui sẻ buồn và gây tình thân ái.
c.Quan tâm đến ích chung,quảng đại chấp nhận hy sinh vì ích chung.
d.Cả 3 câu cùng đúng e.Câu a và câu c đúng ( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
Trong lối xóm của bạn, và có khi ngay cả trong gia đình, trong lớp học của
bạn, còn có những người tuy sống gần bên bạn, nhưng vẫn là người “xa lạ”
với bạn. Trong tuần này, hãy tìm dịp để biến một người xa lạ đó trở thành
người thân cận của mình.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con được quen
biết nhau, được cùng học giáo lý với nhau. Xin Chúa giúp chúng con thực
hành điều dốc lòng hôm nay để cuộc sống chúng con ngày càng vui vẻ,
hạnh phúc hơn vì được yêu thương mọi người trong tình thương của Chúa.

BÀI 7 :
ĐỨC GIÊSU SÁNG SUỐT CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Mt 4, 1 – 14

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học Giáo lý hôm nay, xin
chúa ban ơn giúp chúng con luôn tỉnh thức xa tránh những điều xấu và chọn
sống những điều đẹp lòng Chúa.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Có một người đến xin một ông Vua Phương Đông bảo cho biết cách tránh sự
cám dỗ. Vua truyền cho người ấy lấy một bình dầu đầy tới miệng và phải
mang đi quanh thành, không được đổ một giọt nào!
-Nếu ngươi đánh đổ một giọt thì sẽ bị chém đầu ngay.
Vua sai hai tên lính tuốt gươm trần đi kèm hai bên, sẵn sàng thi hành mệnh
lệnh tàn ác đó; hôm ấy, nhằm ngày hội lớn, phố xá đông nghẹt người, hàng
quán la liệt. Người đi mang bình dầu cẩn thận đến nỗi chẳng một giọt nào đổ
ra ngoài. Lúc trở về, Vua hỏi :
-Ở thành phố có gì không ? Ngươi có thấy ai không ?
-Tâu Bệ hạ, tôi chẳng thấy gì và chẳng thấy ai hết. Tôi chỉ chăm chú nhìn
bình dầu.
Đây là phương thế tránh cám dỗ của một ông vua trần gian. Còn Chúa Giêsu,
Ngài có bị cám dỗ không ? Và Ngài có thằng được cám dỗ không ?Mời các em
cùng lắng nghe thánh Matthêu trả lời cho chúng ta trong đoạn Tin mừng sau
đây :
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA: Mt 4, 1-11
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
-Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Mt
-Được viết khi nào? Khoảng năm 80.
Matthêu trình bày Đức Giêsu là Itraen mới, tất cả kho tàng lịch sử Itraen
được sống lại nơi Ngài. Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang
địa chịu ma quỷ cám dỗ. Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu nhắc lại ba cuộc thử
thách của dân Itraen xưa trong sa mạc.Với những câu Đức Giêsu bẻ lại lời
ma quỉ cám dỗ đều là lời trích dẫn từ sách Đệ nhị luật, liên quan tới các biến
cố Xuất Ai cập mô tả trong sách Xuất hành 16 (manna),Xh 17 (nước),Xh
23,20-33 ( các tà thần ). Tất cả những gì là kỷ niệm tiêu cực đối với một dân
tộc: đã nghi ngờ, phản bội, kêu trách Chúa. Ngày nay, nơi Đức Giêsu, Ngài
không muốn phô trương quyền lực cho riêng mình, thì lại là quang cảnh của
cuộc khải hoàn, một giai đoạn lịch sử về thành tín với Thiên Chúa.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn tin mừng Mt 4,1-11 này là một câu chuyên kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào?
Đức Giêsu, Thần khí, Quỷ, thiên Chúa, Các Sứ thần.
- Nhân vật chính : Đức Giêsu
b. Câu tóm ý cả đoạn ? câu 1
c. Đặt tựa đề ngắn : Đức Giêsu thắng cám dỗ
3. Bài học giáo lý
Cám dỗ là gì ?
Cám dỗ là thúc giục phạm tội, bằng cách thuyết phục hay bằng cách cho
nếm một khoái lạc nào đó. Cám dỗ có thể là do thế gian, xác thịt hay ma quỷ. Cám
dỗ do thế gian là sự lôi cuốn của gương xấu và áp lực tâm lý muốn bắt chước. Cám
dỗ do xác thịt là mọi đòi hỏi của dục vọng, đòi hỏi có tính xác thịt hay tinh thần;
trong bản tính sa ngã của con người đã có sẵn những xu hướng nghiêng về bẩy tội
đầu mối. Cám dỗ do ma quỷ là sự xúi dục của ác thần, thúc đẩy con người sống
tham lam hay ích kỷ, rồi từ đó sống kiêu ngạo, và từ kiêu ngạo mà phạm mọi thứ
tội khác.
-Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, nên Ngài cũng bị thử thách. Sau
khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống
và Chúa Cha giới thiệu Ngài là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Sau đó, Chúa Giêsu
đã vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện suốt 40 ngày. Ở đây, Ngài chịu ma quỷ cám
dỗ.
3.1 Trang bị trước
Trong Kinh thánh có một loạt những con số 40, thời gian của đấu tranh và
thanh luyện.
-40 ngày lũt thời Nô-ê
-40 năm dân Ítraen đi trong sa mạc
-40 ngày của Môsê trên núi Sinai
-40 ngày Eâlia miệt mài leo lên đỉnh núi Khorep
-40 ngày Chúa Giêsu trong hoang địa.
Chính thời gian 40 ấy đã trang bị cho họ khả năng để chiến thắng. Hơn ai hết,
chính Đức Giêsu là Vị Thủ lãnh hằng thông cảm với những yêu đuối của chúng ta,
đã chấp nhận thử thách trăm chiều, và ngài đã chiến thắng tên cám dỗ là ma quỷ
để chúng ta được chiến thắng.
Mang thân phận con người, cuộc sống chúng ta cũng gặp những thử thách,
những cám dỗ hàng ngày, ta cần sống hy sinh, cầu nguyện để kín múc sức mạnh từ
Chúa mà tỉnh thức chống lại những cám dỗ, những thèm khát tự nhiên, từ bỏ các sở
thích và ý riêng để thi hành ý Chúa.
*Tóm ý : Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cần dành thời giờ sống cầu
nguyện, tập quen hy sinh để được thêm sức mạnh của Chúa mà thắng
cám dỗ.
3.2 Quỷ dữ tấn công bằng cách nào ?
Ma quỷ rất tinh ranh, chúng thường dùng nhiều cách để cám dỗ :
a. Quỷ dữ hành động như một con chó :
Thánh Inhaxiô đã viết : “Khi người tập tành trong đàng thiêng liêng
thẳng tay chống trả các cơn cám dỗ bằng cách làm điều ngược lại, thì ma quỷ
sẽ khiếp đảm và bỏ chạy. Trái lại, nếu người ấy bắt đầu sợ hãi và mất can
đảm trước cơn cám dỗ, thì trên mặt đất này không có vật nào hung dữ bằng
ma quỷ, để theo đuổi ý định xấu xa của nó” ( LT số 325).
Vâng, ma quỷ như một con chó, nếu ta can đảm chống lại, nó sẽ cúp
đuôi bỏ chạy. Ma quỷ chỉ mạnh mẽ khi ta hèn nhát. Do vậy, khi nhận ra
những cám dỗ làm điều xấu, chúng ta phải dứt khoát chống trả, phải mau
mắn làm theo ý Chúa từ những điều nhỏ nhất. Satan không thể dùng sức lực
tàn bạo để khuất phục những ai đã thuộc về Đức Kitô.
b. Quỷ dữ hành động trong bóng tối:
Thánh Inhaxiô còn so sánh ma quỷ với một người tình giả dối : “ luôn
tìm cách tránh né, không muốn bị phát hiện. Khi muốn cám dỗ người khác,
người ấy muốn những lời mình nói, những việc mình yêu cầu được giữ kín”
( LT số 326 )
Khi ma quỷ đã gieo vào lòng chúng ta những điều xấu, chúng ta sẽ
cảm thấy bối rối, bất an. Hãy can đảm nói ra những gì làm ta bối rối, bất an
với Cha mẹ, Linh mục giải tội, những vị linh hướng…Quỷ sẽ hết lợi dụng ta
được. Vì ma quỷ biết rằng nó không thể thành công trong các việc xấu của
nó, nếu những sự lứa dối đó bị phát giác.
c. Quỷ luôn tìm chỗ yếu của linh hồn để tấn công
Sau hết, Thánh Inhaxiô ví ma quỷ giống như một nhà Chỉ huy quân
sự. Ông ta nghiên cứu tình hình, dò xem những điểm yếu về thể lý và tâm lý
của đối phương, rồi tấn công vào “ điểm yếu nhất”. Ma quỷ cũng vậy, nó
nghiên cứu cá tính của ta và tìm chỗ yếu nhất. Nếu ta có tính nhút nhát, nó
sẽ tìm cách làm ta ra hèn nhát; nếu ta ưa khoe khoang, nó sẽ tha hồ nịnh bợ
ta; nếu ta nặng tình cảm, nó sẽ thôi thúc ta nuôi một lòng đạo đức nặng cảm
xúc, không có nội dung mà chỉ có hình thức…vì vậy, biết mình và biết những
điểm yếu của mình là một điều vô cùng hệ trọng. Một khi ta biết rõ những
điểm ấy rồi, ta có thể dâng lên Chúa để Người chữa lành và thế là ma quỷ
thua cuộc.
*Tóm ý : Ma quỷ thường dùng nhiều cách để tấn công chúng ta, nên chúng
ta phải can đảm chống lại điều xấu, thành thật nói ra với những
người hữu trách những gì làm ta bối rối, và đề cao cảnh giác điểm
yếu của mình để được Chúa luôn làm chủ cuộc đời chúng ta.
3.3 Tự trang bị
Chúng ta biết ma quỷ rất tinh khôn, chúng thường thay đổi chiến thuật để
cám dỗ chúng ta. Không phải lúc nào ta cũng có thể nhận ra bộ mặt của chúng để
phòng ngừa. Để phân định đâu là ý Chúa, đâu là cám dỗ của ma quỷ, chúng ta
phải trông cậy vào ơn Chúa giúp.Phải trang bị cho mình bằng việc học hỏi Lời
Chúa, chuyên cần cầu nguyện, hy sinh hãm mình… Theo gương Chúa Giêsu, trước
khi lên đường rao giảng, Ngài đã tự trang bị bằng 40 ngày ăn chay và cầu nguyện.
Từng ngày trong cuộc sống, cũng như trước mỗi lựa chọn và quyết định nào, Đức
Giêsu luôn dành giờ gặp gỡ Chúa Cha để biết ý Chúa Cha và kín múc sức mạnh từ
nơi Cha mà thi hành.
Kinh nghiệm cho ta thấy thân phận mình yếu đuối, vẫn luôn có những vấp
phạm trong cuộc sống, nhưng đừng nản lòng vì Chúa đã phán: “hãy vững lòng, vì
Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Và “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày
cho đến tận thế.”( Mt 28,20 )
*Tóm ý : Chúng ta hãy tự trang bị cho mình sức mạnh để thắng cám dỗ bằng
việc học hỏi Lời Chúa, siêng năng cầu nguyện và luôn tin tưởng, phó
thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa.
*Tóm ý toàn bài : Kẻ thù của bản tính nhân loại là thế đó : một con chó tấn
công kẻ yếu, một gã ưa lừa đảo, một tay chiến thuật thông minh hơn
chúng ta nhiều. Rất may,chúng ta không phải chiến đấu một mình. Đức
Kitô mới là kẻ thù thực sự của nó. Chúng ta lại thuộc về Người. Chúng ta
có thể bỏ Chúa khi chiều theo cám dỗ. Nhưng bao lâu còn bám vào
chúa, thì những ngón nghề lừa đảo của Thần dữ cũng sẽ trở thành
phương thế giúp thánh hoá ta, vì : “Đối với những ai yêu mến Chúa, thì
mọi sự đều biến thành tốt” ( Rm 8, 28 )
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, lời Thư Do thái đã viết về Chúa : “ Bởi Vị Thượng tế của
chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thông với những nỗi yếu hèn của
chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta,
nhưng không phạm tội” ( Dt 4, 25 ).
Chúa đã chiến thắng tên cám dỗ. Xin cho chúng con cũng biết nhìn lên gương
Chúa : sống gắn bó với Chúa Cha trong kinh nguyện và hy sinh, hầu kín múc sức
mạnh từ Chúa Cha và Chúa Thánh Thánh Thần, giúp chúng con luôn tỉnh thức và
mạnh mẽ chống trả những cám dỗ ,để dời sống chúng con trở nên của lễ thánh
thiện dâng tiến Chúa mỗi ngày, cho Vinh danh Chúa hơn và mưu ích cho các linh
hồn. Chúng con cầu xin…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP: Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Quỷ dữ thường tấn công bằng cách:
a.Quỷ dữ hành động như một con chó.
b.Quỷ dữ hành động trong bóng tối.
c.Quỷ dữ tìm chỗ yếu của linh hồn để tấn công.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
2. Để sáng suốt chiến thắng cám dỗ, em cần:
a.Sống cầu nguyện b.Tập quen hy
sinh, từ bỏ ý riêng
c.Can đảm dứt khoát với những xúi dục của ác thần. d.Cả 3 câu đều
đúng. ( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên chúa và tình thương của Người ?
-Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người cũng chịu cám dỗ như chúng ta,
nhưng Ngài đã chiến thắng.
-Chúa Giêsu đồng cảm với thân phận yếu đuối của chúng ta
2. Gương tốt nên theo ? Noi gương Chúa Giêsu:
-Sống gắn bó với Chúa Cha
-Dứt khoát chống trả với cám dỗ.
3. Hôm nay Thiên Chúa muốn dậy riêng tôi điều gì ?
Cần biết làm chủ mình, hy sinh, cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa và thường
xuyên kiểm điểm đời sống.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa về giờ học hôm nay. Xin Chúa giúp
chúng con thực hành điều chúng con quyết tâm , để chúng con thắng được
những cám dỗ trong cuộc sống chúng con. Và ngay cả khi yếu đuối sa ngã,
xin giúp chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa tín trung tha
thứ. Amen.
BÀI 8 :
BƯỚC THEO CHÂN CHÚA
Ga 1, 35 – 51
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, này chúng con đây đang bắt đầu giờ học giáo lý. Xin
dâng lên Chúa từng người trong lớp chúng con,xin Chúa ban ơn, giúp
chúng con học giờ này với tất cả lòng yêu mến và thao thức được nghe
Chúa dạy dỗ chúng con.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…..
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Trên con đường Đamas, bóng ngựa phi vun vút, cuốn hút cát bụi mịt mù.
Những bóng người hung hăng với gươm giáo và chiếc áo khoác bay theo chiều gió.
Đột nhiên, một vầng sáng chói loà và tiếng nói rền vang như sấm khiến anh chàng
phi tuấn mã bị quật ngã té nhào- mà những cận vệ của anh không hiểu điều chi !
Sau những phút hoàn hồn, mắt Anh không còn nhìn thấy thế giới bên ngoài,
anh bàng hoàng sợ hãi thưa với Đấng gọi tên mình : “Lạy Ngài, Ngài là ai ? Ngài
muốn tôi làm gì ?”
Đó là cách thế Chúa gọi Saolô và Chúa đã làm cho anh từ một kẻ lùng bắt đạo
Chúa trở thành Tông đồ dân ngoại, một biệt danh chỉ dành cho Phaolô. Và Chúa
cũng vẫn đang kêu gọi mỗi người chúng ta bước theo Ngài, như xưa Chúa đã gọi
các môn đệ mà chúng ta sẽ cùng nhau nghe Thánh Gioan kể lại trong đoạn Tin
mừng sau đây :
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 1, 35 –51
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Gioan
Được viết ở đâu ? Eâphêsô
Thời gian viết ? Cuối thế kỷ thứ I
Đoạn Tin mừng này nằm trong khuôn khổ biến cố nhập cuộc của Đức Giêsu,
trong lúc dân chúng đang mong đợi Đấng Mêsia, họ muốn được thấy Ngài, thì
Đức Giêsu xuất hiện, bắt đầu cuộc đời công khai. Tất cả diễn ra trong quan hệ
với Gioan, gồm 3 màn :
-Gioan đứng trước một toán điều tra, tuyên bố : Không, tôi không phải là
Đấng Kitô; Vị Kitô thiệt đang ở giữa dân chúng mà bà con không biết
(19.28)
-Gioan đứng trước mặt Đức Giêsu. Ông làm chứng cách tích cực : “Kia là Con
Thiên Chúa) (29.34 )
-Sau hết, Gioan tách mình ra khỏi đám môn đồ, chỉ cho họ tìm tới Đức Giêsu.
Và Đức Giêsu bắt tay tổ chức một nhóm hướng về tương lai.
2.Các em học sinh thảo luận
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả, Hai môn đồ của Gioan Tẩy giả, Simon,
Philipphê, Nathanaen
-Nhân vật chính : Đức Giêsu
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 45
c. Đặt tựa đề ngắn : Những môn đệ đầu tiên.
3.Bài học giáo lý
3.1 Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?
Các Tin mừng Nhất lãm giới thiệu các môn đệ đầu tiên được Chúa gọi theo
Ngài, khi các ông đang làm công việc thường nhật của mình ( Mt 4,18-19.21-
22; Mc1,16-20; Lc 5,1-11). Và họ đã mau mắn đi theo Ngài ( Mt 4,20.22 )
Riêng Tin mừng Gioan cho thấy: dường như nơi bản thân các bạn trẻ đang
thao thức gặp Đấng Mêsia qua việc họ thắc mắc với Gioan Tẩy giả. (Ga
1,19.29)
Gioan Tẩy giả đã thẳng thắn cho họ biết ông không phải là Đức Kitô mà chỉ là
người dọn đường. Và khi Đức Giêsu xuất hiện, Gioan đã giới thiệu Ngài chính
là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ của Gioan đã lên đường bước theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại
hỏi họ và mời họ đến với Ngài. Họ đã đến và ở lại với Ngài.
Ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên, môn đệ đã gọi Đức Giêsu là “ Thầy”, và đi loan
báo cho anh em, bạn hữu “Ngài là Đấng Mêsia”. Đấng đã được tiên báo trong
sách Luật và các Tiên tri, là người cả thiên hạ mong chờ như một thủ lãnh
toàn dân. Họ đã gặp chính vị đó, như là “Con Thiên Chúa, Vua Ítraen.”
Các môn đệ của Đức Giêsu là những người trẻ, năng nổ, thao thức tìm kiếm
chân lý, họ cố sức nhận định để biết đâu là giá trị thật và ai mới là vị Thầy
đích thực phải theo.
Trong thế giới hôm nay cũng có nhiều tiếng gọi thôi thúc giục giã lên đường :
đất nước, kiến thức, thể thao, du lịch,,,Đó cũng là những Gioan Tẩy giả Chúa
dùng để lôi kéo chúng ta thao thức tìm kiếm Chúa, để rồi tới lúc ta đã biết
suy nghĩ hơn, khao khát gặp Chúa, thì Đức Giêsu sẽ quay lại, âu yếm nhìn ta
và hỏi : “Bạn tìm ai ?”.Rồi cũng như Gioan và Anrê, ta sẽ hỏi Ngài: “Thưa
Thầy, Thầy ở đâu?”
*Tóm ý: Chỉ có Chúa Giêsu mới là lý tưởng, là vị Thầy đích thực
của ta. Chúng ta hãy luôn tìm kiếm, gặp gỡ và ở lại với Chúa trong
cuộc sống hàng ngày để được Chúa dạy dỗ, hướng dẫn cuộc đời
chúng ta.
3.2 Tinh thần của người môn đệ
Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ từ những hoàn cảnh, nghề nghiệp khác
nhau…Một số người trong họ đã quen biết nhau trước, có những người chưa
bao giờ biết nhau. Từ khi được Chúa Giêsu chọn gọi, họ đã sống gắn bó với
Chúa, trở nên bạn hữu của nhau, liên kết với nhau thành một nhóm, sống
dười sự dẫn dắt của Thầy Giêsu, mang lấy tinh thần của Ngài, sống theo giáo
huấn của Thầy qua tinh thần Bài giảng trên núi : nghèo khó,hiền lành, sầu
khổ, khao khát nên công chính, thương người, trong sạch, xây dựng hoà
bình, chịu bách hại vì đạo. Đây chính là con đường mà Thầy Giêsu đã đi để
nêu gương cho ta. Khi sống các mối phúc, cuộc sống chúng ta sẽ được biến
đổi nên tốt lành, thánh thiện, và sẽ được hưởng hạnh phúc đích thật là chính
Chúa.
*Tóm ý: Là môn đệ của Chúa, chúng ta sống theo tinh thần của
Chúa bằng việc thực hành các mối phúc. Đây là con đường Chúa đã
đi để ta noi theo mà nên giống Chúa hơn.
3.3 Nhập cuộc và khao khát được biến đổi
Trong cuộc sống, có những biến cố, những kỷ niệm ghi đậm nét trong tâm
hồn và làm thay đổi cuộc đời chúng ta…
Thánh Gioan đã viết lại kinh nghiệm gặp gỡ Chúa của mình: lúc ấy là 4 giờ
chiều, buổi chiều đầu tiên Gioan được gặp Chúa, được “nếm” thử Chúa để
“thèm” Chúa, khao khát Chúa. Chính vì thế, trên con đường theo Chúa sau
này, Gioan luôn theo Chúa thật sát và trung thành. Gioan nhận mình là “
người môn đệ Chúa yêu”.
Đáp lại lòng khao khát của Gioan, Chúa Giêsu đã để Gioan được ở bên Ngài
trong mọi biến cố vui buồn của Chúa: Trên núi Ta-bo, trong vườn Cây Dầu và
trên đỉnh Núi Sọ.
Các em hãy mở Tin mừng ra, đọc một đoạn, xin Chúa Thánh Thần giúp ta
hình dung khung cảnh, câu chuyện, nhập vai, mang lấy tâm tình của những
người đang gặp Chúa để nếm cảm tình yêu Chúa đã dành cho chúng ta và
đang kêu mời ta đáp trả. Hãy chiêm ngắm Chúa, sống gần gũi Chúa, khao
khát Chúa,chắc chắn cuộc sống ta sẽ được biến đổi nên giống Chúa.
*Tóm ý: Có biết Chúa Giêsu , có nếm thử Chúa một lần, ta mới
không nguôi khao khát Chúa. Nhờ đọc Kinh thánh ta sẽ hiểu biết
Chúa Giêsu hơn, và nhờ năng gặp gỡ Ngài qua việc cầu nguyện, ta
sẽ sống gắn bó với Ngài hơn.
*ToÙm ý toàn bài : Thánh Augustino đã kể lại kinh nghiệm : Ngài chỉ tìm
được hạnh phúc ,bình an khi gặp được Chúa. Và khi gặp chúa, nếm cảm tình
yêu Chúa thì không thể xa Chúa được. Như các môn đệ xưa, chúng ta cũng
hãy thao thức tìm kiếm Chúa. Chúa sẽ ban cho ta kinh nghiệm được Chúa
yêu và được yêu Chúa. Có như thế cuộc sống chúng ta sẽ đạt được hạnh
phúc đích thực là chính Chúa.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy chúa Giêsu, vì yêu thương, Chúa đã chọn gọi các môn đệ xưa theo
Chúa, để các Ngài tìm được hạnh phúc vĩnh cửu. Xin cho hết mọi người trên thế
giới, đặc biệt các người trẻ chúng con đang khao khát đi tìm lý tưởng sống cho
chính mình, tìm gặp được chính Chúa là Vị Thầy đích thực, là lý tưởng sống, giúp
chúng con hăng hái lên đường theo Chúa mỗi ngày, sống theo những lời giáo
huấn của Chúa, để cuộc đời chúng con ngày càng gắn bó với Chúa hơn, và được
biến đổi nên giống Chúa hơn, hầu qua cuộc sống chúng con mọi người nhận biết
Chúa là Chân-Thiện –Mỹ. Chúng con cầu xin….
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP: Người môn đệ của Chúa Giêsu sống theo tinh thần nào ? - Tám mối
phúc:………..
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Đức Giêsu là Chiên Thiên chúa, Đấng Mêsia. Ngài có sức thu hút giới trẻ.
2. Gương tốt nên theo?
-Gioan Tẩy giả : khiêm tốn nhìn nhận sự thực về mình, xoá mình đi để đề
cao Đức Giêsu.
-Chúa Giêsu : ân cần, quan tâm đến người khác.
-Các môn đệ : khao khát chân lý, mau mắn lên đường theo lời mời gọi của
Chúa.
3. Qua bài học này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, các môn đệ đã bỏ tất cả mà theo Chúa
Giêsu. Để bước theo Chúa Giêsu, tôi cần phải từ bỏ điều gì? Điều gì đang
cản trở tôi trở nên môn đệ Chúa Giêsu?
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã gọi chúng con đến để
gặp gỡ Chúa trong giờ học giáo lý hôm nay.Xin Chúa giúp chúng con
luôn mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi chúng con trong cuộc sống hàng
ngày.Amen.

BÀI 9 :
LẠY CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI
Mt 6, 9 - 13
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay, xin Chúa ban
Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập tâm hồn chúng con, giúp chúng con đón
nhận lời dậy của Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Cha với tất cả lòng yêu
mến của chúng con. Amen
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Con gái ông K.Marx có lần đã thú nhận với người bạn của bà rằng: từ nhỏ, bà
đã không được hướng dẫncho biết cóThiên Chúa, tôn giáo và tín ngưỡng.
Chính bà cũng không hề cảm thấy có một tâm tình tôn giáo nào.Tuy nhiên,
một ngày kia, tình cờ đọc được một lời kinh của người Kitô hữu,bà hằng
mong ước những câu kinh ấy sẽ biến thành sự thực…Nghe nói thế, người bạn
của bà không khỏi ngạc nhiên và hỏi: “ Kinh gì mà hay thế?”.Thay vì trả lời,
người con gái của ông K.Marx chậm rãi đọc Kinh Lạy Cha. Vâng , đây là lời
kinh của chính Đức Giêsu dạy các môn đệ và Hội thành.là lời kinh căn bản
của Kitô giáo. Thánh Luca ghi lại bản Kinh Lạy Cha ngắn ( có 5 lời nguyện
xin).Còn Thánh Matthêu ghi lại bản dài hơn ( có 7 lời nguyện xin ). Truyền
thống phụng vụ của Hội thánh sử dụng bản văn Matthêu. Mời các em cùng
lắng nghe bản kinh tuyệt hảo này.

III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 6,9-13


-Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
-Đoạn Kinh thánh này của ai viết ? Matthêu ( Lêvi )
-Thời gian viết : khoảng năm 80
Kinh Lạy Cha gồm 3 phần chính :
- Lời mở đầu : “Lạy Cha chúng con ở trên trời” : hướng chúng ta lên Chúa
và tập trung tất cả vào Người.
- Ba lời nguyện tôn vinh Danh Chúa, Nước Chúa, và Thánh ý của Người
- Bốn lời cầu xin cho những nhu cầu của con người : vật chất cũng như
tinh thần, nài xin sự nâng đỡ của chúa để thắng vượt tội lỗi, các cơn cám
dỗ và ác thần.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin mừng Mt 6,9-13 này là một bài giảng
a. Đoạn văn có những từ ngữ hoặc cụm từ nào quan trọng?
Cha chúng con, Danh Cha, triều đại Cha, ý cha,lương thực, tha tội, cám
dỗ, sự dữ.
b. Câu tóm ý : câu 9
c. Đặt tựa đề ngắn : Kinh Lạy Cha
3. Bài học giáo lý
Đáp lại lời xin của các môn đệ : “ Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện” (Lc 11,1). Đức Giêsu đã dạy cho các ông lời kinh căn bản của Kitô
giáo là Kinh Lạy Cha. Qua những lời kinh này, Con Một Thiên Chúa trao cho
chúng ta những lời Ngài đã nhận được từ Chúa Cha. Ngài là Thầy dạy
chúng ta cầu nguyện. Mặt khác, vì là Ngôi Lời Nhập Thể, Ngài biết rõ những
nhu cầu của chúng ta, những anh ,chị em của Người theo nhân tính. Ngàøi
là mẫu mực hướng dẫn chúng ta cầu nguyện.
3.1 Chúa Giêsu sống với Cha Ngài
Khi yêu mến ai, chúng ta hay nghĩ đến người ấy, muốn ở gần, gặp gỡ,
tiếp xúc thân mật và làm theo ý họ…
Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: “lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến
để thực thi ý Ngài” ( Dt 10,7 ). Vì yêu Đức Chúa Cha, nên cả cuộc đời
Đức Giêsu luôn qui hướng về Cha, luôn sống theo ý Chúa Cha. Chỉ mình
Chúa Giêsu mới có thể nói : “Tôi hằng làm những điều đẹp ý Người”
( Ga 8,29 ). Ngài đã sống gắn bó với Chúa Cha cho đến cùng: “Lạy Cha,
xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” ( Lc 22,42 ). “Lạy Cha, con xin
phó thác hồn con trong tay Cha”.
Càng theo chân Chúa Giêsu, các môn đệ càng khám phá ra Ngài luôn
sống gắn bó với Chúa Cha. Họ luôn gặp thấy Ngài cầu nguyện lúc sáng
sớm, khi chiều về, trước những việc quan trọng ( chọn các Tông đồ, bắt
đầu đời rao giảng…) trước mọi biến cố. Nhiều lần Ngài cầu nguyện suốt
đêm ( Lc 6,12 ), và Ngài thường cầu nguyện nơi thanh vắng, trong kín
đáo âm thầm, nhưng cũng có lúc Ngài cắt ngang câu chuyện với dân
chúng để cầu nguyện với Cha ( Lc10,21; Ga11,9). Và Ngài đã dạy các
môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy cha, lời kinh do chính Ngài sáng tác,
ta gọi là “Lời kinh của Chúa”. Lời kinh đầy tình con thảo của Ngài là
khuôn mẫu hoàn hảo nhất cho ta về cầu nguyện. Được nguyện Kinh Lạy
Cha và được ơn sống đời làm con Thiên Chúa, ta ước ao được giống Cha
trên trời là Đấng nhân từ , thánh thiện và quyết tâm luôn sống khiêm
nhường, phó thác trong tay Cha.
Tóm ý: Chúa Giêsu luôn sống gắn bó với Chúa Cha bằng đời sống cầu
nguyện, đón nhận và thực thi ý Chúa Cha. Noi gương Chúa Giêsu,
chúng ta hãy siêng năng cầu nguyện để nhận biết ý Chúa và được thêm
sức mạnh Chúa ban mà thi hành ý Chúa, để ngày càng lớn lên trong
tình con thảo
3.2 Lạy Cha
Trong cựu ước, không có kinh nguyện nào cầu khẩn Thiên Chúa cách
trực tiếp với danh xưng “Lạy cha”. Nơi Đ ức Giêsu, xuất hiện mối quan
hệ hoàn toàn mới mẻ với Thiên Chúa, thể hiện qua tiếng gọi “ABBA, Cha
ơi!” Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và được Người nhận chúng ta
làm con của Người.
. Do đó, khi cầu nguyện với kinh Lạy Cha, Ba ý nguyện đầu chúng ta nói
lên tâm tình hiếu thảo, biết ơn, muốn quy hướng tất cả về Cha là Đấng
ta hằng yêu mến trên hết mọi sự.
. Khi nguyện “Danh Cha cả sáng”, chúng ta ước ao cho mọi người nhận
biết và tôn thờ Thiên Chúa, và cho bản thân ta được sống thánh thiện
trước mặt Người.
. Khi nguyện “ Nước Cha trị đến”, chúng ta mong thấy ngày Chúa Kitô
đến hoàn tất Nước Thiên Chúa, đồng thời quan tâm làm cho tinh thần
Nước Thiên Chúa được ngày càng thấm sâu vào cuộc sống bản thân, gia
đình và xã hội.
. Khi nguyện cho “ ý cha thể hiện”, chúng ta cầu xin cho mọi người được
cứu độ và chính chúng ta biết thực hiện ý Chúa mỗi ngày.
Tóm ý: Khi gắn bó với Chúa Kitô, chúng ta có thể một lòng ,một ý với
Người mà gọi Thiên Chúa là Cha, sống hết tình con thảo với Người bằng
cách nguyện xin và góp phần làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha hiển
trị và ý cha được thể hiện nơi mọi người trên khắp địa cầu, để mọi người
được cứu độ.
3.3 Lạy Cha chúng con
Ta không nói : “Lạy Cha của con”, nhưng nói: “Lạy Cha chúng con”, bởi
vì ta thuộc về gia đình con cái Thiên Chúa và là dân của giao ước mới,
có sứ mạng hợp nhất mọi người, là anh em của mọi người. Khi dâng lên
Chúa Cha bốn ý nguyện sau là ta mở rộng lòng yêu thương, phó thác
mọi anh em chúng ta trong bàn tay yêu thương quan phòng của Cha.
. Với lời cầu xin Cha ban lương thực để sống, ta không cầu xin cho riêng
bản thân nhưng cho mọi người, đồng thời mời ta sống cho nhau những
nhu cầu trong cuộc sống.
. Khi cầu xin ơn tha thứ, ta nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và tin
vào tình thương của Chúa là Cha, đồng thời ta cũng tha thứ cho tha
nhân. Tha thứ không chỉ là không trả thù hay quên đi lỗi phạm của
người khác, mà còn là giải thoát, tái lập mối quan hệ đã bị bẻ gãy. Đó là
lời cầu xin của Chúa Giêsu trên Thánhgiá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ
lầm không biết”(Lc 22,34)
.Khi cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, ta biết rằng: ơn Chúa luôn đủ
cho ta, ta cần cầu nguyện và tỉnh thức đề phòng để chiến thắng.
.Khi cầu xin Thiên Chúa cứu khỏi sự dữ, ta nhớ mình lệ thuộc Thiên
Chúa và cần được Chúa cứu khỏi mưu mô ma quỷ và gìn giữ khỏi mọi
điều nguy hại, xấu xa.
Tóm ý: Được gọi Thiên Chúa là “Cha của chúng con” chúng ta hiệp thông
với mọi anh chị em, cùng dâng lên Chúa Cha lòng tín thác. Xin Chúa
nuôi dưỡng, tha thứ, gìn giữ hồn xác chúng ta. Đồng thời sống liên đới,
chia sẻ, tha thứ cho nhau như Chúa đã truyền dạy.
3.4 Cha đang cho con tất cả
Thiên Chúa là Cha chúng ta, Người yêu thương hết mọi người và tình
thương của Người không bị giới hạn như những tình cha trần thế. Thiên
Chúa yêu ta từ thuở đời đời, mọi nơi, mọi lúc chúng ta luôn sống dưới
yêu thương che chở của Cha trên trời.
Như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta hãy hoàn toàn phó thác đời
mình trong tay Chúa, chỉ biết sống theo ý Chúa rồi mọi chuyện để Chúa
lo. Chúng ta hãy tập cảm nghiệm tình Cha bằng “tạ ơn theo hơi thở” :
hãy thưa “Cha đang cho con tất cả” (hít vào), và “Xin Cha nhận lấy con
đây” (thở ra ). Hay những lời nguyện tắt liên lỉ để cảm tạ tình yêu của
Cha trên trời hằng ban tràn đầy trên cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần giúp ta ngày một khám phá thêm tình Cha của
Thiên Chúa và thốt lên tận đáy lòng chúng ta: “Abba, Cha ơi !”
Tóm ý: Chúng ta hãy tập cảm nghiệm tình yêu Chúa triền miên trong cuộc
sống hằng ngày bằng cách tạ ơn theo hơi thở, bằng những lời nguyện
tắt vì Chúa hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
Tóm ý toàn bài : Chúng ta có thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha, vì Đức Giêsu
đã dạy ta như thế. Trong Kinh Lạy Cha, ba lời nguyện đầu hướng về
vinh quang của Cha : Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể
hiện. Bốn lời xin sau trình lên Người những gì cần thiết cho đời sống của
mình: lương thực, ơn tha tội và ơn phù trợ để đạt tới điều thiện, và
thắng được sự ác. Chúng ta cầu xin Chúa vì Chúa là Cha toàn năng và
hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, nhờ Chúa Giêsu Kitô Con Cha, chúng
con được gọi Chúa là Cha. Chúng con xin dâng lên Cha những tâm tình tha
thiết,yêu mến nhất mà Chúa Giêsu đã dạy chúng con thân thưa với Cha :
“Lạy Cha chúng con ở trên trời… Amen.”
VI. SINH HOAT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ
Kinh Lạy Cha gồm mấy phần chính? Em hãy kể ra.
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài yêu thương và ban cho ta tất cả.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Khi đọc Kinh Lạy Cha, tôi không đến một mình trước nhan Cha, mà đến với
Chúa Giêsu, trong Thánh Thần và cùng mọi anh chị em, với tình con thảo
vàtình yêu mến, hiệp thông huynh đệ, đồng thời để cho các lời kinh ấy biến
đổi tâm hồn và cuộc sống của tôi.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ.
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha đã ban cho
chúng con giờ học giáo lý vừa qua, để chúng con hiểu biết hơn tình thương
Cha đã dành cho chúng con. Xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là
những người con hiếu thảo của Cha. Sáng Danh Đức Chúa Cha và …

BÀI 10 : Dậy Men Tin Mừng 2


CON CÓ MỘT TỔ QUỐC
Mt 9, 35 - 38

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, chúng con đến với Chúa để được gặp gỡ Chúa trong giờ học
Giáo lý hôm nay. Xin Chúa hãy đến và ở lại với chúng con. Xin cho chúng con biết
lấy việc học của chúng con để chứng tỏ lòng chúng con yêu mến Chúa.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng để giúp chúng con lắng nghe, nhìn ngắm và
hành động theo gương Chúa Giêsu.
Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II- GIẢI THÍCH BÀI HỌC
Tuần trước, chúng ta vừa tìm hiểu kinh nguyện do chính Chúa Giêsu soạn và
dạy chúng ta. Đây là những tâm tình xuất phát từ cuộc sống gắn bó của Chúa Giêsu
với Chúa Cha, Ngài hạnh phúc vì được làm con của Cha, Ngài nhận lãnh mọi sự từ
nơi Cha, và cả cuộc đời Ngài luôn hướng về Cha, tích cực xây dựng Nước Cha( ba
lời nguyện đầu). Vì vâng phục Chúa Cha, Ngài trở thành một công dân Do thái,
sống những thực tại trần gian và luôn qui hướng về những thực tại trên trời.
Các em thân mến, khi các em khai lý lịch, hay đến tuổi 15, khi làm giấy chứng
minh nhân dân, thường các em phải ghi Quốc tịch: Việt nam. Điều đó nói lên các
em là công dân của Nước Việt nam, thuộc về Tổ quốc Việt nam.
Lên 12 tuổi, người thiếu niên Do thái được coi là bắt đầu có tư cách để tham
gia các sinh hoạt của dân Chúa. Là công dân của một nước, mỗi người phải góp
phần xây dựng đất nước, nhất là những người trẻ chúng ta, là sức mạnh, là tương
lai của đất nước.
1. Người công dân trẻ
Một trong những đặc tính của con người là mang tính xã hội, sống liên đới với
nhau. Mỗi người chúng ta đều được sinh ra và lớn lên trong một gia đình, với làng
xóm, khu phố, quận , huyện…Đó là xã hội.
Tổ chức vững chắc của xã hội là Nước (Quốc gia). Nước do cha ông để lại nên
gọi là Tổ quốc. Tổ quốc ta là Tổ quốc Việt nam.
Học lịch sử, các em biết Ông bà Tổ tiên chúng ta đã trải qua bao gian khổ, hy
sinh xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước. Để đến ngày hôm nay,mỗi gia
đình chúng ta có đất đai để xây dựng nhà cửa, để trồng trọt, có tiếng nói và đạo lý
của dân Việt mình cùng được hưởng bao điều khác nữa.
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức xã hội tươm tất để phục vụ ích chung, nên ta
có bổn phận tuân theo luật pháp nhà nước.
Là người công dân Kitô hữu, chúng ta cần sống đức công bằng và bác ái đối
với Tổ quốc bằng việc tích cực góp phần giữ gìn và xây dựng quê hương đất nước.
Câu hỏi thảo luận: Là công dân của Nước Việt nam, em được hưởng những
di sản gì của đất nước?
- Di sản vật chất: lãnh thổ, cảnh đẹp thiên nhiên, môi trường sống, vệ sinh
chung, công sở, trường lớp, đường sá…
- Di sản tinh thần : di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, tiếng nói và đạo lý
Việt nam.
2. Một lá thư
Các em thân mến, các em thấy thường xuyên, đặc biệt vào dịp Tết Nguyên
đán, Việt kiều về thăm quê hương rất đông.Tại sao ? Đó là tình cảm gắn bó của
những người gắn bó của những người công dân Việt nam dành cho Tổ quốc mình,
với tình làng nghĩa xóm, xuất phát từ sự cảm nhận những tình cảm thiêng liêng Tổ
quốc đã dành cho mình. Bức thư của một người Cha viết cho con mình đã nói lên
điều đó.
-Các em cùng đọc bức thư ( x. sách học sinh trg49)
Đây là những lời tâm huyết của một người Cha viết cho con mình ,để khuyên
dạy con cách sống của một người công dân tốt đối với Tổ quốc Việt nam : Hãy cảm
thấy Tổ quốc là thiêng liêng, và biết rằng khi ta được thuộc về một dân tộc, được
sống trên mảnh đất của Tổ tiên là niềm hạnh phúc lớn lao.
Theo gương Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài cũng đã thuộc về một
Tổ quốc là nước Do thái, Ngài trở thành người Do thái, sống dưới lề luật của Tổ
quốc Ngài và hết tình gắn bó, xây dựng đất nước. Là người Việt nam, chúng ta cũng
cần sống gắn bó mảnh đất Việt nam, phải nhớ ơn những người đã hy sinh xây dựng
Tổ quốc. Vì có gắn bó với quê hương trần thế ta mới hiểu được thế nào là quê
hương trên trời. Có tha thiết với lịch sử nước nhà, ta mới hiểu được thế nào là lịch
sử cứu độ. Và có sống tốt vai trò của người công dân trần thế, chúng ta mới được
trở nên công dân nước trời mai sau .
Tổ quốc thiêng liêng như thế đó , được thuộc về một dân tộc , được sống
trong nước Việt Nam là niềm hạnh phúc . Thế nhưng cũng có những người đã không
xây dựng tổ quốc mà còn phá hoại . Các em hãy cùng thảo luận để thấy rõ vấn đề
này .
* Câu hỏi thảo luận :
§ Qua tivi , phim ảnh, hay nhìn vào thực tế xã hội hôm nay, Em thấy có những
hiện tượng nào đi ngược với lòng yêu nước thương dân? (Buôn bán ma tuý,
phá rừng, trốn thuế, tham nhũng, trộm cắp của công, lười biếng…)
§ Là những người công dân trẻ, tương lai của Tổ quốc Việt nam thân yêu.
Chúng ta đã hiểu Tổ quốc là thiêng liêng, là gần gũi. Nhưng chúng ta cũng
thấy có những thành phần đang phá hoại Tổ quốc.Vậy chúng ta phải làm gì
đây ?
3. Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
Điều răn thứ tư còn dạy ta kính mến , vâng lời Thầy cô và các giới chức đạo
đời, nhất là phải yêu Tổ quốc cho tròn bổn phận công dân.
Yêu mến Tổ quốc : ta nhớ ơn các anh hùng dân tộc, yêu thương đồng bào,
tuân theo luật pháp của nhà nước, tích cực góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước
trong tinh thần chân thật, công bằng, liên đới và tự do, loại trừ những tệ nạn xã
hội.
Đối với người ngoại quốc, ta phải coi họ là anh em. Ta tôn trọng quyền lợi
chính đáng của họ và duy trì tinh thân hữu giữa các dân tộc với nhau.
Câu hỏi thảo luận :
Em phải làm gì để tỏ lòng yêu Nước, yêu đồng bào và để hướng tới quê hương
trên trời ?
- Chăm chỉ học hành, Chu toàn bổn phận của một người công dân…
III- DẪN VÀO LỜI CHÚA
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta những lời cầu nguyện cho
Nước Cha trên trời.
Chúa Giêsu cũng yêu thương, gắn bó với đất nước Do thái và dân tộc của Ngài
bằng niềm thao thức cho mọi người được đón nhận Tin Mừng, chữa lành bệnh tật
tâm hồn và thân xác cho họ, và hướng tới mùa gặt cho Nước Trời mai sau. Những
thao thức của Chúa cho Tổ quốc, cho đồng bào của Ngài được thể hiện trong đoạn
Tin Mừng chúng ta sẽ nghe công bố giờ đây:
IV- CÔNG BỐ LỜI CHÚA: Mt 9,35-38 - Thinh lặng giây lát
V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Cha chúng con ở trên Trời, chúng con cảm tạ Cha đã ban cho chúng con
được làm người Việt nam, được sống trên quê hương đất nước thân yêu của chúng
con. Xin Cha giúp chúng con biết nhìn lên Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Cha, để noi
gương Ngài sống yêu mến Tổ quốc, gắn bó với dân tộc, tha thiết xây dựng tổ quốc
chúng con qua những trách nhiệm và bổn phận của một người công dân tốt. Và
trong khi xây dựng quê hương trần thế, chúng con luôn biết hướng về Cha trên trời
mà làm cho Nươcù Cha hiển trị ngay trên quê hương, xóm làng và trong tâm hồn
mỗi người anh chị em dân Việt chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con .Amen.
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII- BÀI TẬP GIÁO LÝ
Là công dân của Nước Việt nam, em được hưởng những di sản gì của đất
nước?
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG: Phần trả lời câu hỏi hội thảo số 3
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về những ơn chúng con vừa nhận được
trong giờ giáo lý hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết đáp trả tình yêu Chúa
bằng cách chu toàn mọi việc bổn phận mà Chúa đã ban, và mời gọi chúng con
trong cuộc sống hằng ngày.
Hát : Tâm tình tri ân

BÀI 11 :
ĐỨC GIÊSU YÊU THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI YẾU ĐUỐI
Mt 11, 28 – 30
I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đến với Chúa để được gặp Chúa trước khi chúng
con bắt đầu giờ học giáo lý hôm nay. Chúng con tin Chúa đang ở giữa chúng con.
Xin cảm tạ tình yêu Chúa đã luôn yêu thương, nâng đỡ, săn sóc cuộc đời chúng con.
Và giờ đây, Chúa cho chúng con được cùng nhau chia sẻ về lòng nhân từ của Chúa.
Xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự xuống tâm hồn mỗi người chúng con, xin Ngài
mở lòng trí chúng con đón nhận Lời Chúa Giêsu, xin chúc lành và thánh hoá giờ học
của chúng con.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II- DẪN VÀO LỜI CHÚA
Có một người Thanh niên mơ một giấc mơ : Đức Giêsu và anh ta đồng hành
trên một bãi cãt dài ven biển. Bốn dấu chân in trên cát. Nhưng khi anh ta gặp phải
khó khăn, anh nhìn xuống thì thấy chỉ còn dấu hai bàn chân. Anh kinh ngạc và thất
vọng kêu lên:
-Thưa Thầy, lúc con gặp khó khăn Thầy trốn đi đâu mà để con bước một mình
thế ?
Đức Giêsu nhỏ nhẹ nói với anh:
-Con nhìn kỹ lại xem đó là nững bước chân của ai ?
Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới biết đó là những dấu chân của Đức Giêsu.
-Vậy thưa Thầy- Chàng thanh niên la lên- Vậy lúc đó con ở đâu?
-Con ạ- Đức Giêsu trả lời- Những lúc con gặp khó khăn đó, Thầy biết con
không đủ sức chịu đựng và vì thế, Thầy đã vác con trên vai Thầy !
Câu chuyện cảm động trên đây cho chúng ta ý thức hơn rằng: Thiên Chúa
không bao giờ bỏ rơi con người như con người vẫn thường nghĩ . Nhưng khi con
người càng yếu đuối, đau khổ, thì Chúa càng gần gũi và yêu thương nâng đỡ nhiều
hơn như trong đoạn Tin Mừng chúng ta sẽ cùng nhau lắng nghe giờ đây.
III- CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 11, 28-30
Thinh lặng giây lát
IV- GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
-Đoạn Kinh thánh này của ai viết? Mt
-Thời gian viết ? khoảng năm 80
Qua những bài học trước, chúng ta đã tìm hiểu về tình thương của Thiên Chúa
dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô : Con Thiên Chúa làm người, sống ẩn dật
tại Na-da-rét, và những bước đầu của cuộc đời rao giảng công khai. Đức Giêsu đã
từ từ mạc khải Mầu nhiệm Nước Trời cho dân chúng qua những lời rao giảng và
những công việc cụ thể Ngài làm.
Qua đoạn Tin Mừng Mt 11, 28-30 này, Chúa Giêsu mạc khải Nước Trời cho
những người “ thấp cổ bé họng”. Ngài kêu gọi những con người yếu đuối, đau khổ,
nhỏ bé hãy đến với Ngài để được Ngài bổ sức, nâng đỡ.
Mời các em cùng thảo luận để thấy rõ hơn lòng nhân từ của Chúa Giêsu.
2. Các em học sinh thảo luận.
Đoạn Tin Mừng Mt 11, 28-30 này là một câu chuyện kể
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Chúa Giêsu, tất cả những ai mang gánh nặng nề…
- Nhân vật chính : Chúa Giêsu
b.Câu tóm ý cả đoạn ? Câu 28
c.Đặt tựa đề ngắn : Chúa Giêsu nhân từ.
Hoặc : Đến với Chúa Giêsu ta sẽ được nâng đỡ.
3. Bài học giáo lý
Chúa Giêsu đã kêu gọi : “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy
đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”
Những người “đang vất vả mang gánh nặng nề” ở đây là những ai? Đó là những
người đang phải mang vác những gánh nặng khổ đau vì bịnh tật, vì qui định này,
quy luật nọ, vì những lỡ lầm yếu đuối, vì bị hắt hủi bỏ rơi.
-Chúa mời gọi họ : “Hãy mang lấy ách của Ta”.
Aùch là gì ? Aùch là đoạn gỗ cong mắc trên vai trâu bò để buộc dây kéo cày,
kéo xe. Nghĩa bóng: sự áp bức (Lv26,13; 1V 12,14). Nô lệ (1Tm 6,1); Nô lệ
lề luật ( luật Do thái; Cv 15,10; Gl5,1). Kỷ luật ( Hc 3, 27 ).
-“Aùch Ta thì êm ái và nhẹ nhàng” ( câu 30) : Luật của Chúa thì nhẹ nhàng,
giúp người ta vươn lên chứ không đè nén họ, khác với những lề luật do thái mà các
Kinh sư và Pharisêu chất lên vai dân chúng. Bởi Chúa Giêsu là đấng hiền lành và
khiêm nhường trong lòng. Người luôn quan tâm tới :
3.1 Những người đau khổ
Các em thân mến, ai trong chúng ta cũng đã có kinh nghiệm gặp gỡ, tiếp xúc
với những người bệnh tật, hay chính bản thân chúng ta đã trải qua những cơn đau
bịnh. Bệnh tật làm người ta đau đớn thể xác, và có khi đau khổ cả về tinh thần nữa.
Có những bệnh bị người ta xa lánh như bệnh cùi, HIV…Có những bệnh làm cho họ
không có khả năng tham gia vào một số công việc của xã hội như câm, điếc,mù…Và
có khi phải sống tách biệt khỏi cộng đồng như những trại phong.
Vào thời Chúa Giêsu,đối với người Do thái: tai hoạ, bệnh tật là hậu quả của tội
lỗi; vì đã phạm tội nào đó nên bị Thiên Chúa đánh phạt ( Dnl 28,20; Ga 9,1-2; Lc
13,1-5).Nước Do thái thời đó không có trại cùi, những người bịnh cùi bị đuổi ra
những vùng hoang vắng, sống chết không ai quan tâm. Chính vì vậy, những người
bệnh không chỉ đau khổ về phần xác mà còn đau khổ về tinh thần vì bị khinh bỉ,
hắt hủi.
Vì yêu thương những con người đau khổ, Chúa Giêsu đã dám đi ngược lại luật
lệ: Chúa chữa bệnh ngày Sabát ( Mt 12,9-14 ). Chúa đụng vào người phong cùi để
chữa trị cho họ. Tình yêu của Chúa lớn hơn sự sợ hãi lây bệnh ( Mc8,1-4; Lc 5,12-
16 ), và lớn hơn lòng ganh ghét muốn làm hại Chúa của các Biệt phái ( Mt 12,9-
14).
*Tóm ý: Đối với Chúa Giêsu, con người dù nghèo khổ, bệnh hoạn, tật nguyền…
đều đáng quý trọng vì là hình ảnh của Thiên Chúa. Bởi đó, phải coi trọng con người
hơn của cải, công việc, tiền bạc, thời gian…
3.2 Trẻ em
Một trong những đối tượng được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt, đó là trẻ
em.
Chúng ta thấy: trẻ em thì đơn sơ, ngay thật, chưa có đủ khả năng để tự vệ, chỉ
biết lãnh nhận mọi sự từ người lớn.
Thời Chúa Giêsu, không phải mọi trẻ em đều được cắp sách đến trường. Trong
những năm đầu, đứa trẻ chỉ được một mình người mẹ chăm sóc. Đến 4 tuổi, con
trai sẽ được cha coi sóc và học nghề của cha, được dạy cho biết đọc và giải thích
Sách Thánh, biết lề luật. Còn con gái vẫn ở với mẹ, học làm bếp, nội trợ, chỉ cần
biết những khoản luật cấm và những khoản liên quan đến phụ nữ là đủ.
Các em thường được dạy dỗ một cách nghiêm khắc bằng roi vọt, được gia đình
yêu thương nhưng không chiều chuộng.
Nhưng Chúa Giêsu lại rất yêu thương, chiều chuộng và đề cao trẻ em: “ Cứ để
trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai
giống như chúng” (Mc 10,13-16). Và “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm
hồn trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào” (Mt 19,13-15 ). Ngài ôm lấy trẻ em và nói: “Ai
tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy…” ( Mc9,33-
37;Mt 18,1-5; Lc9,46-48 )
*Tóm ý: Chúa Giêsu đã yêu thương và đề cao trẻ em. Ngài mời gọi chúng ta hãy
sống đơn sơ, ngay thật và khiêm tốn như trẻ thơ để được vào Nước Trời.
3.3 Phụ nữ
Phụ nữ trên khắp thế giới ngày nay càng ý thức được giá trị của mình, tìm được
chỗ đứng bên cạnh nam giới và đóng góp xuất sắc trong các ngành nghề,giáo dục
và khoa học.
Ở Paléttin thời Chúa Giêsu, người phụ nữ không có giá trị bằng nam giới. Thế
giới của họ chỉ là gia đình và các việc nội trợ. Họ không được đi học cả đạo lẫn đời.
Họ không được làm chứng trước toà án cũng như không được lên tiếng trong các
nghi lễ phụng tự. Trong Hội đường, họ có chỗ ngồi riêng, và nếu không đủ mười
người đàn ông trưởng thành thì dù có bao nhiêu phụ nữ cũng không thể cử hành
nghi lễ tôn giáo.
Khi ra đường, họ phải đội khăn che đầu để đừng ai nhận ra mình, và chịu nhiều
luật lệ khắt khe khác nữa.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không đối xử với phụ nữ như vậy. Ngài coi trọng và quý
mến họ không kém gì nam giới:
-Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Samari ( Ga 4 )
-Ngài đón nhận họ vào đoàn các môn đệ của Ngài ( Lc8,1-3; Mt 27,55-56)
-Chúa bênh vực cho người phụ nữ ngoại tình, Ngài không kết án họ ( Ga
8,2-11)
Trong Tin Mừng có nhiều đoạn cho thấy Chúa Giêsu luôn bênh vực, cứu giúp
phụ nữ. Và sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra trước hết cho các phụ nữ, và
trao cho họ sứ mạng đi báo tin cho các môn đệ( Mt 28,9-10).
· Tóm ý: Chúa Giêsu luôn quan tâm đến những người bị xã hội
coi thường. Ngài không trọng nam, khinh nữ nhưng đã xác định
phẩm giá người phụ nữ một cách chắc chắn, giải phóng họ khỏi
những phân biệt của lề luật và xã hội.
3.4 Những người tội lỗi
Chúng ta thấy ở đâu và thời đại nào, người ta cũng thường căm ghét những
người thu thuế vì họ áp đặt lên dân chúng những khoản thu nặng nề. Và khinh bỉ
những cô gái điếm.
Thời Đức Giêsu, hai hạng người này bị xã hội coi là tội lỗi, cần xa tránh. Vì giao
thiệp với hạng tội lỗi sẽ bị ô uế, không thể tham dự việc phụng tự được. Thế mà
Đức Giêsu lại đồng bàn với họ và để họ lại gần tiếp xúc với Chúa ( Lc 5,29-30;7,36-
39;15,1-2 ). Ngài trở nên bạn của họ để giúp họ nhận ra họ được yêu thương, được
quý trọng và họ có thể thay đổi. Ngài đến với họ bằng sự cảm thông chứ không
phải bằng sự kết án. Ngài giúp họ nhận ra những chỗ sai sót để sửa chữa, như
người đàn bà ngoại tình, Giakêu…
Đặc biệt, chúng ta thấy Đức Giêsu không ngần ngại kêu gọi một người thu thuế
vào nhóm Môn đệ thân tín nhất, đó là Thánh Matthêu hay còn gọi là Lêvi ( Mt 9,9 ).
Vì đối với Chúa Giêsu “người khoẻ mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau yếu
mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi
sám hối ăn năn” (Lc5,31-32)
*Tóm ý : Chúa Giêsu đến không phải để kêu gọi người đạo đức, mà để kêu gọi
người tội lỗi sám hối ăn năn.
Khi ta sám hối ăn năn, Chúa Giêsu ban cho ta ơn tha thứ để ta được sự bình an và
niềm vui của con cái Thiên Chúa. Ta phải yêu mến, kính trọng mọi người, kể cả
những người tội lỗi.
*Tóm ý toàn bài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng
Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.Lời mời gọi của Chúa Giêsu trước hết nhắm đến
gánh nặng của lề luật Cựu ước mà người Do thái thời Chúa Giêsu phải gánh chịu,
với bao nhiêu điều khoản tỉ mỉ các Kinh sư đã thêm vào( Mt23,4). Tuy nhiên ,gánh
nặng Ngài nói tới còn có thể hiểu là nhữngkhổ đau cả về vật chất lẫn tinh thần.
Chính vì thế, Ngài mời gọi mọi người đến với Ngài để được an ủi, nâng đỡ. Và hãy
học nơi Chúa: Trong ánh mắt Ngài, mọi người đều được coi trọng.

V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để nâng đỡ, ủi an những phận người bé nhỏ,
đau khổ. Chúa đã đến để tha thứ và chữa lành những con người tội lỗi.
Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hằng
ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách : những kẻ đói,
không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng còn vì thiếu Lời Chúa. Những kẻ khát, không chỉ vì
thiếu nước uống mà còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương. Những
kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm kiếm một con tim
hiểu biết, yêu thương. Những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác
mà còn trong tinh thần nữa. Bằng cách thực thi lời hy vọng này: “Điều ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta”. Chúng con cầu xin….
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ : Hát: Sức sống dồi dào ( Quang Uy )
VII- BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất:
1.Chúa Giêsu kêu gọi hãy đến với Ngài :
a. Các trẻ em, phụ nữ và Luật sĩ.
b. Những người bệnh tật, thu thuế và Kinh sư.
c. Những ai lầm than, yếu đuối và tội lỗi.
( câu c )
2.Chúa Giêsu đã chữa bệnh ngày Sabát vì :
a. Khinh thường luật Do thái.
b. Coi trọng và yêu thương con người
c. Chống lại các Luật sĩ
( câu b )
3. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta :
a. Quý trọng con người hơn của cải, vật chất.
b. Trở nên giống trẻ thơ
c. Hoán cải để đón nhận ơn tha thứ.
d. Cả ba câu đều đúng
( câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và Tình thương của Người ?
Chúa Giêsu là Vị Mục tử nhân lành : Ngài đến để cho chiên được sống và
được sống dồi dào. ( Ga 10,10 )
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
- Yêu thương và kính trọng mọi người
- Hãy làm một việc cụ thể để giúp đỡ người già yếu, những em bé hay
một người tàn tật, đau bịnh trong gia đình hay trong làng xóm.
- Xét mình để nhận ra những tội lỗi của mình , đến với Chúa Giêsu trong
Bí tích hoà giải để lãnh nhận ơn tha thứ và quyết tâm sửa đổi.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Đức Giêsu Kitô, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học vừa qua, giúp
chúng con khám phá thêm về tình yêu Chúa đã dành cho chúng con : dù con người
có bé nhỏ, yếu đuối, tội lỗi , đau khổ trong tinh thần hay thể xác đến đâu. Chúng
con cũng không đau khổ một mình, nhưng có Chúa luôn chờ đợi, tìm kiếm, kêu mời
chúng con đến với Chúa để được Chúa nâng đỡ, tha thứ và bổ sức cho chúng con.
Bởi vì Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng; Vì chúng con rất quý
đối với Chúa, vì Chúa rất yêu chúng con.
Xin Chúa giúp chúng con đáp trả tình yêu Chúa bằng việc thực hành ý Chúa
từng ngày trong đời sống chúng con. Amen.

Bài 12 :
NGÀI CÓ ĐÚNG LÀ ĐẤNG PHẢI ĐẾN
Mt 11, 2-6

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, vì yêu thương Cha đã quy tụ chúng con
lại đây, trong tình của những người con có chung một Cha ở trên trời. Để chúng con
cùng nhau dâng lời cảm tạ, yêu mến, tôn thờ Cha. Và chúng con cùng nhau học hỏi
cách sống đáp trả tình yêu Cha qua Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Cha.
Xin Cha ban Chúa Thánh Thần xuống để Ngài soi sáng tâm trí chúng con,
giúp chúng con nhận ra Đức Giêsu Kitô là ai, và xin mở rộng trái tim chúng con,
giúp chúng con đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời chúng con. (Hát : Cầu
xin Chúa Thánh Thần…)
II- DẪN VÀO LỜI CHÚA
Thư viện toà nhà Quốc Hội Hoa Kỳ tại Washington là thư viện lớn bậc nhất
thế giới. Hàng năm, có hàng ngàn người viết thư hỏi viên quản thủ thư viện này
nhiều vấn đề để nghiên cứu. Rất nhiều người đã hỏi : “ Ai là người được các tác giả
viết nhiều nhất ?”.
Sau khi kiểm kê, viên quản thủ thư viện viết:
-Có 1735 cuốn viết về ông Napoléon.
-Có 1755 cuốn viết về ông Georges Washington.
-Có 2139 cuốn viết về ông Abraham Lincohn.
-Có 3172 cuốn viết về ông Wiliam Shakespeare.
- Có 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.
5152 cuốn tức là 5152 loại sách. Thông thường mỗi loại sách, người ta ấn
hành vài ngàn cuốn. Nếu bán chạy, người ta sẽ tái bản nhiều lần.
Hiện nay, hằng năm vẫn có hàng trăm cuốn sách mới viết về Chúa Giêsu.
Đức Giêsu là ai mà được các tác giả viết nhiều như thế ? Ngay cả thời Chúa
Giêsu, dân chúng cũng thắc mắc về Chúa. Và chính Gioan Tẩy giả cũng thắc mắc về
Chúa, dù ông là người đã giới thiệu Chúa cho rất nhiều người. Chúng ta cùng đi
theo các môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả để nghe câu trả lời của Chúa Giêsu trong
đoạn Tin Mừng sau đây :
III- CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 1, 2-6 Thinh lặng giây lát
IV- GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Tin Mừng vừa công bố
Đoạn Tin Mừng này được Thánh Matthêu viết trong trình thuật về Mầu
nhiệm Nước trời. Người xưa khi trông chờ Nước Chúa đến thường tỏ ra khinh rẻ thế
giới hiện tại. Nhưng Đức Giêsu, ngay khi rao giảng về Nước Chúa , Ngài quả quyết
rằng Nước đó đang hình thành sinh động ngay trong thế giới này. Tính hiện thực
của Nước Chúa đang đến cho người nghèo khổ. Đó là câu Đức Giêsu trả lời cho phái
đoàn của Gioan Tẩy giả mà chúng ta vừa nghe .
Đức Giêsu đã không muốn dừng lại ở lời nói suông, Ngài đã minh chứng bằng
hành động cụ thể. Trước những việc Chúa Giêsu làm, nhiều người thắc mắc và
chính Gioan Tẩy giả cũng thắc mắc, ông đã cho người đến hỏi Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này để thấy rõ hơn những điều
Chúa Giêsu muốn mạc khải.
2.Các em học sinh thảo luận.
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
- Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu, Môn đệ của Gioan.
- Nhân vật chính : Đức Giêsu
b. Câu tóm ý : câu 3
c. Tựa đề ngắn : Đức Giêsu là ai ?
3. Bài học Giáo lý
Các em thân mến, trong bài 8 : “Bước theo chân Chúa”, chúng ta đã thấy :
Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai trong lúc dân Do thái đang mong
đợi Đấng Mêsia. Dựa trên lời sấm của Nathan, người ta mong đợi Vị Mêsia, Con Vua
Đavit.
Trước những lời giảng và hành động của Chúa Giêsu, người Do thái đã thắc
mắc tự hỏi : “Đức Giêsu là ai ?” Người thì bảo là một Ngôn sứ; người thì nói không
phải…Không ai chịu ai. Cuối cùng họ đã đến hỏi Ngài : “ Thưa Thầy, Thầy có đúng là
đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải đợi ai khác ?” . “Chúng tôi” ở đây,
không chỉ gồm cá nhân Thánh Gioan Tẩy giả và các môn đệ của Ngài mà còn bao
gồm con người của mọi thời đại, trong đó có bản thân chúng ta. Chúa Giêsu sẽ trả
lời cho biết Ngài là ai .
1.1 Gioan và người đương thời
“Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù” ( c.2 )
Tại sao ông Gioan bị vào tù?
Các em thân mến, khi đón chờ một ai đó, nếu vị khách càng quan trọng,
chúng ta càng chuẩn bị kỹ. Cũng vậy, để chuẩn bị lòng dân đón chờ Chúa đến,
Gioan Tẩy giả đã kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối, hoán cải đời sống.
Lúc ấy, Vua Hêrôđê Antipa đã bỏ vợ để lấy bà Hêrodia, là chị dâu của Vua
trong khi anh Vua còn sống. Gioan Tẩy giả đã thẳng thắn phản đối việc này
nên bị vào tù.
Ngồi trong tù, Gioan mong ước gì ? Chắc chắn là ông mong Đấng Thiên sai
đến trừng phạt bọn tội lỗi, giải thoát ông khỏi tù, mong được thấy công lý, xoá
bỏ bất công (Lc 3,7-17). Nhưng chờ mãi mà chẳng thấy Chúa Giêsu ra tay.
Ông cho người đến hỏi ChúaGiêsu: “ Thưa Thầy, Thầy có đúng là đấng phải
đến không hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
-Đức Giêsu là ai ? Dân chúng cũng thắc mắc như vậy, nhưng hỏi xong, họ lại
lo vùi đầu vào công việc làm ăn, sinh sống mà không đợi câu trả lời.
Đức Giêsu chắc chắn là Đấng phải đến, Ngài sẽ ra tay nhưng không như mọi
người nghĩ : biểu dương sức mạnh, tiêu diệt những kẻ tội lỗi mà bằng sự hiền
hoà, lấy tình thương mà nâng đỡ, cứu vớt mọi kẻ khốn cùng…Đức Giêsu đã trả
lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe:
Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe,
người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi” (c.4-6)
Như dân chúng, có lúc chúng ta cũng thắc mắc: “Đức Giêsu là ai ?” nhưng
không chờ hay tìm câu trả lời. Và cũng như Gioan tẩy giả, chúng ta xác định
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng những lúc gặp khó khăn, thử thách, chúng
ta lại đánh mất niềm tin. Bởi vậy, nếu muốn khỏi “vấp ngã” thì đừng bắt Thiên
Chúa phải thay đổi theo suy nghĩ, đòi hỏi của mình. Vì đường lối và tư tưởng
của Chúa không giống đường lối và suy nghĩ của ta.

*Tóm ý : Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc nhân loại bằng con đường yêu
thương và phục vụ. Chúng ta cần mở lòng đón nhận và thay đổi cách nhìn, cách suy
nghĩ và hành động theo ý Chúa.
1.2 Những dấu hỏi hôm nay
Khi nghe những lời đồn thổi về Đức Giêsu, Vua Hêrôđê rất muốn gặp Ngài để
mong được xem một vài phép lạ. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp ứng đòi hỏi đó,
và nhà Vua đã tỏ thái độ khinh dể Ngài (Lc 23,8-11)
Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ bánh, dân chúng muốn tôn Ngài làm Vua.
Họ kéo đến với Ngài để mong Chúa làm phép lạ nữa. Nhưng Đức Giêsu chỉ nói
đến Bánh Hằng Sống. Họ lẩm bẩm: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Họ
đã bỏ đi hết, kể cả nhiều môn đệ của Ngài (Ga 6,22…)
Nến như ngày xưa, có nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu với hy vọng để được
ăn no (Ga 6), để thấy dấu lạ (Mt12,26-39)…Thì ngày nay,nhiều người cũng tìm
đến với Chúa Giêsu với hy vọng: sẽ được Ngài đáp ứng những nhu cầu vật chất,
chính trị hay xã hội…Thay vì được đáp ứng, họ chỉ thấy Chúa im lặng hay Chúa
đòi hỏi phải từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày. Nhiều người đã bỏ Chúa theo
các giáo phái, đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa.
*Tóm ý : Tin là từ bỏ chính mình, phó thác cuộc đời chúng ta cho tình yêu thương
quan phòng của Thiên Chúa không điều kiện.
1.3 Câu hỏi của chính bạn
Các em thân mến, khi còn bé chúng ta đã tiếp nhận đức tin từ Cha mẹ, người
đỡ đầu, từ Cha xứ, các Giáo lý viên…Và chúng ta được học hỏi về Chúa tuần tự
qua các lớp giáo lý và được lãnh nhận các Bí tích Khai tâm Kitô giáo mà ít khi hay
chưa biết suy nghĩ và lựa chọn sống niềm tin của mình.
Chúng ta bắt đầu lớn, nhìn lại cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra những sự trợ giúp
cũng như những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy những vấn nạn trong
đời sống đức tin. Chúng ta phải tự hỏi : “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải
đến không, hay chúng con phải chờ đợi ai khác ?” Và chính chúng ta phải tìm cho
ra câu trả lời, để cho đức tin của chúng ta trở thành một thái độ do chính chúng
ta quyết chọn.
Hãy tự vấn : Cuộc sống tôi có luôn tìm Chúa không? Hay đang tìm gì khác
ngoài Chúa? Tôi có tin Chúa, theo Chúa lúc an vui cũng như lúc gặp thử thách
không? Hay tôi chỉ mong Chúa đáp ứng những mong muốn của riêng tôi ?
Hãy đến với Chúa Giêsu, hãy nhìn và lắng nghe Ngài như các môn đệ của Gioan
Tẩy giả. Hãy để Chúa Giêsu uốn nắn, sửa chữa những sai lạc của chúng ta. Hãy
làm theo lời dậy dỗ của Chúa.
*Tóm ý: Hãy đến với Chúa Giêsu và bạn hãy hỏi Ngài: Thưa Thầy, Thầy có đúng là
Đấng phải đến không ? Và hãy thinh lặng để nghe Ngài trả lời.

*Tóm ý toàn bài: Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô trong bí tích rửa tội,
đòi hỏi chúng ta ngày càng thao thức tìm kiếm, yêu mến và sống gắn bó với Chúa
Giêsu theo đường lối của Người là cứu độ nhân loại bằng yêu thương và phục vụ .
Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu không phải vì những nhu cầu vật chất nhưng
là tìm sự sống đời trước mọi vấn nạn của cuộc sống , ta hãy hỏi Chúa Giêsu và
nghe Ngài trả lời .

V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ


Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã đến cứu độ trần gian bằng yêu thương và phục
vụ : Chúa đã sống và nâng đỡ những phận người nghèo hèn đau khổ bởi bệnh tật ,
luật lệ và tội lỗi . Nhưng nhiều khi chúng con đã không nhận ra Chúa trong những
dấu chỉ đó . . Vì chúng con đã mong Chúa đáp ứng những nhu cầu vật chất cho
chúng con hơn mở lòng đón nhận đường lối Chúa.
Xin Chúa ban đức tin cho chúng con, xin giúp con nhận ra Chúa tỏ mình thật
bình thường trong cuộc sống, để chúng con không bị vấp ngã trước những đau khổ,
thử thách. Chúng con cầu xin vì ….

VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ

VII- BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất


1.Đức Giêsu đã đến trần gian để:
a. Rao giảng Tin Mừng và viết Kinh Thánh.
b. Rao giảng Tin Mừng và chữa các bệnh tật cho dân chúng.
c. Giải thoát ông Gioan Tẩy giả khỏi tù.
d. Cả 3 câu đều đúng. ( Câu b )
2. Đã có những người vấp ngã vì Chúa Giêsu bởi :
a. Họ thích dấu lạ và tìm những nhu cầu vật chất
b. Họ sống theo Luật Môsê
c. Họ muốn Chúa lập vương quốc ở trần gian
( câu a )
3. Muốn biết Chúa Giêsu là ai, em cần :
a. Suy nghĩ và hành động theo ý Chúa
b. Phó thác cuộc sống mình cho Chúa không điều kiện
c. Siêng năng cầu nguyện và lắng nghe Chúa dạy.
d. Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và Tình thương của Người ?
Đức Giêsu là Đấng phải đến, Ngài đến với con người bằng sự hiền hoà, yêu
thương, phục vụ.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tìm ra những ngục tù nào khiến ta nghi ngờ Thiên Chúa?
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học Giáo
lý hôm nay, Xin Chúa giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong cuộc sống hàng
ngày, và xin giúp chúng con luôn yêu mến, gắn bó và đáp trả tình yêu Chúa mỗi
ngày như ý Chúa muốn.
Sáng danh Đức Chúa Cha…

Bài 13 :
NHẬN BIẾT CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU THẾ
Mt 11,25-27
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ:
Lạy Thiên Chúa là Cha rất yêu thương chúng con, này chúng con đây, đang
bắt đầu giờ học giáo lý trong tình yêu thương quan phòng của Cha. Chúng con xin
cảm tạ Tình yêu Cha đã, đang và vẫn mãi trải dài trong cuộc sống chúng con.
Chúng con tin rằng: Cha đang hiện diện giữa chúng con để yêu thương, soi sáng và
dạy dỗ chúng con. Xin Cha ban Chúa Thánh Thần để Ngài mở lòng trí chúng con,
cho chúng con lắng nghe lời của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Cha, giúp chúng con
nhận biết Ngài và noi gương Ngài trong cuộc sống chúng con.
Hát : Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA:
Năm 1904, trong một cuộc triển lãm do Hàn lâm viện Hoàng gia Anh tổ
chức, họa sĩ Smith Kosê đã cho trưng bày một bức tranh mang tên: “Bị con người
khinh thường và chối bỏ”.
Bức tranh đó vẽ cảnh Chúa Giêsu đang đứng trên thềm của nhà thờ chính
toà Thánh Phaolô, một ngôi nhà thờ nguy nga nằm giữa khu trung tâm Luân Đôn.
Một đám đông dân chúng thuộc đủ mọi hạng người đi ngang qua, thế nhưng, không
một ai thấy Chúa Giêsu.
Đầu tiên là một người đàn ông. Ông ta vừa đi vừa dán mũi vào một tờ báo
đến nỗi suýt đâm sầm vào Chúa Giêsu.
Tiếp theo là một nhà khoa học. Đầu óc của ông còn đang để cả ở phòng thí
nghiệm với những chai lọ, những hoá chất, nên ông đi qua, không thấy Chúa Giêsu.
Rồi một nhân vật cao cấp trong hàng giáo phẩm tiến đến, nghiêm trang và
tự mãn, nhưng không hề để ý sự có mặt của Chúa Giêsu.
Nối gót theo sau là một nhà thần học. Vị này vừa đi vừa lý luận về Thiên
Chúa, về đời sống và sứ mạng của Đức Giêsu. Ông bước nhanh qua Ngài mà không
biết.
Gần đó có một diễn giả đang vung tay, vung chân thuyết trình cho đám
đông về quyền lợi của con người, nhưng ông ta cũng không buồn liếc nhìn Chúa
Giêsu.
Duy chỉ có một nữ y tá ngước mắt nhìn Chúa Giêsu nhưng bà vẫn tiếp tục
con đường của mình.
Bức hoạ trên nói lên một điều nghịch lý đang xảy ra ngay giữa chúng ta:
Người ta không thấy Chúa không phải vì Chúa vắng mặt. Chúa có đó nhưng chẳng
ai nhận ra. Có muôn ngàn lý do để không nhận ra Chúa đang ở bên mình.
Nhận biết Chúa Giêsu, đó là một ơn Chúa Cha ban (Ga 6,44). Nhưng để đón
nhận ơn này, cần mở lòng ra, trở nên kẻ bé mọn đơn sơ như Chúa Giêsu đã sống
với Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta cùng lắng nghe những tâm tình của Chúa Giêsu
ngợi khen Tình yêu của Chúa Cha đã dành cho Người.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA: -Mt 11, 25-27
.Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe được Thánh Matthêu viết trong trình thuật
về Mầu nhiệm Nước Trời : đó là sự mạc khải về Nước Trời cho những người “thấp
cổ bé miệng”. Để làm nổi bật ý tưởng, tác giả thường nối kết những cái đối nghịch
với nhau, tạo nên một sự tương phản: bậc khôn ngoan> < người bé mọn.
Những người tự cho mình là khôn ngoan học rộng, thường tự phụ về những hiểu
biết của mình, khiến nhiều người trong họ rơi vào thành kiến, nhắm mắt, bịt tai
trước sự thật (Ga9,40-41). Trong khi đó, những kẻ bé mọn là những kẻ đơn sơ,
chất phác lại thấy được sự thật.Chúa Giêsu chúc tụng Chúa Cha vì đã bày tỏ sự kín
nhiệm cho những kẻ bé mọn.
Mời các em cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng Mt 11,25-27 này là một bài giảng
a. Đoạn văn có những từ ngữ hoặc cụm từ nào quan trọng ?
-Biết, mạc khải, giấu bậc khôn ngoan, mạc khải cho những người bé mọn.
-Từ ngữ chính : biết, mạc khải.
b. Câu tóm ý : câu 25
“Con xin ngợi khen Cha, vì cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông
thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn”.
c. Tựa đề ngắn : Thiên Chúa mạc khải cho kẻ bé mọn.
3. Bài học giáo lý
Trong bài học hôm nay, chúng ta sẽ cùng gặp gỡ hai con người bé mọn
đã được ơn nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, đó là người phụ nữ
Samari và anh mù được Chúa chữa cho sáng mắt.
3.1 Bên bờ giếng
Người phụ nữ Samari trong Ga 4 nhận biết Chúa Giêsu như thế nào ?
Chị biết Chúa Giêsu qua cuộc đàm thoại ngắn bên bờ giếng Gia-cop.
Câu chuyện xoay quanh việc Chúa Giêsu xin nước uống. Từ một thứ nước
hằng ngày dùng cho sinh hoạt, Chúa Giêsu đã dẫn chị đến nguồn nước hằng sống là
chính Thiên Chúa, thứ nước uống vào sẽ không bao giờ còn khát. Chị đã được Chúa
Giêsu chỉ cho biết phải thờ phượng Thiên Chúa thế nào cho đúng. Đó là thờ phượng
trong Thần khí và Sự thật.
Thường dân Do thái và dân Samari không tiếp xúc với nhau, nếu vì óc kỳ thị
địa phương mà chị tránh né Chúa Giêsu, thì làm sao chị khám phá được Chúa Giêsu
chính là Đấng Cứu thế mà các ngôn sứ đã loan báo từ xưa.
Chúa Giêsu đến với chị ngay trong công việc thường nhật của chị và từ đó,
Ngài giúp chị khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống.
Tóm ý : Trong mỗi công việc hàng ngày, ta hãy để cho Chúa Giêsu đến và cùng
làm với chúng ta. Ta hãy mở lòng ra trước ơn Chúa soi sáng , lắng nghe và thưa
chuyện với Ngài. Chắc chắn, Ngài sẽ dạy chúng ta biết phải làm thế nào , như Ngài
đã dạy cho người phụ nữ Samari nọ.
3.2 Nguồn sáng trong đời
Còn anh mù từ thuở mới sinh trong Ga 9 nhận biết Chúa Giêsu như thế nào?
Ngoài yếu tố gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa như người phụ nữ Samari, nơi anh
mù còn thêm yếu tố : phải nghe những lời người khác chống đối Chúa, và ngay
chính bản thân anh cũng bị làm khó dễ vì Chúa.
Chính những người khác ( những thắc mắc, những lời đả kích…) đã khiến anh
mù nhìn lại ân huệ Chúa đã ban cho mình(chữa cho sáng mắt ), và từ chỗ không
biết Chúa Giêsu là ai ( c.12), từng bước anh khám phá ra Ngài là “một vị ngôn sứ”
(c.17) , “người bởi Thiên Chúa mà đến” (c.33). Những khám phá đó giúp anh mau
mắn mở lòng ra đón nhận Chúa Giêsu và tin nhận Ngài : “Thưa Ngài , tôi tin” . Rồi
anh sấp mình xuống trước mặt Người .(c.38) .
Qua phép lạ của Chúa Giêsu , những người đui mù (=những kẻ bé mọn ) trở
nên sáng mắt ( nhận được ơn đức tin ) , còn những người sáng mắt ( những người
khôn ngoan thông thái ) lại trở nên đui mù ( thêm cứng lòng tin).Như lời Chúa đã
nói : “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được
thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (c.39)
Tóm ý: Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian (c.5), để đón nhận ánh sáng của Chúa,
chúng ta cần gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, nhận ra những ơn Chúa ban cho ta .Tin
tưởng vào Chúa dù phải nghe những lời người khác chống đối Chúa, hay chính bản
thân mình cũng bị người khác chống đối, loại trừ như anh mù đã được Chúa chữa
lành trong Ga 9.
3.3 Nghe, nhìn và rung cảm
Muốn nhận biết một người, phải gặp gỡ người ấy, phải đổi trao, phải tâm sự.
Nhiều người đã đến với Đức Giêsu nhưng không nhận biết Ngài là Đấng Cứu thế.
Chỉ có một số người nhận biết Ngài cách đúng đắn. Những người ấy làm gương cho
chúng ta biết thật lòng đến với Đức Giêsu để nhận ra Ngài là ai, như người phụ nữ
Samari và anh mù được Chúa chữa cho sángmắt.
Trong thực tế, chúng ta làm thế nào ?
Trước tiên, bạn dành vài giây phút thinh lặng cho lòng trí lắng xuống.
Bạn cầu xin Chúa Thánh Thần, rồi mở đoạn Tin Mừng được chọn, đọc đi, đọc
lại nhiều lần cho đến khi bạn được đánh động. Cầm bút gạch dưới hay ghi lại những
từ hay những câu làm bạn được đánh động. Đó là nghe.
Bạn xin Chúa Thánh Thần giúp hình dung lại khung cảnh, dẫn bạn nhập cuộc
để chăm chú nhìn các nhân vật, cảm nhận các tâm tình của họ. Bạn xin cho mình
hiểu được tình yêu của Chúa đang diễn ra trong hoạt cảnh ấy, nhất là hiểu rằng
tình yêu ấy đang dành riêng cho bạn. Đó là nhìn.
Đang khi nghe và nhìn, thỉnh thoảng bạn có thể dừng lại để bộc lộ tình cảm
và tâm sự với Chúa. Đó là rung cảm.
Tóm y ù: Từ việc nghe, nhìn và tâm sự với Chúa, chúng ta sẽ được Chúa Thánh
Thần dẫn vào rung cảm và nhờ đó, được uốn nắn theo tình yêu Chúa. Càng yêu
Chúa hơn, chúng ta sẽ càng hiểu biết Chúa hơn và càng gắn bó theo Chúa hơn.
Tóm ý toàn bài : Để nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Ngài, chúng ta cần năng gặp
gỡ, đổi trao, tâm sự với Chúa và mở lòng ra trước ơn soi sáng của Chúa. Càng sống
gắn bó Chúa, niềm tin của chúng ta sẽ càng được ánh sáng Chúa soi dẫn giúp
chúng ta can đảm bước theo Chúa dù gặp những khó khăn, chống đối trong cuộc
sống.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vui mừng dâng lời chúc tụng Chúa Cha, vì Cha đã
giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những Mầu nhiệm Nước
trời, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Xin cho con biết khiêm tốn, đơn
sơ mở lòng ra trước Chúa, để Chúa đến gặp gỡ con, cho con được sáng mắt mà
sống tin tưởng vào Chúa ; để con ra khỏi những ích kỷ và khép kín, dám lội
ngược dòng với những mời mọc, quyến rũ của thế gian, dám tiến bước trong
những khó khăn, đau khổ . Vì con nhận biết rằng Chúa là Đấng Cứu Thế và con
luôn được Chúa yêu thương nâng đỡ ngay giữa sa mù của cuộc sống. Và rồi,
từng ngày trong cuộc đời con luôn là lời chúc tụng Thiên Chúa Cha đã yêu
thương những người bé mọn. Chúng con cầu xin, vì Chúa là Đấng hằng sống
…….
VI. SINH HOẠT
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ : Em hãy chọn câu đúng nhất
1. Người phụ nữ Samari đã nhận biết Chúa Giêsu vì :
a. Chị đã cho Chúa Giêsu uống nước. b. Chị là người samari.
c. Chị đã mở lòng ra trước ơn soi sáng của Chúa, lắng nghe và thưa
chuyện với Chúa.
d. Cả 3 câu đều đúng. ( đáp án : câu c)
2. Anh mù đã được sáng mắt vì :
a. Chúa Giêsu yêu thương anh.
b. Anh cảm nhận được những ơn lành Chúa ban.
c. Anh mở lòng đón nhận Chúa Giêsu và tin vào Ngài. d. Cả 3 câu
đều đúng ( câu d ).
3. Muốn nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế em cần :
a. Trải qua nhiều khó khăn trong cuộc sống.
b. Có tấm lòng đơn sơ, khiêm tốn, lắng nghe Lời Chúa.
c. Đọc Kinh thánh và đi hành hương. ( câu b )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Thiên Chúa thích tỏ mình ra cho những kẻ đơn sơ, bé mọn.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Để nhận biết Chúa Giêsu, cần có tấm lòng đơn sơ, khiêm tốn, lắng
nghe.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa, một giờ học giáo lý đã trôi qua trong tình yêu thương dẫn dắt của
Chúa. Chúng con xin cám ơn Chúa. Xin Chúa tiếp tục đồng hành với chúng con
trong cuộc sống hàng ngày. Xin giúp chúng con biết đem ra thực hành những
điều Chúa vừa dạy dỗ chúng con hôm nay. Amen.

Bài 14:
SÁNG SUỐT NHẬN ĐỊNH
Lc 10,38-42
I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, thật hạnh phúc cho chúng con được cùng nhau đến đây để
dâng lời cảm tạ Chúa, để lắng nghe lời Chúa và được Chúa dạy bảo. Chúng con
cũng xin dâng lên Chúa cuộc sống của chúng con với những nỗi lo toan, nhiều ước
mơ, hoài bảo. Để rồi, nhiều lúc chúng con không còn biết nên chọn điều nào là tốt
hơn. Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên mỗi người chúng con, để Ngài soi
sáng, thánh hoá, giúp chúng con trong giờ học này gặp được Chúa, lắng nghe Chúa
dạy và chọn sống ý Chúa.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một thương gia người Mỹ, lúc chết , có để lại một gia tài lớn: một triệu
dollars. Gia tài này sẽ thuộc về người con gái của ông- cô Grace. Với điều kiện
theo di chúc là cô phải bỏ đạo Công Giáo và rời Nữ tu viện Đaminh ở Newyork,
nơi cô vào tu năm lên 23 tuổi. Nếu cô từ chối điều kiện trên, cô sẽ chẳng nhận
được một đồng xu nào. Nữ tu Grace tuyên bố rằng không có gì ở trên đời này
có thể làm cho cô từ bỏ tu viện và tôn giáo của cô và vì thế, cô vui vẻ từ bỏ
phần gia tài của cô! Đó là sự lựa chọn của cô Grace : giữa Chúa và tiền của, cô
đã dứt khoát chọn Chúa.
Cuộc sống của chúng ta cũng luôn có những điều phải lựa chọn. Chúng
ta hãy lắng nghe chính Chúa Giêsu dạy chúng ta nên chọn điều gì là tốt hơn
qua đoạn Tin Mừng sau đây:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Lc 10, 38-42
. Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Đoạn Tin Mừng này được Thánh Luca viết trong trình thuật “ Đức Giêsu lên
Giêrusalem”. Thánh Luca nhấn mạnh tính khẩn trương đối với môn đồ cũng như
những ai theo Đức Giêsu phải nhanh chóng có quyết định, phải chọn ngay một kiểu
sống với những đòi hỏi quyết liệt tương xứng với việc tiến bước đi theo Ngài. Với
câu chuyện hết sức đời thường là chuyện tiếp khách nhưng lại hàm chứa nhiều điều
lý thú liên quan đến chúng ta. Để thấy rõ vấn đề hơn, mời các em thảo luận đoạn
Tin Mừng trên.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng Lc 10, 38- 42 này là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Chúa Giêsu, Mác-ta và Maria
-Nhân vật chính : Maria
b. Câu tóm ý : câu 42
c. Đặt tựa đề ngắn : Cô Mac-ta và Maria
3. Bài học giáo lý
3.1 Một giằng co, hai lựa chọn
Bê-ta-ni-a là một ngôi làng nằm bên sườn núi Oâliu, cách Giêrusalem
khoảng 3 km về phía đông bắc. Trong làng này có ba chị em Mac-ta, Maria và
La-da-rô rất thân với Chúa Giêsu. Mỗi lần lên Giêrusalem, Chúa Giêsu và các
môn đệ thường ghé lại đây nghỉ đêm.
Hôm ấy, Chúa Giêsu ghé Bê-ta-ni-a, Mác-ta chạy ra đón, mời Chúa vào
nhà nghỉ ngơi. Rồi Mácta tất bật lo cơm nước để thết đãi Chúa. Còn Maria ngồi
bên chân Chúa, nghe Ngài nói. Mỗi người một việc, hai chị em đã phân công
với nhau cách tự phát và hợp lý.
Thế nhưng rồi hình như Mácta quá lo lắng, chị đã cắt ngang câu chuyện
giữa Chúa Giêsu và Maria.
Chúa đã phản ứng thế nào? Chúa không bảo Maria xuống bếp phụ với
Mácta. Chúa cũng không bảo Mácta bỏ mọi chuyện bếp núc lên ngồi nói
chuyện với Chúa. Chúa an ủi Mácta và giúp cô nhận định : điều Chúa vui lòng
về chị không phải là những việc chị làm cho Ngài nhưng là chính tình yêu mến
đang thúc giục chị làm những việc ấy. Chị quên rằng Chúa mong chờ tấm lòng
và chính con người của ta hơn là những việc ta có thể làm cho Ngài. Chúa
khen Maria đã chọn phần tốt nhất, dù Maria đã chẳng làm gì hơn là trìu mến
ngồi nghe Chúa.
Tóm ý : Chúng ta hãy luôn tự hỏi đâu là điều làm đẹp lòng Chúa nhất trong lúc này
để thực thi, và hãy chu toàn mọi việc bổn phận vì lòng yêu mến Chúa. Vì Chúa
mong chờ tấm lòng và chính con người của ta hơn là những công việc ta có thể làm
cho Ngài.

3.2 Việc bổn phận


Tin Mừng Lc 5,4-7 có kể lại câu chuyện : Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm
mà không bắt được con cá nào, thế nhưng vừa làm theo ý Chúa đã bắt
được hai thuyền đầy.
Có những thí sinh làm bài văn rất hay nhưng lại bị điểm thấp vì lạc đề. Có học
sinh đang chăm chú làm toán thì bị thầy phạt cảnh cáo, vì em làm toán trong giờ
học văn: em bị phạt vì đã bỏ điều phải làm để chạy theo điều mình thích, vì đã làm
điều tốt không đúng lúc.
Để nhận định sáng suốt ta cần :
a. Thường xuyên cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng.
b. Tập xét mình kỹ mỗi ngày
Đối với việc bổn phận ta có thể sai phạm vì :
-Làm không đúng lúc
-Làm không đúng cách
-Lấy điều phụ làm chính
-Lấy điều mình thích thay cho điều mình có bổn phận phải làm.
-Lấy bề ngoài thay cho tấm lòng.
- Lấy việc người khác thay cho việc của mình.
Tóm ý: Muốn nên thánh, cần biết tập trung tâm trí làm tròn việc
bổn phận phải làm đúng lúc, đúng nơi và đúng cách theo ý
Chúa muốn.
3.3 Bình tâm, và yêu mến hơn nữa từ trong điều nhỏ
-Bình tâm : Mỗi khi phải chọn giữa hai điều tốt, thái độ đầu tiên cần có là sự
bình tâm. Bình tâm gồm hai động tác:
.Một là giữ cho lòng được thăng bằng, không nghiêng trước về bên này
hay bên kia. Lắng nghe, cân nhắc, nhận định rồi mới quyết định.
.Hai là chỉ tha thiết làm đẹp lòng Chúa : bên nào đáp lại tình yêu Chúa
hơn thì chọn bên đó.
Tóm ý : Khi phải lựa chọn giữa hai điều tốt, chúng ta cần cầu nguyện xin
ơn Chúa soi sáng , giữ cho lòng không nghiêng trước về bên nào và
chỉ chọn điều nào đẹp lòng Chúa hơn.

Tóm ý toàn bài : Cuộc sống luôn có những điều phải lựa chọn. Khi phải lựa chọn
giữa hai điều tốt, chúng ta có thể bị đánh lừa. Do đó cần bình tâm,tỉnh thức và cầu
nguyện , để với ơn Chúa soi sáng chúng ta mới biết chọn điều đẹp lòng Chúa nhất
mà thi hành với tất cả tình yêu của chúng ta.
V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giúp cho cô Mácta nhận định : bầu khí vui vẻ thì hơn
những món ăn thịnh soạn.Bản thân Chúa thì quan trọng hơn những món ăn để đãi
Chúa. Trong mọi việc hãy làm vì lòng yêu mến Chúa, và khi phải lựa chọn giữa hai
việc tốt hãy chọn làm điều nào làm đẹp lòng Chúa hơn.
Cũng như cô Mácta, nhiều khi chúng con cũng làm việc mà không tìm ý Chúa,
đang khi làm công việc bổn phận của mình nhưng lại khó chịu với người khác để rồi
kêu trách Chúa. Và lạy Chúa, ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt, nhưng khi phải
chọn giữa hai điều tốt, con thường dễ bị đánh lừa chọn điều không phải ý Chúa
muốn.
Xin Chúa giúp con luôn biết sống cầu nguyện, để nhờ đời sống kết hợp mật
thiết với Chúa,con sẽ được sáng suốt để nhận ra đâu là ý Chúa, để con mau mắn
đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, luôn chọn làm điều đẹp lòng Chúa hơn. Chúng con cầu
xin, vì Chúa….
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII- BÀI TẬP GIÁO LÝ :
Em hãy chọn câu đúng nhất
1. Hình ảnh Maria ngồi bên chân Chúa diễn tả :
a. Bà không quan tâm đến việc làm bếp. b. Bà yêu mến Chúa và
tha thiết nghe lời Chúa.
c. Trong gia đình mỗi người có một bổn phận khác nhau. d. Cả ba câu
đều đúng. ( Câu b )
2. Để nhận định sáng suốt ta cần:
a. Thường xuyên cầu nguyện và xét mình kỹ mỗi ngày. b. Tham khảo ý
kiến của những người khác.
c. Thi hành ngay những việc mình thích cách tận tình. ( câu a.)
3. Thái độ bình tâm là :
a. Tha thiết yêu mến Chúa b. Giữ lòng được thăng bằng, không
nghiêng trước về bên nào.
c. Giữa hai điều tốt, chọn điều đẹp lòng Chúa hơn. d. Cả ba câu đều
đúng. ( Câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG.
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Thiên Chúa không đánh giá chúng ta theo công việc chúng ta đã làm, nhưng
là tình yêu mến của chúng ta trong các công việc.
2. Gương tốt nên theo :
Theo gương Maria: yêu mến và tha thiết lắng nghe Lời Chúa.
3. Qua đoạn văn này,hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
- Điều quan trọng không phải là làm điều tôi ưa thích, mà là làm điều Chúa
muốn.
- Chu toàn việc nhỏ nhất với tất cả lòng yêu mến.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ tình yêu Chúa đã dành cho chúng con
trong giờ học giáo lý hôm nay. Chúa cho chúng con biết Chúa nhìn vào tâm hồn chứ
không ở hình dáng bên ngoài. Xin Chúa giúp chúng con từ nay đừng quá lo lắng, bối
rối trước những vấn đề, những lo lắng của cuộc sống, nhưng biết siêng năng cầu
nguyện để đón nhận nguồn ánh sáng của Chúa mà thi hành những điều Chúa muốn
nơi chúng con .
Sáng Danh Đức Chúa Cha…

BÀI 15 :
PHẦN CÁC CON, CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI?
Mt 16, 13 – 20

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giêsu, chúng con cùng nhau đến với Chúa để đón nhận tình
thương Chúa trong giờ học giáo lý hôm nay. Xin Chúa ban đức tin cho chúng con,
giúp chúng con nhận ra những lời Chúa muốn dạy và những điều Chúa muốn hỏi
chúng con hôm nay.Xin Chúa Thánh Thần hãy mở lòng trí chúng con giúp chúng
con hiểu về Chúa mỗi ngày một nhiều hơn để chúng con sống cho Chúa trọn vẹn
hơn.
II- DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe
ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có
Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo ?” Oâng đáp: “Có ba lý do. Thứ nhất, Khổng
Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, chúng tôi cần Đấng Cứu Thế
hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai, Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi
cần một Đấng Cứu Thế đang sống. Thứ ba, Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét,
chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán. Đó là những
lý do và cũng là lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Đức tin
ấy đã được lưu truyền trong suốt lịch sử Giáo hội, khởi đầu từ các Tông đồ.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ được nghe Thánh Phêrô, không
chỉ đại diện cho Nhóm Mười hai mà còn đại diện cho tất cả các môn đệ và toàn thể
Hội Thánh tuyên xưng niềm tin ấy.Mời các em cùng lắng
nghe.

III- CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 16,13-20


Thinh lặng giây lát
IV- GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Tin Mừng vừa công bố:
Câu chuyện Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, được Thánh
Matthêu đặt trong trình thuật về Giáo hội, bước đầu của Nước Trời. Đức Giêsu muốn
dựa vào Phêrô để xây dựng Giáo hội Ngài. Tiếng Giáo hội đã được Cựu ước dùng để
chỉ cuộc tập họp tôn giáo. Tiếng đó phát xuất từ một động từ có nghĩa là “ gọi”, “tập
họp”, có ý nói rằng cuộc tập họp người ta lại ở đây là để đáp lại lời mời gọi của Thiên
Chúa.
Đức Giêsu trao quyền cai quản cho Phêrô, nhưng không phải chỉ có thế. Trở lại
với C.13 trước đây, chúng ta sẽ thấy rằng : đi theo, làm người môn đệ của Chúa là
biết từ bỏ thân mình, vác thập giá mà tiến theo Ngài. Đây cũng là giai đoạn Chúa
Giêsu chuẩn bị loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất.
2.Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng Mt 16,13-20 là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào?
Đức Giêsu, các môn đệ, Phêrô
-Nhân vật chính : Chúa Giêsu
b. Câu tóm ý : Câu 16
c. Tựa đề ngắn : Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa
3.Bài học giáo lý
Sau gần ba năm rao giảng, tại thành Xê-da-rê Phi-lip-phê nằm dười chân núi
Khemon, Chúa Giêsu đã làm một cuộc thăm dò dư luận. Ngài muốn biết liệu đã có
thể loan báo cho các môn đệ biết về cuộc thương khó sắp tới của Ngài chưa. Trong
cuộc thăm dò này, Chúa Giêsu đã nhận được kết quả như thế nào ?
3.1 Những người khác
Câu hỏi đầu tiên Chúa Giêsu đặt ra là đối với dân chúng : “Người ta nói
Con Người là ai ?” ( “Con Người” để chỉ Chúa Giêsu.). Sau những lần nghe
Chúa giảng dạy, chúng kiến những việc Ngài làm: chữa bệnh, trừø quỷ, hoá
bánh ra nhiều vv… dân chúng nghĩ Chúa Giêsu là ai ?
Các môn đệ đã cho Chúa biết :
- Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả
- Kẻ thì bảo là ông Eâlia.
- Có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.
. Vì sao người ta laiï nghĩ Chúa Giêsu là ông Gioan Tẩy giả?
Nói một cách chính xác hơn, người ta nghĩ Chúa Giêsu là ông
Gioan Tẩy giả sống lại. Vì Vua Hêrôđê khi nghe những việc Chúa
Giêsu đã làm, ông đã xác định đó là Gioan bị Vua chém đầu đã
sống lại (Mt 14,1-2: Mc 6,14-16)
. Tại sao có người nghĩ Chúa Giêsu là ông Êlia?
Trong niềm mong đợi Đấng Mêsia, dựa vào lời sách ngôn sứ
Malakhi , người ta luôn mong đợi ngôn sứ Eâlia sẽ trở lại để dọn
đường cho Chúa đến.( Ml 3, 23-24)
. Tại sao có người lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Giêrêmia hay là một trong các
ngôn sứ?
Đối với dân Do Thái, một vị ngôn sứ xuất hiện là dấu chỉ niềm hy
vọng: Thiên Chúa vẫn trung thành với giao ước. Ngài sắp đến
viếng thăm cứu chuộc dân Ngài .
Khi nghe Chúa Giêsu giảng dạy và nhìn thấy các phép lạ ngài
làm, dân chúng sửng sốt, kinh ngạc. Và họ đã coi Ngài là một vị
ngôn sứ.( x. Mt 21,46)
Tùy góc cạnh tiếp xúc, tùy trình độ hiểu biết, người ta có những cái nhìn khác
nhau về Chúa Giêsu.
Qua 20 thế kỷ, mỗi người nghe biết Chúa Giêsu đều có một cái nhìn về Ngài.
Loài người trên thế giới ngày nay cũng đang nhìn Đức Giêsu bằng đủ thứ cái nhìn
chủ quan. Có những người thích uốn nắn Chúa Giêsu theo một quan niệm riêng. Họ
chỉ tiếp nhận những gì hợp sở thích của ho. Điều đó có vẻ lý thú, nhưng chắc chắn
không đem lại ơn cứu độ
Còn đối với chúng ta hôm nay,, nếu Đức Kitô hỏi chúng ta: “Bạn bè của con,
những người con quen biết, sống bên cạnh con, bảo Thầy là ai ?” Ta sẽ trả lời Ngài
thế nào ? Họ biết gì về Chúa Giêsu? Họ có được nghe ai nói về Đức Giêsu không ?
Tóm ý: Cuộc sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta hôm nay là lời giới thiệu
cho những người khác, những người sống bên cạnh chúng ta biết Đức Giêsu là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống hay không.
3.2 Các Tông đồ
Sau khi nghe các môn đệ kể về cảm nghĩ của dân chúng, những “người
ngoài”. Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho chính họ:
- Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?
Thánh Phêrô đã thay mặt toàn thể anh em khác thưa;
- Thầy là Đấng Kitô,Con Thiên Chúa hằng sống.
Như vậy, Đức Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha (Mt 9, 1-8 ;
Ga 5,17-23 ), vừa là người thật như ta (Pl 2,7; Dt 4,15 ). Ngài có hai bản tính,
vừa bản tính Thiên Chúa, vừa bản tính loài người, trong cùng một ngôi vị duy
nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa ( Ga 1,14;20,24-29)
Vào cuối thế kỷ 4 và 5, có một số Kitô hữu không tin nhận Chúa Giêsu là
Thiên Chúa, cho nên năm 325, Hội thánh đã họp công đồng ở Nikêa, năm 431
họp công đồng ở Ephêxô, và năm 451 họp công đồng ở Khan-kê-đô-ni-a để xác
quyết lại lòng tin của mình. Để nhấn mạnh rằng người con do Đức Maria sinh ra
thật sự là Thiên Chúa, công đồng Ephêxô đã tuyên xưng Đức Maria là “Mẹ
Thiên Chúa”.
Tóm ý: Đức Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha, vừa là người thật
như chúng ta. Ngài có hai bản tính: vừa bản tính Thiên Chúa, vừa bản tính loài
người, trong cùng một ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa.
3.3 Giờ này, Ngài là ai ?
Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang hỏi mỗi người chúng ta câu hỏi đó. Mỗi
người chúng ta phải có câu trả lời riêng của chính mình.
Câu hỏi này ta không thể trả lời một lần thay cho tất cả. Bởi lẽ, phải trả lời
bằng chính cuộc sống. Chúng ta đang để Chúa Giêsu chiếm chỗ đứng nào trong
cuộc đời mình. Nếu Đức Kitô là Thầy, ta đã nghe lời Ngài thế nào? Nếu Đức Kitô
là bạn, mỗi ngày ta đã gặp gỡ thân tình với Ngài được bao lâu? Nếu Đức Kitô là
Chúa, ta đã để cho ngài làm chủ đời ta thế nào? Ta có thường xuyên quan tâm
tìm kiếm và thực hiện ý Ngài không ?
“Phần con, con bảo Thầy là ai ?”
Mỗi ngày thức dậy, ta hãy thưa với Đức Giêsu câu trả lời mà Ngài đang chờ
đợi.
Tóm ý: Thường xuyên gặp gỡ Chúa Giêsu trong cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích,
chăm chỉ học giáo lý, sống bác ái với mọi người. Dần dần ,chúng ta sẽ có câu trả lời
chính xác cho câu hỏi “Đối với bạn, Đức Giêsu là ai ? “

Tóm ý toàn bài: Câu hỏi : “Đức Giêsu Kitô, Ngài là ai ?” vẫn luôn chất vấn con
người mọi thời, và câu trả lời vẫn tùy vào cách sống của mỗi người. Từng ngày,
Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta: “phần các con, các con bảo thầy là ai?” Hãy trả lời
Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta.
V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu,Chúa đã đặt câu hỏi cho những ai theo Chúa : “Phần các con,
các con bảo thầy là ai?” Xin cho chúng con luôn biết trả lời : “Thưa Thầy, Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và xin Chúa giúp chúng con sống điều chúng
con đã tuyên xưng bằng việc can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày, qua những
chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con, và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa .Chúng con cầu xin, vì Chúa là Đấng
hằng sống…
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII- BÀI TẬP GIÁO LÝ
Nếu bạn bè của em ( cùng lớp, cùng khu xóm vv…) hỏi em : “Đức Giêsu là
ai?” Em sẽ trả lời thế nào ?
Hoặc câu hỏi trắc nghiệm sau :
1. Để trả lời câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” Em cần :
a. Siêng năng cầu nguyện và để Chúa làm chủ đời mình.
b. Tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật
c. Đọc lại lời tuyên xưng của ông Phêrô
( câu a )
2. Chúa Giêsu đã đặt câu hỏi “Ngài là ai?” cho :
a. Các môn đệ.
b. Ông Phêrô.
c. Mỗi người chúng ta.
d. Cả ba câu đều đúng
( câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG
1- Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
2- Gương tốt nên theo : noi gương Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu :
“ Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống”.
3- Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Hãy luôn tự hỏi mình : “ Đức Giêsu là ai đối với tôi?” Là bạn, là Thầy, là
Đấng Cứu độ… và hãy sống tâm tình của những mối tương quan đó.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học vừa
qua. Qua lời tuyên xưng của Thánh Phêrô, Chúa đã mạc khải cho chúng con Chúa là
Đấng Kitô, Đấng Cứu độ chúng con, là Thiên Chúa thật và là người thật. Xin Chúa
giúp chúng con vừa biết tuyên xưng ngoài miệng ,vừa sống niềm tin vào Chúa từng
ngày trong cuộc sống chúng con.Amen

BÀI 16 : Dậy men Tin Mừng 3


HỌC ĐỂ PHỤC VỤ HỮU HIỆU HƠN

I.CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, chúng con cám ơn Chúa đã ban cho chúng con trí hiểu,
sức khoẻ, thời gian. Chúng con xin dâng lên Chúa giờ học giáo lý hôm nay với tất cả
lòng biết ơn và yêu mến của chúng con.
Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con để Ngài soi sáng,
chúc lành và thánh hoá chúng con, giúp chúng con học giờ này đạt kết quả tốt đẹp.
Hát : Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. GIẢI THÍCH BÀI HỌC
Các em thân mến, giờ học vừa qua chúng ta đã được biết: Đức Giê-su là
Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống nhờ lời tuyên xưng của Thánh Phê-rô. Lời
tuyên xưng ấy không phải một sớm, một chiều mà thánh Phê-rô tuyên xưng và
thực hiện được, nhưng do Chúa Thánh Thần soi sáng và với những ngày tháng đã
được ở cận kề bên Chúa, được Chúa dạy dỗ, chứng kiến những việc Chúa làm, và
ngài vẫn phải học hỏi suốt đời ngay trong vai trò của vị Đại diện Chúa ở trần gian
này.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, là Ki-tô hữu chúng ta cũng tuyên xưng
Đức Ki-tô là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và để lời tuyên xưng niềm tin
của chúng ta đi đôi với cuộc sống, chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa ngay
trong quê hương , đất nước chúng ta. Chúng ta phải trở nên những người công dân,
người Ki-tô hữu tốt.
Làm người công dân tốt là chúng ta yêu quê hương , dân tộc, ta muốn góp
phần phục vụ, giúp cho dân mình phát triển, nước mình thịnh vượng. Làm người Ki-
tô hữu tốt là chúng ta yêu mến Chúa, yêu mến Hội Thánh, ta muốn góp phần phục
vụ, rao giảng Tin Mừng.
Tuy nhiên sẽ không thể phục vụ tốt nếu thiếu hiểu biết. Gương những người đi
trước cho thấy: yêu quê hương dân tộc thì phải học.
1. Yêu quê hương dân tộc thì phải học.
Trong bài 10 : “Con có một Tổ quốc”, chúng ta đãcảm nhận được niềm hạnh
phúc được là người Việt nam, được sống trên quê hương đất nước của mình. Và mỗi
người có bổn phận yêu mến và tích cực xây dựng Tổ quốc. Nhưng muốn trở thành
người hữu ích thực sự cho dân, cho nước, trước tiên ta phải học. Cha ông ta có câu:
“học ăn, học nói, học gói, học mở” nghĩa là: điều gì cũng phải học, vì chẳng ai sinh
ra đã là người thông biết cả.
Ngày nay, đất nước ta đã hoà bình, thế nhưng chiến tranh đã để lại cho ta cái
nghèo, cái dốt, cái chậm tiến…Muốn giúp cho dân giàu nước mạnh, cần phải học.
Không phải chỉ một số người nhưng tất cả các bạn trẻ Việt Nam đều được mời gọi
đi học. Và không phải chỉ học cho qua chuyện, nhưng cần học hành đến nơi đến
chốn, học thành tài.
Bạn có yêu quê hương dân tộc không? Nếu thực sự yêu nước thương nòi hãy
quyết chí học tập.
2. Yêu Chúa hãy chăm học
Chúa Giê-su, dù là Con Thiên Chúa, nhưng để rao giảng trong ba năm, Ngài
đã chuẩn bị bằng 30 năm học hành, rèn luyện bản thân. Và khi khởi sự cuộc đời rao
giảng, một trong những việc đầu tiên Ngài làm là đào tạo môn đệ: “Ngài lập Nhóm
Mười Hai để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao giảng” ( Mc 3,14 )
Là người Ki-tô hữu, hẳn chúng ta yêu mến Chúa, yêu mến Hội thánh, yêu
mến các linh hồn? Vậy thì chúng ta hãy quyết chí học tập: học văn hoá và học giáo
lý.
Một Đức Giám mục phía Bắc đã có lần nói : “ Rất nhiều bạn trẻ nhiệt tình,
muốn tham gia dạy giáo lý nhưng không được vì bản thân họ học thấp quá”.
Vâng, để nói được về Thiên Chúa, cần học biết Ngài là ai, Ngài làm gì cho ta,
yêu thương ta thế nào. Không biết rõ, ta sẽ không dám nói.
Muốn nói với con người thời nay, phải học để biết cách nói cho thích hợp.
Khoa học ngày càng tiến bộ. Phương tiện đi lại dễ dàng giúp cho người dân các
nước gặp gỡ nhau ngày càng nhiều, khiến cho cuộc sống ngày càng phong phú.
Nhờ học hỏi, ta sẽ biết cách vận dụng tất cả để nói cho con người biết về Chúa.
Thánh Phao-lô không được theo Chúa3 năm như các tông đồ khác. Bù lại,
sau khi được ơn đức tin, ngài đã rút vào sa mạc 3 năm để sống trong cầu nguyện,
nghiền ngẫm về cuộc đời và lời dạy của Chúa Ki-tô rồi mới lên đường rao giảng
(Gl1,13-24)
Khi được ơn trở lại, thánh I-nhã Lôi-dô-la nhận ra rằng muốn rao giảng hữu
hiệu cần phải học. Dù đã hơn 30 tuổi, ngài vẫn vui vẻ ngồi cùng lớp cùng bàn với
trẻ em để học tiếng La tinh. Nhờ đó, về sau ngài đã góp phần cho Hội thánh hết sức
hữu hiệu.
3. Học nhờ lòng yêu mến
Việc học không chỉ một sớm một chiều nhưng là một quá trình lâu dài, vì thế
đòi hỏi phải kiên trì và chấp nhận vất vả.
Có những thầy, cô giáo vì yêu mến xóm làng của mình, thấy được cái nghèo
làm cho dân làng thất học nên đã quyết chí vượt bao gian khổ để học thành tài về
giúp ích cho xóm làng.
Có những linh mục, tu sĩ, giáo lý viên vì yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội đã
cố công học tập để phục vụ hữu hiệu.
Bạn có biết Trần Quốc Toản đã làm gì khi nghe người lớn bàn chuyện chống
ngoại xâm, bảo vệ đất nước? Cậu đã bóp nát quả cam lúc nào không hay, rồi đi rủ
đồng bạn lập một đội quân thiếu niên, cùng nhau học tập và rèn luyện để “phá
cường địch, báo hoàng ân”. Phải học tập và rèn luyện, nếu không, dù có yêu nước
sục sôi, nhóm bạn ấy đã chẳng làm nên trò trống gì. Đáng khen thay, họ đã khiêm
nhường cố công học tập, và đã được vinh dự góp phần vào sự nghiệp chung của đất
nước.
Việc học ngày nay của bạn có khó hơn thời Trần Quốc Toản vì có nhiều điều hơn
cần phải học, phải tập để thêm hiểu biết và khả năng. Thêm vào đó, xung quanh lại
có đủ các thứ hấp dẫn, quyến rũ, lội cuốn ta bỏ học. Thế nhưng dù việc học khó,
bạn sẽ làm được, vì bạn cũng yêu nước như Trần Quốc Toản. Hơn nữa, bạn còn có
sức mạnh của lòng yêu mến Chúa và các linh hồn.
Hãy cầu xin Chúa ban cho bạn thêm lòng yêu mến. Hãy học vì yêu mến. Hãy
yêu mến mà học. Tâm trí bạn sẽ được mở mang, phẩm giá bạn sẽ thêm sáng chói.
4. Các em học sinh thảo luận
a. XEM: Nhìn chung, trong gia đình bạn, trong giáo xứ bạn có quan tâm đến
việc học cả đạo lẫn đời không ?
Nếu có,bạn hãy kể ra?
Trong Giáo xứ có quan tâm đến việc học như xây nhà giáo lý, đào tạo Giáo lý
viên, mở các lớp giáo lý, khuyến khích và kêu gọi các em theo các lớp giáo
lý . Trao học bổng cho các em học khá ở trường, lập quỹ giúp các em học
sinh nghèo, mở các lớp học xoá nạn mù chữ.
Nếu chưa, bạn hãy cho biết nguyên nhân
b. XÉT : Trong giáo xứ, trong thôn xóm chúng ta cần động viên việc học như
thế nào?
c. LÀM : Muốn tiến bộ trong việc học tập, ta cần phải làm gì?
- Cần có mục đích cụ thể và rõ ràng.
- Cần quyết tâm, kiên trì.
- Cần học có phương pháp và biết giúp nhau học.
· TÓM LẠI :
- Thiên Chúa đã ban các nén bạc của Ngài cho ta. Ta cần biết phát
triển là: sức khoẻ, đức hạnh, tài năng, kiến thức…
- Đất nước đã bước vào giai đoạn mới, hoà mình vào bước tiến của
cả thế giới. Những ai muốn tiến kịp cuộc sống đều cần phải học đến
nơi đến chốn.
- Cách riêng người Công Giáo cần học đến nơi đến chốn để có khả
năng giới thiệu Chúa Giê-su cho đồng bào mình.
- Giữa hoàn cảnh khó khăn của gia đình, mỗi học sinh cần biết chăm
ngoan, cố gắng vượt bực trong việc học tập để đáp đền tình thương
và công ơn của cha mẹ.
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA:
“ Chiều cuối năm, những vạt nắng nhạt dần trên con đườngdẫn ra ngoại ô.
Người người hối hả, tất bật lo toan cho cái Tết đã gần kề. Cũng là chuẩn bị cho
ngày Tết, nhưng lại là những buổi tập dượt, những bài văn, câu thơ được trau chuốt
để làm quà biếu cha mẹ và những người thân ở quê nhà. Những điều ấy đang diễn
ra ở mái ấm Thiên Aân, nơi mà 12 em vừa trai, vừa gái và cả chủ hộ đều khiếm thị.
Tất cả đều sống trong bóng đêm giữa ban ngày. Mái ấm tình người ấy là một căn hộ
nhỏ nằm trong hẻm thuộc phường 16, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí minh.
Thầy giáo Nguyễn quốc Phong, chủ hộ, nguyên trước đây là một tu sĩ dòng
Salésien. Năm 1991, trên đường từ ngoại thành vào nội ô, thầy bị tai nạn do sự bất
cẩn của một người lái xe tải chở lồ ô đậu bên đường, không có đèn báo hiệu trong
đêm. Cả vùng mặt vùng ngực bị tổn thương nặng. Sau hơn một năm chữa trị, sức
khoẻ dần hồi phục hưng người tu sĩ ấy đã mất đi đôi mắt. “Thấm thoát mà đã hơn
chục năm rồi anh ạ!”.Thầy Phong kể lại chuỗi ngày đã qua: “Lúc đầu, bước vào thế
giới người mù, mình rất buồn, thất vọng. Ngày ấy mới 33 tuổi. Sau này có dịp tiếp
xúc với những người cùng hoàn cảnh, thấy họ vẫn phấn đấu để sống, mình tự nhủ
phải biết thích nghi với cuộc đời mới. Bây giờ mình thấy cũng còn có ích cho đời”.
“Còn có ích cho đời”đó là điều mà mọi người đã nhận ra nơi thầy Phong trong
cuộc sống hôm nay tại mái ấm Thiên Ân và từ nhiều năm trước .Nơi đây thầy đang
nuôi dạy nhiều lượt các cháu đủ mọi trình độ bị khiếm thị từ nhiều nơi gửi tới. (Nét
xuân ở Thiên Ân, Báo CG DT- số 1391, trg. 16 )
“Còn có ích cho đời”, đó là cách sử dụng những nén bạc Chúa trao một cách
tốt nhất nơi thầy Phong. Vâng, ai cũng được Chúa trao cho những nén bạc và Chúa
mời gọi mỗi người hãy làm sinh lợi ra cho Ngài tùy theo khả năng Ngài ban cho
từng người như trong đoạn Tin Mừng chúng ta sẽ lắng nghe giờ đây:
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 25, 14 – 30
Thinh lặng giây lát
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ban cho chúng những nén bạc là sức khoẻ, đức
hạnh, tài năng, trí khôn, kiến thức…Xin Chúa giúp chúng con biết chăm chỉ
học hành, rèn luyện thân xác, trau dồi tâm hồn bằng những đức tính tốt,
những kiến thức đạo, đời. Để chúng con có thể làm sáng Danh Chúa, và giúp
ích cho chính bản thân, cho gia đình, cho giáo xứ, Giáo hội, cho tổ quốc và
cho cả loài người chúng con. Chúng con cầu xin vì Chúa là Đấng hằng sống,…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ:
Hát : Mỗi chúng ta là một món quà…
VII. BÀI TẬP
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Để phục vụ hữu hiệu, ta cần học đến nơi đến chốn :
a. Những kiến thức khoa học.
b. Những môn học đạo và đời.
c. Những kiến thức về giáo lý.
( câu b )
2. Muốn tiến bộ trong việc học tập, ta cần :
a. Có mục đích cụ thể và rõ ràng.
b. Có quyết tâm, kiên trì.
c. Cần học có phương pháp và biết giúp nhau học.
d. Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG:
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài?
Mỗi người khi sinh ra đều được Thiên Chúa ban cho một số tài năng. Đó là
những nén bạc được trao phó. Người nhiều, người ít nhưng tất cả đều có trách
nhiệm làm cho những nén bạc Chúa ban sinh sôi nảy nở, không phải chỉ để
cho mình mà còn cho người khác.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Yêu mến việc học, quyết tâm học hành đến nơi đến chốn để giúp ích cho chính
bản thân và giúp ích cho người khác. Học để phục vụ đất nước và Hội Thánh.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học
giáo lý hôm nay, giúp chúng con ý thức hơn giá trị và sự cần thiết phải học
tập. Xin Chúa giúp chúng con biết chăm chỉ học hành, và xin Chúa mở lòng
cho nhiều người quảng đại, giúp đỡ những bạn nghèo của chúng con có cơ hội
để học tập, hầu góp phần phục vụ thế giới ngày càng hữu hiệu hơn. Amen.

Bài 17 :
CHÚA GIÊ-SU BỊ CHỐNG ĐỐI
Mc 8, 31-33

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã quy tụ chúng con lại đây trong tình yêu
thương quan phòng của Chúa. Xin Chúa soi sáng giúp chúng con học giờ giáo lý này
đạt kết quả tốt đẹp.
Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Vào năm 1856, các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị
ở Balatin tại thành phố Rôma. Khi đào bới những lớp đất bao phủ một trại lính
Rôma cổ, trên bức vách một bức tường họ tìm thấy hình cây Thập giá đượcï một
người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào tường . Bên cạnh là
hình một chàng thanh niên chào kính cây Thánh giá. Trên cây Thánh giá có vẽ hình
một người, nhưng đầu người ấy lại là hình một con lừa. Dưới hai hình vẽ người ta
thấy có viết hàng chữ : “Alex Saminốt thờ lạy Chúa của hắn!”. Các nhà khảo cổ cho
rằng có thể bức vẽ đã được thực hiện vào những năm 123-126. Nếu sự chẩn đoán
về niên hiệu này là đúng, thì đây có lẽ là hình vẽ Thánh giá cổ nhất, nhưng lại là
hình vẽ Thánh giá bị nhạo báng, chê cười: “Nếu Thiên chúa đã chết trên Thập giá,
thì đây là hành động yếu hèn khờ dại như hành động của một con lừa, và cả những
người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng thế.”
Vào năm 1870, các nhà khảo cổ lại tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của
chàng thanh niên mang niềm tin Ki-tô giáo tên là Alex Saminốt. Ở một trụ bằng đá
dựng hình “Thần Marc” tức là vị “Thần chiến tranh”, người ta khám phá thấy được
khắc vào đó dòng chữ : “Alex Saminốt vẫn vững tin!”
Hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên Thập giá là một hình ảnh khủng khiếp, yếu
đuối, dại khờ đối với những kẻ không tin.
Tự nhiên, con người ai cũng sợ và muốn tránh đau khổ. Ngay cả các môn đệ,
được sống bên cạnh Chúa, mỗi ngày các môn đệ khám phá thêm nhiều điều về
Chúa. Nhưng các ngài cũng không dễ dàng đón nhận Đức Giê-su Ki-tô là Đấng phải
chịu nhiều đau khổ như trong đoạn Tin Mừng chúng ta sẽ lắng nghe giờ đây.
( Mời các em đứng, chúng ta cùng lắng nghe)
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mc 8, 31 – 33
Thinh lặng giây lát.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố
Sau khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống. Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ, bị khai
trừ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Lời Đức Giê-su loan báo cuộc khổ nạn
cho thấy mối căng thẳng giữa Ngài với giới lãnh đạo Do Thái.
Đấng Ki-tô mà lại bị giết chết ? Như vậy những năm tháng bỏ mọi sự, rong ruổi
theo Thầy Giê-su, những mong ước được “ngồi bên hữu, bên tả trong Nước Thầy”
hoá ra công cốc sao? Đó là điều kinh khủng mà Phê-rô và các môn đệ khác không
thể chấp nhận được. Vì vậy, Phê-rô đã phản ứng mạnh. Nhưng Chúa lại càng phản
ứng mạnh hơn.
Chúng ta cùng thảo luận để hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng này.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn tin Mừng Mc 8, 31-33 này là một câu chuyện kể.
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào?
- Đức Giê-su, các môn đệ, các kỳ mục, thượng tế, kinh sư, Phê-rô.
-Nhân vật chính : Đức Giê-su
b. Câu tóm ý cả đoạn: câu 31
c. Đặt tựa đề ngắn : Chúa Giê-su báo trước cuộc thương khó của Người
3. Bài học giáo lý
Trước đây, nhiều lần Đức Giê-su đã nói xa về cái chết của Ngài. ( Mt 9,15; Mc
2,20; Lc 5,35; Ga 3,14-15)
Lần này, sau lời tuyên xưng của thánh Phê-rô, Chúa Giê-su nói rõ ràng rằng
Ngài sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị
giết chết và sau 3 ngày, sống lại. Sau đó, để chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ,
Ngài còn nói thêm hai lần nữa về cái chết sắp tới của Ngài.
Nhưng vì sao Chúa Giê-su lại bị giới lãnh đạo Do Thái chống đối và lên án ? Sau đây
là những lý do :
3.1 Những lý do tôn giáo
Về mặt tôn giáo, Chúa Giê-su bị tố cáo về những tội sau mà theo luật
Mô-sê thì phải bị xử tử bằng hình phạt ném đá (x. Ga 8,59; 10,31).
a. Chống lại Lề luật
Chúa Giê-su có chống lại Lề luật không ?
Chẳng những Chúa Giê-su không chống mà trái lại còn làm cho Lề luật
được nên hoàn hảo. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giê-su tuyên bố: “Anh
em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài
kiện toàn Lề luật vì Ngài “ giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ
không như các kinh sư” ( Mt 7,29 ). Như Đấng có quyền ban bố Lề luật
chứ không chỉ giải thích. Ngài còn kiện toàn vì Luật của Ngài không chỉ là
những điều khoản ghi khắc trên “bia đá” mà là “bia lòng”.
Chính vì thế Ngài chống đối, phê phán và tố giác những hình thức nệ luật
và coi đó như sự phản bội ý muốn của Thiên Chúa. (x.Mc 7,13). Nhưng
cũng vì thế, mối quan hệ giữa Đức Giê-su và các thủ lãnh tôn giáo trở
nên căng thẳng.
b. Xúc phạm Đền thờ
Tội trạng thứ hai là xúc phạm Đền thờ Giê-ru-sa-lem. (x. Mt 26,61).
Đối với người Do Thái, Đền thờ Giê-ru-sa-lem là niềm tự hào dân tộc.
(x.Mc 13,1), là biểu tượng của Do Thái giáo. Đó là nơi linh thánh, nơi
Thiên Chúa ngự cách đặc biệt giữa dân Ngài. Bởi vậy, họ rất tôn kính
Đền thờ. Việc tôn kính này biểu lộ bằng việc đóng thuế cho đền thờ (Mt
17,24), dâng cúng cho đền thờ (Mc 12,41-44), và hằng năm lên giê-ru-
sa-lem hành hương vào những đại lễ, đặc biệt là vào dịp lễ Vượt qua (Lc
2,41).
Thái độ của Chúa giê-su đối với Đền thờ thế nào? Có như lời tố cáo
không?
Cũng như các ngôn sứ, Đức Giê-su dành cho Đền thánh Giê-ru-sa-lem sự
tôn kính đặc biệt. Nơi đó, Ngài đã được cha mẹ hiến dâng cho Thiên
Chúa (x. Lc 2,22-31). Nơi đó, Ngài đã đến hằng năm, trong suốt thời
gian sống tại Na-da-rét (x.Lc 2,41). Cả cuộc sống rao giảng của Chúa
Giê-su cũng bắt nhịp với những lần hành hương về Đền Thánh.
Hơn thế nữa, Ngài coi Đền Thánh là Nhà của Cha, nhà cầu nguyện. Vì
thế, Ngài không thể chấp nhận sự lạm dụng Đền thờ, biến Đền thờ thành
nơi buôn bán, hang trộm cướp (x.Mt 21,13). Vì yêu Cha tha thiết, Ngài
xua đuổi con buôn khỏi Đền thờ (Ga 2,16).
Khi người Do Thái hỏi Chúa Giê-su lấy dấu lạ nào cho thấy Ngài có quyền
làm như thế. Chúa Giê-su đã trả lời: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này
đi: nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Ý Chúa Giê-su muốn nói về thân thể
Ngài ( Ga, 18-19). Câu nói này đã bị một số người bóp méo và cho rằng
Chúa Giê-su xúc phạm đến Đền thờ.
c. Phạm thượng
Nếu Lề Luật và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là cơ hội để các nhà chức trách
“chống báng Chúa Giê-su”, thì thực ra vai trò cứu chuộc khỏi tội lỗi của
Ngài, công trình tuyệt hảo của Thiên Chúa, mới chính là hòn đá vấp ngã
cho họ.
Trong khi rao giảng, Đức Giê-su loan báo Thiên Chúa là Cha, một vị
Thiên Chúa khác xa với hình ảnh Thiên Chúa mà nhiều người đạo đức
thời đó tin tưởng. Ngài loan báo Thiên Chúa bằng lời rao giảng và bằng
cả cách sống của Ngài. Thay vì xa cách người tội lỗi và những kẻ bị xã
hội bỏ rơi, Đức Giê-su lại tìm đến với họ để chia sẻ, nâng đỡ và an ủi
nhưnhư Ngài xác quyết : “Tôi không đến để kêu gọi người công chính,
mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
Hơn thế nữa, Đức Giê-su còn tỏ mình là Đấng Cứu độ, đặc biệt khi Ngài
thực thi quyền tha tội ( Mc 2,5)- quyền chỉ dành riêng cho một mình
Thiên Chúa(Mc 2,7)
Đối với các thủ lãnh đương thời, hành động đó của Đức Giê-su bị kết án
là phạm thượng. Và sự đối kháng giữa Ngài với họ càng lúc càng gia tăng
(Ga 5,18)
-Tóm ý: Chúa Giê-su bị một số lãnh đạo Do Thái chống đối và tìm cách
giết chết, vì họ cho rằng Chúa Giê-su chống lại Luật Mô-sê, coi thường
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, và nhất là đã phạm thượng, dám tự coi mình
là Thiên Chúa.
3.2 Những lý do xã hội:
Lúc đầu, có lẽ cả dân chúng và giới lãnh đạo Do Thái đều đã mong
chờ Đức Ki-tô đem lại một cuộc giải phóng chính trị, đánh đuổi quân
Rôma, giành lại độc lập cho dân tộc. Trong các môn đệ Đức Giê-su cũng
có những người đã theo Ngài với cái ước mơ ấy như hai môn đệ trên
đường Em-mau: “…Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính
Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (Lc 24,19.21).
Trong lần gặp mặt Chúa Giê-su lần cuối, trước khi Chúa lên Trời, nhiều
môn đệ vẫn chưa hết thắc mắc: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy
khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1,6)
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng phấn khởi cực độ. Họ muốn
tôn Ngài lên làm vua để thực hiện ý định đó. Nhưng Chúa Giê-su lại từ
chối. Điều ấy khiến các tư tế và biệt phái âu lo : “Chúng ta phải làm gì
đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người
sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá hủy cả nơi Thánh của ta
lẫn dân tộc ta.”
Oâng Cai-pha là người đứng đầu vạch rõ : “các ông không hiểu gì cả. Các
ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết
thay cho dân còn hơn toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,47-50)
Và rồi các nhà lãnh đạo đã đi đến chỗ quyết định giết Chúa Giê-su.
-Tóm ý : Lời giảng và hành vi của chúa Giê-su đụng chạm đến quyền
lợi và uy tín của giới lãnh đạo Do Thái, nên họ quyết định thủ tiêu
Ngài.
3.3 Đức Giê-su tự nguyện chết vì ta.
Sau lời can ngăn của Phê-rô, Chúa Giê-su quay lại mắng ông : “Xa-tan!
Lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của
Thiên Chúa mà là của loài người”.
Câu này cho thấy rõ thái độ của Chúa Giê-su:
-Việc Đấng Ki-tô sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết rồi sẽ sống lại, là ý định
của Chúa Cha.
-Ngài tự nguyện chấp nhận vâng theo ý muốn của Chúa Cha. Việc Chúa
nặng lời với Phê-rô gợi lại phản ứng quyết liệt của Ngài đối với Xa-tan
trong hoang địa, khi nó cám dỗ Ngài xa lìa chương trình của Chúa Cha :
“Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: ngươi phải bái lạy Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”
(Mt 4,10).
Nhiều lần Chúa Giê-su nói lên thái độ tự nguyện chết vì chúng ta :
-Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục
vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người .(Mt 20,28;Mc
10,45)
-Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống
mình cho đoàn chiên (Ga 10,11).
-Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh
mạng sống mình (Ga 10,18; 15,13)
-Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni càng cho
thấy thái độ tự nguyện của Ngài hơn : “Lạy cha, nếu cha muốn, xin cất
chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con , mà làm theo ý Cha”
(Lc 22,42).
-Tóm ý : Vì yêu mến Chúa Cha và yêu thương nhân loại. Chúa Giê-su đã tự nguyện
vâng theo ý muốn của Chúa Cha: chịu đau khổ, chịu chết và đã sống lại để cứu độ
nhân loại tội lỗi.
* TÓM Ý TOÀN BÀI : Đức Giê-su ki-tô, Con Thiên Chúa làm người đến cứu độ
nhân loại. Ngài không đến để hủy bỏnhưng là để kiện toàn Lề luật, Ngài đã tôn kính
Đền thờ, và sống hết tình cho Thiên Chúa Cha. Nhưng các thủ lãnh tôn giáo đương
thời không tin vào Chúa Giê-su, họ đã lên án và tìm cách giết Ngài. Thật ra, tất cả
những ai phạm tội, dù ở bất cứ thời đại nào, đều là những người đã gây nên cái
chết của Chúa Giê-su .(Lc 23,50-56)
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nói : “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập
giá mà theo Ta”. Là con người, chẳng ai muốn gặp thập giá, chẳng ai
muốn vác thập giá. Ngay cả thánh Phê-rô khi nghe Chúa nói, ông cũng
không chấp nhận. Nhưng Chúa đã tự nguyện vác thập giá vì yêu mến
Chúa Cha và vì Chúa muốn cứu độ nhân loại tội lỗi. Xin Chúa giúp chúng
con luôn ý thức rằng : chỉ khi chúng con chết đi cho bản thân mỗi ngày,
và chết đi cho những ước muốn ích kỷ, chúng con mới có thể sống dồi dào
hơn; bởi vì chỉ khi chúng con chết với Chúa, chúng con mới có thể sống lại
thật với Người. Chúng con cầu xin…
VI. SINH HOẠT
VII. BÀI TẬP
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. 1. Khi nghe Chúa Giê-su loan báo về cái chết của Ngài:
a. Thánh Phê-rô đã tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
b. Các môn đệ đã hiểu và tiếp tục theo Chúa
c. Thánh Phê-rô đã không chấp nhận được và can ngăn Chúa.
d. Câu a và b đúng
( câu c)
2. 2. Chúa Giê-su bị kết án tử hình vì :
a.Chúa chống lại Luật Mô-sê và loan báo sự sụp đổ của Đền thờ Giê-ru-
sa-lem.
b. Ngài gọi Thiên Chúa là Cha và có ảnh hưởng nhiều trên dân chúng.
c. Ngài yêu mến Chúa Cha và yêu thương nhân loại tội lỗi.
d. Cả 3 câu đều đúng
( câu c )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn cho ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Chúa Giê-su đã tự nguyện chịu chết để
cứu độ nhân loại.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Muốn làm môn đệ Chúa Giê-su, em phải trở nên đồng hình đồng dạng
với Ngài : phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Chúa.
Em cần phải từ bỏ những gì? Thập giá của em là gì ?
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã hiện diện và dạy dỗ chúng con trong giờ
giáo lý hôm nay. Xin ban cho chúng con sự khôn ngoan để nhận ra ý Chúa
trong những thập giá của cuộc đời chúng con, và xin cho con can đảm dám từ
bỏ mình vui lòng kề vai gánh vác những đau khổ trên con đường theo
Chúa.Amen

Bài 18:
BỮA TIỆC LY VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Ga 3, 1-15

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, chúng con tin Chúa đang hiện diện giữa chúng con đây.
Chúa yêu chúng con bằng một tình yêu vô bờ bến. Giờ đây, Chúa mời gọi và chờ
đón chúng con đến với Chúa để dạy dỗ và chúc phúc cho chúng con bằng ân sủng
và bình an của Chúa.
Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần để Ngài giúp chúng con mở rộng tâm hồn đón
nhận những lời dạy dỗ và tình yêu Chúa muốn bày tỏ cho chúng con trong giờ giáo
lý hôm nay.
Hát : Xin Ngôi Ba Thiên Chúa…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Ngày 10-01-1938, trong một chuyến xe lửa chạy từ miền Bắc xuống
miền Nam nước Colombia thuộc Nam Mỹ, bất ngờ nó bị trật đường rầy làm rất
nhiều hành khách bị thương và tử vong.
Trong số những người quằn quại bò ra được khỏi con tàu thảm hoạ ấy có Cha
Phénice, một tu sĩ dòng Thánh Gioan. Ngài bị thương nặng, một phần ruột bị tuột ra
khỏi bụng.
Nhận ra cha, các bác sĩ, y tá của đoàn cứu hộ đã vội chạy đến ân cần chăm sóc.
Nhưng Cha ra hiệu bảo họ cứ đi lo cứu giúp những nạn nhân khác. Phần mình, cha
cố gắng hết sức để tự nhétmớ ruột lòng thòng vào ổ bụng, dùng băng vải buộc chặt
bên ngoài, rồi gượng đau để lết đi, tìm những hành khách bị thương nặng đễ giải tội
cho họ. Được một lúc khá lâu sau đó,cha kiệt sức ngã quỵ. Các y tá chạy lạivà kịp
nghe được tiếng thì thào của cha trong cơn đau đớn đến tột cùng: “Tạ ơn Chúa đã
cho con có thì giờ để kịp làm những điều cần thiết nhất cho anh em con…”
Chiếc xe cấp cứu vội đưa cha Phénice tới bệnh viện, nhưng chỉ vài giờ sau, ngài
trút hơi thở cuối cùng. Năm ấy, cha mới có 36 tuổi.
Hành động hy sinh của cha Phénice nhắc ta nhớ đến hành động của Chúa Giê-su
: trước khi bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Chúa đã tỏ hết tình yêu thương đối với
các môn đệ, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể. Những
điều đó đã được thánh Gio-an ghi lại rất chi tiết trong chương 13,1-15.
Mời các em đứng, chúng ta cùng lắng nghe
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 13, 1-15
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố
Khi phải xa nhau, hay một người biết mình sắp chết ai cũng muốn bộc lộ tất cả
tình cảm của mình, muốn trối lại cho người thân điều tâm huyết nhất của mình.
Chúa Giê-su cũng vậy, trước lễ Vượt qua, Ngài biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế
gian mà về với Chúa Cha. Đó là giờ phút ly biệt của Ngài với các môn đệ thân
yêu. Ngài đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài vẫn
yêu thương họ đến cùng, yêu đến tột đỉnh. Tình yêu này, Ngài bày tỏ qua ba
việc : Rửa chân cho các môn đệ, lập Bí tích Thánh Thể và lập chức Linh mục
Chúng ta cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này để thấy rõ hơn điều Chúa muốn
trao gửi cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào?
-Đức Giê-su, Chúa Cha, những kẻ thuộc về Đức Giê-su, ma quỷ, Giu-đa,
các môn đệ, Phê-rô.
- Nhân vật chính : Đức Giê-su
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 14
c. Đặt tựa đề ngắn : Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ
3. Bài học giáo lý
Lễ Vượt qua là một đại lễ của người Do Thái, được cử hành hằng năm theo
lệnh Chúa, để kỷ niệm việc Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vào thời
Đức Giê-su, bữa ăn Vượt qua diễn ra trong khoảng từ khi mặt trời lặn cho đến
nửa đêm ngày 15 tháng Ni-xan. Trong bữa ăn Vượt qua cuối cùng của Đức Giê-
su, Ngài đã ban lệnh truyền yêu thương, lập bí tích Thánh Thể và Chức Tư tế.
Trong bài học này, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu từng sự việc.
3.1 Luật yêu thương
Các em thân mến, trong lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, các em thấy có nghi
thức Rửa chân : cha chủ tế rửa chân cho 12 người được chọn làm Tông đồ. Nghi
thức này nhắc nhớ lại việc Chúa Giê-su đã làm trong bữa Tiệc ly : Ngài rửa chân
cho các môn đệ..
Được rửa chân là một vinh dự, nhất là lại được một người cao trọng hơn mình
rửa chân cho. Ngược lại, phải rửa chân cho người khác là một công việc chẳng
thú vị tí nào, có khi còn thấy xấu hổ nữa ! Đối với người Do Thái cũng vậy, rửa
chân là một công việc cực kỳ thấp hèn, chỉ dành cho bọn nô lệ nước ngoài.
Đôi khi trong trường hợp hạn hữu đặc biệt, để tỏ lòng hiếu thảo hoặc kính
mến cực độ đối với cha, với thầy hoặc với chủ, người ta mới hạ mình xuống rửa
chân. Việc thầy quỳ xuống rửa chân cho trò là một chuyện động trời, chưa bao
giờ xảy ra. Vậy mà Chúa Giê-su đã rửa chân cho các môn đệ của Ngài. Chính vì
thế Phê-rô mới thưa với Chúa Giê-su : “Thưa Thầy, Thầy mà lại rửa chân cho
con sao?”
Tin Mừng Gio-an đã mở đầu bữa ăn bằng việc Đức Giê-su rửa chân cho các
môn đệ. Ngài xuất hiện như một tôi tớ hầu hạ mọi người. Sau khi rửa chân cho
các môn đệ, Đức Giê-su nói : “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho
anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14 )
Như vậy, việc Chúa rửa chân mang ý nghĩa gì?
. Chúa hạ mình mặc lấy thân phận nô lệ.
. Chúa hạ mình phục vụ vì yêu thương chúng ta: yêu đến tột độ.
. Chúa đã làm gương trước cho các môn đệ : Rửa chân là cúi xuống thật sâu, để
mặt mình ngang với chân người khác. Nhờ trải qua kinh nghiệm được Thầy rửa
chân, sau này khi lãnh đạo Hội Thánh, Phê-rô và các Tông đồ sẽ biết cách phục
vụ anh em như thế nào. Phục vụ không phải là đứng ban phát từ trên cao,
nhưng là cúi xuống, phục vụ như một người hầu hạ.
Gần cuối bữa tiệc, Chúa Giê-su bắt đầu nói những lời từ biệt và trối lại điều răn
yêu thương: “…Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu
thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có
lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 33-35 )
- Tóm ý : Chúa Giê-su đã ban lệnh truyền yêu thương. Do đó, đặc điểm để nhận
biết người môn đệ của Chúa Giê-su là yêu thương nhau. Tình yêu thương này thể
hiện qua việc phục vụ : phục vụ một cách khiêm hạ, phục vụ với cả tấm lòng, như
hình ảnh người Thầy quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ của mình.
3.2 Bí tích Thánh Thể
Trong khi thánh Gio-an thuật lại việc rửa chân và ban lệnh truyền yêu
thương, thì các tác giả Phúc âm Nhất lãm ( Mt, Mc, Lc ) và thánh Phao-lô kể lại
việc Chúa lập bí tích Thánh Thể : Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20; 1Cr
11,23-25 .
a. Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thề:
Chúa Giê-su đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc Vượt qua chiều Thứ
Năm Tuần Thánh trước sự hiện diện của các Tông đồ yêu dấu. Các bài tường
thuật trong Tin Mừng và Thư thứ I Cô-rin- thô đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy
: “Người cầm lấy tấm bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói:
“Đây là mình Thầy hy sinh vì anh em. Anh em hãy làm như Thầy mà tưởng
nhớ đến Thầy” (Lc 22,19 )
Do quyền năng Thiên Chúa, Chúa Giê-su làm cho bánh rược trở nên Mình
Máu Chúa và Chúa hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu.
Như thế, trong bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su hiến mình làm lương thực nuôi ta.
Còn ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (hôm sau), Chúa Giê-su lại tự hiến làm lễ vật
hữu hình trên Thánh giá, để đền tội cho chúng ta, nhưng vẫn là một lễ dâng
duy nhất là chính con người Chúa Giê-su .
b. Ý nghĩa của Bánh và Rượu
Bánh và Rượu làm từ những hoa trái, những lương thực mà Chúa ban
cho loài người ngay từ khi sáng tạo vũ trụ.( x.Kn 1,29). Bánh rượu cũng là
những thành quả do lao công của con người dâng lên Thiên Chúa, mong được
Thiên Chúa chấp nhận, thánh hiến để trở nên Mình và Máu Chúa Ki-tô. Đây là
một phép lạ vĩ đại luôn luôn diễn ra trên các Bàn thờ. Đây là mầu nhiệm Đức
tin, vượt trên mọi lý luận của con người, vì sau khi truyền phép, tuy bề ngoài
bánh ,rượu vẫn nguyên hình dạng không thay đổi, nhưng đức tin dạy chúng ta
biết : đó không còn là bánh rượu nữa, nhưng đã trở nên Mình và Máu Chúa
Giê-su.(x. Lc22.19-22). Như man-na nuôi dân trong sa mạc(x.Xh16,4-16),
như bánh được hoá nhiều để nuôi dân trong sa mạc (x. Ga 6,1-13). Bánh rượu
trở nên Mình và Máu Chúa Ki-tô nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình dưới
thế và loan báo Tiệc cánh chung (x.Mt 25,29 )
c. Chúa Giê-su hiện diện trong bí tích Thánh Thể
“Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên
Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8,34)
Đối với Hội Thánh, Ngài hiện diện dưới nhiều hình thức:
.Trong Lời Chúa ( Kinh Thánh)
.Trong kinh nguyện của Hội Thánh : “ở đâu có hai ba người họp lại nhân
danh Thầy, thì có thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20)
.Trong những người nghèo khổ, đau yếu,tù đầy (x. Mt25, 31-46)
.Trong các bí tích do Ngài thiết lập.
.Trong hy tế Thánh lễ và nơi thừa tác viên.
Và nhất là Ngài hiện diện trong bí tích Thánh Thể dưới hai hình thái Bánh và
Rượu. “Trong bí tích Thánh Thể có sự hiện diện đích thực, thực sự và trọn vẹn
Mình và Máu Đức Ki-tô, cùng với linh hồn và thiên tính của Ngài, nghĩa là Đức
Ki-tô trọn vẹn. Nơi bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô vừa là Thiên Chúa vừa là con
người hiện diện trọn vẹn” (SGLC 1373-1374,x.1377)
d. Sống bí tích Thánh Thể:
Chủ đích của Chúa Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể là để làm của ăn, của
uống thiêng liêng nuôi linh hồn ta, tưởng niệm hy lễ Thánh giá- là dấu chỉ sự
hiệp nhất chúng ta với Chúa và với người khác. Vì thế, khi hiệp lễ chúng ta
cần chuẩn bị tâm hồn trong sạch để lãnh nhận Mình Máu Chúa Ki-tô, để được
hiệp nhất với Chúa, và với mọi người; được gia tăng ơn thánh, được tha các tội
nhẹ và được bảo đảm hạnh phúc trường sinh.
Bí tích Thánh Thể là dấu chứng Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng
ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì
bạn hữu” (x.Ga 15,13). Hằng ngày, ta hãy luôn cảm tạ hồng ân Thánh Thể
Chúa ban cho ta, tôn thờ Chúa Giê-su Thánh Thể, và theo gương Chúa Giê-su,
Đấng đã trở nên “Tấm bánh bẻ ra cho thế giới”, chúng ta hãy là tấm bánh bẻ
ra cho mọi người, nhất là sống chia sẻ với người nghèo khó.
-Tóm ý : Bí tích Thánh Thể là trung tâm và cao điểm của đời sống Hội Thánh.
Trong bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô liên kết Hội Thánh và mọi chi thể của Người vào
hy lễ chúc tụng tạ ơn, hy lễ mà Người đãdâng lên Cha một lần dứt khoát trên trên
Thánh giá. Qua hy lễ này, Người thông ban tràn đầy ân sủng cứu độ trên thân thể
của mình là Hội Thánh.
3.3 Chức Tư tế
Sau khi biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu thánh Ngài, Chúa Giê-su
truyền cho các môn đệ điều gì ?
Ngài truyền : “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,20;
1Cr 11,23-25). Với lời: “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”, Đức
Giê-su trao cho các Tông đồ quyền cử hành lại điều Ngài đã làm trong bữa Tiệc ly.
Ngài tấn phong họ thành những Tư tế ( linh mục) của Giao ước mới. Đây là bí tích
Truyền Chức Thánh làm nên những lớp người kế thừa các Tông đồ qua các thế hệ.
Tuy nhiên, lời căn dặn : “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”
không phải chỉ dành cho các linh mục, mà còn cho tất cả chúng ta là chi thể của
Chúa Ki-tô. Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tất cả chúng ta đều đã được tham dự vào
chức tư tế của Chúa Ki-tô.
-Tóm ý : Qua bí tích Rửa tội, mọi nguời được mời gọi lãnh nhận chức tư tế phổ
quát: sống yêu thương, phục vụ như Chúa đã yêu thương. Và qua bí tích Truyền
Chức Thánh , các Linh mục được mời gọi thừa kế các tông đồ cử hành lại điều Chúa
Giê-su đã làm trong bữa Tiệc ly.
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã rửa chân cho các môn đệ
để dạy họ sống yêu thương và hiệp nhất; rồi Ngài lập bí tích Thánh Thể và chức
Tư tế làm nguồn mạch cho tình yêu thương hiệp nhất ấy.
Đáp lại tình yêu của Chúa Giê-su, ta đón nhận bí tích Thánh Thể với tâm tình biết
ơn để hiệp nhất với Ngài, biết sống yêu thương và phục vụ như Ngài đã dạy và đã
sống.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, Chúa đã biến mình thành Tấm Bánh Sự Sống để
ban cho chúng con sự sống. Và Chúa đã truyền dạy chúng con phải yêu thương
nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết siêng năng đến
với Chúa trong bí tích Thánh Thể, đón rước Chúa vào lòng con, và xin giúp con biết
đến với tha nhân bằng con đường đơn sơ, khiêm hạ, phục vụ hết tình như Chúa.
Để sự hiện diện của Chúa được lớn lên trong con và nơi mọi người anh chị em
chúng con gặp gỡ. Chúng con cầu xin vì Chúa là Đấng hằng sống, hằng trị cùng với
Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời. Amen.
VI. SINH HOẠT
Hát: Xin cho con ( Ý: Duyên Thập Tự – Nhạc : Ân Đức) LCN1, Trg461
VII. BÀI TẬP
Em hãy chọn câu đúng nhất
1. Trong bữa tiệc Vượt qua lần cuối cùng, Chúa Giê-su đã :
a.Rửa chân cho các môn đệ và ban giới luật yêu thương.
b.Lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh.
c.Loan báo về cuộc thương khó lần cuối cùng
d.Cả 3 câu đều đúng
e. Câu a và b đúng
( câu e )
2. Để có thể yêu thương và phục vụ như Chúa Giê-su, ta cần :
a.Chuyên tâm đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa
b.Siêng năng lãnh nhận các Bí tích một cách sốt sắng.
c.Cầu nguyện kết hợp sâu xa với Thiên Chúa.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
3. Chúa Giê-su hiện diện trong :
a.Kinh Thánh và kinh nguyện của Hội Thánh
b.Các bí tích và những người nghèo khổ, đau yếu, tù đày.
c.Trong bí tích Thánh Thể
d. Cả 3 câu đều đúng. ( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta và Ngài đã yêu thương đến cùng :
Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của Chúa.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
- Chúa Giê-su đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho chính tôi. Mỗi lần rước lễ, có
bao giờ tôi đã tự hỏi :
.Tôi đã biết quên mình nghĩ đến người bên cạnh chưa ?
.Tôi đã mau mắn phục vụ mọi người chưa?
.Tôi sẽ trở nên tấm bánh bẻ ra cho ai ?
- Siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Chúa
- Chọn một ngày trong tuần đến viếng Thánh Thể ít phút
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con cảm tạ Chúa qua giờ học giáolý hôm
nay, chúng con được hiểu sâu hơn Tình yêu vô cùng của Chúa đã dành cho chúng
con. Xin Chúa giúp chúng con luôn yêu mến, gắn bó và đáp trả tình yêu Chúa mỗi
ngày như ý Chúa muốn.Amen.

PHẦN III :
ĐỨC GIÊ-SU CỨU CHUỘC TA

Con ngưới thời nào cũng phải đối đầu với đau khổ và sự chết. Tại sao có
những người chất phác hiền lành lại gặp cảnh đau khổ, oan trái? Tại sao con người
phải chết? Làm sao để vượt thắng những bế tắc do sự chết gây ra?
Đức Giê-su đã không trốn tránh đau khổ và sự chết. Ngài đã trải qua nỗi đau
đớn và cô đơn tột cùng đến độ đã phải thốt lên : “Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?”.
Chính khi chịu thương khó và chịu chết trên thập giá như thế, Con Thiên
Chúa làm người đã giọi ánh sáng vào những câu hỏi trên đây của chúng ta. Nhờ đó,
ta hiểu rằng :
1. Chính tội lỗi loài người là đầu mối đưa đến đau khổ và sự chết.
2. Đau khổ và sự chết trở nên có ý nghĩa và giá trị khi ta đón nhận với
tình yêu thương.
3. Nếu được liên kết với Thập giá của Đức Ki-tô, đau khổ và sự chết của
mỗi người có thể làm phát sinh ơn ích cho bản thân và cho người
khác.
“Hạt lúa rơi xuống đất, nếu không mục nát đi, thì chỉ trơ trọi một
mình. Nhưng nếu mục nát đi mới trổ sinh nhiều bông hạt” ( Ga12,24 )
“Nếu ta cùng chết với Đức Ki-tô, ta sẽ cùng sống vơi Ngài. Nếu ta
cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” ( 2Tm2,11-12 )
Mục đích của phần 3 :
Giúp các em hiểu và sống mầu nhiệm Tử nạn và Phục Sinh.
Ý nghĩa và giá trị của đau khổ và của những hy sinh vất vả dưới ánh sáng
tình yêu cứu chuộc.
Mở lòng mình ra quan tâm đến nỗii đau khổ của người khác.

Bài 19 :
ĐỨC GIÊ-SU CHẾT ĐỂ CHIẾN THẮNG ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT
Mt 26, 36-46

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học giáo lý
hôm nay. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, giúp chúng con tin rằng Chúa
đang hiện diện sống động giữa chúng con để yêu thương giảng dạy và hướng dẫn
đời chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con dành thời gian này cho Chúa để lắng
nghe và chiêm ngắm Chúa với tất cả sự chú tâm của chúng con.
Hát : hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA :
Trong kho tàng các dụ ngôn thời trung cổ có ghi lại một câu chuyện sau đây:
“Một lần kia, Thiên Chúa tỏ lòng thương xót một người luôn phàn nàn về cây
thập giá quá nặng nề mà ông phải gánh vác. Vì thế, Ngài dẫn ông ta vào một gian
phòng rộng, nơi dựng thập giá của cả nhân loại và nói ông: con hãy tự chọn lấy một
thập giá nào mà con thấy hợp nhất cho con. Xoa tay sung sướng, ông ta đi rảo qua
các thập giá để tìm: Ở đây ông thấy một thập giá rất mỏng nhưng lại rất dài và rất
to; chỗ khác lại gặp thấy một câythập giá bé nhỏ nhưng lại nặng như chì. Chọn lựa
hồi lâu, ông chọn được một cây thập giá ông ưa thích, nhưng lúc đặt thử lên vai ông
mới khám phá ra nơi đặt lên vai lại có một cái ngạnh như chiếc gai đâm vào vai.
Bước đi gần đến cuối gian phòng, ông bắt gặp một cây thập giá suýt chút nữa ông
đi qua mà không nhìn thấy. Cây thập giá này không nặng cũng không nhẹ mà vừa
tầm với chiều cao của ông. Oâng xin Chúa chọn cây thập giá đó để vác trong tương
lai, nhưng khi nhìn kỹ lại ông mới khám phá ra đó chính là cây thập giá mà ông vẫn
vác từ xưa đến nay.”
Con người chúng ta thường hay phàn nàn và ngại vác thập giá. Còn Chúa Giê-
su, Ngài có chùn bước trước đau khổ không ?
Chúa Giê-su cũng xao xuyến trước cuộc khổ nạn, nhưng vì yêu Chúa Cha và yêu
thương nhân loại tội lỗi, nên Ngài đã hoàn toàn xin vâng ý Chúa Cha như trong
đoạn Tin Mừng của thánh Mat-thêu chúng ta sẽ công bố giờ đây.
Mời các em đứng, chúng ta cùng lắng nghe Lời Chúa:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 26, 36-46
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố.
Mat-thêu muốn cho chúng ta nhận ra Đức Giê-su là người nắm vữngtất cả tình
hình. Ngài biết cái gì sẽ đến cho mình và Ngài bình tĩnh tiến lên để tỏ rằng Ngài
hoàn thành sứ điệp cho tới cùng (Mt 26,12.18)
Sau khi ăn lễ Vượt qua với các môn đệ. Chúa Giê-su vào cầu nguyện ở vườn Cây
Dầu ( tại chân núi Ô-liu có một thửa vườn, gọi là vườn Ghết-sê-ma-ni. Ghết-sê-ma-
ni, tiếng Hip-ri có nghĩa là nơi ép dầu, máy ép dầu ( dầu ô-liu). Đây là nơi Chúa
Giê-su và các môn đệ hay đến nghỉ đêm.)
Các môn đệ biết mình đang sống trong những biến cố trọng đại nhưng không ý thức
rõ sắp xảy ra điều gì, và họ đã lăn ra ngủ hết vì mắt họ nặng trĩu. Đức Giê-su bảo
họ: “Hãy cầu nguyện để khỏi sa cơn thử thách”. Còn chính Ngài thì không thể tránh
được cơn thử thách ấy: “Ngài bắt đầu cảm thấy xao xuyến. Ngài bảo họ: Tâm hồn
Thầy buồn sầu đến chết được” (Mc 14,34; Mt 26,39). Rồi Ngài để các bạn ở lại đó
và rút vào sâu hơn một quãngđể cầu nguyện một mình tha thiết và sầu não : “Cha
ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin
theo ý Cha” (c.39)
Mời các em cùng thảo luận để thấy rõ hơn những tâm tình của Chúa Giê-su:
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng này là một câu chuyện kể.
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào?
- Đức Giê-su, các môn đệ, Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, Chúa Cha, những kẻ tội
lỗi, kẻ nộp Thầy.
- Nhân vật chính : Chúa Giê-su
b.Câu tóm ý cả đoạn : câu 39
c.Đặt tựa đề ngắn : Đức Giê-su cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma- ni.
3.Bài học giáo lý:
Lần thứ ba, Đức Giê-su trở lại. Thấy các môn đệ vẫn còn đang ngủ, Ngài bảo
các ông:
-Lúc này mà còn ngủ sao ? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào
tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!
Ngài chưa nói dứt lời thì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện,
dẫn theo một đám đông trang bị gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh
sư và kỳ mục sai đến. Trước đó, Giu-đa đã căn dặn họ:
-Hễ tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh hãy bắt lấy và điệu đi cho cẩn
thận.
Giu-đa tiến lại gần Chúa Giê-su và nói:
-Thưa Thầy !
Rồi hắn hôn Ngài. Đám thủ hạ liền ra tay bắt Ngài. Nhưng bỗng Phê-rô tuốt
gươm ra, chém đứt tai phải tên đầy tớ của thượng tế. Chúa Giê-su liền lên tiếng:
-Thôi, ngừng lại!
Và Ngài sờ vào tai tên đầy tớ, chữa cho hắn. Quay sang đám đông vây quanh,
Chúa Giê-su nói:
-Ta là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo, gậy gộc đến bắt ? Ngày
ngày, ta vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các ông không bắt.
Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm!
Bấy giờ các môn đệ bỏ Chúa Giê-su mà chạy trốn hết.
3.1 Một vụ án
-Chúa Giê-su trước toà thượng tế cai-pha và khan-na:
(Ga 18,13-24; Mt 26,57-66; Mc 14, 53-65;Lc 22,54-55)
Bắt được Chúa Giê-su, họ liền điệu Ngài đến dinh thượng tế Cai-pha
Tại sao họ điệu Chúa Giê-su đến dinh Cai-pha ? Bởi vì những người đi bắt
Chúa Giê-su là thủ hạ của dinh thượng tế. Họ được các thượng tế và kỳ mục
( Thượng Hội đồng) sai đến bắt Chúa Giê-su. (mt 26,47).
Hội đồng lãnh đạo Do Thái họp lại để tìm chứng cớ buộc tội. Người ta tố cáo
Chúa Giê-su nhiều tội nhưng không tìm được nhân chứng. Cuối cùng vị
thượng tế đã nghĩ ra một cách. Oâng nói với Ngài:
-Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng
tôi biết: Oâng có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không ?
Đức Giê-su không phủ nhận (x.Mt 26,63-66).
Câu hỏi của vị thượng tế đã gài Đức Giê-su vào thế vừa bị buộc tội về tôn
giáo, vừa bị buộc tội về chính trị :
-Tội phạm thượng vì dám nhận mình là Con Thiên Chúa.
-Tội dấy loạn vì dám xưng mình là Ki-tô, một tước hiệu đồng nghĩa với “Vua
Do Thái”.
Sau khi nhất trí lên án tử cho Đức Giê-su, họ cho trói Ngài lại và giải đi nộp
cho tổng trấn Phi-la-tô.
- Chúa Giê-su trước toà tổng trấn Phi-la-tô:
( Mt 27,11-31; Mc 15,1-20; Lc 22,66-23,11; Gắ,28-19,3)
Đến dinh tổng trấn Phi-la-tô, họ tố cáo Ngài đã tự xưng mình là Vua Do Thái,
xúi dục dân nổi loạn. Phi-la-tô thấy rõ chỗ vô lý của lời buộc tội. Nếu thực sự Đức
Giê-su âm mưu khởi nghĩa thì đời nào người Do Thái lại tố cáo Ngài. Oâng tìm cách
tha Ngài bằng cách chuyển Ngài qua vua Hê-rô-đê và bằng cách hỏi dân chúng
muốn phóng thích Chúa Giê-su hay Ba-ra-ba, một tên bạo động và giết người nguy
hiểm, theo như thông lệ vẫn làm trong dịp lễ lớn. Thế nhưng người Do Thái cương
quyết đòi giết Chúa Giê-su. Thế là Phi-la-tô buộc phải chấp thuận cho người Do Thái
dẫn Chúa Giê-su đi đóng đinh.
-Tóm ý : Vào đêm Lễ Vượt qua, Chúa Giê-su bị bắt và đưa đến dinh Cai-pha.
Thượng Hội đồng Do Thái đã nhất trí lên án tử cho Chúa Giê-su, và họ giải nộp Ngài
cho tổng trấn Phi-la-tô với những lời cáo gian. Trước áp lực của dân chúng Do Thái,
Phi-la-tô đã chấp thuận cho họ dẫn Chúa Giê-su đi đóng đinh.
3.2 Yêu đến chết
(Mt 27,32-50; Mc 15,21-41; Lc 23, 26-49; Ga 19,17-30)
Trong khi người Do Thái xử tử bằng cách ném đá thì người Rô-ma dùng hình
phạt đóng đinh treo lên thập giá. Đây là khổ hình dành riêng để xử các nô lệ và
những người phản loạn.
Phạm nhân phải tự mình vác cây gỗ đến pháp trường. Đến nơi, người ta lấy
đinh đóng hai cổ tay phạm nhân vào thanh gỗ ngang rồi kéo lên cột một cây trụ
chôn sẵn. Bị treo như thế, chẳng mấy chốc các cơ bắp toàn thân đều bị co cứng rất
đau đớn và mất máu dần dần, phạm nhân khát nước và bị ngộp thở.
Chúa Giê-su bị treo lên vào giữa giờ thứ ba và giờ thứ sáu (tức là 9 giờ sáng đến
trưa) và tắt thở vào giờ thứ chín ( tức 3 giờ chiều)
Chúa Giê-su chịu đóng đinh và chết trên thập giá tại Núi Sọ, dưới thời tổng
trấn Phi-la-tô. Xác Ngài được mai táng trong mồ còn linh hồn Ngài về với tổ tiên,
quen gọi là xuống ngục Tổ tông.
Lời tuyên xưng Chúa Giê-su xuống ngục tổ tông nhằm nói lên hai điều :
- Chúa Giê-su đã chết thực sự
- Chúa Giê-su đem ơn cứu độ cho những người công chính đã chết trước
Ngài.
-Tóm ý :
Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng mình cho
người mình yêu ( Ga 15,13). Chúa Giê-su đã đi đến tận cùng của tình yêu: Ngài đã
chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
3.3 Sự khôn ngoan của Thập giá
Thập giá, đối với người Do Thái là một sự ô nhục, đối với người Hy lạp là
một sự điên rồ. Thế nhưng, với Thiên Chúa, đó lại là sự khôn ngoan (1Cr 23,25).
Thập giá gồm một thanh gỗ dọc và một thanh gỗ ngang, được dựng lên như dấu
hiệu nối kết mọi người với nhau. Trên dấu hiệu ấy, Con Thiên Chúa đã hiến mạng
sống và đổ máu mình làm của lễ để thiết lập giao ước mới và là giao ước vĩnh cửu
giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại.
Ngược với thái độ của A-đam, Chúa giê-su đã hạ mình vâng phục đến chết trên
Thập giá. Nhờ đó Ngài đã sửa lại được mọi lỗi lầm của loài người và giao hoà ta với
Thiên Chúa. Vì là Con Thiên Chúa làm người nên sự chết của Ngài có sức đem lại ơn
cứu chuộc cho mọi người.
Người ta đã giải Đức Giê-su đến nơi hành quyết cùng với hai “tên cướp”, để đóng
đinh cả ba vào thập giá. Có lẽ chưa bao giờ người ta đã nghĩ ra một thứ cực hình
nhục nhã và đau đớn hơn khổ hình thập giá.
Khi chịu đau khổ đến chết vì ta, Chúa Giê-su mời gọi ta vác thập giá theo Ngài,
tức là đón nhận mọi đau thương với lòng yêu mến để được kết hiệp với Ngài mật
thiết hơn.
Đối với người Ki-tô hữu, Thập giá là dấu hiệu của Tình yêu Chúa dành cho ta và
cũng là dấu hiệu của Đức tin.
Hằng năm,chúng ta kính nhớ cuộc thương khó chúa vào ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh. Ngày đó, chúng ta cảm ơn Chúa đã chết để cứu chuộc chúng ta và chúng ta
tôn kính Thánh giá Chúa.
-Tóm ý : Chúa Giê-su đã bị lăng nhục và giết chết trên Thập giá. Cho nên đối với
người Ki-tô hữu, Thập giá trở thành dấu hiệu của Tình yêu Chúa dành cho ta và
cũng là dấu hiệu của Đức tin.
*TÓM Ý TOÀN BÀI :
Vì yêu thương chúng ta, “ Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến hy sinh làm của lễ
đền tội cho chúng ta” (2 Cr 5,19)
Nhờ yêu thương, vâng phục Chúa Cha “đến nỗi chết trên Thập giá” (Pl2,8), Chúa
Giê-su hoàn tất sứ mạng đền tội của Người Tôi Tớ đau khổ, “làm cho muôn người
nên công chính bằng cách gánh lấy tội lỗi của họ” ( Is 53,11; x.Rm 5,19)
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, vì yêu thương chúng con, Chúa đã chấp nhận chết trên Thập
giá. Xin Chúa giúp con nhận ra trong cuộc khổ nạn và cứu chuộc của Chúa một
gương sáng để biết cách chịu đựng, biết cách chết đi trong cơn hấp hối và những
đau khổ của đời sống hằng ngày để chúng con có thể sống đầy đủ và sáng tạo hơn.
Chúa chấp nhận những phũ phàng của cuộc sống con người một cách kiên nhẫn
và khiêm nhường cũng như chấp nhận tất cả những cực hình trong cuộc khổ nạn
của Chúa. Xin giúp chúng con chấp nhận những đau đớn và những va chạm xảy ra
mỗi ngày như những cơ hội để lớn lên và trở nên giống Chúa hơn. Chúng con cầu
xin, vì Chúa…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ Hát : Vinh quang của ta là Thánh giá Đức Ki-tô
VII. BÀI TẬP
Em hãy kể ra 14 chặng đường Thương khó của Chúa Giê-su. Trong 14 chặng
đó, chặng nào đánh động em, giúp em cảm nghiệm được tình thương của Chúa Giê-
su dành cho em và thôi thúc em yêu mến Ngài hơn.
Hoặc câu hỏi trắc nghiệm sau :
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Hy tế của Đức Giê-su là do:
a.Hồng ân của chính Chúa Cha ban tặng cho nhân loại.
b.Lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương nhân loại của Chúa Giê-su.
c.Thượng Hội đồng Do Thái đã kết án tử cho Chúa Giê-su.
d. Cả 3 câu đều đúng.
e.Câu a và b đúng
( câu e )
2. Phi-la-tô chấp nhận cho người Do Thái đóng đinh Chúa Giê-su vì :
a.Oâng có quyền.
b.Oâng sợ dân chúng nổi loạn và sợ mất ngôi vị.
c.Oâng lầm lẫn không biết rõ sự thật.
d.Cả 3 câu đều đúng. ( câu b )
3. Đối với người Ki-tô hữu, Thập giá là:
a.Dấu hiệu của Tình yêu Chúa dành cho ta.
b.Dấu hiệu của Đức tin
c.Lời mời gọi ta kết hiệp với Chúa Giê-su cách mật thiết hơn.
d.Cả 3 câu đều đúng ( câu d)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta đến độ hy sinh mạng sống để cứu chúng ta
khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi đang làm nô lệ cho thói hư tật xấu nào ?
Hãy cùng với Chúa Giê-su chiến đấu để có thể vươn lên, sống hiên ngang làm
con người tự do của Thiên Chúa.
- Chúa Giê-su đã chết vì tôi, vì yêu tôi. Noi gương Chúa, tôi quyết tâm sống
yêu thương phục vụ mọi người.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con dâng lên Chúa tâm tình tri ân về những ơn Chúa
đã ban cho chúng con trong giờ giáo lý này. Xin Chúa giúp chúng con nhìn thấy và
sẵn sàng chấp nhận thập giá, bất kỳ thập giá nào, miễn sao đó là ý Chúa muốn gửi
đến cho con. Xin Chúa thương nâng đỡ chúng con trên bước đường đời này đầy gian
nan thử thách. Amen.

Bài 20 : Dậy Men Tin Mừng 4

QUẢNG ĐẠI QUÊN MÌNH VÌ ÍCH CHUNG


Mt 20, 24-28.

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, vì yêu thương chúng con, Chúa đã đón nhận mọi hy sinh
cho đến chết. Giờ đây, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học giáo lý này với tình yêu
và những hy sinh bé nhỏ của chúng con để sống cho Chúa và cho nhau. Xin Chúa
ban Chúa Thánh Thần để Ngài nâng đỡ, giúp chúng con sống tố những giờ phút quý
báu Chúa dành cho chúng con.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. GIẢI THÍCH BÀI HỌC
Các em thân mến, trong những bài học vừa qua, chúng ta đã cùng nhau bước
theo Chúa Giê-su trên những nẻo đường thập giá : Chúa bị người ta chống đối, bị
bắt, bị hành hạ và bị giết chết bằng khổ hình thập giá.
Tất cả mọi đau khổ, hy sinh Chúa chịu đều vì yêu thương chúng ta. Nhiều lần
Chúa Giê-su đã báo trước và giải thích cho các môn đệ về cái chết của Ngài :
- Ta chính là Mục Tử Nhân lành, Mục tử Nhân lành hy sinh mạng sống mình
cho chiên (Ga 10,11)
- Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ
và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mt 20,28)
- Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Ta là vì Ta hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại.
Mạng sống của Ta không ai lấy đi được, nhưng chính Ta tự hy sinh mạng
sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của Ta không ai lấy đi được, nhưng
chính Ta tự ý hy sinh mạng sống mình. (Ga 10,17-18).
Chúa đã yêu cho đến cùng, nên Ngài đã lập ra bí tích Thánh Thểvà chức Tư
tế để trao hiến cho nhân loại đến ngày tận thế:
- Đây là mình Thầy, hy sinh vì anh em. Chén này là giao ước mới, lập ra
bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em (Lc 22,19-20)
Như vậy, cái chết của Chúa Giê-su là cái chết tự nguyện. Ngài vâng theo
thánh ý Chúa Cha, tự nguyện chết thay cho cả loài người chúng ta.Ngài chết để
đem lại ơn tha thứ và sự sống cho nhân loại. Chính qua cái chết hy sinh trên thập
giá đó, Chúa Giê-su đã nêu gương cho chúng ta về tấm lòng quảng đại, sẵn sàng
quên mình vì ích chung của mọi người.
Trong bài học hôm nay, chúng ta hãy nhìn vào thực tế cuộc sống để biết
mình phải noi gương Chúa sống quảng đại hy sinh vì ích chung như thế nào ?
1. Cha chung không ai khóc:
Nhìn vào cuộc sống xã hội, chúng ta thấy có những nơi, những việc không
thuộc riêng ai. Và chúng ta cũng thấy trên ti-vi, báo chí, có khi ngày trong đời
sống thường ngày của làng xóm, phố phường của mình có những sự việc thiếu
trách nhiệm như :
a. Đổ rác ngoài đường.
b. Cống rãnh bị phá hỏng làm ngập nước,
c. Trường học, công sở bị bỏ mặc hư hại,
d. Đèn đường bị ném vỡ,
e. Chặt cây phá rừng,
f. Của công bị phá mang về làm của riêng…
Khắp nơi đều thấy cảnh “cha chung không ai khóc”. Tình trạng ấy có nghĩa
gì? Có nghĩa là phần đông người ta chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết quan tâm
đến cái lợi, cái thú,cái danh của mình và của gia đình mình, không quan tâm gì
đến ích chung.
Vì không nghĩ đến ích chung, người ta làm nhiều điều sai trái như sản xuất
hàng giả, hàng kém chất lượng khiến hàng nội hoá không được tin cậy; người ta
nhập hàng lậu khiến hàng nội hoá không tiêu thụ được…Rồi tình trạng không tôn
trọng luật lệ giao thông và an ninh xã hội; tình trạng công nhân viên chức các
ngành nghề làm việc cho qua giờ, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu lương tâm
nhà nghề…
Không quan tâm đến ích chung, mọi sự bị trì trệ, bị phá hủy cách oan
uổng…và đất nước không tiến được.
Phải làm sao bây giờ? Mỗi người hãy ý thức và bắt đầu từ chính mình trước.
2. Bắt đầu từ chính mình:
Các em thân mến, chúng ta thấy buồn vì nhiều người không quan tâm đến ích
chung : thờ ơ, không đóng góp công sức gì vào việc xây dựïng ích chung. Có những
người không xây dựng nhưng còn phá hoại nữa. Vậy chúng ta phải làm gì?
Mỗi người chúng ta hãy trở thành một người quan tâm đến ích chung. Chúng ta
hãy tập ngay từ bây giờ, bắt đầu với những việc thường ngày nho nhỏ như : trên
đường đi, thấy có cục đá giữa đường, ta cẩn thận nhặt cho vào gốc cây. Ta không
bước lên những bồn hoa, không bứt hái hoa cảnh ở những nơi công cộng. Không xả
rác bừa bãi. Cài lại một cái móc cửa, xếp lại ngay ngắn bàn ghế trong lớp…Rất
nhiều việc chung đang chờ ta.
Khi quanh ta nhiều người quan tâm đến ích chung, ta dễ dàng hy sinh, quên
mình. Ngược lại, khi quanh ta chẳng mấy ai nghĩ đến ích chung, lại còn phá hoại
hay chế diễu chúng ta. Cảm tưởng lội ngược dòng nước, lẻ loi, cô dộc, một mình đội
đá vá trời khiến ta dễ nản lòng.
Chúng ta đừng nao núng, đừng nản lòng, đừng đợi ai khởi xướng nhưng hãy
cương quyết quên mình vì ích chung dù có khi bị thiệt thòi trước mắt. Thế nhưng,
những cố gắng của chúng ta sẽ không vô ích đâu. Chúng ta hãy làm vì lòng yêu
mến Chúa và vì phần rỗi các linh hồn. Như thánh Tê-rê-sa Hài Đồng đã dâng Chúa
từng việc âm thầm, nhỏ bé nhất như nhặt một cọng rác để cứu các Linh hồn. Và từ
những cố gắng âm thầm của chúng ta, có Chúa nhìn thấy và Ngài sẽ chúc lành cho
những thiện chí đó. Và cũng có những người đang nhìn ta và khi nhìn thấy những
gương sáng của chúng ta, họ được can đảm hơn trong việc lo cho ích chung.
3. Một người bị thiệt cho tất cả được nhờ:
Chúa Giê-su đã nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mt
20,28)
Vâng, vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Chúa Giê-su đã xuống thế làm người.
Cả đời Ngài chỉ biết yêu thương và phục vụ, nhưng Chúa đã bị các đồng hương Na-
da-rét chối từ, bị người Do Thái đồng bào của Ngài chống đối. Tuy thế, Chúa vẫn
yêu thương không mệt mỏi, vẫn không bao giờ hối tiếc vì đã hy sinh cho họ: “Thà
một người chịu thiệt cho tất cả được nhờ” (x.Ga1,50)
Cuộc sống của chúng ta cũng vậy, chúng ta đã có chút kinh nghiệm về sự cô
đơn khi lo việc chung, hoặc khi ta đã dành thời giờ ưu tiên cho việc chung mà bị chế
giễu, khi ta quên mình vì bạn hữu mà lòng tốt của ta bị phủ nhận, khi ta cống hiến
hết mình rồi bị chê trách… Chúng ta hãy nhớ lại trong lịch sử dân tộc và lịch sử Hội
Thánh, đã có biết bao người lâm vào cảnh ấy. Khi những trang lịch sử lật qua, người
ta mới nhận ra đó là những tấm lòng cao cả.
Và nhất là chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giê-su, và nhớ rằng người Ki-tô hữu
chúng ta cống hiến không phải chỉ vì những lý tưởng tự nhiên mà còn do lòng tin
thôi thúc. Chỉ có Tin Mừng của Chúa mới đủ sức thúc giục ta yêu mến đến tận cùng.
Chỉ có lòng tin vào Thiên Chúa mới đủ sức giúp ta trung thành phục vụ ích chung
như một đầy tớ khiêm tốn : “Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi!” (Lc
17,10)
*TÓM LẠI : Muốn xây dựng một xã hội công bằng, yêu thương và chân thật thì
những người chủ tương lai của xã hội phải là những người có tấm lòng quảng đại,
dám hy sinh đi bước trước: sẵn sàng quên mình để lo cho ích chung.
Hãy năng đến với Chúa Giê-su qua việc cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, lãnh
nhận các bí tích để được Ngài dạy cho cách sống yêu thương và phục vụ như Ngài,
đồng thời để cùng với Ngài sống yêu thương và phục vụ.
4. Các em học sinh thảo luận
a.Quanh bạn có những sự việc gì cho thấy người ta có tinh thần lo cho ích chung?
Xin kể ra. Và ngược lại, có những sự việc gì cho thấy người ta thiếu tinh
thần ích chung? Xin kể ra.
- Mọi người cùng nhau đóng góp để xây dựng những công trình chung
như xây Nhà thờ, nhà giáo lý, làm đường…
- Còn vất rác bừa bãi, chưa bảo quản tốt của chung như bàn ghế, lớp học…
b.Bạn sẽ làm gì để luyện cho mình tinh thần biết lo cho ích chung?
Siêng năng cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, học hỏi về Chúa để được Chúa soi
sáng và ban thêm sức mạnh mà phục vụ.
-Để ý đến những nơi chung như Nhà thờ, phòng giáo lý, lớp học, công viên,
đường sá để giữ gìn cho sạch đẹp.
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Tự đem cơ thể mình ra để thí nghiệm một loại thuốc chủng mới, nhất là loại
thuốc chủng này có siêu vi HIV, là một hành động hết sức can đảm, đáng cho mọi
người khâm phục.
Đó là lời ca ngợi của nhiều nhà khoa học chuyên khảo cứu về chúng bệnh AIDS, khi
được biết bác sĩ Daniel Zagury, thuộc viện đại học Pierre và Marie Curie ở Paris, đã
đem thuốc chủng AIDS chích vào cơ thể mình. Bác sĩ Zagury đã làm thí nghiệm táo
bạo này trung tuần tháng 3-1987.
Tuy chưa có được các kết quả đầy đủ, cuộc thí nghiệm của bác sĩ Zagury cho
thấy rằng, mặc dù loại thuốc chủng mới này không thểngăn chặn hội chúng AIDS,
tức hội chứng làm suy giảm và tiêu diệt hệ thống chống lại các bệnh tật bên ngoài
luôn có sẵn nơi cơ thể con người, nhưng ít ra thuốc chủng này cũng có được hai kết
quả khả quan:
a. Nó có khả năng gây phản ứng trong cơ thể làm cho cơ thể tạo ra kháng tố
chống lại được một vài loại siêu vi HIV khác nhau.
b. Thuốc này có thể gọi được là an toàn, không gây tác dụng phụ nguy hiểm
nào cho người sử dụng.
Hành động hy sinh của bác sĩ Zagury nhắc nhở chúng ta nhớ đến hành động
của Chúa Giê-su.
Và giờ đây, chúng ta hãy lắng nghe chính Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy sống
quảng đại, hy sinh quên mình vì tha nhân, vì ích chung.
Mời các em đứng, chúng ta cùng lắng nghe Lời Chúa.
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 20, 24-28
Thinh lặng giây lát
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nêu gương và dạy chúng con sống phục vụ và hiến
dâng mạng sống chúng con cho Thiên chúa và tha nhân.
Xin Chúa dạy chúng con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng
đáng, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không sợ bị thương tích, biết
làm việc không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không mong chờ phần thưởng nào
khác, hơn là hiểu rằng con đang thi hành ý Chúa.
( Kinh xin ơn quảng đại của Thánh I-Nhã)
VI. SINH HOẠT
Hát : Quảng đại hiến dâng (Thánh I-Nhã)
VII. BÀI TẬP
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1.Muốn xây dựng một xã hội công bằng, yêu thương và chân thật, em cần:
a.Có tấm lòng quảng đại, sẵn sàng hy sinh lo cho ích chung.
b.Tham gia những công việc chung được mọi người biết đến
c.Không làm hư hại của chung ( câu a)
2.Để có tấm lòng quảng đại, biết lo cho ích chung, ta cần:
a.Tập sống công bằng, chân thật và yêu thương
b.Bắt đầu từ chính mình.
c.Cầu nguyện, đọc, suy gẫm Lời Chúa, lãnh nhận các bí tích .
d.Cả 3 câu đều đúng ( câu d)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG : Câu 2 trong phần thảo luận.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã soi sáng cho chúng con biết cách sống của những
người con cái Chúa. Chúng con xin cảm tạ Chúa và xin Chúa giúp chúng con quảng
đại đáp lại lời mời gọi dấn thân phục vụ của Chúa từng ngày trong cuộc sống chúng
con. Amen.

Bài 21:
CHÚA ĐÃ CHẾT VÀ SỐNG LẠI ĐỂ CỨU CHUỘC TA
Mt 28, 1-8
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã thương dẫn dắt chúng con đến
đây để được lắng nghe Lời Chúa, được chia sẻ với nhau niềm vui của những người
con được Chúa yêu thương cứu chuộc.
Chúng con xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay, xin Chúa giúp chúng con hiểu Chúa
hơn, yêu Chúa hơn và dấn thân phụng sự Chúa hết tâm hồn và thân xác chúng con.
Cúi xin Chúa sáng soi…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Abraham từ khi được Thiên Chúa chọn càng ngày càng trở nên sống thân tình
với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế vua Ramos cho gọi
Abraham tới và hỏi:
- Tại sao nhà ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của Vương quốc?
Abraham trả lời giọng cương quyết không chút sợ hãi:
- Tâu Hoàng thượng bởi vì lửa thiêu rụi các thần tương ấy.
- Như vậy thì hãy tôn thờ lửa. –Vua trả lời Abraham nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt lửa.
- Thế thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu Hoàng thượng, không, vì hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, vì nước
bởi mây mà ra.
- Thế thì hãy tôn thờ mây.
- Tâu Hoàng thượng, không, vì gió mạnh hơn mây và nó có thể làm cho
mây tan biến.
- Vậy thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế Abraham trả lời vua:
- Như vậy chúng ta hãy tôn thờ con người vì con người có hơi thở.
Vua kiên nhẫn:
- Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời:
- Thưa Hoàng thượng, không, bởi vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lớn:
- Thế thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói:
- Đấng duy nhất phải tôn thờ là chủ tể cả sự sống và sự chết, đó là Thiên
Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc tranh cãi với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên
Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn
gửi: Thiên Chúa là chủ tể cả sự sống và sự chết. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm
người, Ngài đã chết để giao hoà ta với Thiên chúa và Ngài đã sống lại để ban cho ta
sự sống mới làm con Thiên Chúa. Chúng ta hãy lắng nghe thánh Mat-thêu thuật lại
trong đoạn Tin Mừng sau đây:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 28, 1-8
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Giải thích đoạn Kinh Thánh vừa công bố :
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe nằm trong chương cuối của Tin Mừng theo
thánh Mat-thêu. Kể lại biến cố Chúa Giê-su sống lại với những yếu tố : ngôi mộ
trống và những lần Chúa Giê-su hiện ra.
Thánh Mat-thêu đã mô tả thời gian, nơi chốn, các nhân vật và diễn tiến một cách
chi tiết để nhằm mục đích khẳng định Chúa Giê-su đã sống lại thực và đây là biến
cố có nền tảng vững chắc.
Chúng ta hãy cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này để thấy rõ hơn sứ điệp mà tác giả
muốn loan báo.
2.Các em học sinh thảo luận:
Đoạn Tin Mừng Mt 28,1-8 này là một câu chuyện kể
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
-Bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, thiên thần, lính canh, Chúa Giê-su, các
môn đệ.
-Nhân vật chính: Bà Ma-ri-a Mac-đa-la
b.Câu tóm ý cả đoạn : câu 6
c. Đặt tựa đề ngắn : Các bà đi thăm mộ Chúa Giê-su
hoặc : Chúa Giê-su đã sống lại.
3.Bài học giáo lý
Sáng ngày thứ nhất trong tuần ( tức sáng Chúa nhật Phục sinh), các phụ nữ,
Phê-rô và Gio-an đã đến mộ Chúa Giê-su. Họ đã gặp ngôi mộ trống không, tảng đá
lấp cửa mộ đã bị lăn qua một bên. (Lc 24,2-3.12; Mc 16,4; Ga 20,1-7). Đứng trước
mộ trống có nhiều phản ứng khác nhau :
- Xác của Chúa đã bị trộm lấy. Đây là ý nghĩ đầu tiên của bà Ma-ri-a Mác-đa-
la. (Ga 20,2.13.15)
- Ngạc nhiên, chẳng hiểu ra làm sao! Đây là phản ứng của các môn đệ. (Lc
24,12.22-24). Nói chung, trừ duy nhất một mình Gio-an “đã thấy và đã tin”
(Ga 20,8), còn tất cả mọi người khi đứng trước ngôi mộ trống đều bàng
hoàng, không hiểu. Phải đợi cho đến khi được Chúa Giê-su Phục sinh hiện ra,
các môn đệ mới hiểu tại sao.
3.1 Những lần hiện ra:
a- Với các phụ nữ :
Hai thánh sử Mat-thêu và Mác-cô kể lại việc Chúa Giê-su hiện ra với các
bà sáng sớm ngày Chúa nhật Phục sinh khi các bà ra thăm mộ (Mt 28, 9-
10 ;Mc 16,9-11). Còn thánh Gio-an kể việc Chúa Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-
a Mác-đa-la (Ga 20,11-18)
Khi gặp Chúa Giê-su Phục sinh, các phụ nữ đã được Chúa trao cho sứ
điệp : loan báo tin Chúa Giê-su đã sống lại.
b- Với các môn đệ :
Trong nhóm các Tông đồ thì Phê-rô là người đầu tiên được gặp Chúa Lc
24,34)
Với hai môn đệ trên đường về Em-mau. Họ đã nản lòng bỏ về quê, nhưng
dọc đường Chúa Giê-su đã tiến đến nói chuyện với họ. Lúc vào quán trọ họ
với nhận ra Ngài, thì Ngài đã biến mất. Họ chạy về báo tin cho anh em.
( Lc24,13-35; Mc 16,12-13).
Với các Tông đồ :ai nấy đang ở trong phòng đóng kín cửa lại vì sợ người Do
Thái, thì Chúa Giê-su hiện ra, đứng giữa họ. Thấy Ngài, họ sợ hãi, không tin
được, tưởng là ma. Nhưng rồi Ngài cũng ăn uống với họ và nói chuyện ( Ga
29,19-19; 21,1-24; Lc 24,36-39; Mc 16,14-20; Mt 28,16-20; Cv1, 3-9).
Có một môn đệ tên là Tô-ma vắng mặt hôm ấy nên không tin. Tám ngày
sau, cũng trong căn phòng ấy, Tô-ma đang ở với anh em thì Chúa Giê-su
xuất hiện, đưa các vết thương cho Tô-ma xem.
Chúa Giê-su còn tỏ mình cho các môn đệ vào một buổi sáng trên bãi biển,
ăn sáng và nói chuyện với họ.
Lần khác, Ngài tỏ mình cho 500 người đang tụ họp. Ngài cũng tỏ mình cho
một người về sau này mới được chọn làm Tông đồ, tức là Phao-lô.
-Tóm ý : Chúa Giê-su đã chết thật sự và được an táng như mọi người, nhưng ngày
thứ ba Ngài đã sống lại. Ngài hiện ra nhiều lần với các môn đệ, cùng trò truyện, ăn
uống thân mật với họ.
3.2 Chúa Giê-su đã sống lại thật :
Chúa Giê-su đã sống lại thật hay các môn đệ đã dựng chuyện lên hoặc đã
tưởng tượng ra những lần gặp gỡ ?
a. Các môn đệ là những kẻ cứng lòng, chậm tin (Mc 16,14; Lc 24,25.38).
Chính các môn đệ đã không dễ dàng tin vào việc Chúa Giê-su sống lại từ cõi
chết như :
-Khi nghe các bà báo tin, các ông không tin, cho là chuyện vớ vẩn ( Lc 24,11;
Mc 16, 11)
-Khi nghe các môn đệ nói đã được thấy Chúa, Tô-ma đã không tin. Bởi vậy, lần
hiện ra sau đó Chúa Giê-su bảo Tô-ma : “Hãy đặt ngón tay vào đây…Đừng
cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (Ga 20, 27)
-Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giê-su đã nhiều lần khiển trách các ông cứng
lòng, “chậm tin”, “ngờ vực” (Mc 16,14; Lc 24,25.38). Ngài đã phải chứng minh
cho các ông thấy rằng Ngài không phải là hồn ma : “Nhìn chân tay Thầy coi,
chính Thầy đây mà ! Cứ rờ mà xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy
Thầy có đây?” (Lc 24,39).
-Phao-lô, nếu không thực sự gặp gỡ được Chúa Phục sinh, chắc chắn Phao-lô
không thể nào từ một người hăng say bắt đạo (Cv 8,3; 9,1-2.21;22,4-5) lại
trở lại Ki-tô giáo và trở nên vị Tông đồ của dân ngoại.
b. Những lần hiện ra :
Chúa Giê-su Phục sinh không chỉ hiện ra một lần mà nhiều lần với nhiều người
khác nhau (các phụ nữ, các môn đệ). Ở nhiều nơi khác nhau (trong phòng,
trên đường đi, bên bờ biển). Và nhiều lúc khác nhau ( sáng, chiều, tối vv…).
Hơn nữa, Ngài còn ăn uống với các môn đệ, để cho các ông sờ đến chân tay
của Ngài. Bởi thế, trong bài giảng ngày lễ Ngũ Tuần trước đám đông tại Giê-
ru-sa-lem, thánh Phao-lô đã khẳng định : “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa
đã làm cho sống lại. Về điểm này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32).
c. Sự biến đổi của các môn đệ :
Tất cả những ai được gặp Đức Giê-su Phục sinh đều có sự biến đổi :
.Các phụ nữ đang buồn phiền, than khóc đã vội vã loan báo Tin Mừng Phục
sinh.
.Khi Chúa Giê-su bị bắt và bị giết, các môn đệ đã lẩn trốn, ẩn núp trong nhà,
có người thất vọng bỏ về quê. Thế nhưng sau khi gặp lại Ngài, họ không còn
sợ hãi. Họ đi loan báo khắp nơi rằng Ngài đã sống lại. Nhóm môn đệ ít ỏi và
quê mùa ấy đã lên đường rao giảng từ Giê-ru-sa-lem cho đến các thành
phố của đế quốc, rồi từ Rôma đến Châu Phi, Tiểu Á, vượt cả ranh giới đế
quốc sang tận Aán Độ trong thế kỷ đầu và sẵng sàng hy sinh ngay cả tính
mạng mình cho niềm tin và lời rao giảng về Đức Ki-tô Phục sinh.
-Tóm ý : Đức Giê-su đã sống lại thật. Ngài đã củng cố niềm tin và
biến đổi cả lối sống cho các môn đệ của Ngài.
3.3 Nền móng của Ki-tô giáo:
Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, đó là nền tảng Đức tin Ki-tô giáo. Trong
kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng : “Người chịu đóng đinh vào Thập giá vì
chúng tôi, chịu khổ hình và mai táng thời Phong-xi-ô phi-la-tô. Ngày thứ ba
Người sống lại như lời Thánh Kinh”.
Đức Giê-su đã sống lại, không phải sống lại để kéo dài cuộc sống thêm ít lâu
như La-da-rô, nhưng sống lại để không bao giờ chết nữa. Ngài sống lại để ở
mãi giữa chúng ta. Ngài sống lại để làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được
sống đời đời.
Ki-tô giáo bắt đầu bằng sự kiện : Đức Giê-su đã sống lại. Mọi bài giảng
trong Hội Thánh xưa nay đều bắt nguồn từ sự kiện ấy. Tất cả sách vở Ki-tô
giáo đều chỉ nhắm nói điều ấy. Toàn thể cuộc sống, tình yêu thương, sự thật
và niềm hy vọng của Ki-tô giáo cũng là điều ấy : Đức Giê-su người Na-da-rét
đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết và Ngài chính là Đấng Cứu chuộc
nhân loại.
Là một thiếu niên, ít khi chúng ta nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ đến sự
sống. Chúa Giê-su cũng đã chết và Phục sinh để đem lại ý nghĩa cho cả cuộc
sống trần thế của chúng ta. Ngài làm cho cuộc sống chúng ta không những
mở ra với thiên nhiên vạn vật và với mọi người chung quanh, mà còn mở ra
với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Vâng, cuộc sống thường ngày của ta được
phong phú hơn gấp muôn ngàn lần khi, nhờ Đức Ki-tô Phục sinh, chúng ta
được sống trong tình thân mật với Cha trên trời.
- Tóm ý : Tin vào Chúa Giê-su Phục sinh, đó là nền tảng Đức tin Ki-tô giáo. Tin
vào Chúa Giê-su Phục sinh, ta luôn sống lạc quan tin tưởng, dù có bị thiệtthòi, mất
mát ở đời này, ta vẫn can đảm theo đường lối Chúa vì tin rằng ta sẽ dược dự phần
vinh quang với Người.
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Đức Giê-su đã chết và đãõ sống lại thực sự. Đây là biến cố có
nền tảng vững chắc.
Phục sinh vừa là một biến cố lịch sử, được các môn đệ chứng thực vì họ đã thực sự
gặp Đấng Phục sinh, vừa là biến cố siêu việt vì nhân tính của Đức Ki-tô đi vào trong
vinh quang Thiên Chúa.
Sự Phục sinh của Chúa Ki-tô mở đường đưa nhân loại vào hạnh phúc đích thật và
vĩnh hằng.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa đã đến với các môn đệ để ban
bình an và niềm vui Phục sinh cho các Ngài. Xin Chúa cũng đến với chúng con lúc
chúng con khóc lóc, chán nản và bỏ cuộc, lúc chúng con sợ hãi, âu lo, lúc chúng
con cố chấp không tin, hay khi chúng con mệt mỏi, thất vọng… Để chúng con
thấy Chúa mỗi ngày, để chúng con tin Chúa đang sống, đang đến và đang ở thật
gần bên chúng con, giúp chúng con sống tin tưởng và đáp trả tình yêu Chúa mỗi
ngày như ý Chúa muốn. Vì Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT :
Hát : Chúa nay thực đã Phục sinh…
VII. BÀI TẬP
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Ta tin chắc Chúa đã sống lại thật dựa vào những yếu tố:
a.Ngôi mộ trống, không có xác Ngài ở đó.
b.Ngài hiện ra nhiều lần cho các môn đệ.
c.Các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu d)
2. Nền tảng Đức tin của Ki-tô giáo là:
a.Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô.
b.Thánh Phê-rô và các Tông đồ
c.Đức Giê-su đã chết và sống lại.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu c)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Đức Giê-su đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta.Nhờ phép Rửa, tất cả
chúng đã chết cho tội lỗi để cùng sống lại với Đức Ki-tô và sống đời sống mới
làm con cái Thiên Chúa.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi phải mặc lấy tâm tình của thánh Phao-lô để sống làm con cái Thiên Chúa :
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện
nay tôi sống kiếp phàm nhân trong trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng
đã yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20)
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa qua từng giờ giáo lý, chúng con được hiểu
biết hơn về tình thương Chúa đã dành cho chúng con. Xin Chúa ban thêm đức tin
cho chúng con, xin Chúa chúc lành cho những cố gắng của chúng con hôm nay và
luôn mãi. Amen.

Bài 22 :
THIÊN CHÚA GIAO HOÀ TA VỚI NGƯỜI
Ep 2,11 -18

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, Đức Chúa Phục sinh, Chúa là vị cứu tinh của mọi cuộc đời,
vì thế chúng con muốn luôn luôn ở kề bên Chúa. Xin Chúa hãy đến và ở giữa chúng
con trong giờ giáo lý này. Xin Chúa soi sáng và dạy dỗ, giúp chúng con ngày một
hiểu biết tình yêu Chúa đã dành cho chúng con và xin mặc cho chúng con những
tâm tình của Chúa.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Nếu biết tha thứ cho nhau con người sẽ không sống cô đơn, nhưng tha thứ
không phải là điều dễ dàng của con người. Biết như vậy nên Thiên Chúa dạy con
người phải cầu nguyện xin ơn biết tha thứ và kêu gọi con người hãy nhìn lên gương
nhân từ tha thứ của Ngài, và đối xử như vậy với anh chị em xung quanh. Có sự liên
kết chặt chẽ giữa sự Thiên Chúa tha thứ cho con người và việc con người tha thứ
cho nhau. Văn hào người Nga ông Dostoievsky đã cố gắng diễn tả sự thật này trong
quyển tiểu thuyết của ông có tên là “Anh em nhà Karamadốp”: Ivan và Aliôsa là hai
anh em ruột nhưng có niềm xác tín khác nhau. Ivan không tin tưởng gì ở Thiên
Chúa cả, còn Aliôsa lại đặt trọn cả cuộc đời tín thác vào Thiên Chúa. Một hôm, hai
anh em tranh luận với nhau về những lỗi lầm, những đau khổ mà con người trên
quả đất này gây ra cho nhau. Ivan thì lập luận rằng không thể nào dung hoà thế
giới đầy tội lỗi và sự dữ này với một vị Thiên Chúa nhân lành. Trước lập luận vững
chắc của anh Ivan, người em là Aliôsa không biết phải trả lời như thế nào. Aliôsa có
niềm tin chân thành vào Thiên Chúa. Nhưng do không có khả năng trí thức để lý
luận với anh mình, Aliôsa ngồi yên đưa hai tay lên che mặt và cầu nguyện. Sau vài
phút, Aliôsa trả lời anh Ivan như sau:
-Phải, thế giới này đầy tội lỗi và sự dữ, nhưng Thiên Chúa nhân từ
vẫn còn chịu đựng và và chăm sóc cho thế giới này được, bởi vì Ngài luôn
luôn tha thứ cho mọi người và tha thứ bất cứ điều gì con người xúc phạm,
và tha thứ cho đến độ sai Con Một Ngài xuống trần gian rồi chịu chết trên
thập giá để ban ơn giao hoà con người lại với Ngài và với nhau.
Chỉ với tình yêu thương tha thứ, Thiên Chúa mới có thể đưa con người trở về
với sự hiệp thông. Chỉ với tình yêu thương tha thứ và nhờ ơn cứu giúp, con người
mới có thể làm hoà lại với nhau và sống hiệp thông huynh đệ chân thành.
Vâng, chính Đức Ki-tô là trung gian giao hoà con người với Thiên Chúa và con
người với nhau. Những điều này đã được thánh Phao-lô ghi lại trong thư gửi giáo
đoàn Ê-phê-sô 2, 11-18.
Mời các em đứng, chúng ta cùng lắng nghe Lời Chúa
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA: Ep 2, 11-18
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố :
-Đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe của ai ? Thánh Phao-lô.
-Thời gian viết ? Khoảng năm 61-63
-Viết cho ai ? Gửi cho giáo đoàn Ê-phê-sô.
Lễ Vượt qua và cuộc Xuất hành đã lôi con cháu Gia-cóp ra khỏi cảnh nô lệ Ai
cập nhưng họ vẫn còn hỗn độn như một đám người ô hợp. Phải đợi đến khi ký kết
giao ước Xi-nai, họ mới thực sự trở thành một dân tộc có tổ chức.
Giao ước với dân Ít-ra-en là dấu báo trước giao ước sẽ ký kết với toàn thể
nhân loại trong Máu Chúa Ki-tô : “Nhờ Ngài, cả đôi bên chúng ta được liên kết trong
một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2,11-18).
2.Các em học sinh thảo luận
Đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe là một bài giảng.
a.Đoạn văn có những từ ngữ (hoặc cụm từ ) nào quan trọng ?
-Bình an, liên kết, hoà giải, nên một.
-Từ ngữ chính : Hoà giải.
b.Câu tóm ý cả đoạn : câu 16
c.Đặt tựa đề ngắn : Đức Giê-su đã hoà giải loài người với Thiên Chúa và
với nhau. Hoặc : Sự giao hoà
nhờ Thập giá của Đức Ki-tô.
3.Bài học giáo lý
Thập giá trước hết đó là dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Giê-su đã chết để
cứu chuộc thế giới. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Ki-tô hữu phải
chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hợp với Đức Ki-tô và cộng tác với Người trong
việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó, Thập giá là một mầu nhiệm.
Mầu nhiệm Thập giá là một trong những chủ đề chính tìm thấy trong các tác phẩm
của Phao-lô.
a. Dấu hiệu nối kết trời và đất
Thập giá là một thanh dọc và một thanh ngang. Hai thanh được nối kết với
nhau như dấu hiệu nối kết trời và đất. Kể từ khi Con Thiên Chúa bị treo trên đó,
thập giá đã mang một ý nghĩa mới. Nó không còn là một nhục hình, mà đã trở
thành biểu tượng của ơn cứu độ. Nơi Thập giá Đức Ki-tô, sự thù ghét đã bị tiêu
diệt, loài người được nối kết với nhau và được nối kết với Thiên Chúa.
Trên đỉnh Thập giá có tấm bảng ghi rằng : “Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do
Thái” (INRI). Tấm bảng ấy được viết bằng ba thứ tiếng : Hipri, Latinh và Hy lạp,
như một lời Thiên Chúa muốn giới thiệu với muôn dân : Đức Giê-su không chỉ là
Vua của một dân tộc nhưng là của cả dân tộc Do Thái và các dân tộc khác.
Khi góp ý với Hội đồng lãnh đạo Do Thái ( Thượng Hội Đồng ) để đi tới quyết
định giết Chúa Giê-su, thượng tế Cai-pha đã vô tình nói tiên tri rằng Đức Giê-su
phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân Do Thái mà thôi, nhưng còn
để quy tụ con cái Thên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối (Ga 11,51-52)
Hậu quả của tội lỗi là sự thù địch : thù địch giữa loài người với Thiên Chúa.
Trên Thập giá, Chúa Giê-su đã tiêu diệt sự thù ghét ( Ep 2,16)
-Tóm ý : Thập giá của Đức Giê-su không những liên kết mọi người nhưng còn nối
kết toàn thể nhân loại với Thiên Chúa. Chính nhờ Thập giá Chúa Ki-tô, nhân loại
được giao hoà với Thiên Chúa : “Này là Máu Thầy, Máu giao ước sẽ đổ ra cho nhiều
người được tha tội” (Mt 26,26-29)
b. Giao ước mới
Trong Cựu ước, giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en có một sự thỏa thuận, theo
đó Thiên Chúa hứa bảo vệ Dân được chọn và đối lại họ hứa tuyệt đối trung
thành với Người : “Nếu các ngươi nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa
hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta” (Xh 19,5).
Mô-sê đã trình bày đề nghị đó cho dân chúng và họ đã nhất trí đáp lại : “Mọi
điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo”. Và thế là giao ước được ký kết
(Xh 19,8).
Tuy nhiên, Giao ước Xinai mới chỉ là hình bóng Giao ước Thiên Chúa sẽ ký kết
với toàn thể nhân loại nơi Chúa Giê-su. Hơn 6 thế kỷ trước khi Chúa Giê-su chết
trên Thập giá, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nhìn thấy cái chết của Ngài là Giao ước
mới, Giao ước Thiên Chúa đặt sâu tận cõi lòng mỗi người : “Ta sẽ in sâu Lề Luật
Ta trong lòng chúng, sẽ viết luật ấy trên trái tim chúng” (Gr 31,31-34)
Về cơ bản, Giao ước mới cũng đồng nghĩa với Tân ước. Đó là sự thỏa thuận
thánh thiện do Thiên Chúa đưa ra nơi bản thân Đức Ki-tô, là sự hoàn tất giao
ước cũ mà Đức Chúa đã ký kết với dân Do Thái, là giao ước vĩnh cửu sẽ hoàn
thành viên mãn trên trời.
Trong Tân ước, khi giải thích chi tín hữu Cô-rin-tô về việc thành lập bí tích
Thánh Thể trong đêm Tiệc ly, thánh Phao-lô nhắc lại lời Đức Ki-tô phán : “Đây là
chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao ứơc mới. Mỗi khi uống, anh em hãy làm
như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11,25). Đức Ki-tô chính là Giao
ước mới giữa Thiên Chúa và dân Người.
-Tóm ý : Đức Ki-tô chính là Giao ước mới giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước
mới này vững bền mãi mãi và chung cho tất cả mọi người ở mọi nơi, thuộc về mọi
thời đại.
c. Sống tâm tình người được cứu
Từ ngày chúng ta được Rửa tội, Thiên Chúa đã thực hiện cho ta điều tiên tri
Giê-rê-mi-a đã loan báo, để ta có thể yêu mến Thiên Chúa tận cõi lòng. Chúng
ta cần tập sống giao ứơc trong cuộc sống hằng ngày :
Mới đầu, ta cần tập nhìn lên Thánh giá hoặc nhìn vào ảnh Trái Tim Chúa Giê-
su. Khi đã quen, không cần Thánh giá hoặc ảnh vẽ, ta có thể trực tiếp nhìn Chúa
bằng tâm trí.
Tiếp theo, ta nhớ lại Chúa đã chết để cứu chuộc ta. Ta cám ơn Chúa vì nhờ
Đức tin và bí tích Rửa tội, giờ đây ta đã thực sự được Ngài cứu chuộc, và ban
cho sự sống mới. Ta đã trở nên người con tự do của Chúa Cha, không còn bị
ràng buộc trong tội, không còn làm nô lệ cho các thói hư tật xấu. Ta đã nhận
được phẩm giá vô cùng cao quý của người làm con Thiên Chúa (x.Rm 6,1-11)
Vừa suy nghĩ những điều đó, chúng ta vừa dâng lên Chúa lòng biết ơn, với quyết
tâm sống triệt để theo Lời Ngài bằng những lời nguyện tắt và thi hành những
điều tốt đẹp mà Chúa soi sáng cho chúng ta.
-Tóm ý : Chúng ta hãy năng suy gẫm tình thương Chúa đã dành cho chúng ta qua
cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Ngài, để sống trung thành với Giao ước mà Chúa đã
ban cho chúng ta.
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Thiên Chúa đã dùng việc Chúa Giê-su chịu chết và sống lại để
ban cho ta một Giao ước mới trong Máu Con Ngài, nhờ đó ta được sạch tội lỗi và
được trở lại làm con cái Thiên Chúa.
Muốn đón nhận Giao ước mới của Thiên Chúa, cần tin vào Chúa Giê-su và sống gắn
bó với Ngài.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Chúa đã đón nhận Thập giá
để giao hoà chúng con lại với Thiên Chúa và với nhau. Xin Chúa hãy cảm hoá con
người phàm trong chúng con và mặc cho chúng con những tâm tình của Chúa:
Những tâm tình đầy quảng đại, yêu thương tha thứ, để chúng con yêu mến Chúa
thật lòng và yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng con . Chúng con
cầu xin, vì Chúa…
VI. SINH HOẠT Hát : Máu chiên bò
VII. BÀI TẬP
1.Dấu Thánh giá ở đầu nghi thức Rửa tội mang ý nghĩa gì ?
-Là dấu ấn cho thấy quyền sở hữu của Chúa Ki-tô trên người sắp chịu Phép Rửa
và biểu thị ơn Chúa cứu chuộc chúng ta nhờ Thánh giá (x.SGLC 1235)
Hoặc câu hỏi thảo luận sau :
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1.Giao ước mới là :
a.Giao ước được lập bằng Máu Đức Giê-su Ki-tô
b.Giao ước tẩy sạch tội lỗi và ban cho ta được trở lại làm con Thiên Chúa.
c.Giao ước vững bền mãi mãi và chung cho tất cả nhân loại.
d.Cả 3 câu đều đúng
( câu d)
2.Muốn đón nhận Giao ước mới của Thiên Chúa ta cần :
a.Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và sống trung thành với Người
b.Tham dự Thánh lễ và rước lễ hàng ngày.
c.Suy niệm 14 chặng đường Thánh giá.
d.Cả 3 câu đều đúng
( câu a)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này :Thiên
Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được
sống. Tình yêu cốt ở điều này : Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của
lễ đền tội cho chúng ta (1 Ga 4,9-10)
2.Qua đoạn văn hôm nay, Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
-Mỗi ngày dành ít phút để suy niệm tình thương Chúa đã dành cho tôi.
-Năng lãnh nhận bí tích giải tội để giao hoà với Chúa và tha nhân.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học giáo
lý vừa qua. Xin Chúa giúp chúng con trở nên mạnh mẽ để thực thi ý Chúa, và xin
Chúa trở thành mối dây yêu thương, bình an, hiệp nhất giữa chúng con. Amen.

Bài 23 :
NHỮNG NGƯỜI BẠN CỦA CHÚA GIÊ-SU
Ga 15, 10 – 17

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, Cha đã yêu thương ban cho chúng con
người Con Một yêu dấu của Cha. Xin cho chúng con biết trân trọng Aân sủng Cha
đã ban là chính Đức Giê-su Ki-tô.
Trong giờ học giáo lý hôm nay, chúng con nài xin Cha ban Chúa Thánh Thần để
Ngài giúp chúng con lắng nghe và nhận ra những tâm tình của Chúa Giê-su Con
Cha nhắn gửi, và xin giúp chúng con thi hành những điều Chúa Giê-su muốn nơi
chúng con.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Hồi đó thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la đang ở đan viện Tô-lê-đô. Ngày kia, đang khi
đi trong đan viện, bỗng thánh nữ thấy một em bé khôi ngô. Thánh nữ ngạc nhiên
dừng bước hỏi:
-Này em, em tên gì ?
Cậu bé không trả lời ngay, nhưng hỏi ngược lại:
-Thưa bà, vậy bà tên chi ?
Thánh nữ đáp :
-Tôi tên là Tê-rê-sa của Chúa Giê-su.
Cậu bé mỉm cười rất dễ thương nói :
-Còn tôi, tôi tên là…Giê-su của Tê-rê-sa!
Nói xong, cậu bé “Giê-su của Tê-rê-sa” biến mất.
Nhân câu chuyện này, Đức Thánh Cha Gio-an XXIII ghi lại trong quyển nhật
ký của Ngài mấy dòng tư tưởng sau đây: “Tôi phải sống như thế nào để Chúa Giê-
su cũng nói với tôi, như thuở xưa Ngài nói với thánh Tê-rê-sa thành A-vi-la : “Tôi là
Giê-su của Tê-rê-sa”. Vậy tiên vàn, tôi phải là An-gê-lô của Chúa Giê-su trước đã…”
Và hôm nay, mỗi người chúng ta muốn trở thành những người bạn của Chúa
Giê-su thì chúng ta phải sống thế nào đây ? Chúng ta hãy lắng nghe chính Chúa
Giê-su chỉ cách cho chúng ta.
Mời các em đứng, chúng ta cùng lắng nghe Lời Chúa
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 15,10 – 17
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố
-Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Thánh Gio-an.
-Thời gian viết ? Khoảng năm 80-90.
Khi bắt đầu rao giảng, Chúa Giê-su đã kêu gọi nhiều môn đệ và lập Nhóm Mười
Hai.
“Đi theo” hay “trở nên môn đệ” không phải là ngày ngày cắp sách đến học rồi về
như chúng ta ngày nay, mà là ở luôn với Thầy. Các môn đệ đã ở với Chúa Giê-su :
“Ngài lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao
giảng” (Mc 3,14)
Trong ba năm ở với Chúa, các Tông đồ được Chúa dạy dỗ mọi điều, giữa Ngài và
họ có một sự gắn bó đăc biệt. Do đó, trong bữa Tiệc ly, trước khi từ giã họ, Chúa
đã biểu lộ tình thương dành cho họ : Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho từng người
trong họ. Và Ngài đã để lại cho họ một di chúc : Ngài mời gọi họ hãy ở lại trong
tình thương của Ngài. Và muốn ở lại trong tình thương của Ngài thì phải giữ lệnh
truyền yêu thương-Yêu thương nhau như Chúa đã yêu, yêu đến mức cao nhất :
hiến mạng sống mình cho nhau.
Chúng ta cùng thảo luận di chúc yêu thương của Chúa Giê-su.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một bài giảng.
a.Đoạn văn có những từ ngữ hoặc cụm từ nào quan trọng?
-Giữ các điều răn, ở lại trong tình thương, hãy yêu thương nhau, Thầy gọi các
con là bạn hữu.
- Từ ngữ chính : hãy yêu thương nhau
b.Câu tóm ý cả đoạn : câu 12
c.Đặt tựa đề ngắn : Lệnh truyền yêu thương.
3. Bài học giáo lý
Khi nghe Ma-ri-a Mac-đa-la báo tin xác Chúa không còn trong mộ, hai ông Phê-
rô và Gio-an đã chạy nhanh ra mộ (Ga 20,1-4) .Ma-ri-a khóc tìm Chúa bên mộ
(Ga20,11). Các môn đệ buồn bã khi Chúa chết… Những điều đó cho thấy rằng các
Tông dồ và các môn đệ của Chúa Giê-su rất thương mến Chúa. Họ thật là những
người bạn của Chúa như lời Chúa nói: “Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con
thực thi những điều Thấy truyền dạy” (Ga 15,10-17)
Trong bài học hôm nay, chúng ta sẽ chiêm ngắm một số người bạn của Chúa để
xem họ đã theo Chúa thế nào, yêu Chúa ra sao…để đến lượt chúng ta, chúng ta
cũng trở nên những người bạn của Chúa.
3.1 Trên từng cây số
Trong bữa Tiệc ly, khi nói với các Tông đồ rằng : Ngài coi họ là bạn, Chúa
Giê-su đã đưa mắt nhìn từng người. Mỗi người đã đến với Ngài trong một hoàn
cảnh riêng, với một ước mơ riêng. Đây là An-rê, người đã từng là môn đệ của
Gio-an Tẩy giả (Ga 1,40). Chính anh đã dẫn Phê-rô đến với Ngài (Ga 1,41-42).
Kia là Mat-thêu, còn có tên là Lê-vi, mà Ngài gọi trong lúc anh đang thu thuế
tại Ca-phac-na-um (Mt 9,9 ; Mc 2,14). Nọ là Gia-cô-bê và Gio-an đang ngồi
bên cạnh Ngài. Cả hai luôn ước mơ được ngồi một người bên tả, một người bên
hữu Ngài (Mc 10,37)…Họ đã theo Ngài trên khắp nẻo đường đất nước. Họ đã ở
bên Ngài trong những ngày vui với hàng ngàn người kéo đến nghe giảng và
được ăn bánh no nê. Rồi những ngày buồn, khi nghe Ngài tuyên bố : “Phải ăn
thịt và uống máu Ngài mới được sống”; ngay cả đến một số đã từng là môn đệ
cũng bỏ đi, thì những khuôn mặt này vẫn ở lại với Ngài. Chúa biết rằng khi
Ngài chịu khổ nạn, tình bạn của họ sẽ bị lung lay, nhưng Ngài cũng thấy trước
rằng khi Ngài từ cõi chết phục sinh, họ sẽ quay về sum họp.
Cái nhìn của Chúa dừng lại lâu hơn trên Phê-rô, lịch sử tình bạn của ông đối
với Chúa đã đi từ những tâm tình thật sôi nổi : “Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con
biết theo ai?”(Ga 6,68); “Dù phải chịu ngục tù và tử hình với Thầy, con cũng
sẵn sàng” (Lc 22,33); đến chỗ yếu đuối chối Thầy, rồi khóc lóc thảm thiết vì sự
chối bỏ ấy. Dù nhiều khi Phê-rô có vẻ bốc đồng hoặc nhát gan, nhưng ông là
con người rất tình cảm và chân thành, Chúa Giê-su đã không ngần ngại chọn
Phê-rô làm người đứng đầu, không chỉ Nhóm Mười Hai, mà còn toàn thể Hội
Thánh của Ngài.(Mt 16,18-19)
Cái nhìn của Chúa Giê-su cũng đọng lại trên Gio-an, người môn đệ yêu dấu,
người Ngài có thể chia sẻ những bí mật (Ga 13,21-26). Đó là người Ngài sẽ trao
phó người Mẹ yêu dấu cho trong giờ phút hấp hối trên thập giá (Ga 19, 26-27).
Đó cũng là người có một cái nhìn nhậy bén, có thể nhìn ra được Ngài trước mọi
anh em khác (Ga 20,8; 21,7).
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su đã âu yếm nhìn từng khuôn mặt những người
bạn thân thiết nhất của Ngài, họ đã từng gắn bó với Ngài trên từng cây số khắp
mọi nẻo đường xứ Pa-lét-tin, và Ngài đã từng tâm sự với họ những lời tha thiết
nhất : “Anh em là ban hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy
truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ
làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả nhũng gì Thầy nghe được nơi
Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,14-15)
-Tóm ý : Bạn của Chúa Giê-su là những người sống gắn bó với Chúa, cùng chia vui
sẻ buồn trên mọi nẻo đường của cuộc sống, và là những người thực hiện “Lệnh
truyền yêu thương” của Chúa.
3.2 Tế nhị làm đẹp lòng
Nói đến những người bạn của Chúa, không thể nào không nhắc tới ngôi nhà
bé nhỏ ở Bê-ta-ni-a, với ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. Mỗi lần lên Giê-
ru-sa-lem, Chúa Giê-su thường dừng chân trong mái nhà này (Mc 11,11; Mt
21,17) vì ở đây có những tấm lòng luôn tế nhị cảm thông với Ngài. Ngay cả
trong tình cảnh nguy kịch, khi giới lãnh đạo Do Thái đã quyết định giết Ngài,
gia đình này vẫn không ngần ngại tiếp đón Chúa. Lúc ấy, ngoài Giu-đa ra, các
Tông đồ khác không biết Chúa đang gặp nguy hiểm đến mức nào. Thế nhưng,
tâm hồn phụ nữ của Mác-ta và Ma-ri-a lại trực giác được tất cả. Hai chị em đã
tổ chức bữa ăn chiêu đãi để an ủi Chúa. Đặc biệt, Ma-ri-a đã bày tỏ lòng mến
yêu bằng một hành động khiến Chúa rất cảm kích : Chị đập vỡ cả một bình dầu
thơm thượng hạng để xức lên chân Chúa (Ga 12,1-8)
Ngoài những người bạn ở Bê-ta-ni-a còn có cô Ma-ri-a quê ở Mác-đa-la và
những chị em khác (Lc 8,1-3). Trong thời gian Chúa đi rao giảng, họ tháp tùng
Chúa và các môn đệ, chăm sóc các nhu cầu hằng ngày của các Ngài : “Các bà
đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ”. Những tâm hồn
phụ nữ bạn Chúa bao giờ cũng dành cho Chúa những quan tâm tế nhị. Tình bạn
ân cần của họ còn thể hiện qua sự hiện diện của họ với Chúa nơi chân Thập giá
(Ga 19,25; Mt 27,22-56; Mc 15,40-41; Lc13,49) cũng như qua việc chuẩn bị
thuốc thơm để đi ướp xác Chúa vào buổi sáng Chúa nhật Phục sinh (Mc 16,1-2;
Lc 24,1)
-Tóm ý : Bạn của Chúa Giê-su còn là những người luôn mang tấm lòng tế nhị, cảm
thông, luôn có sáng kiến để bộc lộ tình cảm dành cho Chúa, và cùng hiện diện với
Chúa dưới chân Thập giá
3.3 Một tình yêu thinh lặng
Sau khi Chúa chết, chúng ta có thêm một khám phá bất ngờ về những người
bạn của Chúa. Đó là Ni-cô-đê-mô và Giu-se A-ri-ma-thê (Mt 27,57-60; Mc
15,42-46; Lc 23,50-54; Ga 19,38-40). Đây là những người bạn âm thầm của
Chúa.
Trong những ngày tháng Chúa bị người ta dòm ngó, họ chỉ dám đến gặp Ngài
ban đêm. Ngờ đâu đến lúc Ngài bị bắt và bị giết chết, trong khi các môn đệ lẩn
trốn hầu hết, thì họ lại công khai đứng ra lo lễ an táng cho Ngài. Họ làm tất cả
những gì họ có thể làm được cho Ngài. Lòng dũng cảm của họ lúc này soi sáng
cho tình yêu của họ dành cho Chúa. Một tình yêu thinh lặng chỉ có riêng Chúa
và lòng họ biết.
Chiều sâu của tình yêu thường không nằm nơi những sự việc lẫy lừng, nhưng
nơi những hy sinh thầm lặng, tựa như phần bị che khuất của tảng băng sơn.
Những hy sinh cha mẹ dành cho ta, có khi nào ta nghe cha mẹ kể ? Dù ít khi ta
biết trân trọng tình yêu thinh lặng, nhưng Thiên Chúa bao giờ cũng đánh giá
cao sự hy sinh thầm lặng của chúng ta, bởi vì chính nơi Thập giá và nơi bí tích
Thánh Thể, Chúa Giê-su đang yêu chúng ta bằng một tình yêu vĩ đại như thế.
Hôm nay đây, nếu đến viếng Nhà Tạm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng Chúa
Giê-su vẫn yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu thầm lặng. Và
nơi Nhà Tạm, Ngài vẫn đang mờigọi chúng ta hiến dâng Ngài một tình yêu
thinh lặng.
-Tóm ý: Những người bạn của Chúa Giê-su còn là những người yêu Chúa trong âm
thầm, lặng lẽ, nhưng khi cần họ đã làm cho Chúa tất cả những gì họ có thể làm
được.
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Mỗi một người bạn của Chúa đều mang một nét riêng, nhưng
họ có chung một điểm, đó là lòng yêu mến đối với Thầy. Mỗi người một tính, một
nết, nhưng tất cả đã quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, vì con bé nhỏ, nên xin yêu Ngài bằng khả năng bé nhỏ của
con.
Cho con biết yêu những công việc bé nhỏ mỗi ngày, những công việc âm thầm,
những bổn phận con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày, vui lòng đón nhận những
thánh giá tuy nhỏ nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ, đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và
bất lực, sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm, dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người, và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong
con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao, xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi. Con
đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa trên đường từ Bê-lem đến Núi Sọ, và được ở
bên Chúa trong Nước Trời. Amen. (Rabbouni)
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
Chia lớp thành hai bên đối đáp với nhau :
Bạn của Chúa thì như thế nào ?
Bên A cho biết : Bạn của Chúa thì không…
Bên B cho biết : Bạn của Chúa thì…
( Sau 3 lần đổi ngược lại )
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ
1. Em hãy kể tên một số người bạn của Chúa trong Tin Mừng mà em đã được
nghe : 12 Tông đồ, một số phụ nữ, Giu-se A-ri-ma-thi, Ni-cô-đê-mô.
Hoặc câu hỏi thảo luận :
Em hãy chọn câu đúng nhất :
2. Bạn của Chúa Giê-su là những người :
a. Được Chúa kêu gọi theo Chúa
b. Những người đã được Rửa tội
c. Yêu mến, sống gắn bó với Chúa.
d. Cả 3 câu đều đúng ( câu c)
3. Theo lời Chúa Giê-su dạy, tình yêu lớn nhất là :
a.Hiện diện trên từng cây số
b. Tế nhị và thinh lặng.
c.Hiến mạng sống mình vì bạn hữu ( câu c)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Chúa Giê-su đã chọn chúng ta làm những người bạn thân tín của Ngài dù
chúng ta có những cá tính khác nhau. Chúa chấp nhận khuyết điểm của mỗi
người để từng bước huấn luyện chúng ta nên tốt hơn.
2. Qua đoạn văn hôm nay, Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Trân trọng tình bạn với Chúa. Năng gặp gỡ Chúa qua cầu nguyện, Thánh
lễ, lãnh nhận các bí tích, giữ lời Chúa truyền là yêu thương mọi người như
Chúa đã yêu thương tôi.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con xin cảm tạ Chúa về giờ học giáo lý hôm nay. Xin
Chúa giúp con thực hiện điều quyết tâm mà Chúa đã soi sáng cho chúng con, để
chúng con được trở nên những người bạn thân tín của Chúa và là những người
bạn tốt của nhau.

Bài 24 : Dậy men Tin Mừng 5


TÌNH BẠN
Hc 6, 7-10. 14-17

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nhập thể trong lịch sử và Chúa Chúa vẫn hiện diện
giữa chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Chúa đã cho chúng con được làm bạn
của Chúa nơi bí tích Thánh Thể, và Chúa còn để chúng con được làm bạn với Chúa
qua những người bạn hữu hình.
Chúng con xin dâng lên Chúa giờ học giáo lý hôm nay, xin Chúa ban Chúa
Thánh Thần giúp chúng con hiểu và sống tốt hơn tình bạn với Chúa và với những
anh chị em Chúa đã ban cho chúng con.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. GIẢI THÍCH BÀI HỌC
Các em thân mến, trong bài học trước chúng ta đã được biết những người bạn
thân của Chúa Giê-su. Họ là ai ? Họ yêu mến Chúa Giê-su như thế nào? Chẳng hạn
như Phê-rô, Gio-an? Hay như Mác-ta và Ma-ri-a ? Hoặc như Ni-cô-đê-mô và Giu-se
người A-ri-ma-thê ?
Kho tàng văn học Việt Nam ta cũng để lại rất nhiều chuyện vế tình bạn. Một
trong những chuyện cảm động mà ai cũng biết, đó là chuyện tình bạn giữa Lưu Bình
và Dương Lễ. Trong lịch sử Ít-ra-en thì có tình bạn giữa hai bạn trẻ Đa-vít và hoàng
tử Gio-na-than. Tình bạn thật đáng quý và là một điều thật cần thiết cho cuộc sống,
bởi vì con người chúng ta sinh ra không phải để sống một mình. Chúng ta sinh ra là
để sống yêu thương : để yêu và được yêu. Yêu thương trong gia đình và yêu thương
ngoài xã hội. Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa Giê-su đã để lại lệnh truyền cho các
môn đệ :
“Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều
Thầy truyền dạy” (Ga 15, 12. 14)
Tại sao Chúa Giê-su lại quan tâm đến tình bạn nhiều như thế ? chúng ta hãy
cùng nhau tìm hiểu xem cuộc sống chúng ta có thực sự cần đến tình bạn không ?
Nếu cần, chúng ta phải làm gì ?
1.Tình bạn thật cần thiết
Chúng ta đã có lần nghe nói rằng : Không ai tối quan trọng. Không thể như
vậy! Mỗi một con người trong phạm vi nào đó đều tối quan trọng. Mỗi một người
đều có một đóng góp độc đáo cho người khác, một sự đóng góp có thể là nền
tảng cho việc hình thành một con người toàn diện và thánh thiện.
Tình bằng hữu là một kinh nghiệm mang tính người nhất. Qua tình bạn nhân
loại chúng ta được trở nên phong phú và làm cho đời sống người khác phong
phú. Chúng ta hãy nhìn lại cuộc đời mình, đã có biết bao người đóng góp vào
việc tăng trưởng và tồn tại của đời sốngthiêng liêng cũng như vật chất của
chúng ta. Đâu đâu con gnười cũng cần đến người khác, và cần được nâng đỡ
bằng tình yêu thương của người khác.
Không phải chỉ những ai ta thích, ta mới coi là bạn. Đã cùng chia sẻ cuộc sống
với nhau thì cần biết đón nhận nhau trong tình thân ái, tình bạn. Tất cả những
người cùng đi học với ta đều là bạn học cùng lớp. May mắn cho chúng ta khi các
bạn ấy thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau, có cha mẹ làm những ngành nghề
khác nhau, xuất thân từ những vùng khác nhau và có tín ngưỡng khác nhau.
Nhờ những người bạn khác nhau ấy, ta được gần gũi với một cuộc sống phong
phú, nhiều màu sắc.
Bạn học là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa. Trong học tập, họ kích thích ta
thi đua. Đồng thời, nhờ sự gần gũi thân mật, họ giúp ta dễ đào sâu để hiểu rõ,
thật là “học thầy không tầy học bạn” và “Thua thầy một vạn, không bằng thua
bạn một ly”
Tình bạn thật cần thiết, vậy ta phải làm gì để tô điểm cho tình bạn thêm đẹp
và ngày càng thắm thiết vững bền ? Thưa, trước hết đó là :
2.Những điều nên tránh
Giữa các bạn cùng lớp cũng có một số bạn ta thích hơn, hay gặp gỡ, cùng chơi
cùng học. Người học sinh tốt sẽ biết cẩn thận “chọn bạn mà chơi”. Châm ngôn
có câu : “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Chơi thân với những người chuyên
cần và lịch sự, ta sẽ thành những người chuyên cần và lịch sự. Đừng chơi thân
với những người bướng bỉnh, ươn lười, đua đòi kẻo bị ảnh hưởng. Cần cẩn thận
khi chọn chơi thân với người này hoặc người khác, bởi vì họ có thể làm cho ta
nên người hay bị hư hỏng.
Bạn bè cùng nhau lập nhóm để giúp nhau học hành và tập quên mình phục vụ
là một nhóm bạn đáng ca ngợi. Nhưng cần tránh lập nhóm bạn có đầu óc phe
đảng, chia rẽ, làm mất tình đoàn kết của lớp, của trường là một nhóm bạn xấu.
Đừng dại dột làm hỏng tuổi trẻ vì những tình bạn xấu.
Ngày nay, nhiều nhóm bạn học sinh gồm cả nam nữ, và nhiều khi tình bạn
thân cũng nảy nở giữa một bạn nam và một bạn nữ. Trong mức độ là một tình
bạn trong sáng thì điều này vẫn tốt đẹp. Tuy nhiên, nó cũng dễ đưa đến chỗ mơ
mộng, xao nhãng việc học. Ngay ở trường đại học, các anh chị tha thiết với
tương lai vẫn luôn tìm cách đẩy lùi những tình cảm loại ấy để có thể tập trung
tâm trí vào việc học.
Sẽ còn ngớ ngẩn hơn nữa nếu giữa bạn bè cùng giới mà lại chạy theo những
tình cảm nhớ thương vơ vẩn, mất thì giờ vì những chuyện tặng quà , viết thư…
Cũng nhớ rằng thi đua không phải là ganh tị. Cần biết vui mừng khi thấy bạn
bè tiến bộ, bạn tiến, ta sẽ tiến hơn. Ta cùng bạn chạy đua trong điều tốt, chạy
đua trong tình yêu thương, giúp nhau cùng tiến.
3.Trở nên bạn tốt
Tình bạn chân chính là điều quý trọng và đáng kiếm tìm. Nó thật là nguồn vui
trong đời sống. Thật hữu ích khi có bạn bè tốt để trao đổi chuyện trò, vui chơi,
học hành và làm việc. Điều cần là chọn đúng bạn tốt để chơi thân và chính ta
cũng cần biết trở nên bạn tốt của mọi người. Người bạn tốt biết quan tâm đến
bạn mình, muốn điều tốt cho bạn mình, nhận ra điều bạn mình cần và mau mắn
giúp đỡ.
Để trở nên người bạn tốt, ta cần thực thi lời Chúa Giê-su dạy và noi gương
Ngài : “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính
mạng vì bạn hữu.” Chúa đã yêu mến những người bạn của Chúa và chấp nhận
họ là họ với những cá tính riêng, với những xuất xứ khác nhau và dù họ có
những lầm lỗi, Chúa không chối bỏ họ nhưng Ngài đã hiến chính mạng sống
mình để tẩy rửa và cứu chuộc họ. Chúa Giê-su đã nói : “Ta không gọi các con là
tôi tớ nhưng là bạn hữu”. Chúa Giê-su là bạn của chúng ta và là người bạn thật
lý tưởng: “Không có người bạn nào tốt bằng người dám hy sinh mạng sống vì
bạn mình” (Ga 15,13)
Noi gương Chúa Giê-su, chắc chắn chúng ta sẽ trở nên những người bạn tốt
của Chúa và của nhau.
*TÓM LẠI : Mỗi người chúng ta cần có những người bạn thân. Cần biết chọn bạn
mà chơi, chọn bạn mà học. Người bạn tốt là người biết quên mình, tận tâm lo cho
bạn đạt được điều tốt nhất. Cần biết giữ cho tình bạn luôn trong sáng, tốt đẹp giữa
các bạn cùng giới cũng như khác giới. Không kết bè, kết đảng làm mất tình đoàn
kết trong lớp, trong xóm. Nhưng biết cùng với những người bạn khác sống hài hoà
với hết mọi người và trở nên bạn của mọi người theo lời dạy của Chúa Giê-su : hãy
yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta.

4.Các em học sinh thảo luận


Chúng ta đã hiểu rằng tình bạn thật cần thiết, và để nuôi dưỡng tình bạn
chúng ta cần phải xa tránh những gì, và nhất là tự mình phải trở nên một người
bạn tốt. Vậy chúng ta hãy cùng nhau xem, xét một vài vấn đề để thấy mình
cần làm gì sau giờ học hôm nay.
*Câu hỏi thảo luận :
Tình bạn thân đích thực đặt nền tảng trên điều gì ? Và muốn có nhiều bạn,
nhất là có nhiều bạn tốt ta cần làm gì ?
-Tình bạn đích thực : không đặt nền tảng trên những mối lợi vật chất bên
ngoài như giàu có, tài năng, vẻ đẹp bên ngoài…Nhưng đặt nền tảng trên
sự gắn bó với nhau, hướng đến một lý tưởng cao đẹp : giúp nhau thăng
tiến về mặt nhân cách, giúp nhau học tập tốt, giúp nhau làm việc tông
đồ.
- Muốn có nhiều bạn tốt ta cần tránh :
. Tính ích kỷ, lạm dụng lòng tốt của bạn.
. Oùc bè đảng, phe nhóm, gây chia rẽ trong lớp
. Những biểu lộ ẻo lả, nhu nhược hoặc ngược lại : hung hăng, muốn thống
trị người khác.
. Những mơ mộng tình cảm vớ vẩn
Bản thân mình phải trở thành một người bạn tốt bằng cách noi gương và
thực hành lời Chúa Giê-su dạy: hạ mình phục vụ (Mt 22,26-28).
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Trong báo Mực Tím, số 140, trang 9, một bạn đã tâm sự : “Sinh ra và lớn lên
trong một gia đình giàu có và là đứa con độc nhất nên rất được cưng chiều, hầu
như tôi muốn gì cũng được. Trước đó thì chưa đến nỗi nào, tôi chỉ bắt đầu hư từ khi
bị rủ rê tham gia kết bạn với đám dân quậy thứ thiệt. Tôi được họ dạy tập tành hút
thuốc, uống bia, đua xe…li6n miên trốn học và tham dự cả nhiều trò chơi nguy hiểm
khác mà không cần nghĩ tới hậu quả. Kết quả cuối năm 12 tôi thi rớt tốt nghiệp.
Cho đến bây giờ, cứ mỗi lần gặp lại những người bạn tốt mà đa số đã vào đại
học, tôi lại càng tủi hổ hơn về bản thân và nhóm bạn quậy của mình.
Tiếc rằng lúc đó tôi đã không nhận thấy sai lầm của mình, còn bây giờ thì tất cả
đều đã muộn ! (T.V.T, Mực Tím số 140, trang 9)
Chúng ta thấy có những người nhờ bạn mà thành thân, nhưng cũng không ít
người vì kết thân với bạn bè xấu mà hối hận cả đời.
Kinh Thánh không chỉ kể lại những câu chuyện về tình bạn mà còn có nhiều
trang dạy ta cách sống tốt tình bạn. Như trong đoạn sách Huấn ca mà chúng ta sẽ
công bố giờ đây. Mời các em cùng lắng nghe :
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Hc 6,7-10. 14-17
Thinh lặng giây lát
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa có người bạn thân là La-da-rô, Chúa cũng coi các
môn đệ là bạn hữu. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con những người bạn để nâng đỡ
nhau trên đường đời. Dù chúng con có nhiều điểm khác biệt nhưng xin Chúa hiệp
nhất chúng con trong tình yêu Chúa, để chúng con thương nhau thật tình, luôn giúp
nhau thăng tiến. Xin Chúa giúp con trở nên một người bạn tốt và xin cho con biết
chọn chơi cới những bạn tốt hầu cuộc sống của chúng con luôn góp phần xây dựng
Giáo Hội và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Chúng con cầu xin, vì Chúa…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ Hát : Chào người bạn mới đến…
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ
1. Em hãy ghi lại một lời nguyện cho người bạn thân và một lời nguyện khác
cho người bạn hay làm em khó chịu.
Hoặc câu hỏi trắc nghiệm : Em hãy chọn câu đúng nhất:
2. Tình bạn thân có những ích lợi nào ?
a.Giúp nhau sống thánh thiện hơn.
b.Giúp nhau nhận ra những điều tốt để phát triển và nhận ra những
điều xấu để loại bỏ.
c.Nâng đỡ nhau khi gặp thử thách, cám dỗ và hiểm nguy. d.Cả 3 câu đều
đúng. ( câu d)
3. Đâu là dấu hiệu của một tình bạn đích thực ?
a.Tận tâm, quên mình, trung tín.
b.Làm theo tất cả những gì mình muốn.
c.Cùng nhau kết thân thành một nhóm riêng d.Cả 3 câu đều
đúng ( câu a )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy là bạn của Ngài và Ngài đã ban cho chúng ta
những người bạn hữu hình để giúp ta cùng tiến bộ.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi cần tránh :
i. Tính ích kỷ, lạm dụng lòng tốt của bạn.
ii. Oùc bè đảng, phe nhóm, gây chia rẽ trong lớp
iii. Những biểu lộ ẻo lả, nhu nhược hoặc ngược lại : hung hăng, muốn
thống trị người khác.
iv. Những mơ mộng tình cảm vớ vẩn
Bản thân mình phải trở thành một người bạn tốt bằng cách noi gương và thực
hành lời Chúa Giê-su dạy : hạ mình phục vụ (Mt 22,26-28).
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa về giờ học giáo lý hôm nay, xin Chúa
nhận chúng con làm bạn của Chúa và xin chúa giúp chúng con sống tốt để trở
thành những người bạn tốt của nhau như Chúa hằng mong muốn nơi chúng con là
hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Bài 25 :
SỐNG MẦU NHIỆM TỬ NẠN VÀ PHỤC SINH
Rm 6,3-11

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được trở nên con cái Chúa
qua bí tích Rửa tội, và Chúa vẫn hằng tuôn đổ biết bao ơn thánh Chúa trên chúng
con từng ngày. Giờ đây, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học giáo lý này với tất cả
lòng yêu mến và biết ơn. Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con,
giúp chúng con tìm hiểu và sống tích cực hơn ơn bí tích Rửa tội mà chúng con đã
lãnh nhận.
Hát: Xin Ngôi Ba Thiên Chúa…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một câu chuyện cổ tích thuật lại rằng : Khi Chúa Giáng sinh, các thú vật đều tới
mừng Chúa. Mỗi con đều dâng Chúa chút quà. Bò cái dâng sữa, khỉ biếu Chúa mấy
trái dừa, sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa. Chúa Hài Đồng vui
vẻ nhận tất cả. Đang lúc ấy, chàng cáo xuất hiện. Các thú vật đều ghét cáo, vì hắn
ta gian manh ,quỷ quyệt. Chúng chặn không cho cáo đến gần Chúa, sợ nó lại âm
mưu chuyện gì đây. Cáo nói :
-Tôi đến dâng lễ vật cho Chúa !
Nhưng chẳng thấy cáo mang lễ vật nào. Tuy nhiên, Chúa vẫn ra hiệu cho cáo
vào. Quỳ bên Chúa, chàng cáo thì thầm dâng cho Chúa lòng quỷ quyệt của mình.
Mọi thú vật đều bỡ ngỡ : dâng gì kỳ cục vậy ? Trái lại, cáo ta vui mừng, hớn hở.
Còn Chúa đặt hai tay lên đầu cáo tỏ dấu chúc lành. Xưa nay, cáo sống sung sướng
trên lưng kẻ khác nhờ sự quỷ quyệt của mình. Từ đây, dâng cho Chúa rồi, nó sẽ
phải kiếm ăn cực nhọc với tấm lòng lương thiện. Hoá ra chàng cáo đã dâng nhiều
hơn tất ca. Và trong Chúa, mọi sự sẽ được biến đổi.
Chúng ta cũng vậy, con người chúng ta cũng đầy những tội lỗi, thiếu xót. Nhưng
nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta được cùng chết với Đức Ki-tô và cùng sống lại với
Ngài. Và Chúa vẫn mời gọi chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô từng ngày với những từ
bỏ tội lỗi để kết hợp với Chúa như trong thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma mà
chúng ta sẽ lắng nghe giờ đây.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Rm 6, 3-11
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố
Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe của Thánh Phao-lô viết cho giáo đoàn Rô-
ma về đời sống Ki-tô hữu và sống làm con cái Chúa, chết và Phục sinh với Đức Ki-
tô. Đó là :
-“Được thanh tẩy trong Đức Giê-su Ki-tô”, tức là trong sự chết của Ngài.
-Cuộc sống trong Đức Ki-tô là cuộc sống tập thể “Chúng ta”, chứ không phải chỉ
có “Tôi”.
-Chúng ta sống trong tương quan liên vị thiết thân với Đức Ki-tô. Bản văn nói :
“Được Thanh Tẩy vào trong Đức Ki-tô”
-Phép Rửa tôi đưa ta vào sinh lực huyền nhiệm Phục sinh của Chúa Giê-su chết
và sống lại; “Thanh Tẩy trong sự chết của Ngài”, tức là Thanh Tẩy trong Chúa
Giê-su Ki-tô Phục sinh, mang lại hoa trái mới từ cõi chết.
Như thế, chịu Thanh Tẩy tức là kết hợp mật thiết với Đức Ki-tô là Đấng biến đổi
cả cuộc sống người tín hữu.
Chúng ta cùng thảo luận đoạn thư này :
2. Các em học sinh thảo luận :
Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe là một bài giảng
a.Đoạn văn có những từ ngữ (hoặc cụm từ ) nào quan trọng?
-Dìm vào nước thanh tẩy, nên một với Đức Ki-tô, cùng chết với Đức Ki-tô,
cùng sống với Ngài.
-Từ ngữ chính : Cùng chết với Đức Ki-tô, cùng sống với Ngài.
b.Câu tóm ý cả đoạn : câu 8
c.Đặt tựa đề ngắn : Sống bí tích Rửa Tội.
3. Bài học giáo lý
Nơi bí tích Rửa tội, chúng ta được tham dự một cách cụ thể vào mầu nhiệm
Vượt Qua của Chúa Giê-su. Được dìm xuống nước, có nghĩalà được dìm vào trong
cái chết của Chúa, cùng chết với Chúa, để cùng được đưa lên với Ngài, cùng được
sống lại, sống một đời sống mới trong Chúa.
Sống mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh trước hết chính là sống ơn bí tích Rửa tội
mà ta đã lãnh nhận. Đó cũng là điều căn bản mà mỗi Ki-tô hữu được mời gọi hằng
ngày để có thể nên một với Đức Ki-tô.
3.1 Bí tích Rửa tội
Trong giáo xứ chúng ta, các trẻ mới sinh được đưa đến nhà thờ lãnh nhận bí
tích Rửa tội. Còn người lớn (dự tòng) thường được Rửa tội vào lễ vọng Phục
sinh (Tối Thứ Bảy Tuần Thánh).
Trong năm Phụng vụ, Hội Thánh khuyên nên cử hành bí tích Rửa tội vào lễ
vọng Phục sinh. Nếu phải cử hành vào những thời điểm khác, Hội Thánh mong
ước cử hành vào các ngày Chúa nhật là ngày mừng Chúa Ki-tô Phục sinh. Tại
sao vậy ?
Ngày xưa, Hội Thánh rửa tội cho một người bằng cách dìm họ xuống hồ nước.
Ngày nay, hình thức bên ngoài thường rất đơn giản : Linh mục đổ nước trên
đầu người được Rửa tội. Tuy vậy, với hình thức đơn giản này, phép Rửa tội vẫn
giữ nguyên ý nghĩa như hình thức dìm xuống nước.
Lãnh nhận bí tích Rửa tội là ta được dìm vào trong sự chết cứu chuộc của
Chúa, trong đó, Máu Đức Giê-su đổ ra đền tội ta, sẽ tẩy ta sạch hết mọi tội lỗi :
tội Tổ tông và tội riêng mình phạm từ trước cho đến lúc chịu phép Rửa.
Tất cả chúng ta đây đều đã được Rửa tội. Chúng ta đã được dìm vào nước
thanh tẩy. Con người cũ của chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, cùng được mai
táng với Ngài. Nhờ vậy, chúng ta đã thuộc về Đức Ki-tô, được nên một với
Ngài. Vì đã được cùng chết với Chúa,nên chúng ta cũng được sống lại với Chúa,
sống một đời sống mới.
-Tóm ý: Bí tích Rửa tội tái sinh cong người vào đời sống mới trong Chúa Ki-tô, tẩy
rửa sạch mọi tội lỗi và đưa con người vào Hội Thánh để được ơn cứu độ
3.2 Vui vẻ, chuyên cần và phục vụ.
Bí tích Rửa tội đã đưa ta vào cuộc sống mới. Vậy cuộc sống mới đó là
cuộc sống nào? Đối với một Thanh, thiếu niên như chúng ta, đó là cuộc sống
vui tười, chuyên cần, khiêm nhường, yêu thương, phục vụ và gieo vãi hoà bình.
Như khi Đa-minh Sa-vi-ô xin Cha Gio-an Boscô chỉ chocon đường nên thánh.
Cha đã gói lại trong ba chữ : Vui vẻ, chuyên cần và phục vụ.
-Tại sao người Ki-tô hữu phải luôn sống vui tươi ?
Bởi vì Đức Ki-tô đã sống lại. Ngài đã giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ tội
lỗi, đem lại cho chúng ta sự sống mới : sự sống của người làm con Thiên Chúa.
Chúa Giê-su đã chiến thắng thế gian, chiến thắng đau khổ, chiến thắng tội lỗi
và sự chết cho chúng ta, nên người Ki-tô hữu không có lý do gì để sợ hãi hay
buồn khổ.
Vui vẻ ở đây không phải là rong chơi thoải mái, mà là trạng thái bình an của
tâm hồn tự do, trong trắng, không vẩn đục.
Cha Bos-co cho Sa-vi-ô biết : “Điều gì khiến con mất bình an không đến từ
Thiên Chúa”. Phạm tội là nguyên nhân chính khiến ta mất đi niềm vui và bình
an trong tâm hồn. Ta hãy sống trong sạch để hưởng niềm vui trong Chúa.
-Chuyên cần : chăm lo chu toàn bổn phận của mình, từ bổn phận của con
người trong gia đình, người học sinh ở trường, người công dân ngoài xã hội, cho
đến bổn phận người tín hữu trong Hội thánh. Ý Chúa được thể hiện qua việc
bổn phận của mỗi người. Chính khi chu toàn việc bổn phận, ta sẽ cảm nghiệm
được niềm vui.
-Phục vụ : Quan tâm phục vụ người khác với tấm lòng yêu thương, để họ
cũng có cuộc sống vui và được ơn cứu độ.
-Tóm ý : Nhờ bí tích Rửa tội, ta được cùng chết và sống lại với Chúa Ki-tô. Có Chúa
Ki-tô Phục sinh ở với ta, ta sống vui tươi, chuyên cần và phục vụ. Ta góp sức đem
niềm vui đến cho mọi người để ai nấy đều nhận biết Tin Mừng cứu độ.
3.3 Ngay ở đây và bây giờ
Mầu nhiệm Chúa chết và sống lại là nền tảng đức tin của người Ki-tô hữu.
Mầu nhiệm này được Hội thánh cử hành hằng năm vào dịp lễ Phục sinh (Tam
Nhật Vượt Qua), hằng tuần vào ngày Chúa nhật. Mỗi sáng Chúa nhật đều được
coi như một buổi sáng Phục sinh. Hội thánh còn dành giờ kinh sáng mỗi ngày
để mừng Chúa sống lại. Những lời cầu trong sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ cho
thấy rõ ý ấy.
Việc Hội thánh cử hành như thế mời gọi các tín hữu sống mầu nhiệm Tử nạn
và Phục sinh hằng ngày, ngay trong cuộc sống của mình. Ngay giây phút hiện
tại này, mỗi người chúng ta đều được mời gọi hãy lột bỏ thêm một chút con
người cũ để mặc lấy thêmmột chút con người mới trong Đức Ki-tô.

-Tóm ý : Bí tích Rửa tội còn giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Đức Ki-tô Tử
nạn và Phục sinh bằng việc liên lỉ từ bỏ tội lỗi, lột bỏ con người cũ để mặc lấy con
người mới của Ngài.

*TÓM Ý TOÀN BÀI :


Chúa Giê-su đã chết và đã sống lại. Hội thánh mừng kính mầu nhiệm này không
chỉ hằng năm, mà hằng tuần, hằng ngày. Điều đó nhắc ta phải luôn sống tinh thần
Vượt qua với chúa Ki-tô :Cùng chết và cùng sống lại với ngài trong từng giây phút,
tức là luôn cố gắng sửa mình, từ bỏ ý riêng mà làm theo ý Chúa.
Nhờ Bí tích Rửa tội, ta đã được nên một với Chúa Ki-tô. Có Đấng Phục sinh, ta
sống vui tươi, chuyên cần và phục vụ. Ta góp sức đem niềm vui đến cho mọi người
để ai nấy đều nhận biết Tin Mừng cứu độ.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin ban cho con sự sống của Chúa,
Sự sống làm đời con mãi xanh tươi.
Xin ban cho bình an của Chúa,
Bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
(Rabbouni)
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ Hát : Gặp gỡ Đức Ki-tô (Tiến Lộc – Quang Uy)
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ: Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Bí tích Rửa tội ban cho ta những ơn :
a.Được tha thứ hết mọi tội lỗi.
b.Trở nên thụ tạo mới.
c.Tháp nhập vào Hội Thánh là thân thể Chúa Ki-tô d.Cả 3 câu đều
đúng. ( câu d )
2. Để sống ơn bí tích Rửa tội đã lãnh nhận, em cần :
a.Không phạm tội trọng.
b.Sống vui tươi, chuyên cần và phục vụ trong từng giây phút hiện
tại. c.Làm việc bác ái. ( câu b)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài?
Thiên Chúa đã dùng cái chết và sự sống lại của Đức Giê-su để giải
thoát
chúng ta khỏi tội lỗi, và ban cho chúng ta sự sống mới làm con
cái Ngài.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Nhờ Phép Rửa, tôi đã cùng chết với Đức Ki-tô để được cùng sống lại với Ngài. Vì
thế, tôi phải cởi bỏ con người cũ (từ bỏ tội lỗi) và mặc lấy con người mới, là con
người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con xin cảm tạ Chúa về giờ học giáo lý hôm nay. Xin Chúa
giúp chúng con sống dồi dào ơn Bí tích Rửa tội mà Chúa đã thương ban cho chúng
con, để cuộc sống chúng con luôn làm đẹp lòng Chúa và vui lòng mọi người. Amen.
Bài 26 :
CHÚA GIÊ-SU LÊN TRỜI NGỰ BÊN HỮU ĐỨC CHÚA CHA
Cv 1, 3-11

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học giáo lý hôm nay. Xin
Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên mỗi người chúng con, giúp chúng con hiểu
sự kiện và ý nghĩa mầu nhiệm Chúa lên trời, và xin giúp chúng con luôn biết hướng
lòng về quê hương trên Trời.
Hát : Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Các em thân mến, chúng ta biết chắc một điều là tất cả mọi người đều phải
chết. Ai sống lâu lắm cũng chỉ 100 năm. Khi chết rồi, tùy theo phong tục tập quán
của từng nơi mà thân xác con người được đem đi chôn vùi xuống lòng đất (địa
táng), buông trôi sông hay bỏ xuống biển ( thủy táng), đem thiêu (hoả táng), hay
có những bộ tộc người ta đem người chết treo lên ngọn cây, hay đặt trên đỉnh núi
để chim trời đến ăn ( điểu táng)… Nói chung, sau khi chết thân xác con người trở
thành cát bụi. Nhưng chúng ta tin rằng: “Ngày tận thế mọi xác phàm sẽ được sống
lại” (Kinh Tin kính)
Còn Chúa Giê-su, Ngài cũng đã chết và được chôn trong mộ. Nhưng chỉ đến
“ngày thứ ba” (1Cr15,4; Lc 24,46), Ngài đã sống lại và ra khỏi mồ. Ngài đã hiện ra
với các môn đệ để chứng tỏ cho các ông thấy Ngài thực sự sống lại. Sau 40 ngày,
ngài được rước lên Trời. Chúa giê-su lên Trời như thế nào ? Mời các em lắng nghe
thánh Lu-ca tường thuật trong đoạn mở đầu sách Công vụ Tông đồ sau đây :
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Cv 1, 3-11 Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Lời Chúa vừa công bố :
-Thánh Lu-ca đã viết sách Tin Mừng thứ ba và sách Công vụ Tông đồ vào
khoảng năm 80.
Qua đoạn đầu sách Công vụ Tông đồ Lu-ca muốn trình bày : Thăng Thiên là
kinh nghiệm của Giáo hội, biểu hiện nơi chứng từ của các môn đồ. Kinh nghiệm
về Đức Giê-su đang sống và Thần linh Ngài đang hoạt động tạo ra Giáo hội như
một chứng nhân tập thể. Con số 40 ngày có Chúa hiện ra trước lễ Thăng Thiên là
một thời gian tượng trưng : thời gian sửa soạn, thử nghiệm, chín muồi, khám phá
thêm chiều sâu và suy nghĩ để hiểu biết thêm về mầu nhiệm cứu thế, đó là thời
gian mặc khải về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa cách mới. Như thế, trước khi Đức Giê-
su rời xa các môn đồ cách vĩnh viễn xét về mặt tiếp xúc trực tiếp hằng ngày, môn
đồ được chuẩn bị để lãnh nhận trách nhiệm làm chứng về Đấng Phục sinh.
2.Các em học sinh thảo luận :
Đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe là một câu chuyện kể.
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
-Chúa Giê-su, các Tông đồ, ông Gio-an, Thánh Thần, hai người đàn ông
mặc áo trắng.
-Nhân vật chính : Chúa Giê-su.
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 9
c. Đặt tựa đề ngắn : Đức Giê-su được rước lên trời.
3.Bài học giáo lý
Sau khi sống lại, Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ nhiều lần. Ngài ăn uống
thân mật với các ông (Cv 10,41) và dạy dỗ họ về Nước Thiên Chúa ( Cv1,3), Ngài
giúp họ hiểu những lời Kinh thánh viết về Ngài, đặc biệt là về cuộc Tử nạn và Phục
sinh củaNgài (Lc24,45-46). Ngài hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống và truyền cho
họ đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian : “Phải nhân danh Thầymà rao giảng cho
muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính
anh em là chứng nhân về những điều này. Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều
Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền
năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,47-49)
3.1 Sự kiện :
- Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc
16,19)
- Sau đó, Ngài dẫn các ông tới Bê-ta-ni-a, rối giơ tay chúc lành cho các
ông, và đang khi chúc lành thì Ngài rời khỏi các ông và được đem lên
Trời (Lc 24, 50-51).
- Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây
quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. (Cv 1,9)
Trong ba đoạn Kinh Thánh trên, việc Chúa Giê-su lên Trời được diễn tả bằng
những từ : “được đưa lên trời”, “Được đưa lên trời” hay “được cất lên”. “Được đưa
lên Trời” là kiểu nói của Kinh thánh để diễn tả việc Chúa Giê-su được Chúa Cha tôn
vinh làm Đức Chúa, tức là Chúa cả vũ trụ, vượt trên hết mọi loài. Chúa là tước hiệu
của Đức Ki-tô Phục sinh. “Ngự bên hữu Đức Chúa Cha”, tức là Chúa Giê-su khởi sự
trị vì trong Nước Ngài.
Việc “Lên Trời” là một biến cố vượt hẳn thời gian, nhưng vì nhu cầu giảng dạy
và cũng vì đã có một khoảng thời gian Ngài tỏ mình nhiều lần, nên biến cố này
được các thánh Sử thuật lại trong thời gian, sau những lần tỏ mình ấy. Chúa Giê-su
lên trời ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là Ngài chấm dứt sự hiện diện hữu hình ở trần
gian đề bước vào vinh quang và danh dự dành cho Thiên Chúa.
Trong Bữa tiệc ly, Chúa Giê-su nói với các Tông đồ : “Anh em đừng xao
xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ
ở; Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu
Thầy đi dọn chổ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở
đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3). Như vậy, Chúa Giê-su lên Trời không phải để
lìa xa chúng ta. Với tư cách là Đầu và là Thủ lãnh của chúng ta, Ngài lên trước để
chúng ta là những chi thể củangài ngày kia cũng sẽ được lên theo. Ngày nay ở trên
trời, Chúa Giê-su là thủ lãnh của ta, là trung gian hằng chuyển cầu với Chúa Cha
cho ta và hằng ban Thánh Thần hướng dẫn ta trong Hội thánh (Mt 28,20; Cv2,32;
Rm 8,34; 1Ga 2,1)
-Tóm ý : Chúa Giê-su lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là Ngài chấm dứt sự
hiện diện hữu hình ở trần gian để buớc vào vinh quang và danh dự dành cho Thiên
Chúa, mở đường và chuyển cầu cho ta mai sau cũng được huởng vinh phúc với Ngài
trong sự sống và vinh quang Thiên Chúa.
3.2 Này, Ta ở cùng các con :
Trong lần hiện ra cuối cùng trước khi lên Trời, Chúa Giê-su nói : “Này, Ta ở với
các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Chúa Giê-su ở với chúng ta bằng
cách nào?
Tại Pa-lét-tin xưa, người ta đã có thể gặp Chúa Giê-su bằng xương bằng thịt,
nhưng số người được gặp gỡ Ngài như thế không nhiều lắm. Chúa Giê-su phải chấm
dứt sự hiện diện hữu hình để vượt khỏi những hạn chế về không gian và thời gian,
để có thể gặp gỡ con người mọi nơi, mọi thời và để ai cũng có thể nhận ra được
điều Ngài muốn nói : Thiên Chúa yêu thương con người, thích ở với con người và
mong con người ở với Ngài. Ngài ở với chúng ta bằng nhiều cách :
-Nơi Hội thánh là thân thể của Chúa. Trên đường đi Đa-mát để bắt các tín hữu
Chúa, Sa0-lô (sau này là thánh Phao-lô) đã được Chúa Giê-su hiện ra và nói :
“Sao-lô, Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Sao-lô hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”
Chúa đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (x. Cv 9,1-5)
-Trong Lời Chúa: trong Thánh lễ, chính Đức Ki-tô đang hiện diện và nói với ta
qua bài Tin Mừng. Vì thế, ta phải tỏ lòng tôn kính, lắng nghe
-Trong kinh nguyện của Hội Thánh, khi chúng ta cầu nguyện chung với nhau. “Ở
đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt
18,20).
-Trong Thánh lễ và nơi các linh mục. Như xưa Ngài đã tự dâng mình trên Thánh
giá thì nay chính Ngài cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục.
-Trong các bí tích do Ngài thiết lập.
-Trong những người nghèo khổ, đau yếu, tù đày : “Mỗi lần các người làm như
thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm
cho chính Ta vậy” (Mt 25, 31-46)
-Đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Đức Ki-tô hiện diện nhờ sự
biến đổi bánh và rượu trở thành Mình và Máu Ngài. Nơi bí tích Thánh Thể, Đức Ki-
tô hiện diện với chúng ta một cách đích thực, thực sự và trọn vẹn.
Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nhắn nhủ chúng ta : “ Hội thánh và thế giới
rất cần tôn thờ Thánh Thể. Đức Giê-su đang chờ chúng ta nơi bí tích Tình yêu này.
Phải dành thời gian đến gặp gỡ, tôn thờ và chiêm ngưỡng Ngài với tất cả lòng tin và
ước mong đền tạ muôn lỗi lầm thiếu sót của nhân loại. Hãy luôn tôn thờ thánh Thể”
( Bữa Tiệc của Chúa,3).
-Tóm ý : Sau khi lên Trời, Chúa Giê-su vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận
thế. Ngài hiện diện bằng nhiều cách, đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể, chúng ta cần
dành nhiều thời gian đến gặp gỡ, tôn thờ và chiêm ngưỡng Chúa trong bí tích Tình
yêu này.
3.3 Này, con ở cùng Chúa:
Chúa Giê-su muốn luôn ở với ta. Còn ta, ta có muốn ở với Chúa không?
Nếu có, ta sẽ khám phá ra Ngài đã để lại chung quanh ta rất nhiều cách để
Ngài ở với ta và ta có thể ở với Ngài.
Chúa Giê-su hiện diện trong Lời Chúa, ta có siêng năng đọc Kinh thánh để gặp
Chúa không?
Ngài muốn ở với chúng ta qua bí tích Thánh Thể, ta đã yêu mến Thánh Thể thế
nào? Hãy đến viếng Nhà Tạm và khám phá ra Chúa Giê-su đang chờ đợi mình. Hãy
đến dự Thánh lễ với tấm lòng ao ước được gặp Chúa…
Ngài muốn ở với ta nơi những anh chị em nghèo khó, đau khổ, tật nguyền, kém
may mắn, bị bỏ rơi… Mỗi lần gặp những anh chị em đó, ta có nhận ra hình ảnh
Chúa Giê-su không ?
-Tóm ý : Chúa Giê-su muốn luôn ở với ta. Chúng ta cũng hãy luôn ở với Chúa bằng
cách siêng năng đọc Kinh Thánh, tham dự Thánh lễ, viếng Thánh Thể và yêu
thương, phục vụ người khác, nhất là những người đau khổ, tật nguyền.

*TÓM Ý TOÀN BÀI : Chúa Giê-su lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là Ngài
chấm dứt sự hiện diện hữu hình ở trần gian để bước vào vinh quang và danh dự
dành cho Thiên Chúa. Ngự bên hữu Chúa Cha, Chúa Giê-su là Thủ lãnh của ta, là
trung gian hằng chuyển cầu với Chúa Cha cho ta và hằng ban Thánh Thần hướng
dẫn ta trong Hội Thánh.
Ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang để tổng kết lịch sử. Ngài sẽ
hoàn tất cuộc chiến thắng cuối cùng của sự thiện trên sự ác và quy tụ vạn vật để
dâng lên Thiên Chúa Cha trong Trời mới Đất mới.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con hoan hỉ dâng lời cảm tạ, vì
Con Một Chúa đã lên Trời vinh hiển. Là Thủ lãnh, người đã đi trước mở đường dẫn
chúng con vào Nước Chúa, khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc
phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Xin cho chúng con luôn
nghiệm thấy Người ở giữa chúng con hằng ngày cho đến tận thế như lời Người đã
hứa; để dù đang sống ở trần gian này nhưng chúng con luôn biết hướng lòng về
quê hương đích thực trên Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ: Hát : Chúa về Trời
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ: Em hãy chọn câu đúng nhất :
1.Chúa Giê-su lên trời có nghĩa là:
a.Ngài không ở với con người nữa mà chỉ trở lại vào ngày tận thế.
b.Ngài vẫn ở với con người cách hữu hình và vô hình.
c.Ngài ở với loài người cách trọn vẹn hơn. ( câu c)
2. Chúa Giê-su vẫn ở với chúng ta hằng ngày trong :
a.Hội thánh và Kinh nguyện của Hội thánh.
b.Lời Chúa và các bí tích.
c.Những người nghèo khó, đau yếu, tù đày… d.Cả 3 câu đều
đúng. ( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngừơi?
Chúa Giê-su về Trời là để thực hiện sứ mạng ở với loài người cách trọn vẹn
hơn : Ngài vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúa Giê-su hằng ban
Thánh Thần để hướng dẫn Hội thánh.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Trong niềm mong đợi ngày Chúa Giê-su trở lại, dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần, tôi phải trở nên nhân chứng của Chúa qua đời sống yêu thương,
phục vụ, góp phần đem ơn cứu độ đến cho anh chị em mình.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con gìờ học giáo lý
hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện điều quyết tâm mà Chúa đã soi sáng
cho chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sống theo sự hướng dân của Chúa
Thánh Thần để trở nên nhân chứng Tình yêu của Chúa giữa lòng đời hôm nay.
Amen.

PHẦN IV
CHÚA GIÊ-SU DẪN TA VÀO MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA

Mục đích : Giúp các em đi sâu hơn vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và có
những tương quan gắn bó mật thiết với từng Ngôi.
Làm lan toả Tình yêu Ba Ngôi trong việc góp phần xây dựng một xã hội
chân thật, yêu thương và hướng thượng.

Tất cả cuộc đời Đức Giê-su, từ lời nói cho đến hành động đều nhắm tỏ cho ta
biết Chúa Cha và tình thương của Ngài dành cho mỗi người chúng ta.
Trong Bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su nói : “Thầy không gọi các con là tôi tớ, vì tôi
tớ không biết việc chủ mình làm. Thầy đã gọi các con là bạn hữu, vì mọi điều Thầy
đã nghe nói nơi cha Thầy, Thầy đã tỏ cho các con biết” (Ga 15,15). Chúa Giê-su đã
bày tỏ cho ta biết tất cả những điều kín nhiệm nơi Ngài : Ngài bởi Chúa Cha mà
đến, nay Ngài trở về cùng Chúa Cha và sẽ cử Chúa Thánh Thần đến với ta. Chúa
Thánh Thần là tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần cũng nối
kết chúng ta vào sự sống thâm sâu của chính Thiên Chúa, như lời cầu nguyện của
Chúa Giê-su : “Để hết thảy chúng nên một, cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và
Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở
trong Chúng Ta, và thế gian tin rằng Cha đã sai Con” ( Ga 17, 21)

Bài 27 :
CHÚA GIÊ-SU LÀ THIÊN CHÚA NHƯ CHÚA CHA
Ga 20, 24-29

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, chúng con đến với Chúa để được gặp gỡ Chúa trong giờ học
giáo lý hôm nay. Xin ánh sáng ân phúc đổ đầy trí tuệ con, giúp chúng con hiểu biết
Chúa hơn và tin nhận Chúa là Thiên Chúa của chúng con.
Hát : Hãy chiếu soi lửa hồng…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Khi Quân đội Nga tiến vào Thủ đô Budapest nứơc Hung-ga-ri để trấn áp một
cuộc bạo động, có một viên sĩ quan trẻ hung hăng trong tư thế một kẻ chiến thắng,
đã tìm đến nhà một vị mục sư.
Bước vào phòng, đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây Thánh giá treo trên tường
và bảo ông Mục sư : “Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá, mê hoặc dân
nghèo để bọn người giàu có thể kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông và
tôi, ông hãy thú nhận là không hề tin cái ông Giê-su nào đó là Con Thiên Chúa…”
Vị Mục sư điềm tĩnh nhỏ nhẹ trả lời: “Không thể được, tôi thực sự tin vào
Người!”
Viên sĩ quan rút súng ra và bảo : “Oâng đừng có đùa với tôi! Nếu ông không
khẳng định đó là sự dối trá, tôi sẽ nổ súng giết ông ngay!”
Vị Mục sư đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời :
“Tôi không thể nói khác được. Đức Giê-su thực sự là Con Thiên Chúa và cũng là
Thiên Chúa!”
Thật không ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống nền nhà,
chạy lại ôm chầm lấy vị Mục sư. Anh vưà khóc vừa nói : “Xin lỗi ông, tôi chỉ muốn
thử xem ông có trung thực hay không! Đúng thế, tôi cũng đã âm thầm lặng lẽ tin
trong suốt nhiều năm qua như ông đã tin! Nhưng giờ đây, tôi khám phá ra rằng : có
ít nhất một người dám chết cho Đức tin của mình, chính ông, ông đã củng cố đức
tin cho tôi!”
Là Ki-tô hữu, chúng ta được mời gọi khám phá Chúa Giê-su cho chính mình và
cho người khác. Chúng ta hãy nghe đoạn Tin Mừng sau đây thuật lại con đường các
Tông đồ, đặc biệt là Tô-ma đã trải qua trong việc khám phá Chúa Giê-su.
Mời các em đứng, chúng ta cùng lắng nghe :
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 20, 24-29 Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Lời Chúa vừa công bố :
-Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Thánh Gio-an
-Thời gian viết : khoảng năm 80-90.
Sau khi sống lại, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giê-su hiện ra với
các môn đệ. Ngài ban bình an, cho các ông xem tay và cạnh sừơn. Đúng là Ngài,
con người bị đóng đinh và đâm thâu sườn đang đứng trước mặt họ. Phục sinh không
xoá hết dấu tích của đau thương, nhưng cho thấy sự quan trọng của thể xác Đức
Giê-su trong việc cứu thế; và Ngài sai họ đi rao giảng Tin Mừng.
Tô-ma là một người trong Nhóm Mừoi Hai, không ở với họ khi Đức Giê-su đến.
Các môn đệ kể lại nhưng ông không tin.
Tám ngày sau, Chúa Giê-su lại hiện ra với các môn đệ, có Tô-ma ở với họ,
Chúa ban bình an và củng cố niềm tin cho Tô-ma. Tô-ma đã đi từ thái độ cứng lòng
đến Đức tin, và Chúa giê-su dạy cho Tô-ma cũng như mọi người “mối phúc” của
việc không thấy mà tin.
Chúng ta hãy cùng nhau thảo luận để hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng này :
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin mừng này là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào?
-Tô-ma, đức Giê-su, các môn đệ
-Nhân vật chính : Tô-ma
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 28
c. Đặt tựa đề ngắn : Tô-ma tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa
3. Bài học giáo lý:
Sau khi Chúa Giê-su lên Trời, ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ nhận được tràn
đầy ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài mạnh dạn rao giảng về Chúa Giê-su cho mọi
người. Trước đám đông tại Giê-ru-sa-lem, Thánh Phê-rô lên tiếng : “Vậy toàn thể
nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo lên Thập giá,
Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv2, 36)
Khoảng 30 năm sau, trong thư gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô
cũng đã ghi lại Đức tin của Hội thánh thuở ban đầu vào Chúa Giê-su : “Đức Giê-su
Ki-tô là Chúa” (Pl 2,6-11)
Như vậy, chúng ta thấy rằng, ngay từ đầu Hội thánh đã tuyên xưng Đức Giê-su Ki-
tô là người thật và là Thiên Chúa thật. Đức tin ấy luôn được Hội thánh đào sâu và
tìm cách diễn tả thích hợp để có thể truyền lại cho mọi người thuộc mọi thời, mọi
nơi, mọi nền văn hoá khác nhau.
3.1 Các lạc thuyết :
Ngay từ đầu, Hội thánh đã tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là người thật như
chúng ta ( Ngài đã khóc trước mộ La-da-rô), vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha
(Ngài nói một lời và La-da-rô đã chết 4 ngày lại sống dậy).
Tuy nhiên diễn tả mầu nhiệm Chúa Ki-tô không phải là điều dễ. Trong mấy thế
kỷ đầu, đã có nhiều nhóm Ki-tô hữu giải thích sai lạc. Mỗi lần như thế, Hội thánh lại
họp Công đồng để lên tiếng khẳng định đâu là Đức tin chân chính, dần dần ta có
được những công thức tín lý ngắn gọn.
Về Mầu nhiệm Chúa Ki-tô có 3 lạc thuyết chính :
a. Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa mà chỉ là một thụ tạo :
Các lạc thuyết này phủ nhận thiên tính (thần tính) của Chúa Giê-su. Họ chỉ
coi Chúa Giê-su là một con người như chúng ta (= là người thường và được Thiên
Chúa ưu ái nhận làm con).
Ai chủ trương ? Chủ trương thế Đức tin của Hội thánh
nào?
.Giám mục Phao-lô Samosate (268) cho . Công đồng An-ti-ô-khi-a (268) : Chúa
rằng Chúa Giê-su chỉ là một con người Giê-su là Con Thiên Chúa đã làm người.
được Thiên Chúa nhận làm con.
.Linh mục A-ri-ô (chết năm 336) cho .Công đồng Ni-kê-a (325) : Chúa giê-
rằng Chúa Giê-su chỉ là thụ tạo trổi su không được tạo thành nhưng Ngài là
vượt nhất. Thiên Chúa thật như Chúa Cha.
.Công đồng Ni-cê-a (325) và Công
đồng Công-tăng-ti-nốp (328):
-Chúa Giê-su là Ngôi Con được sinh ra
bởi Chúa Cha từ đời đời.
-Chúa Giê-su được sinh ra làm người
bởi Đức Trinh nữ Ma-ri-a

b. Chúa Giê-su có hai ngôi vị


Ai chủ trương ? Chủ trương thế Hội Thánh tuyên xưng thế nào?
nào?
-Giám mục Nét-tô-ri-ô (chết năm 451) . Công đồng Ê-phê-xô (431) và Công
cho rằng Chúa Giê-su có hai ngôi vị: đồng Khan-kê-đô-ni-a (451) : Chúa
Ngôi Hai Thiên Chúa và ngôi vị con Giê-su là Thiên Chúa thật và là người
người đi bên cạnh nhau (Bị Công đồng thật, một ngôi vị trong hai bản tính.
Ê-phê-xô và Công đồng Khan-kê-đô-ni-
a 451 kết án).

c. Chúa Giê-su chỉ có một bản tính là bản tính Thiên Chúa:
Các lạc thuyết này chối bỏ nhân tính của Chúa Giê-su mà chỉ nhìn nhận thiên
tính (thần tính) SGLC 465
Ai chủ trương ? Chủ trương thế Hội Thánh tuyên xưng thế nào?
nào?
-Thời các Tông đồ có những người chủ -Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn
trương thuyết Aûo thân, cho rằng Con khắp thế gian, họ là những kẻ không
Thiên Chúa chỉ giả vờ làm người chứ tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã
không là người thật. đến và trở nên người phàm (2 Ga 7).
-Giám mục A-pô-li-na-ri-ô (chết năm -Thần Khí nào tuyên xưng Đức Giê-su
390) : Chúa Giê-su không có linh hồn Ki-tô đã đến và trở nên người phàm, thì
con người như ta, Ngôi Lời thế chỗ cho Thần khí ấy bởi Thiên Chúa (1Ga 4,1-
linh hồn (bị Công đồng Công-tăng-ti- 3).
nốp kết án năm 381) -Công đồng Ê-phê-xô (431) và Công
-Tu viện trưởng Eutychès (chết năm đồng Khan-kê-đô-ni-a (451) : Chúa
454) cho rằng Chúa Giê-su chỉ có một Giê-su là Thiên Chúa thật và là người
bản tính là bản tính Thiên Chúa (bị thật, một ngôi vị trong hai bản tính.
Công đồng Khan-kê-đô-ni-a kết án năm
451)

-Tóm ý : Về Mầu nhiệm Chúa Ki-tô, ta có thể thấy 3 lạc thuyết chính :
1. Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa mà chỉ là một thụ tạo.
2. Chúa Giê-su có 2 Ngôi vị.
3. Chúa Giê-su chỉ có một bản tính là bản tính Thiên Chúa.

3.2 Đức tin của Hội thánh :


Hội thánh tuyên xưng rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa thật và là người thật.
Ngài thật sự là Con Thiên Chúa đã làm người, là anh em của chúng ta, nhưng vẫn
luôn là Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
Cùng với các Công đồng Ni-kê-a (325), Ê-phê-xô (431), và Khan-kê-đô-ni-a
(451). Chúng ta tuyên xưng :
Tôi tin kính một Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa
Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa. Aùnh sáng bởi Aùnh
sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Được sinh ra mà không phải tạo thành,
đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành.
Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ Trời xuống thế. Bởi
phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a và đã
làm người. (SGLC 469-470)
-Tóm ý : Cùng với các Công đồng Ni-kê-a (325), Ê-phê-xô (431), và Khan-kê-
đô-ni-a (451). Chúng ta tuyên xưng :
Chúa Giê-su Ki-tô vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha , vừa là người thật như ta;
Ngài có hai bản tính, vừa bản tính Thiên Chúa vừa bản tính loài người trong cùng
một Ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa.
3.3 Bên lòng Chúa:
Trong suốt cuộc đời, cả khi hấp hối và và chịu khổ nạn, Đức Giê-su biết và yêu
mến mọi người và từng người chúng ta. Người đã hiến mạng cho mỗi người chúng
ta : “Con Thiên Chúa yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20)
Sự kiện Thiên Chúa làm người thật là một cuộc cách mạng kỳ diệu : Thiên Chúa
trở nên thân thương gần gũi với con người. Chúng ta đã thật sự cảm nghiệm được
Thiên Chúa ở bên cạnh như một người bạn. Tuy nhiên, đôi khi người ta lại quên
mất, không còn nhớ rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa thật.
Bạn đã sống thân mật thường xuyên với Chúa Ki-tô chưa? Từ hôm nay, mỗi khi
nhớ đến Chúa, bạn hãy dừng lại với Ngài một phút để tôn thờ, mến yêu và tâm sự
với Ngài trong thinh lặng.
-Tóm ý : Thiên Chúa làm người để chúng ta thực sự cảm nghiệm được Thiên Chúa
ở bên cạnh như một người bạn, chúng ta hãy sống thân mật thường xuyên với Chúa
trong tôn thờ, mến yêu và tâm sự với Ngài trong thinh lặng.

*TÓM Ý TOÀN BÀI :


Điểm cốt yếu của Đức tin Ki-tô giáo là tin rằng Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên
Chúa làm người : Ngài vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha vừa là người thật
như ta. Ngài là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giê-su có hai bản tính : Thiên Chúa và loài người. Hai bản tínhnày không lẫn
lộn nhưng hợp nhất trong Ngôi vị duy nhất của con Thiên Chúa.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Mời các em đứng, chúng ta cùng tuyên xưng niềm tin của mình bằng
lời tuyên xưng của Hội thánh đã dạy chúng ta : Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha
phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một
Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người
xuống thai, sinh bởi Bà Ma-ri-a đồng trinh; chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô,
chịu đóng đinh trên cây Thánh giá, chết và táng xác; xuống ngục Tổ tông; ngày thứ
ba bởi trong kẻ chết mà sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô
cùng; ngày sau bởi Trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội thánh hằng có ở khắp thế
này; Các Thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau
sống lại. Tôi tin hằng sống vậy .Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ Hát : Giê-su Aùnh sáng
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1.Về mầu nhiệm Chúa Ki-tô, có những lạc thuyết sau :
a. Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa mà chỉ là một thụ tạo.
b. Chúa Giê-su có hai ngôi vị.
c. Chúa Giê-su chỉ có một bản tính là bản tính Thiên Chúa.
d. Cả 3 câu trên.
( câu d)
2.Hội thánh tuyên xưng rằng :
a.Chúa Giê-su Ki-tô vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha vừa là người thật
như ta.
b. Chúa Giê-su Ki-tô có hai bản tính: bảøn tính thiên Chúa và bản tính
nhân loại.
c. Hai bản tính của Đức Ki-tô trong cùng một Ngôi vị: Ngôi Hai Thiên Chúa.
d. Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
“Hãy đem ngón tay con thọc vào bàn tay Thầy; hãy đem bàn tay con thọc
vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Chúa Giê-su
luôn tạo điều kiện thuận lợi và ban đủ ơn để giúp ta tin vào Ngài.
2. Gương tốt nên theo :
Hãy học nơi các môn đệ : chia sẻ niềm tin của mình cho người khác: “Tôi đã
thấy Chúa!”. Cầu nguyện cho người khác để họ cũng được ơn nhận biết Chúa Giê-
su.
3. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Đứng trước sự ưu ái của chúa, tôi cũng hãy thưa với Ngài như Tô-ma:
“Lạy Chúa con và là Thiên Chúa của con”. Và sống “mối phúc” của việc không thấy
mà tin
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con xin cảm tạ Cha qua giờ giáo lý
hôm nay, Cha giúp chúng con hiểu hơn tình thương Cha đã dành cho chúng con qua
Đức Giê-su Ki-tô, người Con Một duy nhất của Cha để cứu độ chúng con. Xin Cha
thương củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời khi
chúng con tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng
Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

Bài 28 :
CHÚA GIÊ-SU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC TÔNG ĐỒ
Ga 15,26-27; 16,7.12-13

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã dạy chúng con: “Hãy xin thì sẽ được”.Giờ đây,
chúng con nài xin Chúa ban Thánh Thần xuống để Ngài soi sáng và hướng dẫn
chúng con trong giờ học giáo lý hôm nay, giúp chúng con khám phá lại tình thương
của chúa hằng ban cho chúng con qua Chúa Thánh Thần, và sống những ơn chúng
con đã lãnh nhận trong bí tích Thêm sức.
Hát : Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Hằng ngày, bưu điện trên Thiên đàng nhận được không biết cơ man nào là
thư, từ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu…Các thiên thần xếp loại ra thì thấy người nhận
được nhiều thư nhất là Đức Mẹ, thứ nhì là Thánh Giu-se, thư ba là thánh An-tôn.
Các thư của hai thánh này, các thiên thần đều bóc ra xem cả. Chỉ trừ thư gửi Đức
Mẹ thì không dám. Nhưng một ngày kia, không cầm được tính tò mò, các vị cũng
mở thư của Đức Mẹ. Nhưng các thiên thần thất vọng, tưởng người thế gian viết
những tâm tình gì tha thiết yêu thương, hoá ra đại khái cũng chỉ toàn xin ơn.
Các thiên thần mới rủ nhau rình xem thái độ Đức Mẹ khi đọc muôn vạn lá
thư ấy. Tình cờ, một hôm các thiên thần thấy mặt Đức Mẹ tươi vui hẳn lên, các vị
mới tới gần hỏi:
-Tại sao mọi hôm mặt Mẹ rầu rầu, hôm nay lại tươi vui thế ?
Đức Mẹ mới trao cho các thiên thần một lá thư, trong đó viết như sau:
-Mẹ ơi, con chỉ xin Mẹ một điều : Mẹ là bạn Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu
Ngài đến thăm linh hồn con.
Thánh Thần là món quà vô giá mà Cha trên Trời sẽ ban tặng cho chúng ta để
chúng được trở nên con cái của Ngài.
Trong Bữa Tiệc ly, trước khi từ giã các môn đệ, Chúa Giê-su đã cho các môn
đệ biết rõ hơn về món quà vô giá đó mà Chúa Cha sẽ ban. Đó là Đấng Bảo Trợ, là
Thần Khí Sự Thật.
Chúa Giê-su nói về Đấng Bảo Trợ như thế nào, mời các em lắng nghe đoạn
Tin Mừng của thánh Gio-an sau đây:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 15,26-27; 16,7.12-13
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố
Bảo Trợ nghĩa là gì ? Tiếng Hylạp Parakletos có nghĩa là trạng sư, người bào
chữa, người trợ giúp, người bênh vực. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ,
như một người Bào chữa, một Trạng sư để bênh vực cho chúng ta. Cũng có khi
được dịch là Đấng An Uûi.
Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và tác động nơi Chúa Giê-su qua mọi lời nói,
hành động và nhất là qua cuộc Tử nạn và Phục sinh (x.Mt 12,28; Mc 1,10; Lc
3,22;4,1-2.14; Rm 1,4 ).
Tuy nhiên, mãi cho đến Bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su mới tỏ cho các môn đệ biết
rõ về Chúa Thánh Thần và hứa sẽ xin chúa Cha ban Thánh Thần đến cho các ông.
Đó là Thần Khí sự thật, Đấng bởi Chúa Cha mà ra. Ngài đến dẫn đưa chúng ta vào
tất cả sự thật nghĩa là vào đời sống hiểu biết Chúa hơn, yêu mến Chúa hơn, gắn bó
với chúa hơn và sống theo lời Chúa dạy. Chúa cũng cho họ biết rằng cái chết rất
cần thiết, vì có chết, Ngài mới sống lại để ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một bài giảng.
a. Đoạn văn có những từ ngữ hoặc cụm từ nào quan trọng ?
-Đấng Bảo Trợ, Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo trợ đến, Thần Khí
sự thật, đưa các con vào tất cả sự thật.
- Từ ngữ chính : Đấng Bảo Trợ
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 7
c. Đặt tựa đề ngắn : Chúa Giê-su hứa ban Thánh Thần
3. Bài học giáo lý
Thần Khí, tiếng Hip-ri là ru-ah, nghĩa là hơi thở, không khí, gió : Đấng là
Hơi Thở của Thiên Chúa, là Chúa Thánh Thần.
Nếu Chúa Giê-su được gọi là “Lời của Thiên Chúa” (Ga 1,1; Dt 1,1-3), thì
Chúa Thánh Thần được gọi là “Hơi thở” của Thiên Chúa. Khi cử Lời Ngài xuống
trần gian, Chúa Cha cũng đồng thời gửi cả Hơi thở của ngài. Chúa Thánh
Thần luôn hiện diện và phối hợp chặt chẽ với Chúa Giê-su trong sứ mạng cứu
độ.
3.1 Chúa Thánh Thần và các Tông đồ :
Buổi chiều ngày Phục sinh, trong khi các môn đệ vẫn còn đang trốn trong
nhà Tiệc ly, đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, thì Chúa Giê-su hiện đến, đứng giữa
các ông ban bình an, cho các ông xem tay và cạnh sườn, và sai các ông đi rao
giảng Tin Mừng. Ngài thổi hơi vào các ông và bảo :
-“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha. Anh emcầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 19-23).
Từ giờ phút ấy, sứ mạng của chúa Giê-su và của Chúa Thánh Thần trở thành
sứ mạng của Hội Thánh : “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”
(Ga 20,21).
Tuy nhiên , phải đợi cho đến khi Chúa Giê-su được tôn vinh trọn vẹn, nghĩa là
lên Trời, ngự bên hữu Chúa Cha thì Chúa Thánh Thần mới được ban xuống đầy tràn
trên các môn đệ (x. Ga 7,39; 16,7). Bởi vậy, trước khi từ giã họ lên trời, Chúa Giê-
su đã một lần nữa hứa ban Chúa Thánh Thần và dạy họ ở lại trong thành, kiên trì
cầu nguyện và chờ đợi (Lc 24,49; Cv 1,4-8).
Với tâm tình khao khát ấy, đến lễ ngũ Tuần, họ được đầy Thánh Thần : “Khi
đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ Trời phát ra một
tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ
thấy xuất hiện những hình luỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.
Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy
theo khả năng Thánh Thần ban cho.” ( Cv 2,1-4)
Kết quả đầu tiên là các môn đệ của Chúa được hoàn toàn đổi mới. Trước đó,
họ là những người chài lưới dốt nát và nhát đảm, nhưng khi đã nhận lấy Chúa
Thánh Thần, họ can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng với một sự khôn ngoan khiến mọi
người kinh ngạc. (Cv 4,13.18-22; 5,29-33). Họ dám liều mình để làm chứng cho
Chúa Giê-su, không sợ tù đầy, đe doạ và cả cái chết. Họ được biến đổi thành những
con người mới dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
-Tóm ý : Dưới tác động của Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Phục sinh và đặc biệt
trong ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ của Chúa được biến đổi thành những con người
mới để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giê-su và của Chúa Thánh Thần trong Hội
Thánh.
3.2 Chúa Thánh Thần xây dựng Hội Thánh trong lịch sử :
Từ lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần không ngừng làm cho ơn cứu chuộc của
Chúa Ki-tô sinh hoa kết trái. Ngài dùng các ơn ban của Ngài để xây dựng Hội Thánh
:
-Ngài khơi dậy đức tin nơi con người, làm cho họ quay về với Thiên Chúa và
quy tụ họ thành Hội Thánh. (x. Cv 2, 37-41; Cv 10,44-48).
-Bằng các bí tích, Chúa Thánh Thần ban sức sống và thánh hoá Hội Thánh, để
Hội Thánh được thuộc trọn về Thiên Chúa (x. Cv2,42.46-47)
-Trong mọi hoạt động Phụng vụ, Chúa Thánh Thần được cử đến để giúp chúng
ta hiệp thông với Chúa Ki-tô : Ngài chuẩn bị cộng đoàn tín hữu gặp gỡ Chúa
Ki-tô, gợi nhớ và biểu lộ Chúa Ki-tô cho cộng đoàn, dùng quyền năng làm cho
mầu nhiệm Chúa Ki-tô hiện diện và tác động trong hiện tại, đồng thời liên kết
Hội Thánh với đời sống và sứ mạng của Chúa Ki-tô. (SGLC 1091-1112)
-Trong Thánh lễ, với lời kinh “Xin ban Thánh Thần”, Hội thánh khẩn cầu Chúa
Cha ban Thánh Thần xuống trên bánh rượu, để nhờ quyền năng của Thánh
Thần, bánh rượu trở nên Mình Máu Đức Giê-su Ki-tô, và để những người lãnh
nhận Thánh Thể trở thành một thân thể và một tinh thần duy nhất ( SGLC
1105. 1353).
-Ngài cho Hội thánh được hoạt động mạnh mẽ và thúc đẩy Hội thánh chu toàn
sứ mạng Chúa Ki-tô trao phó.Các Hội Đồng Giám mục địa phương, hay trên
bình diện toàn cầu, mỗi khi Hội thánh cần lên tiếng xác định đức tin của mình
hoặc để đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến đời sống Hội thánh
thì các Đức Giám mục trên thế giới được Đức Thánh Cha triệu tập lại để cùng
bàn luận và quyết định trong Chúa Thánh Thần (x. LG 1)
-Ngài gợi lên nhiệt tình tông đồ nơi nhiều tín hữu, sai phái và hướng dẫn họ đi
rao giảng Tin Mừng cho mọi người. (x. Cv13, 1-4).
-Tóm ý : Chúa Thánh Thần hoạt động, xây dựng và điều khiển mọi hoạt động lớn
nhỏ của Hội Thánh từ buổi ban đầu cho đến tận thế.
3.3 Các ơn Chúa Thánh Thần
Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc
phục vụ khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người.
Thần khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần
khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy; người thì được Thần khí ban cho ơn hiểu
biết để trình bày. Kẻ thì được Thần khí ban cho lòng tin, kẻ thì được chính Thần khí
duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ,
người thì được ơn nói tiên tri, kẻ thì được ơn phân định Thần khí; kẻ khác nữa thì lại
được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần khí duy nhất ấy làm ra tất cả
những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người (1Cr
12,4-11).
Đọc sách Công vụ Tông đồ và các thư trong Tân Ước, ta sẽ thấy các ơn Chúa
Thánh Thần tuôn tràn trên Hội thánh thật phong phú :
-Nổi rõ nhất là các ơn đặc biệt (gọi là các đặc sủng) được ban để phục vụ cộng
đoàn ( cho nên gọi là các đoàn sủng) như : Nói tiên tri, nói các thứ tiếng, chữa
bệnh…Đó là những ơn cần cho giai đoạn đầu của Hội thánh. Ngày nay, Chúa
Thánh Thần vẫn còn ban những ơn ấy trong nhiều trường hợp, nhưng thông
thường ta vẫn có thể gặp các ơn ấy dưới những dạng giản dị hơn : ơn hiểu biết,
ơn giảng dạy, ơn phục vụ…Những ơn mà ta có thể gặp ở khắp nơi : tại nhà bếp,
nơi phòng khách, trong lớp học, ở xưởng thợ…
-Một cách lặng lẽ và sâu xa, ơn quan trọng nhất lá tình yêu mến (1Cr13) vẫn hằng
được Chúa Thánh Thần ban cho Hội thánh, thấm nhuần trong cách cư xử và phục
vụ của các tín hữu : “Hoa quả của Thánh Thần là: Yêu mến, vui mừng,bình an,
hiền từ, tiết độ, khoan hậu, nhân lành, tín nghĩa” (Gl 5,22).
-Rồi ơn Đức tin : Phải có Chúa Thánh Thần ta mới có thể tin Chúa Giê-su
(1Cr12,3) và gọi Thiên Chúa là Cha ( Rm 8,14-17).
-Ta còn có thể thấy ơn Chúa Thánh Thần phát triển trong đời thường của người tín
hữu : Lòng tốt vô vụ lợi, tình yêu chung thủy của các đôi vợ chồng, sự chuyên
cần chu toàn bổn phận trong thinh lặng, lòng tin tưởng vào tình thương tha thứ
của Thiên Chúa, nghị lực để vượt thắng cám dỗ, sự mau mắn giúp người nghèo
khổ, sự ham thích cầu nguyện trong thinh lặng, ham thích hiểu biết và học hỏi,
sự kiên nhẫn trong lúc đau khổ.
-Sách Ngôn sứ I-sai-a 11,1-2 tập trung tất cả vào 7 ơn Chúa Thánh Thần : Khôn
ngoan, trí tuệ, lo liệu, dũng cảm, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Thiên Chúa.
Nhưng trên hết, ơn Chúa Thánh Thần còn có nghĩa là chính bản thân Chúa
Thánh Thần tự ban mình cho ta khi ta lãnh bí tích Rửa tội và thêm sức (Cv 8,14-
17; 10,44-48).
-Tóm ý : Ơn Chúa Thánh Thần tuôn tràn trên Hội thánh thật phong phú, tùy theo
công việc của mỗi người để tất cả phục vụ ích chung trong cùng một Thần khí duy
nhất.
3.4 Chúa Thánh Thần là Chúa của tôi
Ngày Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để trở nên người
con của Chúa Cha, chi thể của Chúa Ki-tô, đền thờ Chúa Thánh Thần (SGLC 1265)
Nhờ bí tích Thêm sức, chúng ta được xức dầu Thánh Thần, được tham dự tích
cực hơn vào sứ mạng Đức Ki-tô và được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, để toàn bộ
đời sống của ta toả “ hương thơm của Đức Ki-tô” [(2 Cr 2,15) (SGLC 1294)].
Chúa Thánh Thần là món quà vô giá mà Chúa Cha và Chúa Giê-su đã ban
tặng cho ta. Thế nhưng ta đã sống với Ngài thế nào? Ngài có phải là một người bạn,
một vị thượng khách và hơn thế nữa, là thiên Chúa của ta chưa?
Chúng ta hãy ý thức hơn về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời
sống của ta. Từ hôm nay, chúng ta hãy: yêu mến, năng gặp gỡ Chúa Thánh Thần, ở
lại với Ngài, hỏi ý Ngài và lắng nghe Ngài. Sống thái độ mới này trong từng giây
phút, trước việc lớn cũng như việc nhỏ, trước khi cầu nguyện cũng như trước khi
học hành, nhất định chúng ta sẽ được biến đổi như các thánh Tông đồ sau lễ Ngũ
Tuần.
-Tóm ý : Để xứng đáng là Đền thờ của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy sống theo
lời Thánh phao-lô dạy: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì
chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua
cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi
gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ
cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Ep 4,30-32)

* TÓM Ý TOÀN BÀI :


Từ lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần không ngừng làm cho ơn cứu chuộc của Chúa
Ki-tô sinh hoa kết trái nơi các Tông đồ, qua Hội thánh và nơi từng người, khi lãnh
nhận bí tích Rửa tội và nhất là khi lãnh nhận bí tích Thêm sức. Chúng ta hãy cố
gắng làm cho các ơn Chúa Thánh Thần sinh hoa kết quả tốt đẹp trong cuộc đời
chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa, Chúa đã cử Thánh Thần đến thánh hoá Giáo hội ngay từ buổi sơ
khai, và sai Giáo hội đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Xin ban sức mạnh của Chúa
Thánh Thần làm cho tâm hồn mọi người đã được tái sinh nhờ bí tích Rửa tội được
ngày thêm vững bền trung kiên, nhiệt thành loan báo tin Mừng cứu độ hầu Nước
Chúa được lan rộng khắp nơi. Chúng con cầu xin…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
Hát : Thánh Thần hãy đến (Thành Tâm)
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ
1. Sách Ngôn sứ I-sai-a 6, 1-3 tập trung tất cả các ơn Chúa Thánh Thần vào
mấy ơn ? Em hãy kể ra?
Hoặc câu hỏi thảo luận :
2. Chúa Thánh Thần hoạt động nơi :
a. Các Tông đồ.
b. Hội thánh.
c. Các ki-tô hữu
d. Cả 3 câu đều đúng.
(câu d)
3. Hoa trái của Chúa Thánh Thần là:
a. Yêu mến, vui mừng, bình an, hiền từ, tiết độ, khoan hậu, nhân lành,
tín nghĩa.
b. Bác ái, nhiệt thành, làm được nhiều phép lạ.
c. Siêng năng học tập và chăm chỉ làm việc.
d. Cả 3 câu đều đúng.
( câu a)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Chúa Giê-su không bỏ chúng ta mồ côi. Thiên Chúa không để mặc con người
trong cảnh khốn khó. Ngài luôn ở với chúng ta bằng Thánh Thần của Ngài để
nâng đỡ, ủi an và dìu dắt chúng ta.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Tôi cần biết để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đổi mới cuộc sống của tôi
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ:
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã thương ban Chúa Thánh Thần xuống
trên chúng con trong ngày chúng con lãnh nhận bí tích Rửa tội, và được xức dầu
Thánh Thần trong bí tích Thêm sức; và Chúa vẫn hằng ban Chúa Thánh Thần đến
nâng đỡ chúng con từng ngày trong cuộc sống. Đặc biệt trong giờ giáo lý hôm nay,
Chúa Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn chúng con, giúp chúng con hiểu nhiều
hơn tình thương Chúa dành cho chúng con. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết để
Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đổi mới cuộc đời chúng con. Amen.

Bài 29 : Dậy Men Tin Mừng 6


XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI TỐT ĐẸP
Mt 5, 13-16
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ:
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương cho chúng con được
sinh ra làm người, được làm con Chúa và được sống trong xã hội Việt Nam. Chúng
con xin dâng lên Chúa giờ học giáo lý hôm nay, xin Chúa ban Chúa Thánh Thần
xuống, giúp chúng con ý thức hơn trách nhiệm và ơn gọi của chúng con đối với xã
hội mà Chúa đã ban cho chúng con.
Cúi xin Chúa sáng soi…
II. GIẢI THÍCH BÀI HỌC:
Các em thân mến, trong những bài học trước chúng ta thấy : ngay khi bắt
đầu cuộc đời rao giảng, Chúa Giê-su đã thiết lập Nhóm Mười Hai làm nền móng của
Hội Thánh, để biến đổi cả thế giới thành Nước Trời. Trước khi lên trời, Ngài đã hứa
gửi Thánh Thần đến với các môn đệ để giúp họ khởi công thực hiện sứ mạng.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã được ban xuống tràn đầy trên
các môn đệ. Hình ảnh Hội thánh thuở ban đầu là hình ảnh một cộng đoàn hiệp
nhất, yêu thương, đùmbọc lẫn nhau như anh chị em trong một gia đình. Thánh Lu-
ca kể lại trong sách Công vụ Tông đồ : “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ
có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối
với họ, mọi sự đều là của chung. Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất
cả người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông
đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv4,32. 34-35)
Ngay từ đầu, Chúa Thánh Thần đã hiện diện trong Hội thánh để xây dựng và
hướng dẫn Hội thánh tiếp tục công cuộc cứu độc của Chúa Ki-tô cho thế giới.
Mỗi người chúng ta khi lãnh nhận phép Rửa, ta được Chúa Thánh Thần ngự
đến làmcho ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Ngày ta chịu phép Thêm sức, ta được tràn đầy các ơn Chúa Thánh Thần, nhờ
đó ta có thể sống sâu xa hơn ơn gọi người Ki-tô hữu : gắn bó với Chúa Ki-tô hơn, và
nên nhân chứng của Ngài cho mọi người, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp. Xã
hội nói đây trước hết là xã hội việt Nam mình, trên quê hương mình. Mỗi người đều
có trách nhiệm, đều cùng ý thức để cùng nhau vượt mọi khó khăn, tiến đến một xã
hội tốt đẹp, một xãhội yêu thương, chân thật và hướng thượng.
1. Một xã hội yêu thương :
Ca dao Việt Nam có câu : “Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Vâng, muốn công việc đạt được những thành quả to lớn, muốn có sức mạnh,
chúng ta cần cộng tác với nhau.
Số học sinh Việt Nam xuất sắc ở khắp nơi trên thế giới cho thấy trí tuệ người
Việt Nam không thua ai, đã có những người đoạt những giải vô địch thế giới. nhưng
chưa có những thành quả của một tập thể người Việt Nam nào khiến thế giới kính
nể, vì chúng ta chưa được huấn luyện để cộng tác với nhau. Cái dở của ta là mỗi
người đều coi ưu điểm của mình là nhất, không biết quý trọng ưu điểm của người
khác. Dường như ta quên rằng cá nhân dù có hay có giỏi đến đâu, vẫn chỉ là cái
hay, cái giỏi trơ trọi; tập thể nhỏ của chúng ta dù có tài ba đến đâu mà chưa biết
liên kết với các tập thể khác, vẫn chỉ là một tài ba lạc lõng, một cây làm chẳng nên
non.
Nếu tài năng ta chỉ bằng một nửa thôi, nhưng mỗi người đều biết nhìn
nhận tài năng của kẻ khác thì: “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Người Do Thái dù ở đâu cũng vẫn liên kết với nhau. Người Trung Hoa dù ở
đâu cũng biết đùm bọc nâng đỡ nhau. Còn người Việt Nam mình chưa có được tinh
thần ấy cho nên chúng ta còn gặp nhiều khó khăn chưa vươn lên được.
Chúng ta mong ước mọi người Việt Nam đều biết yêu thương, cộng tác vơi
nhau. Điều này cần phải bắt đầu ngay từ chính mình. Ngay hôm nay, từ trên ghế
nhà trường, ta cần biết quý trọng tài năng của người khác. Cần loại trừ thói ưa giật
nổi một mình, cần loại trừ sự ham danh đáng ghét, chỉ biết lấy tiếng cho cá nhân
mình, cho nhóm mình. Cần biết muốn điều tốt cho người khác, biết khen ngợi và
chúc mừng khi người khác hơn ta. Đừng ganh tị trước sự trổi vượt của người khác
nhưng hãy coi đó là động lực thúc đẩy ta cố gắng.
Cần biết tôn trọng mọi người, dù họ không cùng tôn giáo với ta, hãy tập cộng
tác, đề cao sáng kiến của người khác, và sẵn sàng nhường bước cho người khác để
để mưu ích chung.
Cũng hãy tập điều đó ngay trong gia đình : vui lòng đón nhận ý kiến của cha
mẹ và mau mắn vâng lời, cả trong những điều ta không thích; vui vẻ nhường nhịn
anh chị em, không so đo tính toán hơn thiệt.
2. Một xã hội chân thật :
Từ sau Nguyên tổ loài người phạm tội, trong xã hội không sao tránh khỏi
những người gian dối. Ở đâu cũng có thể có sự gian dối : Ra chợ mua hàng thì sợ
mua quá đắt hay mua phải hàng giả; trên báo chí và ti-vi đăng tải hết vụ lừa này
đến vụ lừa nọ. Nhà cửa phải ra đóng vào khóa; ở trường thì quay bài, lộ đề, ngay
cả đến bằng cấp cũng có thể giả dối…
Một xã hội chân thật mới là một xã hội bình thường: mọi người có thể tin cậy
nhau, mọi người đều làm việc đầy tinh thần trách nhiệm, mọi người đều giữ đúng
lời hứa và yêu chuộng sự thật.
Được sống giữa một xã hội gồm những con người chân thật, ai cũng được
yên tâm thoải mái. Chúng ta ao ước một xã hội chân thật, vậy chúng ta hãy bắt
đầu từ chính mình. Để trở thành một người luôn đáng tin cậy, một người chân thật,
thì chúng ta hãy sống thật, hãy nói thật và làm việc bổn phận hằng ngày với tất cả
tinh thần trách nhiệm.
Là như’ng người trẻ , chúng ta hãy yêu mến sự thật, số những người chân
thật sẽ ngày càng đông. Và dần dần chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội chân
thật.
3. Một xã hội hướng thượng:
Hướng đến một xã hội chân thật và yêu thương, chính là ước mơ rằng trong
xã hội ấy, mọi người dám sống theo lương tâm, trọng nghĩa khinh tài. Đó là một xã
hội mà ai cũng coi trọng các giá trị tinh thần : công bình,bác ái, vô vụ lợi, thanh
liêm, chính trực, lòng hào hiệp…
Ngày nay, trong một xã hội khoa học kỹ thuật tiên tiến, người ta dễ rơi vào
óc hưởng thụ,tìm thỏa mãn các nhu cầu vật chất, và từ đó sinh ra tham lam, hối lộ,
gian dối…
Trong một xã hội như thế, sống theo lương tâm không dễ, vì dường như ai
sống theo lương tâm sẽ bị thua thiệt.
Chỉ có Thiên Chúa Tạo Hoá, Đấng vượt trên tất cả và có thể bù đắp tất cả
cho mọi người. Chính nhờ biết đến một Đấng như thế mà người ta thấy cần kính
trọng mọi sự (chân thật) và kính trọng mọi người (yêu thương).
Đành rằng không tin Thiên Chúa người ta vẫn có thể quyết tâm sống tốt,
nhưng ai tin thì sẽ dễ đứng vững hơn trong điều tốt, mỗi khi gặp cô đơn thử thách,
họ biết rằng có Đấng thấu suốt lòng họ.
Quanh chúng ta, nhiều người không cùng niềm tin nhưng cùng chung với
chúng ta một niềm khao khát xây dựng xã hội tốt đẹp. Chúng ta cần biết liên kết
chặt chẽ với họ. Phần chúng ta, là những người có Đức tin, vì đã tin rằng xã hội sẽ
tốt đẹp khi hướng về Thiên Chúa, chúng ta có trách nhiệm rao giảng cho mọi người
biết lời mời gọi của Ngài, giúp mọi người vươn lên theo tiếng gọi ấy.
*TÓM LẠI :
Do ơn gọi của mình, người Ki-tô hữu có bổn phận đi hàng đầu trong việc góp
phần xây dựng một xã hội công bằng và bác ái. Chúng ta hãy ý thức ơn gọi và
trách nhiệm của mình để xây dựng một xã hội tốt : một xã hội yêu thương, chân
thật và hướng thượng.
4. Các em học sinh thảo luận :
Để xây dựng một xã hội tốt đẹp, mỗi người chúng ta cần sống yêu thương và
phục vụ. Vậy chúng ta hãy xem,xét một vài vấn đề để hiểu rõ hơn chúng ta
cần làm gì để góp phần xây dựng xã hội.
*Câu hỏi thảo luận :
Muốn xây dựng một xã hội tốt cần đặt nền tảng trên điều gì? Tạisao?
Và bạn có thể làm được những gì để góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp
hơn nơi Giáo xứ, nơi trường học, nơi khu vực bạn đang ở ?
- Muốn xây dựng một xã hội tốt cần đặt nền tảng trên sự công bằng ,bác ái và
hướng thượng . Vì:
.Phải dựa trên công bằng mới có hoà bình lâu dài. Nguy cơ mất công bằng là
sự chênh lệch giàu, nghèo : một số ít người giàu ngày càng giàu, còn số
người nghèo vẫn cứ nghèo mãi và nghèo hơn.
.Phải yêu thương nhau thì mọi người trong xã hội mới mới hạnh phúc : đùm
bọc lẫn nhau, xây dựng bầu khí huynh đệ, gia đình.
.Phải hướng thượng nhắm đến các giá trị tinh thần thì xã hội mới ổn định.
-Để góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, em cần:
.Tham gia vào các sinh hoạt đoàn thể.
Sống yêu thương mọi người , chân thật và hứong thượng : dám sống theo
lương tâm, hy sinh vì ích chung…
.Biết quan tâm đến mọi người chung quanh, đến môi trường mình đang sống
để cùng với mọi người thiện chí xây dựng xã hội.
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA :
-Đây tôi xin trả tiền cho tôi và 6 chiếc xe kế tiếp.
Đó là tiếng một phụ nữ khi trả tiền gửi xe cho người gác cổng.
Sáu chiếc xe kế tiếp đi ra, người tài xế nào cũng sửng sốt :
-Ông không cần trả tiền nữa. Người đi trước đã trả thế cho ông rồi!
Tuy bỡ ngỡ, nhưng nét mặt người tài xế nào cũng không khỏi vui tươi. cử chỉ
tốt và âm thầm của người phụ nữ nọ có thể sẽ mời gọi họ cũng làm như vậy cho
bất cứ ai khác.
Người phụ nữ ấy tên là Giu-đich Phô-man. Một lần đến chơi nhà bạn,bà bất
ngờ đọc được những dòng chữ nhỏ dán trên cửa tủ lạnh : “Thỉnh thoảng bạn nên
làm một cử chỉ đẹp”. Những lời đơn sơ này đã làm Giu-đich Phô-man xúc động. Bà
lập đi lập lại đến thuộc lòng, và rồi sau đó, trong mỗi lá thư viết cho bạn bè hay
người thân, bà luôn ghi vào cuối mỗi lá thư câu nói trên : “Thỉnh thoảng bạn nên
làm một cử chỉ đẹp”. Và thỉnh thoảng, tùy theo hoàn cảnh, bà cũng tìm cách thực
hiện một vài cử chỉ đẹp như lần vừa kể trên.
Một cử chỉ đẹp, rồi nhiều cử chỉ đẹp sẽ góp phần thay đổi con người và xã
hội. Nhận một cử chỉ đẹp người khác làm cho mình một lần hay hai lần, thế nào rồi
cũng có lúc chính bạn sẽ nhập cuộc.
Đó cũng chính là cách sống làm chứng nhân cho Chúa, đó là làm muối, làm
men, làm ánh sáng cho đời. Người làm chứng trước hết là biết quan tâm đến mọi
người xung quanh, đến môi trường mình đang sống, để cùng với mọi người thiện chí
góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn,một xã hội thấm nhuần nền “văn minh
tình thương” bằng những việc tốt đẹp cụ thể như lời Chúa Giê-su dạy chúng ta sau
đây :
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 5,13-16
Thinh lặng giây lát
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ :
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã đến để cho nhân loại “được sống và được sống dồi
dào” (Ga 10,10). Và Chúa đã dạy chúng con hãy thành men, thành muối, thành
ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa giúp chúng con biết hy sinh , quên mình góp phần
xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, để mọi người nhìn thấy những công việc tốt đẹp
chúng con làm mà ca ngợi tình thương Chúa muôn đời. Chúng con cầu xin vì Chúa…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
Hát : Muối và ánh sáng (Quang Uy)
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ: Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Muốn xây dựng một xã hội tốt, cần đặt nền tảng trên :
a. Tri thức khoa học, bác ái và hy sinh
b. Công bằng,bác ái và hướng thượng.
c. Kỹ thuật, sức mạnh và tài năng.
d. Cả 3 câu đều đúng
(câu b)
2. Một xã hội hướng thượng là:
a. Mọi người dám sống theo lương tâm.
b. Coi trọng các giá trị tinh thần.
c. Kính trọng mọi sự (chân thật) và kính trọng con người (yêu thương)
d. Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn cho ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, Người đã cho chúng ta được sống trong
một xã hội, được làm con cái Chúa, và Ngài đã ban cho ta các ơn Chúa Thánh
Thần để ta sống ơn gọi của mình đối với Chúa và với mọi người.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Mỗi ngày tôi sẽ làm một việc yêu thương và phục vụ nho nhỏ nào đó cho gia
đình, cho bạn bè, cho những người tôi gặp gỡ hằng ngày.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con để giúp
chúng con sống yêu thương và phục vụ. Chúa cũng đã gieo vào lòng chúng con
những ước mơ tốt đẹp cho xã hội, xin Chúa giúp chúng con thực hiện những ước mơ
đó với tất cả tấm lòng yêu thương, chân thành và hy sinh quên mình của chúng
con. Amen.

Bài 30 :
CHÚA THÁNH THẦN LÀ THIÊN CHÚA CHA VÀ CHÚA CON
Ga 14, 15-17.25-26

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã thương quy tụ chúng con lại đây
để được học hỏi về Chúa. Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con.
Xin Ngài soi sáng , dạy dỗ giúp chúng con ngày càng hiểu biết Chúa hơn, để chúng
con yêu mến, gắn bó và đáp trả tình yêu Chúa mỗi ngày như ý Chúa muốn.
Hát : Cầu xin Chúa Thánh Thần…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA :
Chú bé bị mù từ bẩm sinh. Nhờ cuộc giải phẫu, mắt chú dần dần sáng ra.
Ngày nọ, mẹ chú dẫn chú ra đường và mở màn che, chú say sưa ngắm nhìn trời
đất. Chú kêu lên :
-Mẹ ơi, sao lâu nay mẹ không nói cho con hay đất trời đẹp thế !
Bà mẹ bật khóc nói :
-Con ạ, mẹ đã cố gắng nói cho con hay đấy chứ, nhưng lúc đó con làmsao
hiểu được.
Cũng vậy, Chúa Giê-su cũng đã nói cho chúng ta về mầu nhiệm Nước Trời,
nhưng nếu Thánh Linh không gỡ màn che, mở con mắt tâm linh cho ta, thì ta cũng
chẳng thấy sự hiện diện của Chúa.
Chúng ta cùng nghe đoạn Tin Mừng sau đây ghi lại những lời Chúa Giê-su
giới thiệu cho ta biết về Chúa Thánh Thần.
Mời các bạn đứng, chúng ta cùng lắng nghe :
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 14,15-17.25-26 Thinhlặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA:
1. Dẫn giải đoạn Kinh Thánh vừa công bố :
-Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Thánh Gio-an
-Thời gian viết : khoảng năm 80-90
Đoạn Tin Mừng này nằm trong trình thuật về Bữa Tiệc ly và mạc khải của Chúa
Giê-su cho các môn đồ.
Trong thời gian rao giảng, Chúa Giê-su đã gợi ý cho dân chúng biết về Chúa
Thánh Thần. Khi nói với dân chúng là những người thiện chí, Ngài đã nói xa xa về
Chúa Thánh Thần. Chỉ riêng với các môn đệ, Ngài mới nói rõ. Cách riêng trong Bữa
Tiệc ly, Chúa Giê-su mới tỏ cho các môn đệ biết Chúa Thánh Thần là một Đấng Bảo
Trợ khác (x, Bài 28), cùng một thế giá và quyền năng như Ngài.
Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa như Chúa Cha và Chúa Giê-su. Ngài là
Thiên Chúa Ngôi Ba. Ngài đến dẫn đưa chúng ta vào tất cả sự thật nghĩa là vào đời
sống hiểu biết Chúa hơn, yêu mến Chúa hơn và sống gắn bó với Chúa hơn.
Chúng ta cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này :
2. Các em học sinh thảo luận:
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
-Chúa Giê-su, Chúa Cha, các môn đệ, Đấng Bảo Trợ.
-Nhân vật chính : Đấng Bảo trợ
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 16
c. Đặt tựa đề ngắn : Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo trợ
3. Bài học giáo lý :
Trong Bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su hứa với các môn đệ sẽ xin Cha sai đến cho họ
một Đấng Bảo Trợ khác. Đấng này khác với Chúa Giê-su và do Chúa Cha sai đến.
Đó là Chúa Thánh Thần (SGLC 243).
Chúa Thánh Thần hằng ở với Chúa Cha và Chúa Con. Ngài hằng có mặt và cùng
làm việc với Chúa Cha và Chúa Con trong mọi công cuộc : tạo dựng, cứu chuộc
và thánh hoá.
3.1 Trong lịch sử :
Chúa Thánh Thần không có bộ mặt nhân loại như Chúa Cha và Chúa Con,
nhưng Ngài được so sánh như hơi thở, khí, gió và được tượng trưng bằng lửa, bằng
chim bồ câu. Hoạt động của Ngài tựa như nước, lửa, dầu…Vừa thiết yếu cho sự
sống, vừa có sức mạnh không gì chống lại được.
Chúa Thánh Thần đã có mặt bên Chúa Cha và Ngôi Lời ngay từ đầu lịch sử
cứu độ.
-Khi sáng tạo vũ trụ : “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống
rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thịên Chúa
bay lượn trên mặt nước” (St1,1-2).
-Khi tạo dựng con người : “ Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con
người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St2,7).
-Sau khi nhân loại sa ngã và được Thiên Chúa hứa ban ơn cứu độ, Chúa Thánh
Thần đã đi vào lịch sử nhân loại, để chuẩn bị một dân tộc đón nhận Đấng Cứu
thế đến.
-Trong cuộc Xuất hành, Thần Khí hiện diện nơi ông Mô-sê, Giô-suê và các bậc kỳ
lão để hướng dẫn họ đưa dân Ít-ra-en vào Đất Hứa (Ds11,17-29; 27,18; Đnl
34,9).
-Thời các Thủ lãnh, Thần khí Thiên Chúa hiện diện nơi các Thủ lãnh để giúp họ
thực hiện sứ mạng đối với dân Chúa. Chẳng hạn như ông Oùt-ni-ên (Tl3,10);
Ghít-ôn (Tl6,34); Sam-sôn (Tl14,19; 15,14), Sa-mu-en.
-Thời Các Vua, Thần Khí Thiên Chúa được ban xuống trên các vua, đặc biệt là Đa-
vít khi ông được xức dầu làm vua (1Sm 16,13)…
-Trong thời lưu đầy và những thời sau đó. Thánh Thần đã dùng các ngôn sứ, để
chuẩn bị tâm hồn dân Chúa chờ đón Đấng Cứu Thế.
-Qua miệng ngôn sứ I-sai-a, Thánh Thần cho thấy hình ảnh Đấng Mê-si-a sắp tới
sẽ là vị đầy tràn Thần Khí Thiên Chúa:
“Từ gốc tổ Giê-sê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một
mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này : Thần Khí khôn ngoan và
minh mẫn, Thần khí mưu lược và dũng mãnh, Thần khí hiểu biết và kính sợ
Đức Chúa” (Is 11,1-2)
Chính vì thế, khi khởi đầu công cuộc loan báo Tin Mừng, Chúa Giê-su đã cho thấy
đoạn ngôn sứ I-sai-a ở trên là chỉ về Ngài : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã
xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho ngừơi mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19)
-Tóm ý: Nhìn lại lịch sử, ta thấy :
. Ngay từ đầu Thánh Thần đã hành động trong công trình sáng tạo, Thánh Thần là
Đấng ban sự sống.
. Thánh Thần đã dùng miệng các ngôn sứ mà phán dạy : chính Thánh Thần
hướng dẫn các Tổ phụ, các Vua và các Ngôn sứ…Suốt thời Cựu Ước Ngài đã
chuẩn bị một dân chờ đón Đấng Cứu Thế.
.Khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong lòng Mẹ Ma-ri-a, khi Ngài rao
giảng, Tử nạn và Phục sinh…luôn luôn có Thánh Thần hiện diện.

3.2 Trong lời tuyên xưng của Hội Thánh:


Nhờ Chúa Thánh Thần mà ta có thể tuyên xưng Chúa Giê-su là Chúa và đến với
Chúa Cha như người con.Nhưng Chúa Thánh Thần lại là Đấng được bày tỏ sau cùng.
Qua Công đồng chung Con-tan-ti-nô-pô-li (381) và Khan-kê-đô-ni-a (451), Hội
thánh đã đúc kết Đức tin của mình về Chúa Thánh Thần như sau :
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống;
Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra; Người cùng được phụng
thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa con; Người đã dùng các tiên
tri mà phán dạy”.
Là Thiên Chúa, có nghĩa Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa như Chúa Cha và Chúa
Con. Tuy nhiên, chúng ta không tuyên xưng ba Thiên Chúa, mà tuyên xưng một
Thiên Chúa duy nhất. Đó là Thiên Chúa Tình yêu. Vì là Tinh yêu nên Thiên Chúa vừa
một vừa ba: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thánh Thần hay Thần Khí
Thánh có nghĩa là hơi thở tình yêu của Thiên Chúa. Giữa Tình yêu đang ban cho
( Chúa Cha) và Tình yêu đang đón nhận ( Chúa Con) ta thấy chính Tình yêu đang
có đó ( Chúa Thánh Thần), như ngọn gió mà ta không biết từ đâu thổi đến và lại
thổi đi đâu.
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra.
Ngài là Thiên Chúa thật, cùng uy quyền và vinh quang như Chúa Cha và Chúa Con
(Ga 14,16; Cv5,3-4; Mt 28,19; 1Cr 3,16).
Chính Chúa Cha và Chúa Con gửi Thánh Thần đến cho ta, nhờ đó ta biết được
Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra (Ga 14,16.26; 15,26; 16,13-
15)
Ta cần phải yêu mến và thờ phượng Chúa Thánh Thần như yêu mến và thờ
phượng Chúa Cha và Chúa Con, lại phải năng cầu nguyện với Ngài và nghe theo ơn
Ngài soi sáng (Ep 4,30; 1Tx 5,19; Gl 5,16).
-Tóm ý: Hội Thánh tuyên xưng niềm tin của mình về Chúa Thánh Thần như sau :
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống; Người
bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra; Người cùng được phụng thờ và tôn vinh
với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con; Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”.
3.3 Trong lòng tôi:
“Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt Thần Khí mới vào lòng các
ngươi. Chính Thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi. Ta sẽ làm cho các ngươi
đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành (Ed 36,26-
27).
Những lời trên là của ngôn sứ Ê-dê-ki-en vào thế kỷ 6 truớc công nguyên.
Lời hứa đó đã được thực hiện sau khi Chúa Giê-su sống lại và lên trời. Trong
ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã được Chúa Cha và Chúa Giê-su cử đến :
“Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác,
tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv2,4). Chúa Thánh Thần được ban xuống
không chỉ trên các Tông đồ, mà trên mọi tín hữu trong đócó chúng ta (Cv 4,31).
Qua bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đã lãnh nhận tràn đầy Chúa Thánh
Thần. Chúa Thánh Thần hằng hiện diện trong ta:
-Ngài dạy ta cầu nguyện, giúp ta đến với Thiên Chúa và thưa với Ngài: “Aùp-ba,
Cha ơi!” (Gl 4,6; Rm 8,15) (SGLC 741)
-Ngài giúp ta hiểu biết Lời Chúa và đem ra thực hành. Toàn bộ Kinh Thánh được
viết ra dưới sự soi sáng và hướng dẫn (linh hứng) của Chúa Thánh Thần. Chúa
Thánh Thần là tác giả và là Đấng giải nghĩa Kinh Thánh. Thánh Kinh đã được
viết trong Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa
Thánh Thần (SGLC 105-114).
-Ngài giúp ta sống gắn bó với Chúa Ki-tô và ngày càng nên giống Chúa Ki-tô hơn
không chỉ qua Lời Chúa mà còn qua Phụng vụ của Hội thánh : nơi các Bí tích,
Ngài làm cho ta được hiệp thông với Chúa Ki-tô. (SGLC 737).
-Ngài dạy chúng ta sống yêu thương, giúp chúng ta trổ sinh hoa quả của Thần
khí là: bác ái, hoan lạc , bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền
hoà, tiết độ (Gl 5,22-23)
-Tóm ý : Chúa Thánh Thần chính là vị Thượng khách của lòng ta. Ngài luôn ở với
ta. Ta hãy làm đẹp lòng Chúa Thánh Thần bằng cách luôn nhớ đến Ngài và xin Ngài
ban ơn soi sáng hướng dẫn ta. Ta cần quảng đại lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa
Thánh Thần từ trong những gợi ý rất nhỏ của Ngài để trở nên người của Thánh
Thần.
*TÓM Ý TOÀN BÀI :
Chúa Giê-su dạy ta biết Chúa Thánh Thần là một Đấng Bảo trợ như Ngài, và cùng
làm những việc của Chúa Cha và Chúa Con như sáng tạo, ban sự sống, mặc khải và
thánh hoá. Như thế, Chúa Thánh Thần cũng là thiên Chúa như ngang hàng với Chúa
Cha và Chúa Con.
Chúa Thánh Thần thường được gọi là Thần Khí của Thiên Chúa, là Thần khí của sự
thật, là Đấng An ủi và là Đấng ban sự sống. (Ga 14,15-26; 15,26)
Ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Ngài soi
sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là Đền thờ của Ngài.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, sau khi về Trời Chúa đã không bỏ chúng con mồ côi,
nhưng đã xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến dạy dỗ chúng con. Xin đổ đầy
linh hồn chúng con Thần khí của Chúa, xin giúp chúng con trao dâng chính mình
cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt, để chúng con rao truyền Chúa không chỉ bằng lời
nói nhưng bằng sức mạnh của Tình yêu Chúa, hầu những ơn Chúa Thánh Thần
luôn sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống chúng con.
Chúng con cầu xin vì Chúa…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
Hát: Lạy Chúa Thánh Thần ( Trầm Hương)
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ
1. Qua Công đồng chung Con-tan-ti-nô-pô-li (381) và Khan-kê-đô-ni-a (451),
Hội Thánh đã đúc kết đức tin của mình về Chúa Thánh Thần như thế nào ?
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự
sống; Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra; Người cùng được
phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con; Người đã dùng
các tiên tri mà phán dạy”.
Hoặc câu hỏi thảo luận :
Em hãy chọn câu đúng nhất :
2. Chúa Thánh Thần hằng hiện diện trong chúng ta để :
a.Dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha.
b.Giúp ta hiểu biết ý Chúa vàđem ra thực hành.
c. Giúp ta sống gắn bó với Chúa qua Lời Chúa và qua Phụng vụ của hội
Thánh.
d.Dạy ta sống yêu thương, giúp chúng ta trổ sinh hoa quả của Thánh Thần
là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung
tín,hiền hoà, tiết độ (Gl5,22-23)
e.Cả 4 câu đều đúng
(câu e)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn cho ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Chúa Thánh Thần là Thần khí sự thật, là hơi thở sự sống và tình yêu Thiên Chúa
ban cho chúng ta để chúng ta sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Tránh không làm điều gì buồn lòng Thánh Thần, luôn nhớ đến Ngài và xin Ngài
ban ơn soi sáng trước và sau mỗi công việc, trước khi đi ngủ,khi vừa thức dậy.
Quảng đại đáp lại những gợi ý của Chúa Thánh Thần.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng con giờ học giáo lý
hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện điều chúng con đã quyết tâm, để cuộc
sống chúng con ngày càng thánh thiện, xứng đáng là Ngôi đền của Chúa Thánh
Thần. Amen.
Bài 31 :
CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA MÀ THÔI LÀ
CHÚA CHA, CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN
Mt 28,16-20

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa Giê-su, chúng con dâng lên Chúa bài học cuối cùng trong chương
trình giáo lý của chúng con năm nay. Xin Chúa giúp chúng con hiểu sâu hơn Mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, để chúng con sống Mầu nhiệm này như điểm đến của
đời sống Đức tin.
Lạy Chúa Cha toàn năng, xin Cha ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng
con, giúp chúng con học giờ giáo lý này thật tốt trong tình yêu thương của Ba Ngôi
Thiên Chúa.
Hát : Xin Ngôi Ba Thiên Chúa…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA:
Ngày 16.6.1862 tại pháp trường Nam Định, 5 vị thánh giáo dân hy sinh vì
Chúa : 3 nông dân là các ông An-rê Tường (1812-1862), Đa-minh Mạo (1818-
1862), Đa-minh Nhi (1822-1862), một vị chánh tổng là ông Vinh-sơn tương (1814-
1862), và một vị chánh trương là ông Đa-minh Nguyên (1800-1862). Cả 5 đều là
những tín hữu tốt lành, khá giả, được dân làng rất kính nể và tôn trọng.
Bị bắt ngày 14.9.1861, các ông bị giam tại làng Bạch Cốc, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định. Bảy tháng rưỡi bị giam cầm, cổ mang gông, chân tay xiềng xích, bị
đánh đòn nhiều lần dã man, nhưng năm vị anh hùng vẫn kiên trung với đạo thánh
Chúa. Theo chiếu chỉ Phân sáp do vua Tự Đức ban hành ngày 5.8.1861, quân lính
dùng dùi sắt nung đỏ khắc chữ trên mặt các chứng nhân của Chúa, một bên má là
chữ “Tả Đạo”, bên kia là tên làng xã. Nói sao cho xiết nỗi tủi nhục đau đớn của các
ông. Nhưng tất cả các ông nhẫn nại chịu đựng, miễn tấm lòng vẫn trung thành với
Đức Tin chân chính và tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tại pháp trường, các ông Tương, Tường, Mạo và Nguyên đã tỏ ra can đảm phi
thường : các ông yêu cầu lý hình thay vì chỉ chém một nhát, thì xin chém ba nhát
để các ông được tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Đó là cách đáp trả tình yêu chúa và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba
Ngôi của các thánh tử đạo Việt Nam chúng ta.
Là con cháu các Ngài, chúng ta cũng muốn noi gương các Ngài : sống chứng
nhân cho Chúa, đáp trả tình yêu Chúa qua việc thể hiện ý Chúa trong đời sống
chúng ta.
Chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, và tìm hiểu ý Chúa để thực thi
ý Ngài. Mời các em đứng :
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 28, 16-20
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA:
1.Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố :
-Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe của ai? - Thánh Mat-thêu.
-Thời gian viết : khoảng năm 80.
Đoạn Tin Mừng này nằm trong trình thuật Sống lại của Tin Mừng Mat-thêu. Trình
thuật Chúa Sống lại, hiện ra này cũng kết thúc cả Tin Mừng Mat-thêu . Bởi đó, ta
thấy đề cập đến những chủ đề cốt thiết của Mat-thêu :Chúa Ki-tô (Quyền của Ngài,
Đấng đã được tôn dương là quyền của con người nói trong Đn 7,14…). Hội Thánh
của Ngài ( biểu hiện nơi các môn đồ), tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà Rửa tội cho thiên hạ.
Và Chúa hứa sẽ hiện diện với các môn đệ của Ngài, đây là một lời hứa luôn luôn
cứu giúp một cách quyền năng.
Vói sự chết và sống lại, thời cánh chung đã đến. Thiên Chúa không chỉ còn thi thố
quyền năng cứu thoát của Người trong dân It-ra-en, nhưng Người đã đoái thương
chiếu cố đến cả nhân loại.
Chúng ta cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này :
2.Các em học sinh thảo luận:
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói đến những nhân vật nào?
-Mười một môn đệ, Đức Giê-su, muôn dân, Chúa Cha, Chúa Con,
Chúa Thánh Thần.
-Nhân vật chính : Chúa Giê-su.
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 19
c. Đặt tựa đề ngắn : Chúa Giê-su sai các môn đệ.
3.Bài học giáo lý :
-Khi ban bí tích rửa tội, linh mục ( hay người Rửa tội) làm thế nào ?
Đổ nước trên đầu người chịu phép Rửa tội và nói: Cha (Tôi) rửa con
(Oâng, bà, anh, chị ...) nhân
danh Chúa Cha , Chúa Con và
Chúa Thánh Thần.
-Mỗi khi bắt đầu một việc gì, người Ki-tô hữu chúng ta thường làm dấu Thánh
giá và sau khi kết thúc một việc gì, chúng ta dâng lời tạ ơn bằng kinh Sáng danh.
Tất cả những lời kinh trên đều nhằm tuyên xưng Mầu nhiệm trọng tâm và
căn bản nhất của Đức tin và đời sống Ki-tô hữu. Đó là Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi, nói cách khác, Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Trong Kinh Thánh, chúng thấy không có kiểu nói : “Một Chúa Ba Ngôi”. Người
đầu tiên tìm ra kiểu nói này là thánh giám mục Thê-ô-phi-lô ở An-ti-ô-khi-a vào
khoảng năm 180. Kiểu nói ấy được cả hội thánh nhanh chóng đón nhận, vì nó cô
đọng, giúp các ki-tô hữu hiểu được Mầu nhiệm Thiên Chúa mạc khải trong Kinh
Thánh : Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng không phải là sự duy nhất đơn độc
mà là sự duy nhất của Tình yêu giữa Ba Ngôi : Cha, Con và Thánh Thần.
3.1 Kinh Thánh nói gì?
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã tỏ cho ta biết Ngài là ai :
-Ngài là Thiên Chúa duy nhất: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5). Ngoài Ngài ra không co Thiên
Chúa nào khác, chỉ có mình Ngài là Đấng hằng có đời đời.
-Thiên Chúa duy nhất ấy là Đấng hằng sống, toàn năng, vô cùng thánh thiện, chân
thật và công minh, hằng yêu thương chăm sóc ta luôn.
.Thiên Chúa toàn năng, sáng tạo mọi loài, làm chủ lịch sử:
“ Thiên Chúa chúng ta ở trên Trời
Muốn làm gì là Chúa làm nên” (Tv 115,3; 135,6)
.Thiên Chúa thánh thiện : “Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở
giữa ngươi, ta là Đấng Thánh” (Hs 11,9).
.Thiên Chúa chân thật và công minh:
“Căn nguyên lời Ngài là chân lý,
Mọi quyết định công minh của Ngài tồn tại muôn năm” (Tv 119,160).
.Thiên Chúa là tình thương : “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã cưu mang? Cho dù nó có quên đi
nữa, thì ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ. Hãy xem, Ta đã ghi
khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49,15-16 và Is 54,10).
Sang Tân Ước, Chúa Giê-su là Con Một Thiên Chúa đã làm người để tỏ cho ta
biết thêm những điều thâm sâu nơi Thiên Chúa. Rằng Thiên Chúa duy nhất nhưng
không đơn độc, vì Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu không phải chỉ vì
Thiên Chúa yêu thương ta vô cùng nhưng chính vì bản thân Thiên Chúa mãi mãi là
Ba Ngôi yêu thương nhau thắm thiết : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
(Ga 14,1-26).
Trước hết, Chúa Giê-su nói với chúng ta về Thiên Chúa như Cha của Ngài, rồi
Ngài tự xưng mình là Con : Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, Ngài
kết hợp làm một với Chúa Cha: “Tôi và Cha tôi là một” (Ga 10,30). “Cha tôi đã giao
phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như kho6ng
ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ người con muốn mặc khải cho” (Mt 11,27).
Sau đó, Chúa Giê-su còn nói với chúng ta về Chúa Thánh Thần như Đấng Bảo
trợ khác cũng giống như Ngài, đó là Thiên Chúa ngôi thứ ba, luôn luôn hiện diện
giữa các Tông đồ và Hội Thánh (Ga 14,16; 15,26)
Cuối cùng, trước khi về trời, Chúa Giê-su hãy đi Rửa tội cho muôn dân nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28,19)
Tương quan giữa Ba Ngôi như thế nào?
-Ba Ngôi phân biệt với nhau: Ngôi này không phải là Ngôi kia. Từ muôn
thuở, Chúa Cha sinh ra Chúa Con và cũng từ muôn thuở, Chúa Thánh Thần
bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Tuy nhiên Ba Ngôi không không phải là
ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, vì tất cả nơi mỗi
Ngôi là tất cả nơi hai Ngôi kia và Ba Ngôi luôn kết hợp khăng khít nên một
với nhau không thể phân ly.
-Ba Ngôi hiệp nhất với nhau: Ba Ngôi cùng một lòng, một ý, một quyền
năng, một hành động cứu độ. Ba Ngôi yêu thương nhau tha thiết, gắn bó
đến độ Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất mà thôi. (Ga 14,10-11; 1Cr
12,4-6; 2Cr13,13)
Ba Ngôi hiệp nhất với nhau nhưng vẫn là ba, vì Ba Ngôi rất kính trọng nhau
nên không Ngôi nào bị biến mất hoặc bị mờ nhạt đi, nhưng mỗi Ngôi đều
nhờ hai Ngôi kia mà thêm nổi rõ tính độc đáo của mình trong sự hài hoà
với cả ba (Ga 15,26; 16,13-15)
Đây là một mầu nhiệm vượt quá mọi trí hiểu con người, nay Thiên Chúa tỏ cho
ta biết để dẫn ta vào kết hợp nên một với Ba Ngôi Thiên Chúa : Chính qua bí tích
Rửa tội nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, ngay từ bây giờ ta
được mời gọi để là nơi cư ngụ của Ba Ngôi chí thánh : “Ai yêu mến Ta thì sẽ giữ lời
Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người ấy. Và Chúng ta sẽ đến đặt chỗ ở nơi người ấy” (Ga
14,23-26)
-Tóm ý: Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng không phải là sự duy nhất đơn
độc mà là sự duy nhất của Tình yêu giữa Ba Ngôi : Cha, Con và Thánh Thần.
3.2 Hội Thánh tuyên xưng :
Ngay từ thuở ban đầu, Hội thánh đã tuyên xưng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi qua những cách nói mà hằng ngày chúng ta vẫn sử dụng trong Phụng vụ.
Chẳng hạn, lời chào chúc khởi đầu Thánh Lễ : “Nguyện xin Ân sủng Đức Giê-su Ki-
tô, Chúa chúng ta, Tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở
cùng tất cả anh chị em (x.2 Cr13,13; x.Ep 4,4-6)
Trong lịch sử, đã có một số Ki-tô hữu cắt nghĩa sai lạc về Chúa Ki-tô và từ đó
cũng kéo theo cái nhìn không đúng về Ba Ngôi Thiên Chúa. Hội thánh toàn cầu đã
nhóm họp nhiều công đồng để xác định rõ Đức tin của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi
như sau :
“Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất, chân thật, toàn năng, bất biến và đời
đời, là Cha, Con và Thánh Thần, duy nhất nơi bản tính, phân biệt làm ba
nơi ngôi vị : Ngôi Cha là Đấng sinh hạ, Ngôi Con được Ngôi Cha sinh ra và
Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra”.
Để giúp ta hiểu đôi phần về sự duy nhất và phong phú của Thiên Chúa, Kinh
Thánh dùng cách nói : “Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4,8). Trong tình yêu, phải có
ít nhất là hai ngôi vị phân biệt với nhau mới có thể gọi là yêu nhau. Khi yêu nhau,
một đàng người ta ao ước gắn bó với nhau nên một, và đàng khác, bản sắc riêng
của mỗi ngôi vị lại nhờ tình yêu mà được nổi bật lên chứ không bị hoà tan biến mất
trong một ngôi vị khác. Tình yêu đưa đến hiệp nhất rồi lại mở rộng ra làm phát sinh
sự sống lan tràn.
Từ đời đời Chúa Cha đã sinh Chúa Con cách mầu nhiệm, nên ta nói Chúa Con
nhiệm sinh bởi Chúa Cha. Từ đời đời Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau vô
cùng, làm phát xuất Chúa Thánh Thần, nên ta nói : Chúa Thánh Thần nhiệm xuất
bởi Ngôi Nhất và Ngôi Hai (SGLC 249-256)
-Tóm ý : Khi tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quả quyết hai điều
này:
. Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba Ngôi vị phân biệt nhau. Chúa
Cha không phải là Chúa Con, Chúa Con không phải là Chúa Thánh Thần và Chúa
Thánh Thần không phải là Chúa Cha.
.Thế nhưng, Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần chỉ là một Thiên Chúa
mà thôi (2Cr 13,13).
3.3 Sống trong Thiên Chúa Ba Ngôi:
Chúa Giê-su tỏ cho ta biết những điều kín nhiệm thâm sâu nơi Thiên Chúa để
làm gì? Để mời gọi ta bước vào tình yêu với Ba Ngôi Thiên Chúa. Cùng đích kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa là đưa tất cả chúng ta vào sự kết hợp với Ba Ngôi
diễm phúc : “Để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ
cũng ở trong Chúng ta” (Ga 17,21-23).
Chúng ta được mời gọi kết hợp với Ba Ngôi chí thánh trước hết qua đời sống
cầu nguyện, vì cầu nguyện chính là gặp gỡ Thiên Chúa.
Trước đây, có lúc chúng ta đã cầu nguyện với Chúa Cha, có lúc cầu nguyện với
Chúa Giê-su, và có lúc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Giờ đây, chúng ta hãy
hướng lòng kết hợp với cả Ba Ngôi cùng một lúc. Chúng ta có thể hoà tâm tình với
Chúa Con và xin ơn Chúa thánh Thần tác động để thưa chuyện với Chúa Cha.
Chúng ta cũng có thể hướng tới Ba Ngôi và nhớ lại mỗi Ngôi đang làm gì cho mình:
Chúa Cha đang sáng tạo nên ta từng giây phút, Chúa Con đã cứu chuộc ta và đang
là thủ lãnh của ta, Chúa Thánh Thần đang thánh hoá ta.
Đặc biệt, chúng ta có thể cầu nguyện với cả Ba Ngôi Thiên Chúa bằng dấu
Thánh giá và Kinh Sáng Danh :
+ Với dấu Thánh giá, chúng ta làm mọi sự “nhân danh” Thiên Chúa Ba Ngôi,
tức là ta sống trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
+ Với Kinh Sáng danh, chúng ta quy hướng mọi sự lên Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sống theo kinh Sáng danh có nghĩa là từ trong những điều rất nhỏ, dù là
ăn uống, thở, suy nghĩ, nói, thinh lặng hoặc làm bất cứ việc gì, chúng ta
đều làm tất cả cho Vinh Danh Thiên Chúa(1Cr 10,31; Cl 3,16-17).
-Tóm ý : Chúng ta được mời gọi trở nên nơi cư ngụ của Ba Ngôi chí thánh qua việc
tuân giữ lời Chúa Giê-su: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu
mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (Ga 14,23)

*TÓM Ý TOÀN BÀI :


Trong CưÏu Ước, Thiên Chúa đã tỏ cho ta biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, ngoài
Ngài ra không còn Thiên Chúa nào khác.
Sang Tân Ước, Chúa Giê-su đã dạy cho ta biết Thiên Chúa duy nhất ấy là Ba
Ngôi : Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ hai là Con, Ngôi thứ ba là Thánh Thần.
Thiên Chúa tỏ cho ta biết mầu nhiệm Ba Ngôi để mời gọi ta đến dự phần vào sự
sống của Ba Ngôi, và xây dựng Hội Thánh thành nhân loại mới đầy yêu thương như
Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nhau.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ :
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha đã sai Con Một là Lời Chân Lý và sai Thánh
Thần, Đấng thánh hoá muôn loài đến trần gian mặc khải cho chúng con mầu
nhiệm cao vời của Chúa. Xin cho chúng con hằng tuyên xưng Đức tin chân thật là
nhận biết, và tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi uy quyền vinh hiển. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ : Hát : Chỉ một Thiên Chúa
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ: Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Mầu nhiệm trọng tâm và căn bản nhất của Đức tin và đời sống Ki-tô hữu đó
là:
a.Mầu nhiệm Nhập thể.
b.Mầu nhiệm Phục sinh.
c.Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (câu c )
2. Tuyên xưng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là ta quả quyết :
a. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba ngôi vị phân biệtnhau.
b. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chỉ là một Thiên Chúa.
c. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đã có từ đời đời.
d. Cả 3 câu đều đúng. (câu d)
3. Dấu Thánh giá là :
a. Cử chỉ thông dụng nhất để tuyên xưng đức tin Ki-tô giáo.
b. Nói lên niềm tin vào công cuộc cứu độ nhân loại mà Đức Ki-tô đã
thực hiện khi chết trên thánh giá.
c. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
d. Cả 3 câu đều đúng. (câu d)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người?
Chúa Giê-su đã tỏ cho ta biết những điều kín nhiệm, thâm sâu nơi Thiên Chúa,
để mời gọi ta bước vào tình yêu với Ba Ngôi ThiênChúa. Cùng đích kế hoạch
cứu độ của Thiên Chúa là đưa tất cả chúng ta vào sự kết hợp với Ba Ngôi diễm
phúc : “Để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ
cũng ở trong Chúng ta” (Ga 17,21-23).
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Thực hành lời thánh Phao-lô : “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm
hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do
Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm, hãy nói nhân danh
Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” (Cl 3,16-17)
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương dẫn dắt
chúng con theo Chúa Giê-su và mặc khải cho chúng con biết : vì yêu thương
nhân loại, Chúa Giê-su đã nhập thể, giáng trần làm người, đã chịu chết và Phục
sinh để cứu độ chúng con. Chúa còn ban Chúa Thánh Thần để ngài ở với chúng
con mọi ngày cho đến tận thế. Hơn nữa, Chúa còn dẫn chúng con vào mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi , để mời gọi chúng con đến dự phần vào sự sống của Ba Ngôi
và xây dựngHội thánh thành nhân loại mới đầy yêu thương như Ba Ngôi Thiên
Chúa yêu thương nhau.
Xin Ba Ngôi Thiên Chúa ban cho chúng con lòng khao khát yêu mến Chúa,
giúp chúng con luôn siêng năng học hỏi, đào sâu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa
Ba Ngôi để đời sống chúng con ngày càng yêu mến, gắn bó và đáp trả tình yêu
Chúa mỗi ngày như ý Chúa muốn. Amen.
Hát : Tâm tình tri ân.

You might also like