Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh I

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 95

BÀI 1 :

THIÊN CHÚA NÓI VỚI TA

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa hôm nay chúng con bước vào giờ học đầu tiên của chương trình Kinh
Thánh. Là chương trình nói về tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người chúng
con. Xin Chúa thương ban Thánh Thần của Chúa cho chúng con để nhờ ơn khôn ngoan
soi sáng của Thánh Thần, chúng con có thể nhận ra được tiếng nói yêu thương của
Chúa và mạnh dạn để cho tình yêu Chúa dẫn dắt cuộc đời chúng con.
(Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi).
Viết tựa đề bài học : THIÊN CHÚA NÓI VỚI TA
Lời Chúa : 1Sm 3,1-10.19
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Tháng 12 năm 1968, ba phi hành gia của Mỹ là Andres, Lowell và Borman lần đầu
tiên bay quanh mặt trăng. Cả thế giới hồi hộp theo dõi họ qua màn ảnh nhỏ. Bỗng người
ta nghe thấy ba nhà phi hành vũ trụ trên con tàu Apollo đọc lớn tiếng trang đầu của Kinh
Thánh : “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất... Thiên Chúa phán : “Hãy có ánh
sáng và ánh sáng liền có”... Thiên Chúa phán : “Hãy có tinh tú (lớn) trên bầu trời để
phân biệt ngày đêm và soi sáng mặt đất”... Thiên Chúa tạo dựng hai vì tinh tú lớn, Vì
lớn hơn Chúa chỉ ban ngày, Vì nhỏ hơn Chúa chỉ ban đêm... ” (St 1,1-31).
Thế rồi Borman, một trong ba phi hành gia, cất lời cầu nguyện : “Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con khả năng nhận biết tình yêu của Chúa trong thế giới. Xin ban
cho chúng con đức tin, đức cậy và lòng nhân ái dù rằng chúng con rất yếu đuối. Xin
cho chúng con sự hiểu biết để chúng con tiếp tục cầu nguyện... ”.
Thiên Chúa đã nói, Ngài đang nói và sẽ vẫn nói với con người về tình yêu của
Ngài, Ngài không chỉ nói trong Kinh Thánh, nơi lương tâm và cuộc sống của chúng
ta, nhưng còn cả trong thiên nhiên nữa. Như ba nhà du hành vũ trụ, mỗi người chúng
ta đều có thể nhìn vào thiên nhiên mà nhận ra tiếng của Thiên Chúa đang nói với
chúng ta.
Mời các em cùng đứng lên nghe Lời Chúa, hy vọng mỗi người trong chúng ta
cũng như Samuel nghe thấy tiếng Chúa đang gọi mình.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
1Sm 3,1-10.19
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Dẫn giải Lời Chúa :
- Các em vừa nghe sách gì ? (Samuen quyển thứ nhất)
- Đoạn sách này kể câu chuyện gì ? (Chúa gọi Samuen)
Chắc chắn là Samuen vô cùng ngạc nhiên và bỡ ngỡ. Điều này cho thấy Thiên
Chúa là đấng siêu việt, vượt xa tâm hiểu biết của con người, vì thế để cho con người
phần nào hiểu về mình Thiên Chúa đã lên tiếng. Ngài đã lên tiếng với con người từ
ngàn xưa qua các tổ phụ, các tiên tri... Ngài cũng đã lên tiếng với tất cả mọi người
qua mọi thời đại. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cùng tìm hiểu đoạn sách Samuen mà các
em vừa nghe công bố.
Học sinh thảo luận : (GLV nêu câu hỏi gợi ý, học sinh phát biểu và GLV ghi
lại trên bảng để dễ đúc kết)
1/ Có mấy nhân vật :
- Có ba : Thiên Chúa – Thầy Hêli – Samuen.
2/ Nhân vật chính : Thiên Chúa.
3/ Từ ngữ chính :
“Thiên Chúa đã gọi” (câu 4).
“Thiên Chúa lại gọi” (câu 6).
4/ Câu tóm ý : “Lạy Thiên Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”
(câu 10).
5/ Tựa đề : “Thiên Chúa gọi Samuen”.
Giáo lý viên đúc kết.
(Giáo lý viên tổng kết lại những điều học sinh vừa phát biểu)
Chúng ta đã thấy Thiên Chúa kêu gọi Samuen như thế nào, bây giờ chúng ta
tiếp tục tìm hiểu kỹ hơn về đề tài Thiên Chúa nói với con người trong phần sau đây.
A. THIÊN CHÚA ĐÃ NÓI.
HƯỚNG DẪN :
Rất nhiều người nghĩ rằng : Thiên Chúa chẳng bao giờ lên tiếng cả, vì khi họ cầu
nguyện cũng không thấy Thiên Chúa nói với họ, khi họ buồn hay vui cũng không nghe
thấy Thiên Chúa chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn của họ. Thế nhưng, thực sự Thiên Chúa
đã lên tiếng, Ngài đã phán bảo với nhiều tổ phụ của dân Israel, với các tiên tri trong
Cựu Ước. Ngày nay Thiên Chúa vẫn lên tiếng với chúng ta, qua các vị chủ chăn trong
Hội Thánh như các Giám Mục, Linh Mục... qua tiếng nói lương tâm của mỗi người.
HS GHI :
Thiên Chúa nói với tất cả mọi người không trừ ai. Khi lắng nghe lời nhắn gửi
của vạn vật và tiếng nói của lương tâm, trí khôn tự nhiên của con người có thể nhận
ra chắc chắn có Thiên Chúa.
B. THIÊN CHÚA NÓI BẰNG VIỆC LÀM.
HƯỚNG DẪN :
Khi nhìn vào sự vĩ đại của vũ trụ, của trái đất con người cũng có thể nhận ra
được tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi nhu cầu của con người đã được
Thiên Chúa sắp sẵn cho ngay bên mình. (GLV đưa ra dẫn chứng cụ thể: ăn, uống, hít
thở… ).
HS GHI :
Để dạy loài người nhận ra tình yêu của Ngài, Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu
bằng hành động (tạo dựng vạn vật vũ trụ – dựng nên con người trao cho toàn quyền
sử dụng).
C. THIÊN CHÚA NÓI BẰNG LỜI.
HƯỚNG DẪN :
Cha mẹ yêu thương con bằng cả cuộc sống hy sinh trong âm thầm. Nhưng
nhiều khi cha mẹ buộc phải nói ra tình thương, về những sự vất vả đã chịu đựng vì
con cái. Nếu không nói ra, con cái không thể hiểu hết được tấm lòng cha mẹ.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài đã nói với con người bằng chính ngôn ngữ của con
người, để mời gọi con người từ bỏ tội lỗi, trở về sống thân tình với Ngài.
HS GHI :
Qua tiên tri Isaia Thiên Chúa muốn khẳng định rằng Ngài yêu thương ta hơn
cha mẹ: “Dù có người mẹ nào quên con mình đi nữa, Ta vẫn không bao giờ quên con”
(Is 49,15).
D. THIÊN CHÚA NÓI TẤT CẢ NƠI ĐỨC GIÊSU KITÔ.
HƯỚNG DẪN :
Như thư Do Thái viết : “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách Thiên Chúa đã phán
dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ : nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã
phán dạy chúng ta nơi Người Con” (Dt 1,1-2).
Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói hết những gì cần thiết cho Ơn Cứu Độ của con
người. Hội Thánh có nhiệm vụ gìn giữ kho tàng mặc khải đó và trung thành chuyển
lại cho chúng ta. Qua Hội Thánh, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta hôm nay,
trong hoàn cảnh này.
HS GHI :
Đức Giêsu Kitô là đỉnh cao nhất của mặc khải. Ngài là lời nói cuối cùng và trọn
vẹn của Chúa Cha nói với loài người (SGLGG 65-67). Muốn nghe được lời Thiên Chúa
phải đến với Đức Giêsu Kitô.
V- CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói : “Không ai đến được với Cha mà không qua
Thầy”. Chúng con tin Chúa là đường dẫn chúng con đến được với Chúa Cha. Xin dạy
bảo chúng con về Thánh ý của Chúa Cha, vì Chúa là Ngôi lời hằng sống của Cha. Xin
Chúa là ánh sáng soi chiếu đời sống chúng con, để như Samuel chúng con có thể
nhận ra tiếng Chúa gọi trong từng giây, từng phút, và mau mắn đáp lại. Chúng con
cầu xin Chúa là Đấng hằng sống, hằng trị muôn đời. Amen.
VI- SINH HOẠT.
Tập hát : Lắng nghe Lời Chúa (“Xin cho con biết lắng nghe…”)
VII- BÀI TẬP.
1/ Thiên Chúa nói với :
a. Chỉ một mình Samuel.
b. Người đạo đức thánh thiện.
c. Tất cả mọi người.
2/ Lời nói của Thiên Chúa được thể hiện qua :
a. Việc tạo dựng vũ trụ.
b. Các tiên tri thời Cựu Ước.
c. Đức Giêsu Kitô.
d. Cả a, b, c đều đúng.
VIII- SỐNG LỜI CHÚA:
Bài học hôm nay cho ta thấy :
Vì yêu thương Thiên Chúa đã tỏ mình cho nhân loại trong Kinh Thánh, trong thiên
nhiên, trong đời sống của mỗi người chúng ta.
* Quyết tâm : Theo học lớp Kinh Thánh này một cách siêng năng và nghiêm túc.
IX- CẦU NGUYỆN KẾT THÚC :
Lạy Chúa một giờ học đã qua đi, chúng con xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con
được lắng nghe Lời Chúa.
Xin giúp chúng con siêng năng và nghiêm túc theo học lớp giáo lý Kinh Thánh
này.
Để nhờ học hỏi, Lời Chúa sẽ thấm nhuần trong tâm hồn chúng con và thánh
hóa tâm hồn chúng con, giúp chúng con trở nên người con ngoan của Chúa, biết làm
vinh danh Chúa trong đời sống chúng con.
(Đọc kinh sáng danh).

BÀI 2 :
KINH THÁNH,
SÁCH GHI LẠI LỊCH SỬ CỨU ĐỘ

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, chúng con dâng lên Chúa giờ học giáo lý này. Xin Chúa thương ban
ơn thánh hoá, ban ơn soi sáng, giúp chúng con hiểu Lời Chúa và biết áp dụng vào
cuộc sống của chúng con.
(Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi).
1/ Ôn bài cũ và kiểm tra việc thực hiện điều quyết tâm :
+ Ôn bài cũ
a. Thiên Chúa có nói không ? Nếu có Thiên Chúa nói với ai ?
- Thiên Chúa có nói, Ngài nói với tất cả mọi người chúng ta không trừ một ai.
b. Ai, hay điều gì là lời duy nhất, hoàn hảo và trọn vẹn của Chúa Cha ?
- Đức Giêsu Kitô.
+ Kiểm tra quyết tâm (Nhắc nhở : học giáo lý siêng năng và nghiêm túc.)
2/ Viết tựa đề bài học:
Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục bài mới, các em hãy viết tựa đề bài học hôm nay:
KINH THÁNH, SÁCH GHI LẠI LỊCH SỬ CỨU ĐỘ.
Lời Chúa : Ga 20,30-31.
II- DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Ngày nay trong nhiều tờ báo cũng như các tờ tạp chí, đặc biệt trong báo mực
tím ta thường thấy có mục “tìm bạn bốn phương”. Trong mục này người ta thường
giới thiệu về mình và đưa ra những cá tính, sở thích để tìm cho mình một người bạn
có cùng sở thích hay hợp với mình. Nhiều bạn trẻ ngày nay cũng muốn có được nhiều
thông tin về những ngôi sao bóng đá, ca nhạc, hay điện ảnh càng nhiều càng tốt. (dẫn
chứng).
Có lẽ phần nào cũng vậy, Thiên Chúa đã dùng ngôn ngữ của chính con người
để mặc khải cho con người về một kế hoạch yêu thương vĩ đại mà Ngài dành cho con
người.
Lời của Thiên Chúa giới thiệu về Ngài đã được ghi lại trong sách Kinh Thánh.
Vậy muốn biết Thiên Chúa đương nhiên ta không thể bỏ qua Kinh Thánh và thật đáng
tiếc nếu chúng ta lại không đi tìm hiểu Thiên Chúa là Đấng mà nhờ Ngài con người
và vạn vật được hiện hữu và cũng chính Ngài là nơi mà chúng ta sẽ tìm được hạnh
phúc và sự sống đời đời.
III- CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Ga 20, 30-31.
IV- GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Dẫn giải Lời Chúa :
Thánh Gioan, người sống cùng thời với Chúa Giêsu và cũng là môn đệ của Chúa
đã khẳng định : Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ và một trong số những phép lạ đó
đã được ghi chép lại trong Kinh Thánh để chúng ta tin Đức Giêsu là Đấng Kitô Con
Thiên Chúa.
Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng thảo luận :
Thảo luận :
1/ Từ ngữ chính : “... những điều đã được chép ở đây...”
2/ Câu tóm ý : “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là
Đấng Kitô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Ngài”
(Câu 31)
3/ Tựa đề : “Đức Giêsu Kitô là trung tâm của sách Kinh Thánh”.
* Dẫn vào bài học :
Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa nói với loài người. Suốt 2000 năm qua, Kinh
Thánh đã gây nhiều ảnh hưởng hơn bất kỳ cuốn sách nào. Kinh Thánh trọn bộ được
dịch sang 363 ngôn ngữ. Hiện nay số lượng Kinh Thánh được in ra trên 2,5 tỷ quyển.
Biết bao người đã tìm thấy ánh sáng cho đời mình trong quyển Kinh Thánh. Biết bao
kiệt tác trên thế giới về văn chương, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc... đã được gợi hứng
từ Kinh Thánh.
A. HÌNH THỨC.
HƯỚNG DẪN : Hình thức của Kinh Thánh gồm có Cựu Ước và Tân Ước :
1. Cựu Ước :
- Gồm 46 cuốn có chung với đạo Do Thái.
- Hầu hết được viết bằng tiếng Hip-ri, một số bằng tiếng Hy Lạp.
- Được viết trong khoảng thời gian từ năm 1.200 đến năm 50 trước Công
Nguyên.
2. Tân Ước :
- Gồm 27 cuốn sách riêng của đạo Chúa Kitô.
- Đều được viết bằng tiếng Hy Lạp.
- Hình thành trong nửa sau của thế kỷ I.
- Bốn sách Tin Mừng là trung tâm điểm của Kinh Thánh vì chúng trực tiếp cho ta biết
cuộc đời và lời dạy của Chúa Giêsu.
HS GHI : Hình thức của Kinh Thánh gồm có Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước gồm
46 cuốn và Tân Ước gồm 27 cuốn.
B. NỘI DUNG.
HƯỚNG DẪN : Có 3 giai đoạn.
1. Thời Cựu Ước :
Nói lên tình thương của Thiên Chúa qua công trình tạo dựng (vạn vật và con
người). Nhưng con người đã vô ơn ngỗ nghịch chống lại Ngài. Tuy nhiên Thiên Chúa
không chấp tội, lại hứa ban Đấng Cứu Độ.
2. Thời kỳ Đức Kitô :
Đến giờ đã định, Thiên Chúa cho Đấng Cứu Thế ra đời, Ngài chính là Con Một của
Thiên Chúa đã trở thành con người để làm cho ta trở thành con Thiên Chúa.
3. Thời của Hội Thánh :
Sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha và Chúa Giêsu đã gửi Chúa Thánh Thần đến
để hướng dẫn Hội Thánh mà Chúa Giêsu đã thiết lập, để Hội Thánh tiếp tục công việc
của Chúa Giêsu đem Ơn Cứu Rỗi đến cho mọi người.
HS GHI : Nội dung Kinh Thánh là lịch sử cứu độ, với ba giai đoạn : Thời của Cựu
Ước, thời kỳ Đức Kitô sống ở trần gian và thời của Hội Thánh.
V- CẦU NGUYỆN.
Lạy Cha là Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu, chúng con tạ ơn Cha vì Cha đã mặc
khải cho chúng con về tình yêu của Cha bằng ngôn ngữ của loài người chúng con
trong sách Kinh Thánh. Như lời Thánh Vịnh (Tv 105) chúng con xin được xác tín rằng
: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước – là ánh sáng chỉ đường con đi”. Xin cho
chúng con luôn hăng say học hỏi và yêu mến Lời Chúa, để Lời Chúa dẫn chúng con
về với Cha là Thiên Chúa duy nhất, chân thật, toàn năng và giàu lòng từ ái, chúng
con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI- SINH HOẠT. (Tập hát)
VII- BÀI TẬP.
1. Kinh Thánh là:
a. Lời của Thiên Chúa. b. Lời của TC dành cho con người.
c. Lời của Thiên Chúa mặc khải cho con người về chương trình Cứu Độ của Ngài.
2. Hình thức Kinh Thánh gồm :
a. 3 phần. b. 2 phần : Cựu Ước 26 cuốn – Tân Ước 27 cuốn.
c. 2 phần : Cựu Ước 46 cuốn – Tân Ước 27 cuốn.
3. Nội dung Kinh Thánh :
a. Có 3 thời kỳ. b. Có 5 thời kỳ. c. Có 6 thời kỳ.
VIII- SỐNG LỜI CHÚA :
- Bài học cho ta thấy : Kinh Thánh chính là lời của Thiên Chúa.
* Quyết tâm : Kính trọng và yêu mến Lời Chúa : nghiêm trang sốt sắng lắng nghe
Lời Chúa trong Thánh Lễ và trong lớp giáo lý.
IX- CẦU NGUYỆN KẾT THÚC :
- Cám ơn Chúa.
- Xin Chúa giúp thực hiện điều quyết tâm.
- Đọc kinh sáng danh.

BÀI 3 :
KINH THÁNH, LỜI THIÊN CHÚA NÓI VỚI TA

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng con có thời giờ
để đến đây cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Xin cho chúng con nghe thấy tiếng Chúa dạy
dỗ bảo ban chúng con trong giờ học này.
(Đọc kinh lạy Cha)
1. Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm.
+Kiểm tra bài cũ :
a/ Mặc khải của Thiên Chúa được nghi chép lại ở đâu ?
- Trong sách Kinh Thánh.
b/ Mặc khải của Thiên Chúa được ghi chép lại dưới sự hướng dẫn của ai ?
- Chúa Thánh Thần.
c/ Cho biết ngắn gọn về hình thức và nội dung của sách Kinh Thánh ?
- Hình thức gồm có : Cựu ước và Tân ước.
- Nội dung : Có 3 giai đoạn : Thời Cựu Ước - Thời Đức Kitôâ- Thời Hội Thánh.
+ Kiển tra quyết tâm
2. Viết tựa đề bài học.
KINH THÁNH LỜI THIÊN CHÚA NÓI VỚI TA.
* Lời Chúa : 2 Tm 3, 14- 17.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Người ta kể một câu chuyện vui rằng :
Có người đàn bà đi siêu thị, bà đi thăm từng gian hàng, tình cờ đến một gian
hàng thấy người bán hàng trông rất quen, nhìn kỹ thì chính người đó là Chúa Giêsu,
bà liền hỏi :
- Này Chúa Giêsu ! Ngài bán gì vậy ?
- Đây là bán đủ thứ không thiếu một thứ gì.
Bà suy nghĩ một chút rồi yêu cầu :
- Này Chúa, xin Chúa bán cho con hạnh phúc, bình an, kiên nhẫn, lòng can
đảm, tình yêu … không chỉ cho con thôi mà còn cho chồng con và những đứa con con
nữa!
Chúa Giêsu đáp :
- Ở đây Ta chỉ bán hạt giống thôi. Ta không bán hoa quả đâu ! Ngươi tự về
gieo lấy và nó sẽ sinh hoa quả cho ngươi.
Hạt giống của hoan lạc, hạnh phúc, hạt giống của vui tươi, bình an, hy vọng …
Thiên Chúa đã tặng ban cho con người trong sách Kinh Thánh. Để cho những hạt
giống này có thể sinh hoa kết trái phần lớn là do công sức vun trồng của chúng ta.
Đó là cách chúng ta lắng nghe, tiếp nhận Lời Chúa và đem ra thực hành. Cũng như
những người nông dân, để cho mùa màng được xanh tươi, cây cối sai bông trĩu quả
thì phải biết cách chăm sóc vun trồng. Chắc chắn tâm hồn con người cũng sẽ gặt hái
được hoan lạc, bình, hạnh phúc, nếu biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành
như lời thánh Phaolô nhắn gửi cho Timôthê sau đây. Mời các em đứng lên lắng nghe
Lời Chúa.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA
2 Tm 3, 14 - 17.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải Lời Chúa:
-Đây là đoạn văn trích trong thư của Thánh Phaolô gửi cho ai? (Gửi cho người
môn đệ thân tín của Ngài là Đức Cha Timôthê).
-Ngay câu đầu của đoạn văn thánh Phaolô đã khuyến khích môn đệ của mình
thế nào? (“Hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc”).
-Thánh Phaolô đã nói với Đức Cha Timôthê thế nào về Sách Thánh? (Thánh
Phaolô đã viết : “Sách Thánh có thể dậy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu
độ, nhờ lòng tin vào Đức Kitôâ”.
Để biết tại sao Sách Thánh lại có thể đem lại ơn cứu độ, các em hãy cùng nhau
thảo luận về đoạn thư của Thánh Phaolô này.
2. Thảo luận :
Chúng ta cùng thảo luận xem đâu là các từ ngữ quan trọng của đoạn văn : Sách
Thánh, linh hứng.
Từ ngữ chính yếu : Linh hứng.
- Linh : thuộc về Chúa Thánh Thần.
- Hứng : thuộc cảm xúc, cảm động.
- Linh hứng : ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần ban cho những người viết ra
Kinh Thánh.
 Câu tóm ý :
“Tất cả những gì được viết trong sách Thánh đều được Thiên Chúa linh hứng
và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (c.
6).
 Tựa đề ngắn.
“Thiên Chúa là tác giả chính của sách Kinh Thánh”
3. Bài học :
Kinh Thánh là một công trình vĩ đại về văn học nghệ thuật, tuy nhiên Kinh
Thánh không đơn thuần là lời con người mà Kinh Thánh trước hết là lời của Thiên
Chúa, vậy chúng ta cùng tìm hiểu tác giả, giá trị của Kinh Thánh và tại sao ta nên
siêng năng đọc Kinh Thánh.
 Tác giả.
-Hướng dẫn :
Kinh Thánh là một bộ sách được viết bởi nhiều tác giả trong khoảng thời gian
lâu dài, hơn 12 thế kỷ. Ngôn ngữ được sử dụng trong Kinh Thánh là tiếng Hip-
ri, Aram, Hylạp. Những người viết các sách trong bộ Kinh Thánh phần lớn là những
người Do Thái.
Tuy nhiên các tác giả này lại là những người được ơn linh hứng của Chúa Thánh
Thần, nhờ đó họ viết ra một cách không lầm những gì Thiên Chúa muốn mặc khải
cho con người những gì cần thiết để con người được ơn cứu độ.
Bởi thế Kinh Thánh là lời Thiên Chúa, Thiên Chúa là tác giả chính. Ngài cần sự
cộng tác của con người và ngôn ngữ của con người để giúp con người hiểu được ý
định của Thiên Chúa.
(Đọc phần một : TÁC GIẢ)
* Học sinh ghi :
Chính Chúa Thánh Thần đã tác động và soi dẫn cho những người Thiên Chúa
đã chọn để họ, mỗi người mỗi cách viết lên những điều Thiên Chúa muốn họ viết ra
vì ơn cứu độ chúng ta.
 Giá trị của Kinh Thánh.
- Hướng dẫn :
Xét về phương diện văn học thì không có cuốn sách nào phong phú và đa dạng
như Kinh Thánh. Đây là một công trình vĩ đại về văn học. Kinh Thánh được xem như
là một thư viện nhỏ bao gồm 73 cuốn sách dài ngắn khác nhau. Chứa đựng cả một
kho tàng phong phú vối đủ mọi thể loại văn chương, từ lịch sử, triết lý, luật pháp,
thơ truyện cho đến các bản Thánh Ca, tình ca, ca dao, tục ngữ, châm ngôn. các lời
tiên tri, những lời cầu nguyện…
Tuy nhiên giá trị Kinh Thánh không chỉ dừng lại ở đó, vì Kinh Thánh không đơn
thuần là lời con người nhưng còn là lời Thiên Chúa. Đây là bản chất đích thật của Kinh
Thánh khiến Kinh Thánh luôn có giá trị cho mọi người trong mọi thời đại.
Tuy Kinh Thánh được viết ra bởi nhiều người, mỗi người một cách viết và viết
trong mỗi thời đại khác nhau, nhưng vì được Chúa Thánh Thần linh hứng nên tất cả
các phần trong Kinh Thánh đều liên đới và ăn khớp với nhau chặt chẽ như sách Giáo
Lý Công Giáo đã viết : “Tất cả Kinh Thánh là một cuốn sách và là cuốn sách duy nhất
đó là Chúa Kitôâ, bởi vì tất cả Kinh Thánh nói về Chúa Kitôâ và hoàn tất nơi Chúa
Kitôâ”. Vì thế Hội Thánh luôn tôn kính Kinh Thánh như thân thể Chúa Kitôâ và xem
Kinh Thánh là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin.
(Đọc phần II : GIÁ TRỊ CỦA KINHTHÁNH).
* Học sinh ghi :
Kinh Thánh không có ý dậy các khoa học đời. Nội dung chính của Kinh Thánh
là chân lý cứu độ : “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu
là Đấng Kitôâ Con Thiên Chúa và để anh em tin và được sống nhờ danh Ngài” (Ga
20, 31)
 Đọc Kinh Thánh.
Hướng dẫn :
Nhận ra được tầm quan trọng và giá trị của Kinh Thánh các nghị phụ Công
đồng Vaticanô II đã thiết tha nhắn gửi các Kitôâ hữu: “Hãy năng đọc Kinh Thánh”.
Công đồng cũng lập lại lời thánh Giêrônimô : “Không biết Kinh Thánh là không biết
Đức Kitôâ”.
Có nhiều cách để học hỏi Kinh Thánh: qua lời giảng của các linh mục trong
Thánh lễ, qua các lớp học hỏi về Kinh Thánh, đọc các sách suy niệm Lời Chúa..
Để thăng tiến bản thân, ta nên thường kiểm điểm dưới ánh sáng đoạn Lời Chúa
vừa đọc. Dành ít phút thinh lặng và cầu nguyện để cho Lời Chúa thấm vào lòng và
hướng dẫn đời sống hằng ngày của chúng ta
(Đọc phần III : ĐỌC KINH THÁNH).
* Học sinh ghi :
Đọc Kinh Thánh thường xuyên sẽ được nhiều ơn soi sáng, được bình an và được
nâng đỡ để sống theo ý Thiên Chúa.

V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ.


1. Gợi tâm tình.
Các em thân mến,khi nhìn trời đất muôn vật,khi tìm hiểu về lương tâm, lý trí
chúng ta chỉ nhận biết có Thiên Chúa. Nhưng để biết Ngài là ai, dự tính của Ngài dành
cho ta và mọi người thế nào thì lý trí ta không thể biết được. Vì thương ta, chính
Thiên Chúa đã mặc khải cho ta biết về Ngài và dự tính của Ngài. Những điều Ngài
cho ta biết đã được ghi lại trong Sách Kinh Thánh. Chúng ta cùng nhau dâng lời tạ
ơn Ngài.
2. Lời nguyện.
Lạy Cha là Thiên Chúa giầu lòng nhân hậu, chúng con tạ ơn Cha vì Cha đã mặc
khải cho chúng con về tình yêu của Cha bằng ngôn ngữ của loài người chúng con trong
sách Kinh Thánh. Như lời Thánh Vịnh : “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh
sáng chỉ đường con đi”, xin cho chúng con luôn chăm chỉ học hỏi và yêu mến Lời Chúa
để Lời Chúa hướng dẫn chúng con về với Cha là Thiên Chúa duy nhất, chân thật, toàn
năng và giầu lòng từ ái. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitôâ Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP
1. Tác giả chính của Kinh Thánh là :
a/ Các ngôn sứ.
b/ Nhiều tác giả.
c/ Người Do thái.
d/ Thiên Chúa
2. Cho biết giá trị của Kinh Thánh
a/ Giảng dạy, biện bác.
b/ Giải thích khoa học
c/ Giáo dục để trở nên công chính.
d/ a và c đều đúng.
3. Muốn hiểu đúng Kinh Thánh ta phải :
a/ Mở lòng ra với ơn soi sáng.
b/ Cầu nguyện xin được ơn hiểu biết.
c/ Theo sự hướng dẫn, giải thích của Hội Thánh.
d/ Cả ba câu a, b, c, đều đúng.

VIII. SỐNG LỜI CHÚA


Bài học hôm nay giúp cho chúng ta biết rằng:
* Sách Kinh Thánh chính là lời Thiên Chúa nói với chúng ta.
* Thiên Chúa muốn chúng ta siêng năng đọc Kinh Thánh và đem ra thực hành
trong cuộc sống hằng ngày.
Quyết tâm : Yêu mến và chú tâm lắng nghe Lời Chúa trong mỗi Thánh Lễ.

IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ


Lạy Chúa, giờ học đã kết thúc, chúng con cảm tạ Chúa đã giúp chúng con hiểu
được giá trị của sách Kinh Thánh. Xin Chúa giúp chúng con biết thực hành điều chúng
con đã quyết tâm là chăm chú lắng nghe Lời Chúa trong mỗi Thánh lễ. Giờ đây chúng
con ra về với ước nguyện Lời Chúa sẽ thánh hoá, biến đổi chúng con nên lời ca ngợi
chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần muôn đời.
(Đọc kinh Sáng Danh)
BÀI 4 :
CÁC SÁCH CỰU ƯỚC

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, ngày chủ nhật hôm nay chúng con lại tụ họp nhau đây để lắng nghe
Lời Chúa. Xin ban Thánh Thần tình yêu cho chúng con, để chúng con biết yêu mến
Lời Chúa.
(Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi).
1/ Kiểm tra 15 phút. (Có thể thay đổi tuỳ chương trình)
a. Em hãy cho biết tác giả của Kinh Thánh là ai ? (Thiên Chúa là tác giả chính –
Thiên Chúa linh hứng cho các tác giả loài người viết ra Kinh Thánh).
b. Linh hứng có nghĩa là gì ?
- Linh : thuộc về Chúa Thánh Thần.
- Hứng : được cảm xúc đánh động.
Linh hứng : ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần ban cho những người viết ra
Kinh Thánh.
c. Tại sao ta nên thường xuyên đọc Kinh Thánh ?
- Thường xuyên đọc Kinh Thánh sẽ được nhiều ơn soi sáng, được bình an và được
nâng đỡ để sống theo ý Thiên Chúa.
Kiểm tra điều quyết tâm
2/ Viết tựa đề bài học : CÁC SÁCH CỰU ƯỚC
Lời Chúa : Lc 24, 13-27
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Đối với nhiều người Cựu Ước có vẻ xa lạ. Nhưng những ai có dịp đọc thì sẽ
khám phá ra cả một kho tàng phong phú ẩn giấu trong đó. Cựu Ước chứa đựng những
bản tình ca tuyệt vời (Sách Diễm Ca), những lối sống đạo đức tạo nên nền tảng hạnh
phúc cho con người (Sách Huấn Ca), (Sách Châm Ngôn)... Nhưng quan trọng hơn,
Cựu Ước giúp ta hiểu rõ hơn về Tân Ước. Cũng nhờ đọc Cựu Ước dưới ánh sáng Tân
Ước, ta sẽ hiểu rõ hơn chương trình tình thương Thiên Chúa đối với loài người chúng
ta. Chương trình đó bắt đầu ra sao và đã được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô như thế
nào. Chúa Giêsu cũng đã dùng Cựu Ước để giải thích những điều trên cho các môn
đệ cùng đi về Emmau như trong bài Tin Mừng mà các em sẽ nghe sau đây.
III- CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Lc 24,13-27
IV- GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Điểm nổi bật mà các em vừa nghe trong tin Mừng là từ “Sách Thánh”. “Sách
Thánh” ở đây chỉ Cựu Ước. Cựu Ước đã nói đến cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô,
như vậy Cựu Ước và Tân Ước đan kết với nhau chặt chẽ. Cựu Ước chuẩn bị và báo
trước cho Tân Ước và Tân Ước làm sáng tỏ những gì đã được Cựu Ước đề cập đến,
chúng ta cùng tìm hiểu thêm.
Thảo luận :
1. Các nhân vật trong đoạn Tin Mừng : Chúa Giêsu, hai môn đệ trên đường Emmau,
Môsê, các ngôn sứ.
+ Nhân vật thuộc Cựu Ước : Môsê & các ngôn sứ.
+ Nhân vật Tân Ước : CG, hai môn đệ trên đường Emmau.
3. Nhân vật chính : Chúa Giêsu.
4. Từ ngữ chính : “Sách Thánh”.
5. Câu tóm ý : “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Ngài giải thích cho
hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả các Sách Thánh”. (câu
27).
6. Tựa đề : “Chúa Giêsu dùng Kinh Thánh Cựu Ước để giải thích về Ngài”.
A. CỰU ƯỚC GỒM NHỮNG SÁCH NÀO
HS GHI : Cựu Ước gồm 46 cuốn xếp theo 4 loại:
- 5 cuốn luật Môsê (Ngũ Kinh) : Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật.
- 16 Lịch sử : Giosuê, Thủ Lãnh (Thẩm Phán), Rút, 2 Sách Samuen, 2 Sách Các
Vua, 2 Sách Sử Biên Niên, Et-ra, Nơkhemia, Tôbia, Giuđitha, Ette, 2 Sách
Macabê.
- 7 cuốn thi phú (còn gọi là giáo huấn hoặc khôn ngoan) : Gióp, Thánh Vịnh,
Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca.
- 18 cuốn tiên tri (ngôn sứ) : Isaia, Giêrêma, Aica, Barúc, Eđêkien, Đanien, Hôsê,
Gioen, Amốt, Ôvađia, Giona, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xêphônia, Khácgai,
Dacaria, Malakhi.
B. THỂ VĂN CỰU ƯỚC
HS GHI :
Cựu Ước được viết bằng thể văn xuôi, và thể văn vần (thơ).
C. ĐỐI VỚI CHÚNG TA CỰU ƯỚC CÓ GIÁ TRỊ NÀO ?
HS GHI :
Thiên Chúa phán trong Cựu Ước vẫn là Thiên Chúa phán trong Tân Ước. Cựu
Ước có thể dạy chúng ta là dân mới của Thiên Chúa, biết đón nhận Tin Mừng Chúa
Kitô và sống với Ngài.
V- CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dùng Kinh Thánh để giải thích cho các môn đệ
Chúa hiểu về chương trình cứu độ của Thiên Chúa và cho họ biết cao điểm của chương
trình cứu độ là sự chết và sự sống lại của Chúa. Xin thương dạy dỗ chúng con đọc,
nghe và học hỏi Lời Chúa.
VI- SINH HOẠT.
VII- BÀI TẬP.
1. Cựu Ước có :
a. 16 cuốn. b. 64 cuốn. c. 46 cuốn. d. 36 cuốn.
2. Cựu Ước gồm có :
a. 4 loại. b. 6 loại. c. 2 loại. d. 8 loại.
3. Cựu Ước nói về :
a. Các ngôn sứ. b. Lời hứa cứu độ của Thiên Chúa,
c. Ađam và Evà. d. Con người.
VII- SỐNG LỜI CHÚA :
- Bài học cho ta thấy : Thiên Chúa vì yêu thương đã phó nộp người con duy
nhất của Ngài để Cứu Độ chúng ta.
- Bắt chước hai môn đệ Emmau lắng nghe Lời Chúa và có lòng bác ái với người
khách lạ trú ngụ qua đêm.
* Quyết tâm : Cư xử tốt với tất cả mọi người.
IX- CẦU NGUYỆN KẾT THÚC :
Lạy Chúa qua Kinh Thánh, chúng con nhận ra được đường lối giáo dục đầy
nhân hậu và khôn ngoan của Chúa dành cho chúng con. Chúng con xin dâng lới cảm
tạ và quyết tâm sống tốt với mọi người để chúc tụng danh Chúa muôn đời.
(Đọc kinh Sáng Danh).

BÀI 5 :
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO

I- – CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, tin tưởng vào lới dạy của Chúa nên chúng con đến đây để lắng nghe
tiếng Chúa. Xin Chúa chúc lành cho chúng con trong giờ học này.
(Đọc kinh Lạy Cha).
1/ Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm.
+ Kiểm tra bài cũ
a. Cựu Ước gồm bao nhiêu cuốn ? Chia làm mấy loại ? Là những loại nào ?
- 46 cuốn, 4 loại : 5 Luật Môsê – 16 Lịch Sử - 7 Thi Phú – 18 Tiên Tri.
b. Cho biết giá trị của Cựu Ước :
- Có thể dạy chúng ta là dân mới của Chúa biết đón nhận Tin Mừng Chúa
Kitô và sống với Ngài.
+ Kiểm tra điều quyết tâm
2/ Viết tựa đề bài học : THIÊN CHÚA SÁNG TẠO
Lời Chúa : St 1,1-2,4a
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Ai muốn biết các thành tựu mới nhất trong lãnh vực khoa học kỹ thuật thì chắc
chắn không thể bỏ qua mục “thông tin, văn hóa, khoa học, kỹ thuật” trên truyền
hình. Trong mục này những khám phá mới nhất về lãnh vực được trình chiếu cho
khán giả. Có rất nhiều điều làm cho chúng ta ngạc nhiên khi biết được những khám
phá mới của các nhà khoa học, trong những lĩnh vực nhỏ nhất mà mắt thường của
con người không thể thấy được như virút, vi trùng... của đủ mọi loại bệnh nguy hiểm,
cho đến vũ trụ bao la, những hành tinh ở cách xa trái đất như mặt trăng, mặt trời,
sao hoả... cả những hiện tượng như động đất, núi lửa nữa....
Khi suy nghĩ về những thành tựu mà con người đã đạt được trong khoảng thời
gian hàng ngàn năm qua, chúng ta không thể không ngừng ngưỡng mộ, thán phục
khả năng đặc biệt, phong phú của con người.
Tuy nhiên tất cả những gì con người tìm tòi, khám phá ra thì đó cũng chỉ là
những gì đã có sẵn trong vũ trụ và nếu con người có thể tạo ra được bất cứ điều gì
mới thì cũng phải dựa vào những thứ đã có sẵn. Chỉ có mình Thiên Chúa mới là Đấng
sáng tạo đúng nghĩa, Ngài đã sáng tạo ra vạn vật hoàn vũ từ hư vô như trong câu
chuyện Kinh Thánh sau đây :
III- CÔNG BỐ LỜI CHÚA. St 1,1-2, 4a
IV- GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Đoạn văn cho thấy Thiên Chúa là tác giả vũ trụ vạn vật, với những kiểu nói quan
trọng được lặp đi lặp lại như : “Thiên Chúa phán”, “Hãy có”, “Và đã xảy ra như vậy”.
Chúng ta cùng tìm hiểu : (Thảo luận)
1. Từ ngữ chính : “Tạo thành”. (câu 1)
2. Câu tóm ý : “Từ nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo thành trời và đất”. (câu 1).
2. Tựa đề : “Thiên Chúa tạo dựng mọi sự”.
A. TỪ NHỮNG BÀI KHOA HỌC
HƯỚNG DẪN :
Các ngành khoa học tự nhiên tạo dịp cho ta suy nghĩ nhiều về công trình sáng
tạo của Thiên Chúa. Khoa học giúp chúng ta thấy được sự vĩ đại của vạn vật hoàn vũ
và dẫn chúng ta đến Đấng sáng tạo ra chúng ta là Thiên Chúa toàn năng.
HS GHI :
Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo nên trời đất và mọi loài, mọi vật để chúng
được dự phần vào vinh quang, vào sự thật, sự tốt lành và vẻ đẹp của Ngài.
B. ĐẾN ĐOẠN MỞ ĐẦU BỘ KINH THÁNH
HƯỚNG DẪN :
Đoạn văn mở đầu Sách Sáng Thế thật sinh độâng và giàu hình ảnh. Tác giả
miêu tả cho ta thấy cảnh lạnh lẽo hoang vu của địa cầu. Khi chưa có bàn tay tạo dựng
của Thiên Chúa. Rồi bất chợt địa cầu này trở nên sống động, tốt tươi, đầy sức sống
sau những lời phán của Thiên Chúa “Hãy có” thì mọi sự đều có từ các tinh tú lớn nhỏ,
thảo mộc xanh tươi cho đến chim chóc, muông thú không thiếu thứ gì.
HS GHI :
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên vũ trụ này. Trời đất cùng muôn loài muôn vật
không phải tình cờ tự nhiên mà có.
C. ĐÁP LẠI TÌNH YÊU
HƯỚNG DẪN :
Như Thánh Tôma Aquinô đã nói “Tình yêu là chìa khóa đã mở bàn tay của
Thiên Chúa để tạo thành vạn vật”. Thiên Chúa đã tạo ra vũ trụ vạn vật này chỉ vì yêu
thương con người và muốn cho con người được tham gia vào vinh quang của Ngài.
HS GHI :
Đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, ta cố gắng sống xứng đáng làm con cái Chúa,
đồng thời góp phần cộng tác vào công trình sáng tạo, để tất cả đạt tới sự hoàn hảo
Chúa muốn.
V- CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa là Cha toàn năng. Chúng con tin rằng : vạn vật hoàn vũ là do tay
Chúa tạo nên. Chúng con xin tạ ơn Cha vì đã dựng nên chúng con cho chúng con
được hưởng dùng tất cả những gì Cha đã tạo nên. Xin cho chúng con mỗi khi ngắm
nhìn vẻ đẹp của vũ trụ, thì đừng quên ca tụng lòng nhân ái bao la của Cha. Chúng
con cầu xin nhờ ĐGK Chúa chúng con. Amen.
VI- SINH HOẠT.
VII- BÀI TẬP : Cho biết các câu sau đây Đ hay S
1. Vũ trụ tự nhiên mà có. (S) 2. Vũ trụ do con người tạo nên (S)
3. Thiên Chúa tạo dựng mọi sự (Đ) 4. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ vì vinh
quang của Ngài (S)
5. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ vì tình yêu và lòng nhân hậu của Ngài (Đ)
VIII- SỐNG LỜI CHÚA :
- Bài học cho ta thấy : Thiên Chúa đầy quyền năng đã dựng nên mọi sự vì tình
yêu thương chúng ta.
- Chăm chỉ học hành như những nhà khoa học : khám phá, tìm hiểu vũ trụ để
phục vụ cuộc sống con người.
* Quyết tâm : Chăm chỉ học tập (các môn học văn hoá ở trường) để khám phá vũ
trụ kỳ diệu Thiên Chúa đã tạo dựng.
IX- CẦU NGUYỆN KẾT THÚC :
Lạy Chúa chúng con dâng lên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân vì hồng ân và tình
yêu thương của Chúa vẫn đang tuôn đổ trên vạn vật hoàn vũ và loài người chúng
con.
Xin giúp chúng con chăm chỉ học tập để có thể nhận thấy bàn tay Chúa đang
hoạt động trong vũ trụ này.
(Hát : Đến muôn đời)

BÀI 6 :
DẬY MEN TIN MỪNG
LÒNG BIẾT ƠN

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa chúng con tin rằng Lời Chúa có sức biến đổi chúng con mỗi ngày trở
nên hoàn thiện hơn. Xin thánh hoá chúng con trong giờ học này để chúng con say
mê tìm hiểu và yêu mến Lời Chúa hơn.
(Đọc kinh Cúi xin Chúa sáng soi).
Kiểm tra bài cũ.
a. Vũ trụ vạn vật do đâu mà có ?
- Do Thiên Chúa tạo thành
b. Thiên Chúa tạo thành vũ trụ vạn vật bằng cách nào ?
- Ngài chỉ phán một lời.
c. Sáng tạo là gì ?
- Là từ không làm ra có.
Kiểm tra quyết tâm
II. DẪN VÀO BÀI HỌC.
Hôm nay chúng ta học bài : “LÒNG BIẾT ƠN”, có lẽ từ “cám ơn” chẳng có gì
xa lạ với mỗi người chúng ta, thế nhưng để hiểu rõ hơn tại sao chúng ta phải có lòng
biết ơn thì bài học hôm nay sẽ trả lời cho câu hỏi này.
A. LÒNG TỐT QUÝ HƠN TIỀN BẠC
HƯỚNG DẪN :
Bất cứ ngôn ngữ nào cũng có những từ ngữ để bày tỏ lòng biết ơn như : “Cảm
ơn”, “Thank you”, “Merci”, “Ưn-ngài”... Đây chắc hẳn là điều tuyệt đẹp mà Thượng
Đế đặt nơi tâm hồn mỗi người : trước hết là sự cảm nhận về điều tốt mà mính đã
được nhận, rồi cảm nhận về điều tốt ấy được bày tỏ ra bên ngoài, được đáp lại bằng
ngôn ngữ và hành động, như vậy tiếng cảm ơn hay hành động bày tỏ sự biết ơn
không quan trọng bằng tâm tình biết ơn, vì chính nhờ tâm tình biết ơn mà lời nói hay
hành động bày tỏ sự biết ơn được biểu lộ.
Vậy đằng sau mọi sự trao đổi, ta hãy để ý đến lòng tốt của những người phục
vụ ta. Lòng tốt luôn có giá trị hơn những vật chất mà bản thân ta hoặc xã hội có thể
trả lại.
B. CHÚNG TA MANG ƠN MỌI NGƯỜI.
HƯỚNG DẪN :
Sống trên đời ta được hưởng nhiều điều lắm. Nhưng hãy biết rằng khi hưởng
những quyền lợi ấy tức là ta đang chịu ơn. Ngôi nhà ta đang ở, cơm ăn áo mặc là
biết bao công lao mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Việc học hành của các em có kêt quả
tốt hay không cũng phải kể đến công ơn khó nhọc của thầy cô. Mỗi khi đau ốm bệnh
tật ta cũng phải nhờ vả đến sự chăm sóc của các bác sĩ, y tá...
Cuộc sống của chunùg ta sẽ phong phú và nhiều ý nghĩa hơn nếu chúng ta
cảm nhận được rằng : mình đang đón nhận biết bao yêu thương, biết bao sự hy sinh,
phục vụ, giúp đỡ của người chung quanh.
C. TẤT CẢ LÀ ƠN CHÚA
HƯỚNG DẪN :
Những điều mọi người làm cho ta cũng chính là ơn Chúa. Cơm ăn, áo mặc, nhà
ở, các tiện nghi... Cũng là quà tặng Thiên Chúa ban qua bàn tay khối óc của con
người. Rồi bao nhiêu thứ Thiên Chúa ban cho ta mỗi ngày như : khí trời, ánh sáng,
nước uống... cả bản thân ta nữa, chính Thiên Chúa đã muốn cho ta có mặt trên cõi
đời này.
Thiên Chúa đang ban biết bao ơn lành cho ta qua những người và những hoàn
cảnh chung quanh ta.
* Câu hỏi thảo luận : Các em có tâm tình biết ơn trong cuộc sống không ? Các em
bày tỏ lòng biết ơn như thế nào ?
+ Xem :
- Ta thường thấy người ta cám ơn nhau cả khi họ trao đổi mua bán.
- Cám ơn còn được coi như phép lịch sự, bày tỏ sự trân trọng, đánh giá qua những
gì mình được người khác giúp đỡ.
- Trong cuộc sống hằng ngày ta cũng đang chịu ơn của nhiều người : cha mẹ, thầy
cô, các dịnh vụ khác xã hội mang lại.
- Có được vóc dáng trí tuệ, đức hạnh... như ngày hôm nay là ta đã chịu ơn của nhiều
người.
+ Xét :
- Có phải tất cả những lời cám ơn của ta đều chân thành không? Hay chỉ là lời nói suông
hay đơn giản vì phép lịch sự ?
- Khi trao đổ mua bán ta có trân trọng những gì được người khác giúp đỡ không ?
- Ta có nhận ra rằng: mình đang được hưởng những thành quả được xây dựng bởi công
sức của các thế hệ cha ông đi trước như: đất nước hòa bình, các tiện nghi, văn hoá (hội
hoạ, thơ ca, nhạc…) cùng các phát minh về khoa học không (máy móc, vi tính, xe cộ …)
?
- Tâm tình biết ơn là một trong những điều đẹp nhất mà Thiên Chúa đã gieo vào
lòng con người. Từ tâm tình biết ơn mà con người nhớ đến tạo hóa đã dựng nên
mình, trao ban cho tài sản quý giá là vũ trụ vạn vật. Cũng chính nhờ tâm tình
biết ơn mà con người ý thức hơn về sự tương thân tương ái cần thiết phải giúp
đỡ nhau trong cuộc sống.
+ Làm :
- Nhìn lại mình để có một tâm tình biết ơn đúng đắn hơn.
- Nói hai chữ cám ơn chưa đủ đã là có lòng biết ơn. Lòng biết ơn thực sự phải bao
gồm :
* Nhận biết những ân huệ mình nhận được.
* Ghi nhớ các công ơn đó.
* Tìm cách đáp đền.
Ta cũng phải luôn sống trong tâm tình cảm tạ Chúa vì mọi sự đều là ơn Chúa. Xin
Chúa ban ơn cho những người đã làm ơn cho ta.
III- DẪN VÀO LỜI CHÚA
Nhà văn AJ. Cronin có thuật lại một chuyện xảy ra tại nơi làm việc của con
trai ông là sinh viên y khoa :
Có một bệnh nhân tại dưỡng đường Montréal nhờ tiếp huyết mà được cứu sống,
khi ra viện ông ta hỏi nhân viên :
- Có cách nào biết được tên người cho tôi máu, để tôi cám ơn người ấy không?
Người ta đáp rằng : Dưỡng đường luôn giữ kín danh tánh những người hiến máu.
Về nhà được ít lâu, ông ta trở lại dưỡng đường để hiến máu và từ đó trở đi ông
còn cho nhiều lần nữa. Một bác sĩ giải phẫu đã khen ông giúp đời môt cách khiêm tốn,
kín đáo. Ông ta chỉ đáp lại:
- Có một người giấu tên đã giúp tôi. Tôi làm như vậy để đền công ơn người
đó.
Có nhiều cách để đền đáp ân huệ của người khác. Chúng ta cùng lắng nghe
đoạn trích trong sách Samuel để xem bà Anna đã tạ ơn Chúa thế nào ?

IV- CÔNG BỐ LỜI CHÚA :


1Sm 1, 9-17. 20-28
V- CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa là Thiên Chúa tình thương, do bởi tình thương mà chúng con được
hiện hữu trên đời và mỗi giây, mỗi phút, mỗi một ngày qua đi là biết bao hồng ân
của Chúa tuôn đổ trên chúng con. Xin cho chúng con biết mọi sự đều là ơn Chúa để
chúng con luôn cảm tạ Chúa khi vui cũng như lúc buồn, và luôn sống trong tâm tình
biết ơn mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI- SINH HOẠT.
VII- BÀI TẬP :
1. Thiên Chúa đã tạo dựng nên mọi sự vì :
a. Tình yêu thương chúng ta.
b. Muốn thông ban mọi sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
c. Cho ta được dự phần vào vinh quang, sự thật, vẻ đẹp của Ngài.
d. Cả a, b và c đều đúng.
2. Đáp lại tình yêu ấy ta phải :
a. Cố gắng sống xứng đáng làm con cái Chúa.
b. Biết ơn và góp phần cộng tác vào công trình của Ngài.
c. a và b đều đúng. d. a và b đều sai.
VIII- SỐNG LỜI CHÚA:
Mỗi tối, trước khi đi ngủ, em nhớ lại những điều tốt lành đã nhận được trong
ngày đã qua và đọc kinh, dâng lời tạ ơn Chúa.
IX- CẦU NGUYỆN KẾT THÚC :
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con được làm người và được
làm con Chúa. Xin cho cuộc đời chúng con trở thành lời ca tạ ơn Chúa bằng tâm tình
sống biết ơn mọi người đang yêu thương giúp đỡ chúng con để danh Chúa được toả
sáng.
(Hát : Đến muôn đời).

BÀI 7 :
CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, chúng con cảm ơn Chúa vì đã ban cho chúng con có thời gian đến
đây cùng nhau học hỏi Lời Chúa là lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng chúng
con. Xin cho chúng con tìm thấy Chúa và cảm nghiệm được tình thương Chúa trong
giờ học này.
Đọc kinh lạy Cha.
1. Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm:
+ Kiểm tra bài cũ :
Tại sao ta thường thấy mọi người cảm ơn nhau ngay cả khi họ trao đổi mua
bán? (- Đằng sau sự trao đổi mua bán, còn có lòng tốt phục vụ nhau, lòng tốt luôn
có giá trị hơn những vật chất được trao đổi.)
+ Kiểm tra điều quyết tâm
2. Viết tựa đề bài học :
CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Lời Chúa: St 2, 4b- 7
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Sinh ra làm người có lẽ nhiều lần chúng ta tự hỏi con người từ đâu đến, sống
để làm gì và rồi đi về đâu?
Đây cũng là điều mà các khoa học gia, các nhà bác học đã biết bao công sức,
để tìm hiểu, nghin cứu.
Đã có một thời người ta cảm thấy hoang mang lo lắng khi
thuyết tiến hoá của nhà bác học Darwin ra đời. Thuyết này cho rằng loài người tiến
hoá lên từ một loài vượn người. Giáo Hội không phủ nhận nhưng lưu ý : nếu loài
người là do một loài vượn tiến hoá lên thì cũng phải có sự can thiệp của Thiên Chúa.
Công trình nghin cứu của Linh Mục Teilhard de Chardin cho ta thấy rõ hơn về
sự tiến hoá này.
Linh mục Teilhard de Chardin sinh năm 1881 mất năm 1955. Ngài là một linh
mục dòng Tên đồng thời cũng là nhà chuyên môn về địa chất học và cổ sinh vật học
người Pháp. Trước thời ông người ta đã tìm được những dấu vết hoá thạch (sinh vật
chôn vùi hoá đá) thuộc nhiều thời kỳ khác nhau. Khi đem những hoá thạch này xếp
theo thứ tự thời gian, người ta thấy có sự tiến bộ trước sau, từ vượn tới người. Thế
nhưng giữa con vượn tiến hoá nhất và con người sơ khai nhất, khoảng cách quá xa
không cho phép người ta nói rằng chuỗi tiến hoá ấy liên tục. Cha Teilhard de Chardin
đã đào được ở Trung Quốc một bằng chứng có thể nối liền chuỗi tiến hoá ấy. Đó là
hoá thạch về người cổ xưa nhất được đặt tên là Sinanthrope (Trung Hoa nhân, người
Trung Hoa). Cha đã chứng minh được rằng sinh vật ấy bề ngoài rất giống vượn nhưng
không phải là vượn mà đã thật sự là người. Sinh vậy ấy đã biết đốt lửa và biết đẽo
đá làm công cụ, nghĩa là nó biết suy nghĩ, và đã có tính người. Đó là bằng chứng giúp
nối liền vòng tiến hoá mà trước cha Teilhard người ta không chúng minh được.
Vừa là nhà khoa học vừa là nhà thần học Teilhard đã cống hiến cho chúng ta
một cái nhìn hoà hợp giữa đức tin và khoa học. Theo cha luật tiến hoá không không
phải chỉ chi phối sinh vật như Darwin trình bày, nhưng còn chi phối những các sinh
vật không có sự sống, và vượt trái đất, luật ấy chi phồi toàn thể vũ trụ. Từ khi con
người xuất hiện dòng tiến hoá của vũ trụ có một hướng mới để đi xa hơn.
Nhờ biết suy nghĩ, loài người tách khỏi loài vật, nhờ biết làm việc có phương
pháp loài người dần dần thay đổi hẳn bộ mặt trái đất. Thế nhưng sự tiến hoá của con
người không dừng lại nơi trái đất và vũ trụ hữu hình mà còn tiến vào thế giới vô hình
của Thiên Chúa. Như thế cuộc tiến hoá được hướng dẫn bởi Thiên Chúa , nó bắt đầu
từ Thiên Chúa và hướng đến mục đích cuối cùng là Thiên Chúa.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
St 2, 4b- 7
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Khi đọc chương đầu của sách Sáng Thế nói về việc Thiên Chúa tạo dựng vũ
trụ ta thường thấy có các cụm từ được lặp đi lặp lại như : “Thiên Chúa phán”, “ Hãy
có” - “ và đã xảy ra như vậy”.
Còn trong bài đọc chúng ta vừa nghe, thì việc tạo dựng con người dường như
tỉ mỉ hơn, quan trọng hơn. Chúng ta cùng tìm hiểu xem:
Thảo luận:
1. Nhân vật chính : “ con người”
2. Từ ngữ chính : “ thổi sinh khí..”
3. Câu tóm ý : Thiên Chúa lấy bùn đất nặn thành một hình người. Ngài thổi sinh khi
vào lỗ mũi nó và con người trở thành một loài có sự sống” ( c 7 )
A. HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA.
HƯỚNG DẪN :
Như tựa đề bài học đã viết: “Con người là hình ảnh Thiên Chúa”, đấy là điều
hết sức quan trọng, nó cho thấy mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thật gần
gũi.
Chính sự sống Thiên Chúa nơi con người khiến con người cao cả hơn mọi loài
trên trái đất. Ngài ban cho con người có linh hồn bất tử, có trí tuệ vượt hơn loài vật,
có trái tim biết yêu thương đến vô hạn, có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên
Chúa .
HS GHI :
Ngoài sự sống tự nhiên, Thiên Chúa còn ban cho ta sự sống siêu nhiên, nghĩa
là được làm con Thiên Chúa, được yêu mến Ngài và được dự phần vào sự sống của
chính Ngài.
B. ĐỐI THOẠI VỚI THIÊN CHÚA VÀ ANH EM.
Hướng dẫn :
Vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên con người. Ngài luôn gần gũi với chúng
ta như là một người bạn thân và còn hơn thế, qua Chúa Giêsu Thiên Chúa nhận
chúng ta làm con của Ngài. Những gì ta cần, ta ước muốn, Ngài đã biết rõ. Ngài sẵn
lòng ban cho ta mọi điều tốt lành vì Ngài là Đấng toàn năng và đầy yêu thương. Bởi
đó, chúng ta phải tin vào Thiên Chúa và năng chạy đến với Ngài để ngợi khen, cảm
tạ và trò chuyện cách thân tình.
Tuy nhiên chỉ đối thoại với Thiên Chúa không thì chưa đủ, mà còn phải biết
trao đổi, thông cảm với anh em, vì con người đã được Thiên Chúa đặt trong mình
bản tính xã hội, sống với người khác làm thành quốc gia, xã hội đó là mối tương quan
giữa người với người trong cuộc sống. Tương quan này giúp ta khám phá ra sự hiện
diện của Thiên Chúa.
HS ghi :
Con người là hình ảnh Thiên Chúa nên con người là sinh vật biết nói, biết đối
thoại, có tương quan xã hội, trao đổi và cảm thông. Ta cần tập khám phá ra cả tiếng
nói và sự hiện diện của Thiên Chúa qua Lời Ngài và qua tương quan với tha nhân.
C. LÀM CHỦ BẢN THÂN VÀ MỌI SỰ THIÊN CHÚA TRAO PHÓ.
Hướng dẫn :
Thiên Chúa đã ban cho con người toàn quyền cai quản trái đất, ban cho con
người có sự hiểu biết, nhờ đó quyền làm chủ của con người trong Thiên nhiên ngày
mở rộng. Điều quan trọng là con người biết làm chủ bản thân mình để sống đúng với
phẩm giá cao quý đã tặng ban.
HS ghi :
Được Thiên Chúa thương ban cho sự sống không những ở đời này mà còn cuộc
sống vĩnh cửu. Ta phải tôn trọng và làm cho cuộc sống của ta cũng như của người
khác ngày càng tốt đẹp hơn để vinh danh Chúa.
V. CẦU NGUYỆN.
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng con.Tình yêu của Cha hằng tuôn đổ
chan chứa trên chúng con. Xin cho chúng con một trái tim rộng mở và một tấm lòng
bao dung, để chúng con sống cho tình yêu của Cha và để chúng con yêu cuộc sống
của mỗi người.
Xin cho từng khoảnh khắc chúng con sống là yêu thương, là chia sẻ, là cảm
thông và tha thứ. Để cuộc sống của chúng con sẽ là một lời giới thiệu chân thật cho
thế giới về Cha của chúng con là một Thiên Chúa hằng sống cũng chính là Thiên
Chúa tình yêu.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT.
VII. BÀI TẬP :
1. Con người :
a. Tự nhiên mà có. b. Do Thiên Chúa dựng nên.
c. Là tạo vật cao cả hơn tất cả mọi loài. d. b và c đều đúng.
2. Để tôn vinh Thiên Chúa ta phải :
a. Yêu thương tôn trọng sự sống người khác b. Học giỏi
c. Yêu thương tôn trọng sự sống của mình và người khác.
d. Chăm chỉ làm việc.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Bài học hôm nay giúp ta cảm nhận hơn về tình thương của Thiên Chúa và sự
cao cả của ơn gọi làm người trong chương trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa.
* Quyết tâm : Là con Thiên Chúa sống yêu thương như Ngài. Hy sinh làm một việc
tốt để vui lòng người khác.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, giờ học đã trôi qua, với ơn Chúa giúp chúng con nhận ra sự hiện
hữu chúng con có là xuất phát từ Cha. Xin cho chúng co biết sống yêu thương tích
cực để tạ ơn Cha và làm vinh danh Cha.
(đọc kinh … ).

BÀI 8 :
CHƯƠNG TRÌNH THIÊN CHÚA TRÊN ĐỜI TA

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, tất cả chúng con thành tâm cố gắng tìm kiếm và thi hành ý Chúa.
Xin ban ơn soi sáng và sức ạnh cho chúng con, để chúng con thấy được ý Chúa và
sống theo ý Chúa.
(Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi ).
1. Kiểm tra bài cũ + điều quyết tâm.
a. Tại sao lại nói : Con người cao cả hơn mọi loài trên trái đất?
- Con người cao cả hơn mọi loài vì được Thiên Chúa ban cho sự sống của Ngài,
ban cho con người có linh hồn bất tử, có trí tuệ, có trái tim biết yêu thương.
b. Làm thế nào để cảm ơn Thiên Chúa về sự sống ở đời này, cũng như sự sống vĩnh
cửu mà Ngài ban cho chúng ta?
- Phải tôn trọng và làm cho cuộc sống của ta cũng như của người khác ngày càng
tốt đẹp hơn để vinh danh Chúa.
2. Viết tựa đề bài học : CHƯƠNG TRÌNH THIÊN CHÚA TRÊN ĐỜI TA
( Lời Chúa Gr 1, 1. 40 – 10 )
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Có một chuyện kể vè hoàng đế Alexis là vị Nga Hoàng rất nổi tiếng. Ông rất
yêu thương dân, ông có thói quen đi vi hành, giả dạng làm một người thường trà trộn
với dân, để biết những tâm tư nguyện vọng của họ.
Một buổi chiều kia, ông giả dạng một người ăn xin mang bị trên vai, tay cầm
gậy đi lang thang trên các đường phố. Ông gặp một bác tiều phu vác bó củi trên vai,
lưng còng xuống vì nặng. Hoàng đế theo bác tiều phu vào một căn lều tồi tàn rồi hỏi
:
- Bác có gì ăn không cho tôi ăn với, tôi đói quá.
Trong nhà có gì ăn được ông dọn hết ra, hai người ngồi ăn uống với nhau rất
vui vẻ.
Mấy ngày sau, hoàng đế lại giả dạng người ăn xin đến gặp bác, hai người nói
chuyện với nhau rất tâm đắc, rất hạnh phúc sung sướng, và cứ như thế một tuần một
lần hay hai ba ngày một lần.
Một ngày kia, khi bác vừa gánh củi về nhà thì bỗng nhiên thấy xa giá rất lộng
lẫy, hai bên quân lính hầu cận thật nghiêm. Bác vẫn chưa nhận ra đức vua, nghe
tiếng tung hô : “ Hoàng đế Alexis vạn tuế” bác vội vàng quỳ xuống, hoàng đế đỡ bác
dậy và nói:
Tôi là người vẫn thường xuyên đến ăn cơm và tán chuyện với bác đây, rồi ông
cởi vương miện ra, lúc này bác tiều phu mới nhận ra hoàng đế Alexis chính là người
ăn mày vẫn thường xuyên đến với bác. Hoàng đế nói :
- Bác tiều phu kia, bác là người rất tốt bụng, là người tôi yêu mến, tôi giả làm
người bần cùng trong xã hội nhưng bác vẫn tiếp đãi tôi đàng hoàng. Bây giờ để
thưởng công cho bác, bác muốn gì tôi cũng cho.
- Thưa bệ hạ, thần không muốn giầu sang quyền quý, không muốn danh vọng
chỉ xin một điều duy nhất : thỉnh thoảng hoàng thượng đến ăn cơm và nói chuyện
với hạ thần.
Câu chuyện này dạy ta : Thiên Chúa là Đấng cao cả, là Vua trên hết các vua,
vì yêu thương đã dựng nên ta, cho ta được làm con cái Ngài. Khi loài người không
vâng phục, chối bỏ Thiên Chúa, Ngài đã không bỏ rơi con người, trừng phạt con
người. Mà trái lại Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người cứu độ chúng ta, cho chúng ta
được làm con cái Chúa.
Nếu ai trong chúng ta than phiền nhà mình sao nghèo quá, bố mẹ mình sao
vất vả quá. Thì Đức Kitô còn nghèo khổ vất vả hơn. Ngài sống tại Nazareth làm nghề
thợ mộc, lao động cực khổ.
Thiên Chúa đã đến với con người, ở với con người để tỏ cho con người thấy
được điều cao cả này là : Con người đã được Thiên Chúa yêu thương định trước cho
làm con của Người. Chúng ta cùng lằng nghe Lời Chúa.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA. ( Gr 1, 10 40- 10 )
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Qua đoạn Lời Chúa vừa nghe, Thiên Chúa đã mạc khải chương trình tình
thương của Ngài, trước khi tạo thành vũ trụ. Thiên Chúa đã có chương trình cho mỗi
người chúng ta, chúng ta cùng tìm hiểu thêm.
Thảo luận
1. Từ ngữ chính : “ hiển thánh”
2. Câu tóm ý : “ trước khi tạo thành ngươi tronglòng mẹ Ta đã biết ngươi, và trước
khi ngươi ra khỏi òng mẹ ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri
cho các dân tộc”.
3. Tựa đề : “ Chương trình tình thương của Thiên Chúa trên con người”.
A MỤC ĐÍCH ĐỊNH HƯỚNG CHO VIỆCLÀM.
Hướng dẫn :
Khi làm một điều gì ta thường nhắm đến một mục đích, chẳng hạn như chúng
ta đi học để hiểu biết nhiều hơn, để sau này có thể kiếm được công việc tốt để cuộc
sống đỡ vất vả hơn.
Đôi khi chúng ta có thể chưa hiểu biết hết mục đích của các việc làm trong
hiện tại để chuẩn bị cho tương lai, thì chúng ta đã được cha mẹ, các thầy cô hướng
dẫn, dìu dắt.
Thiên Chúa cũng vậy, khi tạo nên con người có khả năng nhận biết và yêu
mến. Ngài cũng có một ý định, một chương trình tốt đẹp dành cho từng người
Hs ghi:
Khi tạo nên mỗi người chúng ta. Thiên Chúa đã có một ý định, một chương
trình tốt đẹp dành cho ta.
B. CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA
Hướng dẫn:
Tựa như một người cha, trước khi đứa con được sinh ra đã ấp ủ một chương
trình tốt đẹp cho con mình. Đứa con có thể ngỗ nghịch, nhưng người cha không bao
giờ thôi yêu thương hoặc rút lại chương trình hạnh phúc đã xếp đặt cho con mình.
Hs ghi:
Chương trình tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại :
- Tạo dựng nên con người và cho sống hạnh phúc với Ngài.
- Khi con người phạm tội Thiên Chúa đã sai con Ngài là Chúa Kitô đến cứu chuộc.
- Ban Chúa Thánh Thần hướng dẫn Hội Thánh để tiếp tục sứ mạng Chúa Giêsu đến
ngày cuối cùng.
C.DÀNH ƯU TIÊN CHO THIÊN CHÚA.
Hướng dẫn :
Thiên Chúa yêu thương ta, muốn ta đáp lại tình thương của Ngài bằng cách
sống theo lời Ngài. Chúa Giêsu đã làm gương cho ta, Ngài luôn thi hành ý Cha. Ngài
lấy ý Cha làm của ăn.
- Chúng ta hãy luôn tâm niệm : Món quà quý nhất đứa con có thể báo đáp
Cha mẹ là : làm theo ý cha mẹ.
HS ghi :
Muốn làm người con ngoan của Chúa, ta phải quan tâm tìm kiếm và thực hiện
ý Chúa.
IV. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa là Cha tình thương, Cha đã tạo dựng chúng con từ hư vô, đặt chúng
con vào chương trình yêu thương của Cha. Chúng con xin tạ ơn Cha đã ban cho chúng
con được làm người, và làm con cái Cha. Xin cho chúng con luôn nhớ rằng : Chúng
con chỉ là người khi chúng con sống đúng với chức vị làm con Chúa, chúng con chỉ
làm con Chúa khi chúng con biết khiêm nhường phục vụ anh em như Chúa đã lo lắng
chăm sóc. Lạy Chúa, xin dẫn chúng con vào chương trình yêu thương của Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT .
VII. BÀI TẬP :
1. Mục đích của Thiên Chúa khi dựng nên con người :
a. Cho con người hưởng dùng tài sản trên trái đất. b. Cho con người sự sống ở
đời này.
c. Cho con người hưởng sự sống đời sau.
d. Cho con người hưởng sự sống tự nhiên, siêu nhiên, được làm con cái Thiên Chúa
và hưởng hạnh phúc đời đời với Ngài.
2. Được Thiên Chúa ban cho tình yêu ta phải :
a. Đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa b. Để Thiên Chúa hoàn toàn làm
chủ đời ta
c. Sẵn sàng sống theo thánh ý Thiên Chúa d. Tất cả đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Bài học giúp ta cảm nhận hơn về tình thương của Thiên Chúa.
* Quyết tâm : Sống trong tâm tình biết ơn vì đang được hưởng những gì mình có :
mỗi tối, em nhớ tạ ơn Chúa trước khi đi ngủ.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha luôn muốn cho chúng con được làm
người và được làm con Cha. Chúng con xin dâng lời tạ ơn Cha.
Hát : “Xin dâng lời cảm tạ.”

BÀI 9 :
LOÀI NGƯỜI ĐÃ KHÔNG VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, giờ học Giáo lý lại đến, xin cho chúng con một tấm, lòng biết lắng
nghe. Xin dậy bảo chúng con Thánh Linh tình yêu Chúa (Đọc kinh cúi xin Chúa sáng
soi ).
1. Kiểm tra bài cũ + điều quyết tâm.
a. Khi nhận ra Chúa thương ta và sắp đặt một chương trình thật đẹp trên đời ta, ta
làm gì để đáp lại?
- Kính mến Cha trên trời và yêu thương anh chị em
b- Kinh nào đẹp nhất dậy chúng dậy chúng ta lòng hiếu thảo với Cha trên trời ?
- Kinh lạy Cha.
2. Viết tựa đề bài học.
LOÀI NGƯỜI ĐÃ KHÔNG VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA
Lời Chúa St 3, 1- 24
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Có người người đã tưởng tượng ra câu chuyện sa ngã của ông bà nguyên tổ
như sau :
Khi Thiên Chúa dựng nên Adam và Evà cho sống trong vườn địa đàng, kề cận
bên Chúa, Luxiphe đâm ra ghen tị, bèn nghĩ ra một kế làm hại con người. Luxiphe
hoá thân thành con rắn cám dỗ Adam – Evà ăn quả cấm, đúng như kế hoạch, con
người bị trừng phạt. Adam – Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Luxiphe khoái chí nói
với Giavê :
- Từ nay con người theo tôi chứ chẳng theo Giavê nữa.
- Giavê mỉm cười đáp : ngươi đừng tự đắc, rồi sẽ có ngày con người quay về
với Ta thôi.
- Luxiphe nói : Nếu Giavê cho cất dấu vườn địa đàng đi chỗ khác thì con người
sẽ không bao giờ trở về với Ngài đâu.
- Giavê bảo : Ta không dấu nhưng Ta cho ngươi dấu.
Luxiphe bèn triệu tập các tướng quỷ lại họp bàn. Một con quỷ giơ tay phát biểu
: Ta nên cất dấu trên các vì sao, con người không bao giờ với tới được!
- Các ngươi đừng khinh thường, một ngày kia con người sẽ phát minh ra phi
thuyền hiện đại, tối tân. Không được đâu, chúng ta sẽ thấy vườn địa đàng mất thôi.
Con quỷ khác đưa tay phát biểu : Chúng ta đào sâu trong lòng đất dấu vào
trung tâm quả đất !
- Không được, một ngày nào đấy con người sẽ chế tạo ra các mũi khoan, nó
khoan sâu trong lòng đất và cũng tìm ra.
Cuối cùng Luxiphe đưa ra ý kiến của mình, nó bảo :
- Bây giờ ta băm nhỏ vườn địa đàng ra tỷ mảnh, cứ một người chào đời chúng
ta nhét vào trong tâm hồn nó một mảnh. Con người từ ngày phạm tội nguyên tổ đâm
ra ích kỷ, không muốn cho người khác thấy mảnh vườn của mình, vườn địa đàng đó
bị chia ra hàng tỷ mảnh không bao giờ ráp nối được đâu và con người sẽ không tìm
được vườn địa đàng.
Các quỷ thấy ý kiến hay quá vỗ tay hoan hô và kế hoạch được thực hiện.
Tuy nhiên Thiên Chúa rất khôn ngoan, Ngài có kế hoạch cho Ngôi Hai nhập
thể, Ngài đã sống yêu thương và dậy ta biết yêu thương. Ngài đã lập Giáo Hội quy tụ
những người biết sống yêu thương lại, tình yêu của Ngài nối kết tất cả những người
yêu nhau lại, từ đó các mảnh vườn bé nhỏ được nối kết lại với nhau và chúng ta tìm
lại được vườn địa đàng ban đầu.
Vậy chúng ta đừng thất vọng về sự sa ngã của nguyên tổ, nhưng chúng ta hãy
vui mừng vì có Đức Kitô là Đấng cứu chuộc chúng ta, là Đấng sẽ dẫn dắt chúng ta về
vườn địa đàng mà con người đã từng đánh mất.
III. CỐNG BỐ LỜI CHÚA. St 3, 1- 24
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Câu chuyện xảy ra trong vườn Địa đàng muốn nói lên tình trạng ưu đãi
mà Thiên Chúa dành cho con người. Thế nhưng nguyên tổ đã nghe theo sự dụ dỗ
của con rắn và phạm tội không vâng phục Thiên Chúa. Chuyện ăn trái cấm là để diễn
tả việc nguyên tổ đã bất tuân lệnh Chúa, đó là tội đầu tiên của con người.
Thảo luận: Chúng ta cùng tìm hiểu thêm đoạn văn.
1. Có mấy nhân vật ? : - Thiên Chúa , Ađam, Evà, con rắn
2. Nhân vật chính : - Ađam, Evà.
3. Câu tóm ý : “Thiên Chúa phán bảo ông rằng : Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng
ngươi trần truồng? Chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi
không được ăn sao?” ( câu 11 ).
4. Tựa đề : Nguyên tổ loài người sa ngã.
A. CÂU CHUYỆN TRÁI CẤM.
CON NGƯỜI KHÔNG VÂNG LỜI.
Hướng dẫn :
Thiên Chúa cho con người sống trong vườn Địa Đàng là hình ảnh diễn tả
Thiên Chúa yêu thương con người cách đặc biệt : cho họ sống trong tình trạng hạnh
phúc, sống trong tương quan gần gũi và thân mật với Thiên Chúa. Địa Đàng là một
tình trạng, không phải là một địa điểm. Công Đồng Tren-tô (năm 1546) gọi đó là tình
trạng công chính nguyên thuỷ bao gồm các ơn :
a-Ơn siêu nhiên : (Thánh sủng + Các nhân đức + Hiện sủng)
+Ơn thánh sủng biến đổi người ta nên con Thiên Chúa.
+Các nhân đức đối thần: tin, cậy, mến.
+Các nhân đức luân lý: khôn ngoan, công bằng, dũng cảm, tiết độ.
+Các hiện sủng là ơn trợ giúp trong mọi công việc theo bổn phận.
b-Ơn ngoại nhiên :
+Trong trắng vô tội (St 2,25 : “cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ”,
x.St 3,7)
+Không phải đau khổ, vất vả, cực nhọc (x.St 3,16-19)
+Ơn bất tử (x.St 2,17; 3,3.19.22).
Giữa vườn có một cây gọi là cây “biết tốt biết xấu” Thiên Chúa cấm
con người không được ăn. Chi tiết này có ý trình bầy : lệnh truyền của Thiên Chúa
được diễn tả dưới hình thức trái cấm. Cứ ăn trái cấm tức là vi phạm lệnh truyền, coi
thường và khước từ ý của Thiên Chúa, là coi mình có quyền định đoạt mọi sự. Muốn
tự mình quyết định đâu là phải – là trái, trong khi đúng ra chỉ có dựa trên ý Thiên
Chúa mới biết được đúng – sai. Như thế, tội nguyên tồ chính là tội kiêu ngạo, bất
tuân, phản loạn chống lại quyền tối thượng của Thiên Chúa.
HS ghi :
Tội tổ tông là tội bất hiếu với Cha trên trời, đã quên phận làm con, coi mình
lớn hơn Thiên Chúa muốn tìm hạnh phúc ngoài Thiên Chúa, không chịu sống theo
chương trình yêu thương Thiên Chúa đã vạch ra.
B. TỘI TỔ TÔNG GÂY NÊN NHỮNG HẬU QUẢ NÀO?
Hướng dẫn :
Loài người họp thành một gia đình nhân loại, mọi việc ta làm dù tốt dù xấu
đều có ảnh hưởng đến người khác. Do đó, khi Ađam phạm tội, mọi con cháu đều chịu
ảnh hưởng xấu.
Tội tổ tông gây nên những hậu quả : (GLCG 400)
- Mất ơn nghĩa với Thiên Chúa, xa lìa tình thương của Thiên Chúa. Đưa con
người tới đau khổ, sự chết. Mở đường cho tội lỗi xâm nhập vào thế giới.
- Mất sự hoà hợp thương yêu với nhau (đổ lỗi cho nhau).
- Mất sự hoà hợp với bản thân (xấu hổ tìm lá che thân).
- Mất sự hoà hợp với thiên nhiên (phải làm việc cực nhọc).
- Lưu truyền cho tất cả loài người.
HS ghi :
Tội tổ tông làm cho con người không còn sống thân mật với Thiên Chúa, mất
bình an trong lòng, phải khổ sở trong cuộc sống và cuối cùng phải chết đời đời.
C. THIÊN CHÚA VẪN YÊU THƯƠNG QUÝ TRỌNG.
HS ghi :
Khi phạm tội chống lại Thiên Chúa, con người trở nên thù địch của Ngài. Thế
nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương tha thứ. Ngài đã cho con mình là Đức
Giêsu Kitô đến cứu chuộc con người.
V. CẦU NGUYỆN :
Lạy Chúa là Cha giầu lòng nhân ái, vì yêu thương Cha đã tạo dựng nên chúng
con, khấng ban cho chúng con sự sống từ Cha. Vì yêu thương Cha không để chúng
con chết trong tội lỗi mà đã ban Con Một yêu dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô đến cứu
chuộc chúng con.
Lạy Cha, chúng con cảm tạ tình thương của Cha, xin cho chúng con luôn biết
sống xứng đáng với tình thương của Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng
con. Amen.
VI. SINH HOẠT.
VII. BÀI TẬP .
1.Tội tổ tông làm cho loài người :
a. Mất ơn nghĩa với Thiên Chúa
b. Mất sự hoà hợp với bản thân, với đồng loại và với vạn vật.
c. Bị đau khổ và cuối cùng phải chết đời đời.
d. a, b, c đều đúng.
2. Sau khi tổ tông phạm tội :
a. Thiên Chúa tiếp tục yêu thương con người
b. Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người.
c. Cả a và b đều đúng. d. Cả a và b đều sai.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Bài học cho ta thấy : Vì bà Evà không tránh xa mà còn lân la trò chuyện với
Satan (con rắn) nên bị sa ngã.
* Quyết tâm : Em luôn trông cậy vào ơn Chúa, tránh xa môi trường xấu, các dịp tội,
cố gắng chống lại cám dỗ ngay từ đầu.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC
Gợi ý + Đọc kinh Sáng danh – kết thúc giờ học.
BÀI 10 : Dậy Men Tin Mừng 2
VƯƠN LÊN MỖI NGÀY

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, trong giờ học hôm nay, xin cho tất cả chúng con tìm thấy niềm vui,
ơn bình an và sự nâng đỡ của Lời Chúa trong cuộc sống của chúng con.
Đọc kinh lạy Cha.
1. Kiểm tra bài cũ + quyết tâm :
a. Tội tổ tông gây nên hậu quả gì?
-Tội tổ tông làm cho loài người mất ơn nghĩa với Thiên Chúa , mất sự hoà hợp với
bản thân, với đồng loại và với vạn vật , làm cho tội lỗi và sự chết tràn vào thế
gian, khiến loài người bị đau khổ và cuối cùng phải chết đời đời.
2. Sau khi tổ tông phạm tội Thiên Chúa còn yêu thương con người nữa không? Ngài
đã hứa điều gì ?
- Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người. Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để
cứu chuộc loài người.
2.Viết tựa đề bài học
II. THẢO LUẬN
Người ta thường nói : “Mới sinh ra ai có tài hơn ai, con dao kia đâu có bén khi
chưa mài”.
Hầu hết mọi người sinh ra trên đời đều được Thiên Chúa ban cho : sức khoẻ,
sự hiểu biết, các khả năng học hỏi. Nhưng ai muốn thăng tiến bản thân, muốn sống
một cuộc đời có ý nghĩa, có khả năng giúp đỡ người khác thì phải học hỏi, phải rèn
luyện.
Bây giờ chúng ta cùng nhìn vào gương bà Hellen Keller để biết vươn lên, trở
thành người có ích cho gia đình, Giáo Hội và xã hội.
Đọc trong sách học sinh, trang 40, phần 1.
A. MỘT TẤM GƯƠNG NGHỊ LỰC.
Thật không may cho bất cứ ai mắc phải tật nguyền như bà Keller, và thật khó
chấp nhận biết bao khi gặp phải tật nguyền này. Thế nhưng với một nghị lực quyết
tâm cao bà đã cải thiện được cuộc sống của mình để trở thành một tiến sĩ luật, nhà
văn, nhà thơ, nhà diễn thuyết, biết nhiều ngoại ngữ và chơi được nhiều môn thể thao.
Chúng ta có thể làm được như vậy không ?
Có nghị lực, tập chiến thắng những khiếm khuyết của mình, ham muốn mãnh
liệt trở thành người có ích sẽ giúp ta hoàn thiện được mình.
B. KHAO KHÁT TIẾN LÊN.
Cuộc đời của mỗi người cùng với ơn Chúa, những khả năng Chúa ban cho được
ví như những nén bạc. Chúng ta có luôn tìm cách sống để trở thành những đầy tớ trung
tín biét làm cho những nén bạc ấy sinh lời hay không? Ta có vượt qua được khuynh
hướng lười biếng, bày ra đủ lý do để khỏi cố gắng không? Nếu thật sự khao khát, ta
sẽ tìm cách vượt qua được những trở ngại.
Khao khát không phải là những mơ ước suông nhưng phải dẫn đến hành động, phải
bắt tay vào việc.
C. CỐ GẮNG TỪNG CHÚT MỘT, NGAY TỪ HÔM NAY.
Cuộc đời ta được nối kết bởi từng phút giây, nếu mỗi giây phút là một thành
công nho nhỏ thì cuộc đời ta là một cuộc đời thành công rồi, và những thành công
nhỏ này là những viên gạch xây nên thành công to lớn trong tương lai.
Không ai có thể cố gắng thay ta. Ta phải tự cố gắng. Những giây phút ta đang
sống là lúc để ta rèn luyện bản thân.
* Câu hỏi thảo luận :
Tại sao càng ngày càng có nhiều bạn trẻ lâm vào các tệ nạn xã hội khiến họ
bị giảm giá trị ?
XEM.
- Trong cuộc sống có nhiều bạn cùng trang lứa với chúng ta, họ coi nhẹ và bỏ bê
việc học hành, chỉ đàn đúm ăn chơi.
- Trên truyền hình không thiếu những mẩu nhắn tin tìm người thân, có nhiều em
chỉ ở độ tuổi từ 12 đến 15, mang theo của cải của cha mẹ bỏ nhà đi bụi đời.
-Báo chí cũng đưa tin những băng cướp “nhí” những băng cướp “miệng còn hôi sữa”
vì vướng vào ma tuý, để thoả mãn cơn nghiện họ đã rủ nhau đi giết người cướp
của.
- XÉT : Tại sao lại có những điều đáng tiếc này xẩy ra? Có phải lý do vì :
- Không nhận ra được giá trị làm người khiến họ không cố gắng giữ gìn phẩm giá.
- Thiếu sự giáo dục, học hành không đến nơi đến chốn dẫn đến những hành động
sai trái.
- Lười biếng, có khuynh hướng sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, tìm cách thoả mãn
những sở thích, đam mê không được hướng dẫn bởi một lý tưởng tốt, một lối sống
đạo đức cũng dễ đẩy đưa con người đến một lối sống buông thả không mục đích.
LÀM : Để tránh được các tệ nạn ta cần :
- Trau dồi kiến thức và đạo đức để có thể nhận ra đúng về điều tốt điều xấu.
- Nhìn vào gương của các danh nhân, các học sinh nghèo hiếu học, học sinh nghèo
vượt khó từ đó rút ra bài học cho mình.
- Biết khát khao một lý tưởng tốt đẹp để có động lực mạnh mẽ tiến lên vươn đến lý
tưởng ta đang khao khát bằng cách nhất quyết làm đến nơi đến chốn những điều
mình phải làm trong giây phút hiện tại này.
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Henry Ford là ngưòi đầu tiên có sáng kiến phát minh ra ngành xe hơi trên thế
giới. Ông sinh năm 1863. Thuở bé Henry Ford sống trong một hoàn cảnh vô cùng vất
vả, ông có khiếu về máy móc, khi còn bé ông đã theo học nghề này tại các xưởng
của người thợ rèn cùng xóm, kiếm được bao nhiêu tiền ông đều dành dụm để mua
những dụng cụ về cơ khí và nhất là ngành xe hơi. Tính ham hiểu biết được nung nấu
trong lòng. Khi mới 15 tuổi ông đã chế tạo một động cơ, khi cho chạy thử, động cơ
đã nổ tung, cháy nhà, thế nhưng ông không nản chí.
Đến năm 1879 Henry Ford xin vào làm cho hãng xe hoả ở Detroit. Chẳng bao
lâu sau ông bị đuổi việc và đi làm ở một xưởng khác với tiền lương 2 đôla rưỡi một
tuần, với số lương cơ cực đó ông vẫn nhẫn nại và can đảm theo đuổi nghề chế tạo xe
hơi. Đến năm 1908 ông đã thành công với chiếc xe hơi đầu tiên kiểu “ Model T” mà
người Mỹ gọi là “ Tinlizzle”. Ông mở rộng nghề này cho đến năm 1947 tức là lúc ông
qua đời, ông đã để lại một tài sản lớn hơn 1 tỷ đôla.
- Tất cả gương của các danh nhân cho ta thấy rằng: trong cuộc sống, khi ta
cố gắng phấn đấu để đạt đến một lý tưởng nào đó, thì chắc chắn ta sẽ đạt được. Điều
quan trọng là chúng ta phải biết khát khao một lý tưởng đẹp. Gương của Samuel
cũng cho ta thấy điều đó.
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Samuel 2, 18, 21- 26
V.CẦU NGUYỆN :
Lạy Chúa là Thiên Chúa và là Cha chúng con, chúng con xin tạ ơn Cha đã
dựng nên loài người chúng co với phẩm giá cao quý. Xin cho chúng con biết trân
trọng phẩm giá ấy bằng một cuộc sống tốt đẹp, biết đắc lực cộng tác vào những ân
huệ Chúa ban như : tài năng, sức lực, trí khôn… để làm vinh danh Chúa, đem lại lời
ích cho bản thân cũng như những người sống chung quanh. Chúng con cầu xin
nhờ Đức GK Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT
VII. BÀI TẬP :
1. Khi biết Thiên Chúa có một chương trình trên đời ta ta phải :
a. Tạ ơn chúa về chương trình ấy. b. Cộng tác với Ngài để hoàn thành
chương trình ấy.
c. Yêu mến anh em đồng loại.
2. Ta phải tôn trọng giữ gìn phẩm giá Chúa ban cho bằng cách :
a.Tôn trọng sự sống của mình và người khác.
b. Rèn luyện thể xác, trí tuệ tâm hồn với lý tưởng cao đẹp.
c. Cả a và b đều đúng. d. Cả a và b đều sai.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA :
Quyết tâm đạt được điểm tốt về điểm học cũng như điểm hạnh kiểm ở các giờ học
giáo lý và ở trường.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, chúng con cảm ơn Chúa đã ban cho chúng con có khả năng nhận
biết, ban cho chúng con có thời giờ để học hỏi. Xin thêm sức cho chúng con để chúng
con sống quyết tâm mà chúng con đã chọn. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa
chúng con. Amen.

BÀI 11 :
CỤ ABRAHAM TỔ PHỤ NHỮNG NGƯỜI TIN VÀO THIÊN CHÚA.

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, chúng con tin vào Lời Chúa là Thần Trí và là sự sống, xin cho chúng
con say mê học hỏi Lời Chúa và quyết tâm lấy Lời Chúa làm lẽ sống cho đời mình,
xin cho mỗi suy nghĩ, mỗi hành động của chúng con đều được soi sáng hướng dẫn
bởi Lời Chúa .
Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi.
1. Kiểm tra bài cũ :
Ta phải làm gì với các khả năng Thiên Chúa ban cho ta ?
- Phải tận dụng hết khả năng để trau dồi kiến thức, đạo đức.. để sau này trở thành
người có ích, phục vụ con người, phục vụ xã hội.
2. Tựa đề bài học : CỤ ABRAHAM TỔ PHỤ NHỮNG NGƯỜI TIN VÀO THIÊN CHÚA.
- Lời Chúa ( St 17, 1- 8 ).
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Hầu hết những người sống trong vùng Bảo Lộc này đều biết đến phong trào đi
tìm đá quý vào những năm 1991- 1992.
Người ta rủ nhau thành những nhóm, chuẩn bị lương thực cho cả tuần, cả
tháng, đổ xô vào những cánh rừng rậm để đào đá. Khi ra đi ai cũng hớn hở, hy vọng
mình sẽ “ trúng quả đậm”.
Tuy nhiên không phải tất cả mọi người đều may mắn, có những người tìm
được những cục đá có giá trị đến hàng chục triệu đồng, nhưng cũng có những người
chẳng được gì sau nhiều đêm ngủ trong những túp lều tạm ở rừng, chịu đựng mưa
gió, muỗi bọ cắn, có người bị bệnh sốt rét hoặc thậm chí bị chết vì hầm sập trong lúc
đang đào đá. Thế nhưng người ta vẫn đi vì hy vọng. Nhìn thấy những viên đá mà
người khác tìm được, người ta nuôi hy vọng mình cũng sẽ tìm được đá quý. Bởi vậy
họ chấp nhận những cảnh khắc nghiệt khổ sở.
Lời Chúa trong Kinh Thánh cũng có thể ví như con đường dẫn chúng ta đi tìm
viên ngọc quý giá hơn là Nước Trời, là Thiên Chúa .
Bài học hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa ngỏ lời với cụ Abraham và Cụ đã
mau mắn tin tưởng và làm theo lời của Thiên Chúa . chúng ta cùng lằng nghe đoạn
Kinh Thánh.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
St 17, 1- 8
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Nếu những ai đã đọc đầy đủ về câu chuyện cụ Abraham trong sách Sáng Thế
thì sẽ thấy đây là một câu chuyện rất dài và rất hay. Cụ là một người tốt lành chân
thật. Từ khi được Chúa kêu gọi để trở thành tổ phụ của nhiều dân tộc. Cụ luôn tin
tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa .
Lời hứa của Chúa với cụ Abraham tuy hấp dẫn nhưng cũng thật mơ hồ, vì lúc
này cụ đã 75 tuổi và bà Sara đã 70 tuổi mà chưa có con, thế mà Thiên Chúa lại hứa
ban cho cụ một dòng dõi “đông như sao trên trời, như cát bãi biển”. Thường tình mấy
ai chịu nghe theo. Thế mà cụ đã mau mắn vâng lời, cụ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa
và được kể là người công chính. Để hiểu rõ hơn Thiên Chúa đã hứa với cụ Abraham
những gì và niềm tin của cụ ra sao chúng ta cùng tìm hiểu đoạn văn.
Thảo luận:
1. Có mấy nhân vật : Thiên Chúa và cụ Abraham.
2. Nhân vật chính : Cụ Abraham.
3. Câu tóm ý : Phần Ta, này Ta giao ước giữa Ta với ngươi, ngươi sẽ là cha của rất
nhiều dân tộc.
4. Tựa đề : Abraham được Thiên Chúa chọn làm cha nhiều dân tộc.
A. THIÊN CHÚA CHỌN CỤ ABRAHAM VÀ BAN LỜI HỨA.
Thiên Chúa hứa ban cho cụ Abraham những gì?
- Cho một miền đất phì nhiêu.
- Cho cụ trở thành Cha của nhiều dân tộc.
- Cho xuất phát từ dòng dõi cụ một Đấng Cứu Thế.
Khi ban lời hứa lớn lao như thế. Thiên Chúa có đòi hỏi cụ điều gì không ?
- Có, Thiên Chúa đòi cụ : “Hãy đi trước mặt Ta và ở cho trọn lành”
HS ghi :
Vâng lời Thiên Chúa cụ Abraham đã mau mắn ra đi mà không chút lưỡng lự,
đắn đo, vì như Thiên Chúa hứa : “ Nhờ dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên trái đất sẽ
được chúc phúc”. Điều này ý nói rằng : sau này dòng dõi cụ sẽ sinh ra Đấng Cứu
Thế.
B. ABRAHAM NGƯỜI QUYẾT CHỌN THIÊN CHÚA.
HƯỚNG DẪN :
- Cụ Abraham có tin vào lời Thiên Chúa không?
- Có.
- Đâu là bằng chứng cho lòng tin của cụ?
Cụ đã nghe Lời Chúa mà bỏ quê nhà, đến vùng đất mới, dù cụ đã cao niên và
cụ bà đã quá tuổi sinh nở, nhưng cụ vẫn tin mình sẽ có con nối dòng. Cụ vâng Lời
Chúa đem con trai duy nhất đi tế lễ cho Thiên Chúa .
- Đức tin của cụ Abraham mạnh mẽ như thế nên cụ được gọi là gì?
Là cha của những kẻ tin (những người tin Chúa )
HS ghi :
Điểm nổi bật nơi cụ Abraham là lòng tin, chính vì tin mà cụ đã đáp lại lời Thiên
Chúa gọi, cụ đã bỏ lại đàng sau tất cả để dấn thân theo Chúa, chấp nhận để cho
Thiên Chúa hoạch định bước đường tương lai của mình.
C. ABRAHAM VỚI CHÚNG TA
Hướng dẫn :
* Cụ Abraham đã nêu gương gì cho chúng ta?
- Nêu gương cho chúng ta về một lòng tin mạnh mẽ vào TC.
* Tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa là thế nào?
- Là để Chúa hoàn toàn làm chủ đời ta mau mắn vâng lời Ngài và chờ đợi Ngài
thực hiện những điều đã hứa.
HS ghi :
Khi đáp lại lời Thiên Chúa, cụ Abraham không chỉ làm bước ngoặt cho đời cụ,
nhưng còn mở ra cả một nếp sống mới cho chúng ta, đó là tin vào Thiên Chúa.
IV. CẦU NGUYỆN .
Lạy Cha là Thiên Chúa trời đất, Đấng trung tín và nhân hậu. Cha đã có sáng
kiến chọn ông Abraham để chuẩn bị thực hiện việc cứu độ loài người chúng con. Xin
cho chúng con biết đặt trọn niềm tin vào tình thương của Cha. Xin cho con biết noi
gương cụ Abraham để luôn vững tin, tiến bước vững vàng giữa cuộc đời đầy cám dỗ
này. Xin giúp chúng con trung thành với giao ước ngày rửa tội, với lời hứa từ bỏ ma
quỉ và chọn Chúa là phần gia nghiệp. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa
chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ
1. Thiên Chúa hứa ban cho cụ Abraham :
a- Sự giầu sang phú quý. b- Trở thành cha của nhiều dân tộc.
c- Từ dòng dõi cụ sẽ phát xuất Đấng Cứu Thế. d- b và c đúng.
2. Cụ Abraham được kể là công chính vì :
a- Thiên Chúa đã ban cho cụ một dòng dõi đông đúc. b- Dòng dõi cụ sẽ sinh ra
Đấng Cứu Thế
c- Vì cụ đã tin mạnh mẽ khi đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa. d- Cả ba câu
a, b, c đều đúng.
VIII.SỐNG LỜI CHÚA
Theo gương cụ Abraham đáp lại tiếng Chúa : Em chọn một câu trong Tin Mừng
Chúa Nhật hôm nay để thực hiện.
IX.CẦU NGUYỆN KẾT THÚC
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã ban Lời Chúa cho chúng con, và
mời gọi chúng con đi vào sự sống của Chúa. Xin giúp chúng con can đảm thực hiện
điều quyết tâm chúng con đã chọn, để cuộc đời chúng con trở nên lời chúc tụng, tạ
ơn và ngợi khen Chúa không ngừng.
(Đọc Kinh Sáng danh)

BÀI 12 :
ÔNG MÔSÊ - NGƯỜI CỦA THIÊN CHÚA

I. CẦU NGUYỆN KHAI MẠC.


Lạy Chúa, xin chúc lành cho chúng con trong giờ học hôm nay, xin ban thánh
thần là ơn khôn ngoan và tình yêu của Chúa cho chúng con để chúng con say mê học
hỏi và yêu mến Lời Chúa
Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi.
1. Kiểm tra bài cũ và quyết tâm :
- Thiên Chúa hứa ban cho cụ Abraham những gì ?
Một miền đất phì nhiêu, một dòng dõi đông đúc, từ dòng dõi cụ sẽ sinh ra đấng
cứu thế.
- Tại sao cụ Abraham được gọi là người công chính?
Vì cụ đã đáp lại lời gọi của Thiên Chúa bằng niềm tin
2. Viết tựa đề bài học
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Một buổi tối cúp điện, ngọn nến được đem ra đặt ở giữa phòng, người ta châm
lửa và nó bắt đầu lập loà cháy sáng. Ngọn nến hân hoan nhận ra rằng : nó đã giúp
cho mọi người có ánh sáng. Ai cũng phải trầm trồ : “Ôi chao, ngọn nến sáng quá, đẹp
quá, dễ thương quá…” Nghe như thế ngọn nến lại càng nhiệt tình dùng hết sức mình
để ánh lửa nhỏ bé của nó đẩy lùi được bóng tối chung quanh.
Thế nhưng, những dòng sáp nóng đã bắt đầu chảy ra, lăn dài theo thân ngọn
nến. Nó cảm thấy càng lúc càng bị lún xuống, ngắn đi, ngắn thêm một chút rồi lại
một chút nữa, cho đến khi chỉ còn lại một nửa ngọn nến giật mình tự nhủ : “Chết
mất, ta mà cứ cháy sáng mãi thế này thì chẳng mấy chốc ta sẽ tàn lụi mất thôi. Tại
sao ta lại phải hy sinh một cách thiệt thòi oan uổng và ngu dốt như vậy chứ ?”
Ngần ngừ trong một thoáng, ngọn nến đã quyết định nương theo một ngọn gió
thoảng để tự mình tắt phụt đi. Tất cả chỉ còn lại một sợi khói mỏng manh giống như
một nụ cười mãn nguyện yên tâm…
Mọi người trong phòng bảo nhau: “Thôi chết, tắt ngọn nến rồi, tối quá, làm
sao bây giờ”. Ngọn nến chưa kịp cảm thấy hãnh diện về tầm quan trọng của mình thì
đã có một người lên tiếng đề nghị : “Nến dễ bị thổi tắt lắm, ta đi tìm một cái đèn dầu
thì hơn.”
Trong chốc lát người ta đã thắp được cây đèn dầu, còn mẩu nến cháy dở thì
bị người ta ném vào sọt rác.
Ngọn nến buồn thiu, thế là từ nay khó mà còn dịp để cháy sáng nữa. Nến chợt
hiểu ra tất cả : “Đời tôi là để cháy sáng, cháy sáng đến tiêu tan đi cho mọi người, cho
dù tôi chỉ có thể cháy sáng với một ánh lửa nhỏ nhoi bởi vì tôi là một ngọn nến”.
Tất cả mọi người chúng ta đều được Thiên Chúa xếp đặt cho một chương trình
trong kế hoạch yêu thương của Ngài. Chúng ta cũng chỉ mãn nguyện hạnh phúc khi
đón nhận được tình yêu thương từ Thiên Chúa và biến cuộc đời mình thành ngọn lửa
cháy sáng tình yêu phục vụ tha nhân.
Như Abraham và Môsê được Thiên Chúa tuyển chọn, cộng tác với Ngài trong
chương trình cứu độ. Tất cả chúng ta cũng được Thiên Chúa kêu gọi làm việc cho
Ngài, đó là sống yêu thương, là bước đi trong chương trình kế hoạch của Ngài.
Mời các em cùng nghe đoạn Kinh Thánh nói về Môsê.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Xh 2, 1- 10
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Đọc hai chương đầu sách Xuất Hành, ta thấy ở Ai Cập dòng dõi Giacóp sinh
sôi ra nhiều. Các vua Ai Cập sợ họ trở nên quá mạnh, có thể gây hiểm hoạ, nên bắt
đầu đàn áp, bắt họ làm nô lệ phục dịch trong các công trình của nhà vua. Đang khi
dân phải chịu khổ cực như thế thì Thiên Chúa chuẩn bị một người sẽ cứu họ đó là
ông Môsê. Để biết về ông Môsê chúng ta cùng tìm hiểu đoạn văn.
1. Đoạn văn trích trong sách nào? (Sách Xuất Hành ).
2. Nhân vật chính : Mô sê.
3. Câu tóm ý : Công Chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi, đặt tên cho nó là Môsê, nàng
nói : “Vì tôi đã vớt nó ở dưới nước lên”.
4. Tựa đề : “ Thiên Chúa chọn Môsê để giải thoát dân Người”.
Hướng dẫn :
-Tại sao mẹ Môsê lại đem thả Môsê trong một cái thúng?
Vì vua ra lệnh phải bóp mũi giết chết các trẻ nam Do Thái khi chúng vừa lọt
lòng mẹ.
-Ai đã vớt ông lên đem về nuôi?
Công Chúa con vua Ai Cập.
- Ông đã lớn lên như thế nào?
Ông đã được dạy dỗ và lớn lên trong trều đình. Mọi việc tưởng như tình cờ
ngẫu nhiên nhưng chính Thiên Chúa đã xếp đặt để chuận bị cho chương trình của
Ngài sau này.
HS ghi :
Thiên Chúa đã chọn Môsê cho chương trình của Ngài và Ngài đã dùng những điều
bất ngờ nhất để thực hiện ý định của Ngài.
Hướng dẫn :
Môsê đã hạ sát một người Ai Cập để bênh đỡ đồng bào mình. Hành động này
đúng hay sai ?
Sai, ông đã phải chạy trốn, khiến công việc của Chúa chậm đến 40 năm để uốn
nắn ông thành một người hoàn toàn vâng phục Người, để ông thực hiện chương trình
của Chúa chứ không phải của ông.
Môsê cảm thấy thế nào khi Chúa gọi ông ?
Ông cảm thấy sợ hãi không dám nhận lời, vì ông không còn tuổi trẻ và nghị
lực.
HS ghi :
Thiên Chúa muốn tỏ rõ quyền năng Ngài trong nỗi yếu hèn của các cộng sự
viên.
Hướng dẫn :
Điều gì làm cho Môsê trở thành người của Thiên Chúa ?
Sự cầu nguyện trong thinh lặng, hoàn cảnh đẩy đưa, ông phải thường xuyên
sống một mình, trở thành một tâm hồn chiêm niệm. Môsê luôn sống thân mật với
Chúa.
HS ghi :
Đời sống thân mật với Thiên Chúa đã giúp cho hoạt động của Môsê có kết quả,
biến đổi ông nên giống Thiên Chúa .
V. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa nhân hậu và yêu thương, chúng con xin tạ ơn Chúa
vì mỗi ngày chúng con đang sống đều là hồng ân của Chúa. Xin cho chúng con một
tâm hồn thinh lặng biết lắng nghe, để ngay cả khi chúng con học hành, vui chơi,
chúng con vẫn có thể gặp được Chúa, hướng lòng về Chúa. Xin cho chúng con luôn
tin tưởng rằng Chúa không bao giờ bỏ chúng con khi chúng con gặp đau khổ.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng đời sống chúng con cùng đời sống tất cả mọi
người thân của chúng con trong bàn tay khoan phòng yêu thương của Chúa. Chúng
con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT.
VII. BÀI TẬP
1/ Điều làm cho Môsê trở thành người của Thiên Chúa là :
a. Nhiệt tình hành động của ông hồi 40 tuổi. b. Sự cầu nguyện trong thinh lặng.
c. Bốn mươi năm chăn đàn vật. d. a, b, c đều đúng.
2/ Môsê là :
a. Đấng trung gian duy nhất chuyển cầu cho ta. b. Đấng dẫn dắt ta về với
Chúa.
c. Hình ảnh báo trước về Chúa Giêsu, Đấng được sai đến để giải phóng ta khỏi nô
lệ tội lỗi.
d. a, b, c, đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA :
Bài học cho ta thấy Thiên Chúa không bỏ quên dân Ngài đang sống kiếp nô
lệ. Thiên Chúa không quên ta mỗi khi ta gặp khốn khó.
Noi gương Môsê luôn sống thân mật với Chúa
* Quyết tâm : Luôn nhớ cầu nguyện với Thiên Chúa khi thức dậy và trước giờ
đi ngủ.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, giờ học đã kết thúc, xin cho chúng con ra về được bình an và lời
Chúa không ngừng lớn lên trong tâm hồn chúng con.
Đọc kinh sáng danh.

BÀI 13
LỄ VƯỢT QUA VÀ NGÀY GIẢI THOÁT.
( Xh 12, 1- 8 . 11- 4 )

I. CẦU NGUYỆN KHAI MẠC.


Lạy Chúa, xin thánh hoá giờ học của chúng con hôm nay, xin cho mỗi người
trong chúng con có một niềm say mê học hỏi Lời Chúa và áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày
Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi.
Kiểm tra bài cũ và quyết tâm .
a. Đời sống thân mật với Thiên Chúa mang lại cho Môsê điều gì?
- Giúp cho mọi hoạt động của Môsê có kết quả, biến đổi ông nên giống Thiên
Chúa
b. Môsê là hình ảnh báo trước về ai?
- Là hình ảnh báo trước về Chúa Giêsu Đấng được sai đến để giải thoát ta khỏi
ách nô lệ tội lỗi và là Đấng trung gian duy nhất chuyển cầu cho ta trước mặt
Chúa Cha.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Một hôm hoàng đế Napôlêông hỏi các tướng lãnh của ông như sau: “Các ngươi
có biết ngày đẹp nhất đời ta là ngày nào không?”
Người ta bắt đầu kể ra ngày thắng trận này ngày thắng trận nọ, thế nhưng
ông lắc đầu : “Không phải thế!”. Bỗng một tướng lãnh reo lên như tìm ra đáp số của
một bài toán: “Tâu bệ hạ, hẳn đó phải là ngày đăng quang của bệ hạ”. Napôlêông lại
lắc đầu và nghiêm giọng nói : “Ngày đẹp nhất trong đời ta đó là ngày được Rước Lễ
Lần Đầu, ngày ta được dự Tiệc Chiên Vượt Qua!”
Lễ Vượt Qua là gì?
Ngồn gốc của lễ này đuợc ghi trong sách Xuất Hành chương 12 , mời các em
cùng lắng nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Xh 12, 1- 8. 11- 14
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Khi Thiên Chúa ra tay giải thoát dân Israel Ngài truyền cho họ giết con chiên
và lấy máu nó bôi lên cửa để được thoát chết. Đêm ấy họ ăn tiệc lên đường thật vội
vàng. Đó chính là nguồn gốc của Lễ Vượt Qua mà sau này họ mừng trọng thể như
ngày quốc khánh, ngày khai sinh của dân tộc Israel.
Chúng ta cùng tìm hiểu thêm đoạn Kinh Thánh.
Thảo luận :
1. Từ ngữ chính : Ngày vượt qua.
2. Câu tóm ý : “Các ngươi sẽ ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm và phải mừng
ngày ấy trọng thể kính Thiên Chúa”
3. Tựa đề : Lễ Vượt Qua.
Hướng dẫn :
Theo bài học trước thì ông Môsê dường như ngần ngại trước lời mời gọi
của Thiên Chúa vì sợ trách nhiệm quá nặng. Vậy trong bài học hôm nay ta lại thấy
ông Môsê mạnh dạn đến đòi vua Ai Cập đòi cho dân mình được ra đi ?
Đó là vì : - Môsê có người trợ giúp là Aaron.
- Môsê làm được dấu lạ.
- Môsê tin tưởng có Chúa ở cùng.
Dấu hiệu nào được dùng trong ngày vượt qua? - Máu chiên bôi lên cửa.
HS ghi :
Lễ Vượt Qua là lễ trọng nhất đối với người Do Thái. Hằng năm họ kỷ niệm lễ
này như là ngày quốc khánh của dân tộc.
Hướng dẫn : Tại sao gọi việc Thiên Chúa cứu thoát Israel bằng chữ
“Vượt Qua”?
- Thiên Chúa vượt qua nhà những người Do Thái có bôi máu chiên trên khung
cửa, trong khi Ngài vào tất cả những người Ai Cập và đánh phạt tất cả các con đầu
lòng.
- Khi bị quân Ai Cập đuổi theo, người Do Thái chứng kiến việc Thiên Chúa cho
họ vượt qua Biển Đỏ an toàn.
HS ghi : Chữ “Vượt Qua” chỉ việc dân Do Thái được cứu cách lạ lùng.
Hướng dẫn :
Tại sao lại nói Lễ Vượt Qua báo trước việc Chúa Giêsu chết và sống lại để cứu
thoát khỏi ách nô lệ và tội lỗi ?
Trước hết, vì Đức Giêsu chết và sống lại trong dịp Lễ Vượt Qua. Thứ hai, vì
cũng như máu chiên vượt qua bôi lên khung cửa làm dấu hiệu cứu dân thoát chết.
Đức Giêsu cũng đổ máu chết trên thập giá để khi sống lại cho ta được sống với Ngài.
Thế nên, Ngài được gọi là Chiên Vượt Qua. Còn ba ngày kính nhớ sự chết và sống lại
của Ngài được gọi là Tam Nhật Vượt Qua.
HS ghi :
Lễ Vượt Qua còn báo trước việc Chúa Giêsu chết và sống lại để cứu thoát ta khỏi
ách nô lệ và tội lỗi.
Hướng dẫn :
Trong ngày được cứu thoát, người Do Thái ăn thịt chiên và lấy máu chiên bôi
lên cửa làm dấu để được cứu thoát. Chúa Giêsu cũng đổ máu chết trên Thập Giá để
chúng ta cùng sống lại với Người nên Ngài cũng được gọi là Chiên Vượt Qua.
Ngày xưa dân Israel đi qua Biển Đỏ trong quyền năng của Thiên Chúa và
thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập. Ngày nay chúng ta đi qua nước rửa tội nhờ sự chết
và sống lại của Chúa Giêsu. Chúng ta bước từ đời sống nô lệ tội lỗi sang đời sống tự
do của người làm con Chúa.
HS ghi :
Việc đi qua Biển Đỏ của dân Do Thái báo trước về Bí Tích rửa tội. Nhờ Bí tích
rửa tội chúng ta bước từ đời sống nô lệ sang đời sống tự do làm con cái Chúa.
V. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, trong dịp Lễ Vượt Qua xưa Chúa đã cứu dân Israel thoát ách nô lệ
Ai Cập bằng quyền năng của Chúa và làm cho vua Pharaô cùng binh lực Ai Cập phải
khiếp sợ.
Chúng con cũng là những người đuợc Chúa cứu thoát khỏi nô lệ tội lỗi nhờ vào
sự vượt qua cõi chết để bước vào sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Chúng con cảm tạ
Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con luôn giữ được lòng trong sạch, xin thương hướng dẫn
đời sống chúng con bằng ánh sáng, bằng sự khôn ngoan của Thánh Thần Chúa, để
chúng con đuợc đi trên con đường hằng sống mà Chúa Kitô đã đi. Chúng con cầu xin
nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT
VII. BÀI TẬP
1. Lễ Vượt Qua của người Do Thái :
a. Chỉ việc TC vượt qua nhà người Do Thái có bôi máu chiên. b. Chỉ việc
dân Israel đi qua Biển Đỏ.
c. Báo trước việc Chúa Giêsu chết và sống lại để cứu ta khỏi nô lệ tội lỗi. d. a,
b, c, đều đúng.
2. Thiên Chúa đã dùng hình phạt nào để vua Ai Cập sợ hãi phải cho dân Israel ra khỏi
Ai Cập?
a. Tiêu diêït binh lực Ai Cập tại Biển Đỏ. b. Giết các con đầu lòng Ai Cập.
c. Giết con đầu lòng của Pharaô. d. Cả a, b, c, đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Biến cố Vượt Qua cho ta thấy: Thiên Chúa là Đấng quyền năng, giầu lòng thương
xót và luôn ở giữa dân Người. Biến cố này báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh hồng
phúc của Chúa Giêsu. Mầu nhiệm này vẫn đang diễn ra trong bí tích Thánh Thể và
trong các Thánh Lễ, nhất là Thánh Lễ Chúa Nhật.
* Quyết tâm : Kính trọng yêu mến Thánh Thể Chúa trong nhà tạm cũng như khi đón
Chúa vào lòng.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã cho chúng con được thoát khỏi ách nô lệ
tội lỗi. Xin cho chúng con mãi tin tưởng vào Lời Chúa và sức mạnh của quyền năng
Chúa
- Đọc kinh sáng danh

BÀI 14
GIAO ƯỚC SINAI

I.CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, trong giờ học hôm nay, chúng con sẽ tìm hiểu về giao ước của Chúa
với loài người chúng con, xin soi sáng để chúng con hiểu được giao ước của Chúa là
giao ước của tình thương, của ơn cứu độ.
Đọc kinh lạy Cha.
1. Kiểm tra bài cũ và quyết tâm .
a.Lễ Vượt Qua là gì?
Là lễ kỷ niệm việc Thiên Chúa cứu thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập.
b. Lễ Vượt Qua báo trước điều gì?
Báo trước việc Đức Giêsu chết và sống lại để cứu thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi.
2-Tựa đề bài học : GIAO ƯỚC SINAI.
II.DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Trong mối quan hệ với người khác chúng ta thường đưa ra những tiêu chuẩn thường
hai bên đều chấp nhận để qua lại với nhau.
Trong công việc làm ăn người ta thường cũng làm các hợp đồng kinh tế, đó là
những điều khoản, những giao ước mà hai bên đã thoả thuận để công việc làm ăn
được công bằng và tôn trọng. Ai vi phạm phải chịu trách nhiệm và bồi thường.
Trong Kinh Thánh sau trận lụt đại hồng thuỷ Chúa phán với gia đình Nôê : “Ta
lập giao ước giữa Ta với các ngươi… sẽ không còn dùng hồng thuỷ đến tiêu diệt trái
đất và dấu chỉ là cầu vồng trên không” ( St 9, 8- 17 ).
Khi Abraham được 99 tuổi. Giavê hiện ra với ông và phán: “Ta là Thiên Chúa,
ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và ở cho trọn lành. Ta sẽ cho ngươi sinh sản đầy mặt
đất”.
Như vậy, trước giao ước Sinai ta cũng có thể coi lời phán bảo của Thiên Chúa
với Nôê và Abraham như những giao ước.
Bài học hôm nay sẽ nói cho chúng ta rõ hơn về giao ước Sinai. Giao ước này
không phải Thiên Chúa ký kết với một người mà là với một dân tộc vừa được Chúa
giải thoát khỏi vòng nô lệ. Chúng ta hãy nghe đoạn Kinh Thánh nói về Giao Ước này.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA: Xh 24, 3- 8
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Ra khỏi Ai Cập, dân Chúa đi vào rừng vắng, họ đi rất vất vả, nhưng được Thiên
Chúa lo lắng mọi sự: cho họ ăn Man- na và chim cút, uống nước từ tảng đá.
Sau khi ra khỏi Ai Cập, dân Chúa cắm trại dưới chân núi Sinai. Môsê theo lời
Chúa, bảo dân tắm rửa sạch sẽ rồi ông lên núi. Đến ngày thứ ba, sấm chớp kinh
hoàng và một đám mây che phủ đỉnh núi. Chúa hiện xuống trên núi, toàn dân run
sợ. Môsê thưa chuyện cùng Chúa, tiếng Chúa đáp lại như sấm sét rồi ban lề luật cho
dân.(x. Xh 19, 1- 25 ).
Lời Chúa trong bài đọc chúng ta vừa nghe chỉ diễn tả phần kết thúc của Giao
ước Sinai. Tuy nhiên đoạn văn này cũng có thể giúp chúng ta hiểu rõ về giao ước
này.
Thảo luận:
1. Từ ngữ chính : Giao Ước.
2. Câu tóm ý : “Đây là máu Giao Ước Thiên Chúa đã cam kết với các ngươi, theo
đúng tất cả các lời ấy” (câu 8)
3. Tựa đề : Giao Ước giữa Thiên Chúa và Israel
Hướng dẫn :
+ Giao Ước là gì? - Là hai bên hứa giữ đúng những gì đã hứa, đã thoả thuận
với nhau.
+ Trong bài học này, ai là ngươi khởi xướng Giao Ước? - Thiên Chúa là Đấng
khởi xướng Giao Ước, giao ước này Ngài ban cho
dân Israel vì tình thương.
+ Trong giao ước Thiên Chúa nói gì? - Ngài hứa sẽ mãi mãi che chở dân riêng
Ngài chọn.
+ Ngài có đòi điều kiện gì không? - Ngài đòi họ tuân giữ những điều trong giao
ước là trung thành thờ phượng một mình Thiên Chúa
và sống theo luật Ngài truyền.
HS ghi :
Giao Ước Sinai là cam kết giửa Thiên Chúa và dân Israel ở núi Sinai. Tại
đây Thiên Chúa nhận dân Israel làm dân riêng và hứa sẽ che chở họ, còn dân thì
hứa trung thành thờ phượng một mình Thiên Chúa và tuân giữ luật Ngài ban.
Hướng dẫn :
Mười điều luâït Giao ước được Thiên Chúa khắc trên hai bia đá. Ông Môsê đã
làm một cái hòm để đựng gọi là Hòm Bia Giao Ước hay Khám Giao Ước. Hòm Bia được
đặt ở trong lều ở trung tâm trại của Israel được gọi là Lều Giao Ước.
- Luật của giao ước này là gì? (Là 10 điều răn.)
- Những điều răn này nói gì? (Ba điều răn đầu là luật phải giữ với Chúa. Bảy
điều răn sau là về con người.)
-Giao ước Sinai đã phải là giao ước vĩnh cửu chưa? (Chưa, nó chỉ là hình ảnh
và báo trước giao ước vĩnh cửu được ký bằng máu Chúa Kitô.)
HS ghi :
Tại Sinai, Thiên Chúa đã tóm tắt luật của Ngài trong Mười Điều Răn, Giao ước Sinai
là hình ảnh báo trước giao ước mới và vĩnh cửu mà Thiên Chúa sẽ lập với tất cả loài người
trong Máu Chúa Giêsu.
Hướng dẫn :
Giao Ước Sinai biến Israel thành dân tộc thành dành riêng cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa chọn Israel làm con Ngài. Họ chỉ được thờ phượng một mình Thiên Chúa
và loan báo cho các dân tộc biết đường lối cứu độ của Thiên Chúa .
Tất cả chúng ta cũng có một Giao ước làm cho chúng ta thuộc riêng về Chúa:
đó là Giao ước Bí tích Rửa Tội.
HS ghi :
Cuộc xuất hành và Giao Ước Sinai là khởi điểm của một dân tộc. Còn Bí tích
Rửa tội là khởi điểm cho đời Kitô hữu của mỗi người chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa và là Cha chúng con. Chúng con xin hết lòng tạ ơn
Cha vì Cha đã ban cho chúng con luật của Cha như là con đường dẫn đưa chúng con
về với Cha là nguồn hạnh phúc yêu thương đích thực. Và hơn nữa Cha đã cho chúng
con được tham dự vào Giao Ước vĩnh cửu được ký kết bằng máu Chúa Kitô, Con Một
yêu dấu Cha.
Xin cho chúng con mỗi lần ăn và uống mình máu Chúa Kitô là một lần hứa
trung thành tuân giữ luật Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Amen.
VI. SINH HOẠT.
VII. BÀI TẬP.
1. Mười điểu răn được đề cập đến trong sách
a. Sáng Thế b. Xuất Hành c.Dân Số d. a+b+c đều đúng.
2. Giao Ước Sinai là :
a. Giao Ước vĩnh cửu. b. Giao Ước giữa Môsê và Thiên Chúa.
c. Hình ảnh báo trước Giao Ước vĩnh cửu được ký bằng máu Chúa Kitô.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
* Quyết tâm : Đi lễ thứ năm tuần này (hay 1ngày khác trong tuần) tham dự Bí tích
Thánh Thể một cách sốt sắng.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã ban cho chúng con giờ học này. Xin giúp
chúng con sống trung thành với tình thương của Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ.
- Đọc kinh sáng danh.

BÀI 15:
Dậy Men Tin Mừng
SỐNG CÓ KỶ LUẬT

I. CẦU NGUYỆN KHAI MẠC


Lạy Chúa, xin chúc lành cho tất cả chúng con trong giờ học này, để khi tìm
hiểu Lời Chúa chúng con sẽ khám phá ra được niềm vui và lòng trông cậy vào Chúa.
Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi.
Kiểm tra bài cũ :
a. Giao Ước Sinai là gì?
Là cam kết giữa Thiên Chúa và dân Israel ở núi Sinai. Tại đây Thiên Chúa nhận
dân Israel làm dân riêng và hứa sẽ che chở họ. Còn dân hứa trung thành thờ
phượng một mình Thiên Chúa và tuân giữ luật Ngài ban.
b. Giao Ước Sinai là hình ảnh báo trước điều gì?
Báo trước Giao Ước mới và vĩnh cửu mà Thiên Chúa sẽ lập với tất cả loài người
trong máu Chúa Giêsu.
II. THẢO LUẬN
Hôm nay chúng ta học bài “SỐNG CÓ KỶ LUẬT”. Vậy kỷ luật là gì? (Kỷ luật là
sự rèn luyện đặc biệt về tinh thần và tính cách nhằm tạo ra sự tự chủ, phục
tùng.) Chúng ta có 3 câu hỏi:
Câu 1: Kỷ luật có cần thiết không ?
XEM.
Tất cả các tổ chức mang tính tập thể như : quốc Gia, trường học, công ty, xí
nghiệp đều có những luật lệ, nội quy, quy tắc mà mọi người phải tuân theo để cho tổ
chức , tập thể đó phát triển tốt..
Ngoài ra cũng có nhiều người tự đặt ra những kỷ luật cho mình và sống theo
kỷ luật đó.
XÉT.
Các em thấy kỷ luật có cần thiết không? Có thấy mình yêu thích kỷ luật không?
Có bao giờ bị người khác nói là sống vô kỷ luậït không?.
Ta thấy những vĩ nhân, những người thành đạt đều là những người biết sống
theo kỷ luật.
LÀM.
Muốn thành đạt thì không những phải ép mình sống theo kỷ luật, và đặt ra cho
mình những kỷ luật và sống theo kỷ luật ấy.
HS ghi :
Kỷ luật giúp đào tạo con người, nhờ có kỷ luật năng lực con người được tập
trung để hướng đến một mục tiêu, nhờ đó ta có thể đi tới chỗ thành công.
Câu 2: Kỷ luật có làm mất tự do không ?
XEM.
Có nhiều người cảm thấy kỷ luật là một đièu gì đó thật khó chịu, làm cho họ
bị mất tự do, trái lại có những người cảm thấy yêu thích kỷ luật, xem kỷ luật như một
phương pháp để rèn luyện bản thân mình trưởng thành hơn.
XÉT : Tại sao có những người không tuân theo kỷ luật?
Có phải họ chưa chiến thằng được bản thân họ, hay họ chưa ý thức được kỷ
luật là cần thiết. Còn bản thân các em thì sao? Mình là người yêu thích kỷ luật hay
không? Có nhận ra tầm quan trọng của kỷ luật không?
LÀM- HS ghi :
Ý thức được kỷ luật là cần thiết, kỷ luật là con đường rèn luyện mình trưởng
thành và dẫn đến thành công thì ta sẽ dễ dàng khép mình vào kỷ luật hơn.
Câu 3: Giữ kỷ luật cụ thể hằng ngày là làm những gì ?
XEM. Kỷ luật là những điều cụ thể như : Đi học đúng giờ, làm bài đầy đủ, chấp hành
các nội quy của tập thể mà mình đang sinh hoạt.
XÉT: Mình có là người mau mắn thực hiện các nội quy của tập thể mà mình
đang sinh hoạt không? Có thực hiện ngay những quyết định của mình không?
Có hẹn lần để sau rồi tính không?
LÀM : HS ghi :
Hãy thực hiện ngay những gì mình đề ra trong ngày, lên thời khoá biểu cho
một ngày sống và cố gắng thực hiện cho bằng được dù đó là điều nhỏ nhất. Vì không
thực hiện được những điều nhỏ nhất, thì làm sao ta có thể thực hiện được việc lớn
hơn.
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Kỷ luật là điều chúng ta có thể đọc thấy nơi cuộc đời thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh.
Năm 15 tuổi ngài được gửi đi học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong chủng
viện, Ngài là một chủng sinh gương mẫu, là một con người giữ kỷ luật triệt để. Ngài
đã cương quyết hiến dâng trọn đời cho Chúa và muốn thể hiện điều đó trọn vẹn.
Chính vì thế Ngài tích trữ cơm khô, âm thầm rời chủng viện, vào sâu trong rừng vắng
để thực hiện mong ước được cầu nguyện và kết hợp mật thiết với Chúa bằng đời
sống khắc khổ trong cô tịch. Nhưng đức cha không muốn như vậy.
Vâng lời đức cha Gia, ngài từ giã rừng sâu trở về chủng viện tiếp tục học thần
học. Khi đã trở thành linh mục và làm giám đốc kiêm giáo sư chủng viện Vĩnh Trị.
Ngài thường khuyên các thầy tuân giữ kỷ luật, vì chính Ngài đã có kinh nghiệm sâu
sắc : “Kỷ luật là ân nhân thể hiện lòng mến Chúa nâng đỡ đời tu”.
Bây giờ mời các em cùng nghe đoạn Kinh Thánh nói về các trẻ Do Thái
được Thiên Chúa chúc lành vì các em biết yêu mến Thiên Chúa thể hiện qua việc
trung thành với lề luật.
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA. (Đn 1, 3- 20 ).
V. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến, để làm gương cho chúng con, mặc dầu là Thiên
Chúa , Chúa đã vâng lời Chúa Cha, vâng phục, yêu mến thánh cả Giuse và Mẹ Maria.
Xin cho tất cả chúng con biết noi gương Chúa mà học cho biết vâng phục, để xứng
đáng làm con Chúa. Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời.
Amen.
VI. SINH HOẠT.
VII. BÀI TẬP.
1. Kỷ luật giúp con người
a. Mạnh khoẻ, giầu có b. Trở nên tự chủ.
c. Có thể tập trung năng lực để dễ đi đến thành công. d. b và c đều đúng.
2. Để dễ dàng khép mình vào kỷ luật hơn ta phải :
a. Ý thức kỷ luật là cần thiết. b. Chọn kỷ luật là con đường rèn luyện mình
trưởng thành.
c. a và b đều đúng. d. a và b đều sai.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Sống theo thời khoá biểu một tuần, giờ nào việc nấy. Tự mình lên thời khoá
biểu và tự đánh giá xem mình thực hiện được bao nhiêu phần trăm.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, với khao khát tìm được Chúa, sống theo Lời Chúa nên chúng con đã
bỏ ra một giờ để học hỏi Lời Chúa. Xin cho chúng con mỗi lần cố gắng học giáo lý
và thực hiện theo thời khoá biểu là một lần được Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con
có thể sống đúng với ý Chúa muốn. Amen.

BÀI 16 :
CUỘC TÔI LUYỆN TRONG SA MẠC

I.CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học giáo lý này, xin Chúa thương
ban ơn và thánh hoá giúp chúng con hiểu Lời Chúa và biết áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày.
“ Cúi xin Chúa sáng soi”.
Kiểm tra bài cũ + quyết tâm :
- Em hiểu thế nào về câu nói: “Kỷ luật đào tạo con người ?”
(Người sống có kỷ luật sẽ giúp mình rèn luyện – tu dưỡng mỗi ngày để thành công
trong cuộc sống và có ích cho đời )
- Ta phải sống kỷ luật như thế nào ?
(Phải tự giác sống kỷ luật- chủ động giữ kỷ luật để đạt được mục đích tốt đẹp ta
đang hướng tới )
- Em đang giữ kỷ luật hay kỷ luật đang giữ em ? (HS tự trả lời)
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Giao ước Sinai đã được ký kết và mọi người đồng thanh hứa: “Chúng tôi sẽ thi
hành và sẽ ghe theo”. Thế nhưng dân Chúa còn ngỡ ngàng với mười điều luật giao
ước vì đã quen sống theo thói tục ngoại giáo lây nhiễm bên Ai Cập. Cho nên, bốn
mươi năm trong sa mạc là thời gian Thiên Chúa dùng để tôi luyện thử thách, để dạy
cho dân Chúa tập tín thác vào quyền năng và tình thương của Ngài
Thiên Chúa luôn an bài cho dân Ngài mọi sự cả hồn lẫn xác mà hôm nay chúng
ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua Lời Chúa và bài học giáo lý này ( Mời học sinh đứng ).
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
1 em đọc Ds 9, 15 – 23 . (Sách Học Sinh, trang 147)
Phút thinh lặng.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Học sinh đọc lại đoạn Kinh Thánh: Ds 9, 15- 23.(trang 147)
- Đoạn Kinh Thánh vừa đọc trích từ sách nào ? Đoạn mấy? Câu bao nhiêu
?
Thảo luận :
1- Đoạn văn có cụm từ nào quan trọng? (“theo lệnh Thiên Chúa”)
2- Câu nào tóm tắt được ý cho cả đoạn? (Câu 23: “Theo lệnh Thiên Chúa họ cắm
trại, theo lệnh Thiên Chúa Hoàng ra đi, họ giữ điều Thiên Chúa truyền
giữ, theo những mệnh lệnh Thiên Chúa truyền qua Môsê”).
3- Tựa đề ngắn : “Hành trình của dân Chúa trong sa mạc”.
Hướng dẫn :
A. NHỮNG THỬ THÁCH ( HS đọc sách trang 67).
-Ai đã dẫn dân Chúa đi trong sa mạc ? (chính Thiên Chúa)
-Vượt qua Biển Đỏ rồi lên đường dân Chúa gặp khó khăn gì? ( Thiếu lương
thực, nước uống )
- Họ tỏ thái độ như thế nào ? (Kêu trách Chúa, kêu trách Môisen “thà để
chúng tôi làm nô lệ ở Ai Cập”.)
- Khi ấy Thiên Chúa đã phạt họ chưa ? Ngài đã làm gì ?
(Chưa, Ngài ban Manna, chim cút, nước )
- Vì sao Chúa phạt họ bằng cách cho rắn cắn ?
(Họ nhiều lần kêu trách và không trung thành với giao ước).
HS ghi :
Rời khỏi Ai Cập, dân Chúa phải đi 40 năm trong sa mạc, gặp bao thử thách
nhưng Chúa luôn ở với họ, ban cho họ Manna và nước uống từ tảng đá. Cho cột mây
ban ngày, cột lửa ban đêm để dẫn đường cho họ.
B.KINH NGHIỆM SA MẠC. (HS đọc sách trang 68).
Khi đi trong sa mạc với bao thử thách đã làm cho nhiều người nản chí, nhiều
khi họ đã tỏ ra bất tín phàn nàn Thiên Chúa. Thậm chí có nhiều kẻ muốn quay trở
lại sống kiếp nô lệ Ai Cập. Nhưng Thiên Chúa đã dùng thời gian 40 năm để thanh
luyện.
HS ghi :
Thiên Chúa đã đưa dân Ngài đi trong sa mạc lâu năm, để thanh luyện họ khỏi
nếp sống cũ của Ai Cập, để họ tập quen sống với Ngài và để phần nào dân Chúa hiểu
được tình yêu và đường lối Ngài cứu chuộc họ, cho họ biết tin tưởng vào Ngài.
C. SA MẠC GIỮA CUỘC SỐNG .
Tựa đề phần này là : “SA MẠC GIỮA CUỘC SỐNG”. Từ sa mạc ở đây ta không
nên hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng. Vậy sa mạc ở đây muốn ám
chỉ tâm hồn thinh lặng của mỗi kitô hữu khi họ muốn gặp Chúa.
Chúng ta cũng phải thoát ra khỏi những lo toan và sinh hoạt ồn ào hỗn tạp
của đời thường, để tự tạo cho mình một sa mạc riêng chỉ có bản thân với Chúa thôi,
thì mới nghe thấy tiếng Chúa, mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài.
HS ghi :
Sa mạc giữa cuộc sống là thinh lặng nội tâm. Thinh lặng nội tâm là thinh lặng
tình yêu mà “chỉ có tình yêu thinh lặng mới là ngôn ngữ được Thiên Chúa lắng nghe
hơn cả” (Thánh Gioan Thánh Giá).
Hướng dẫn:
-Thiên Chúa muốn dân Ngài qua Biển Đỏ và vượt sa mạc để làm gì ? ( … về
đất hứa )
- Chúng ta đã về Đất hứa chưa? (chưa).
- Đất hứa của ta là đâu? (Thiên đàng).
- Ta phải vượt Biển Đỏ, sa mạc nào? (cuộc sống trần gian, xác thịt, tội lỗi).
- Tự sức riêng ta có thể chiến thắng trần gian và thắng bản thân không? Phải
làm sao ? (không, phải nhờ ơn Chúa giúp)
V. CẦU NGUYỆN :
Lậy Chúa là Cha nhân từ, dân Chúa xưa đi trong sa mạc, mặc dù đã có lần kêu
trách nhưng Chúa vẫn thương yêu che chở và hướng dẫn theo lòng thương xót Chúa.
Giờ đây, chúng con cũng đang đi trong sa mạc trần gian để về đất hứa là quê
trời. Chúng con có nhiều niềm vui nhưng cũng nhiều nỗi buồn và cả những tội lỗi
thiếu sót. Nhưng chúng con tin Chúa luôn ở bên chúng con, cùng đi với chúng con.
Và Chúa biết chúng con rất yếu đuối, hay sa ngã. Chúng con xin Chúa thương dìu
dắt, ban ơn giúp sức để chúng con khỏi bị sai lạc, chơi vơi, chìm đắm giữa cuộc sống
đầy cạm bẫy, đầy chông gai này. Chúng con cầu xin nhờ Đức kitô Chúa chúng con.
Amen.
VI. SINH HOẠT: Băng reo :
GLV HỌC SINH
Anh em ta Vượt Biển Đỏ
Anh em ta Qua sa mạc
Anh em ta Về đất hứa
Anh em ta Về Thiên
Đàng.
VII. BÀI TẬP :
1/ Những thử thách dân Chúa chịu trong sa mạc
a/ Đói ăn b/ Khát nước c/ Bệnh tật d/ Các câu trên đều đúng
2. Em hãy chọn trong các từ: (Dân Chúa, Thiên Chúa , che nắng, soi sáng) để điền
vào đoạn văn sau đây cho đúng nghĩa.
Suốt thời gian ………….… đi trong sa mạc ……………. hiện diện giữa họ qua dấu hiệu
cột mây ……………. ban ngày, và cột lửa ……………... ban đêm.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Đoạn văn cho biết Thiên Chúa hướng dẫn ta hằng ngày để ta bước đi theo con
đường Ngài muốn.
Có gương sáng của ông Môsê : luôn hỏi ý Chúa và làm theo lệnh Ngài.
Quyết tâm : Tin tưởng vâng theo ý Chúa qua việc cố gắng vâng lời cha mẹ anh chị.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lậy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa, vì chính Chúa đã kêu mời chúng con
đến đây để được học biết đường lối Chúa. Xin cho chúng con luôn vâng nghe theo
Chúa qua cách chúng con vâng lời cha mẹ hằng ngày. Chúng con cầu xin Chúa là
Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.

BÀI 17 :
ĐẤT HỨA

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ. ( như bài 16).


- Kiểm tra bài cũ .
1. Đi trong sa mạc dân Israel phải trải qua những khó khăn nào ? Thái độ của họ
ra sao ?
2. Mỗi lần Chúa để dân Ngài chịu thử thách và sửa phạt, Ngài hướng dẫn ông
Môsê giúp đỡ họ như thế nào ?
- Kiểm tra điều quyết tâm
II- DẪN VÀO LỜI CHÚA.
GLV kể cho học sinh nghe câu chuyện sau.
Có một anh sinh viên kia được cha mình hứa là sẽ tặng một phần quà đắt giá
vào ngày anh tốt nghiệp đại học. Món quà đó là một chiếc xe hơi đời mới.
Đến ngày tốt nghiệp với niềm vui nhận được tấm bằng đại học, anh còn hí
hửng mong đợi món quà của cha mình. Cha anh đã gửi tặng anh một chiếc hộp có
thắt nơ rất đẹp. Hồi hộp mở chiếc hộp ra, anh thấy trong đó có một quyển Thánh
Kinh. Anh cho rằng cha mình đã không giữ lời hứa nên phẫn nộ quẳng chiếc hộp vào
góc phòng rồi bỏ nhà ra đi.
Ít năm sau, anh trở về thăm nhà thì người cha đã qua đời. Anh trở lại căn
phòng khi xưa thì thấy chiếc hộp vẫn còn ở chỗ cũ với lớp bụi bám đầy. Lòng bồi hồi,
anh cầm chiếc hộp lên, phủi sạch bụi và lại mở ra, trong đó vẫn là quyển Thánh Kinh
ngày xưa. Anh lặng lẽ mở sách ra, ngay ở trang đầu tiên được kẹp sẵn tấm giấy chủ
quyền một chiếc xe hơi đời mới mang tên anh và dòng chữ sau : “Tặng con thân yêu
món quà mà cha đã hứa nhân ngày con đậu đại học”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy người cha thật nhân từ và rộng lượng,
đã tặng cho con hai món quà chứ không phải là một như đã hứa. Tiếc rằng anh sinh
viên này đã chẳng nhận ra. Anh đã đánh giá thấp người cha và đã mất niềm tin vào
cha mình.
Hôm nay, chúng ta sẽ học về dân Israel là những người con được Thiên
Chúa là Cha nhân từ ban cho một món quà vĩ đại là miền đất hứa. Nhưng để được
sống trong miền đất ấy. Dân Israel phải góp phần đấu tranh và phải trung thành với
giao ước đã ký kết với Thiên Chúa .
Để đi vào bài học mới các em nghe đoạn Kinh Thánh.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Ds 1, 1- 9. ( phút thinh lặng ).
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
1- Dẫn giải Lời Chúa (2 phút)
Đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe được trích trong sách nào? (Chương mở đầu
của sách Giô-suê).
Năm cuốn mở đầu Kinh Thánh là năm cuốn Sách Luật, gọi là Ngũ Thư. Tiếp
theo là sách gì? (Sách lịch sử). Loại sách lịch sử có bao nhiêu cuốn? (16 cuốn). (Nhắc
lại bài 4)
Vậy sách Giô-suê là cuốn đầu tiên trong 16 cuốn lịch sử kể lại việc dân Do
Thái bắt đầu cuộc chinh phục và định cư ở Đất hứa, thành lập vương quốc Israel.
Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe gồm mấy câu? (chín câu: từ câu 1 đến
câu 9 của chương 1)
Ý chính của đoạn Kinh Thánh này là gì ? (Thiên Chúa trao cho ông Giô-suê sứ
mạng đưa dân vào Đất Hứa)
2- Thảo luận: (8 phút theo từng tổ, 5 phút đúc kết trên bảng)
- Đoạn văn trên là chuyện kể hay bài giảng ? (Một câu chuyện)
- Đoạn văn nói tới những nhân vật nào? (Thiên Chúa, Giôsuê)
- Ai là nhân vật chính? - Nhân vật chính là Thiên Chúa .
- Câu nào tóm được ý chính cho cả đoạn? (Câu 2: “Môsê tôi tớ của Ta đã chết.
Vậy bây giờ, ngươi hãy chỗi dậy qua sông Giođan kia, ngươi và toàn dân này,
mà vào đất Ta ban cho chúng”.)
- Tựa đề ngắn cho đoạn văn : Chúa ban Đất Hứa cho dân Israel.
(Đất Hứa là vùng đất Canaan, thuộc châu Á.)
3- Bài học :
A- Hãy sống mạnh mẽ và can đảm ( Học sinh đọc trong sách).
Ông Giôsuê dẫn dân vào đất hứa, đấy chính là miền đất mà ngày xưa cha ông
họ là Abraham, Isaac, Giacóp đã sống. Nhưng sau hơn bốn trăm năm lưu lạc bên Ai
Cập, miền đất này đã bị nhiều dân tộc khác nhau chiếm lãnh…
Ông Giôsuê đã lãnh đạo dân Israel chiến đấu và chinh phục các dân tộc này
với sự trợ giúp của Thiên Chúa. (Xem sách Giôsuê)
- Thiên Chúa đã khích lệ dân thế nào khi đứng trước sự đấu tranh này? - Chúa
nói : “Hãy ở cho mạnh mẽ và can đảm”. Chúa còn nói: “ Như ta đã ở với Môsê Ta
cũng ở với các ngươi”.
HS ghi :
Sau khi ông Môsê qua đời. Thiên Chúa trao cho ông Gio-suê trách nhiện đưa
dân Israel vào Đất Hứa. Ông Giôsuê đã dẫn dân qua sông Giođan và chiếm được
thành đầu tiên là Giêricô một cách dễ dàng nhờ sự trợ lực của Thiên Chúa. Dân Israel
đã đến được miền đất Chúa hứa ban, nhưng để có được miền đất ấy, họ phải sống
mạnh mẽ, can đảm đấu tranh và phải trung thành với giao ước đã ký kết với Thiên
Chúa. Cuộc chinh phục vùng đất Ca-na-an kéo dài khoảng 50 năm.
B- Nhắc lại giao ước.
Từ thời các Tổ phụ Aùpraham-Isaac-Giacóp, dân Israel sống cuộc đời du mục
nay đây mai đó. Sau đó là 400 năm nô lệ Ai Cập, 40 năm lang thang trong sa mạc.
Bây giờ, họ được định cư nơi miền đất Chúa hứa ban, cuộc sống ổn định, kinh tế sung
túc. Khi có đời sống đầy đủ bình an họ lại dể dàng quên lời giao ước với Thiên Chúa.
Chính vì thế, ông Giôsuê đã tổ chức nghi lễ nhắc lại lời giao ước (đại hội ở Si-
khem). Dân Do Thái thề hứa trung thành với Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của
Ngài.
Câu nào trong đoạn Kinh Thánh các em vừa đọc nói đến việc Thiên Chúa
muốn dân Do Thái phải tuân giữ giao ước? ( câu 7- 8 ).
HS ghi :
Khi đã định cư, dân Israel bị cám dỗ bắt chước lối sống và việc thờ cúng tà
thần của dân Ca-na-an. Trước khi chết, ông Giôsuê đã triệu tập đại hội ở Sikem để
toàn dân long trọng tuyên xưng đức tin vào Giavê là Thiên Chúa duy nhất, và họ đã
thề hứa trung thành với Giao ước.
C- Từ bộ lạc đến vương quốc.
Khi vào Đất Hứa, mỗi chi tộc được một miền đất riêng. Con cái Israel ai nấy về
nơi vùng đất mình đã bắt trúng thăm. Mỗi chi tộc sinh hoạt độc lập, chưa có tổ chức
liên kết chặt chẽ với nhau.
Sau khi Giôsuê chết, dân Israel nhiều lần quên lời thề hứa, bắt chước dân ngoại
thờ cúng các tà thần. Thiên Chúa nhắc nhở họ bằng hình phạt : để cho họ bị những
dân chung quanh (Mô-áp, Ma-đi-an, Am-môn, A-ma-lếch … ) tấn công đàn áp. Khi
họ nhận ra tội lỗi, ăn năn kêu cứu, bấy giờ Thiên Chúa chọn những vị anh hùng để
giải thoát họ. Những vị anh hùng này được gọi là các Thủ lãnh. Các Thủ lãnh đứng
lên qui tụ các chi tộc lại để chiến đấu, đẩy lui quân thù. Các vị này cũng đứng ra
hướng dẫn và phân xử trên dân chúng nên còn được gọi là Thẩm phán hay Quan án.
Câu chuyện thời các Thủ lãnh cho thấy Thiên Chúa vẫn tiếp tục giáo dục Israel,
cho họ hiểu rằng : bao lâu họ còn trung thành với giao ước họ còn được bình an. Còn
nếu phản bội, họ sẽ gặp tai hoạ khổ đau.
Giai đoạn 12 Thủ lãnh kéo dài khoảng 200 năm. Các thủ lãnh chỉ xuất hiện tuỳ
theo thời cuộc. Các chi tộc vẫn sống riêng rẽ, tự lập, không tạo nên một quốc gia có
tổ chức chặt chẽ, không thể là một nước hùng mạnh được. Dân chúng nhận ra được
điểm yếu ấy nên đã xin với Tiên tri Sa-mu-en lập cho họ một vị vua làm người đứng
đầu, thống nhất sức mạnh 12 chi tộc lại.
Ông Sao-lê (Sa-un) thuộc chi tộc Bengiamin được Samuen xức dầu tuyển chọn
lên làm vị vua đầu tiên. Israel bước sang chế độ quân chủ. (Xem sách Samuen)
HS ghi :
Khi mới vào Đất Hứa, dân Israel chưa là một quốc gia có tổ chức chặt chẽ. Các
chi tộc sinh hoạt riêng lẻ, họ chỉ liên kết lại với nhau những khi cần chống lại kẻ thù,
dưới sự lãnh đạo của một vị anh hùng được Chúa chọn. Những vị anh hùng đó được
gọi là các thủ lãnh.
Thời kỳ 12 thủ lãnh kéo dài khoảng 200 năm. Vị thủ lãnh cuối cùng là tiên tri
Samuen. Ông Samuen đã xức dầu cho Saolê (Sa-un) lên làm vị vua đầu tiên của
Israel. Với Saolê Israel bắt đầu thời quân chủ.
5. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ.
1. Gợi tâm tình :
Các em thân mến,
Thiên Chúa đã thương yêu dân Israel, đưa họ vào Đất Hứa. Dù họ nhiều lần
không trung thành với Giao Ước, thờ lạy tà thần, Thiên Chúa vẫn sai các vị thủ lãnh
đến cứu thoát họ những khi họ bị áp bức và tuyển chọn các vị vua để hướng dẫn họ.
Chúng ta cũng được Thiên Chúa yêu thương đưa chúng ta vào Hội Thánh và
dẫn chúng ta vào Nước Trời, dù chúng ta không xứng đáng. Vì vậy chúng ta cùng sốt
sắng dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
2. Cầu nguyện :
Lạy Chúa, con tin chính Chúa đã cho con được sinh ra làm người, và nhờ Bí
tích Rửa tội chúng con được quyền làm con Chúa.
Chúng con biết rằng chúng con rất yếu đuối, bất trung và hay sa ngã. Xin Chúa
thương xót và ban ơn giúp chúng con biết trung thành sống lời hứa bí tích rửa tội.
Quyết chọn Chúa làm gia nghiệp và dứt khoát với tội lỗi.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT : bài hát “Đường về đất hứa”
VII. BÀI TẬP :
1. Được Giôsuê hướng dẫn và nhờ ơn Chúa dân Israel đã phải làm gì để chinh phục
vùng đất Canaan:
a- Vượt sông Giođan b- Đánh thắng nhiều bộ tộc địa phương c-
a,b đều đúng.
2. Nghi lễ nhắc lại lời giao ước của dân Israel do ai cử hành?
a- Môsê b- Giôsuê, c- Vua Sa-un.
3. Vị thẩm phán cuối cùng của Israel trước thời Saun lên ngôi vua là :
a- Ghê-đê-ôn b- Sam-son c-Samuen d- Giéptê.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Học sinh đọc lại đoạn Kinh Thánh Gs 1, 1- 9
- Đoạn văn cho ta biết thêm gì về Thiên Chúa và tình yêu thương của Ngài?
Thiên Chúa chứng tỏ lòng trung thành và quyền năng của Ngài khi giúp dân
Israel tiến vào Đất hứa, không bỏ rơi họ dù họ phản bội.
- Qua đoạn văn này Thiên Chúa muốn dạy riêng em điều gì?
Trong cuộc sống hôm nay Thiên Chúa muốn em hãy mạnh mẽ chiến thắng thế
gian, can đảm thẳng bản thân vì trong nhiều biến cố cuộc đời Chúa luôn ở cạnh
em.
* Quyết tâm tránh xa mọi dịp tội
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con được một
giờ cùng nhau học hỏi. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng con hiểu được Chúa luôn yêu thương
chúng con.
Chúng con xin dâng lên Chúa điều quyết tâm xa tránh dịp tội, xin Chúa thương ban
ơn giúp sức để chúng con can đảm thi hành. Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa
Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

BÀI 18
VUA ĐA VÍT

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ. (Tự dọn)


- Kiểm tra bài cũ
1.Dân Israel phải mất bao nhiêu năm để chinh phục Đât Hứa ? - Khoảng 50 năm.
2.Các vị Thẩm phán là ai ?
Các thẩm phán là những người Chúa chọn để cứu dân Ngài mỗi khi họ bị dân
ngoại xâm lăng đàn áp.
-Kiểm tra quyết tâm (xem lại bài trước).
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Kể tóm tắt (2phút): câu chuyện vua Saolê (Sa-un) bị Chúa từ bỏ vì tội không
vâng lời (theo sách 1Samuen 15) và chuyện Đavít được xức dầu phong vương (1S
16) để chiến đấu với Gô-li-át (1S 17).
Sau khi vua Saolê bị quân Philitinh giết chết, Đavít lên làm vua. Nhờ vào ơn
Chúa và sự tài giỏi, vua Đavít đã chiến thắng và đẩy lui quân Philitinh ra khỏi bờ cõi,
chiếm được thành Giêrusalem làm thủ đô, thống nhất đất nước. Tuy tài giỏi nhưng
vua Đavít luôn khiêm tốn và đạo đức, vì thế mà ngay khi đất nước được yên hàn,
Đavít liền nghĩ đến việc xây cất một Đền thờ làm nơi thờ phượng Thiên Chúa cho
xứng đáng. Vậy chúng ta cùng nghe Lời Chúa sau đây để xem vua Đavít có thực hiện
được dự tính của mình không nhé!
Mời các em đứng lên để nghe Lời Chúa.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA. 2 Sm 7, 1- 4. 11- 16.
Phút thinh lặng
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải
Đoạn Kinh Thánh vừa nghe được trích từ sách nào? Quyển thứ mấy ? câu bao
nhiêu ? (Sách Samuen quyển 2, đoạn 7, từ câu 1- 4 và câu 11-16).
Đại ý đoạn sách nói gì ? (Lời hứa của Thiên Chúa đối với dòng dõi Đavít).
2. Thảo Luận
- Đoạn văn là một câu chuyện.
- Các nhân vật : Thiên Chúa, vua Đavít, tiên tri Natan.
- Nhân vật chính : Thiên Chúa.
- Câu tóm ý : câu 16 “Nhà ngươi ….. mãi mãi”
- Tựa đề ngắn : Lời hứa của Chúa với Đavít.
3.Bài Học:
A. Vị anh hùng nhỏ tuổi (HS đọc phần I, trang 73).
Đặt câu hỏi để nhắc lại vài nét tiêu biểu về vua Đavít :
- Các vị vua trong Israel do ai chọn? (do Chúa tuyển chọn ).
- Vua Đavít là con thứ mấy của ông Giét-sê? (con thứ 8, út)
- Kể lại hình dáng của vua Đavít khi mới được tuyển chọn. (Nhỏ bé : Đavít có
mái tóc hoe, đôi mắt xinh, dáng vẻ khôi ngô tuấn tú hơn là một chiến sĩ dũng mãnh).
- Thiên Chúa đã sai ai xức dầu cho Đavít? (Tiên tri Samuen ).
- Chiến công của vua Đavít là gì ? (Giết Gồliát, đánh đuổi quân Philitinh, chiếm
thành Giêrusalem làm thủ đô mới, thống nhất đất nước.)
- Đức độ của vua Đavít như thế nào? (Luôn tin tưởng vào Chúa, là bạn tốt với
Giônatan, khoan dung độ lượng không trả thù Saolê).
HS ghi :
Thiên Chúa chọn Đavít lên làm vua thay thế Saolê. Vua Đavít là vị vua đặc biệt
nhất trong lịch sử Israel, ngay từ nhỏ đã lập được nhiều chiến công hiển hách. Ông
đã đánh đuổi được quân Philitinh, lập thủ đô Giêrusalem, thống nhất quốc gia, đem
lại thái bình cho đất nước.
B. Lời hứa cho vua Đavít.
Đọc phần II. Lời hứa cho vua Đavít, trong sách trang 74.
- Thiên Chúa hứa với vua Đavít điều gì? (triều đại ông sẽ vững bền mãi mãi vì
từ dòng dõi ông sẽ xuất phát Đấng Cứu Thế).
Bây giờ có em nào nhớ lời hứa của Thiên Chúa với cụ Abraham gồm mấy điều
không ? (Ba điều, xem lại Bài 11, trang 48).
Như vậy, điều nào đã được thực hiện ? (Điều một và hai).
Vậy còn điều thứ ba thì sao ? (Để các em trả lời). Hôm nay chúng ta thấy lời
hứa thứ ba của Thiên Chúa với ông Abraham về vị cứu tinh đã trở nên rõ ràng hơn
trong lời Thiên Chúa hứa củng cố triều đại của vua Đavít : từ dòng dõi vua Đavít sẽ
xuất hiện Đấng Cứu Thế.
HS ghi :
Khi vua Đavít có lòng đạo đức muốn xây Đền thờ kính Chúa thì Chúa lại ban
lời hứa sẽ xây nhà cho Đavít, tức là hứa thiết lập cho ông một triều đại vững bền và
từ dòng dõi ông sẽ phát xuất Đấng Cứu Thế.
C. Khiêm nhường, ca hát , ngợi khen Chúa.
(GLV hay một học sinh đọc phần III.)
- Đavít đã phạm tội gì mất lòng Chúa?
Ông đã cướp vợ của Uria, âm mưu giết hại Uria để cưới lấy vợ của ông là bà
Bêtsabê. Đứa con ngoại tình sau này bị chết, nhưng sau khi vua hối lỗi Chúa đã ban
cho ông một người con khác, chính người con này sẽ nối ngôi vua đó là vua Salômôn.
- Ngôn sứ nào đã cáo tội Đavit? (Ngôn sứ Nathan)
- Ngôn sứ Nathan đã cáo tội Đavít bằng câu chuyện gì? (Câu chuyện người
giầu cướp con chiên của người nghèo.)
- Sau khi nghe xong câu chuyện thì thái độ Đavít thế nào? (Đavít tức giận đòi
tuyên án xử tử kẻ làm điều bất công. Ngôn sứ Nathan cho biết kẻ có tội chính là
Đavít, nhờ vậy vua nhận lỗi của mình mà ăn năn thông hối.)
HS ghi :
Nơi vua Đavít ta học được tình bạn chân thật, lòng yêu mến quê hương dân tộc và
nhất là đời sống đạo đức thâm sâu: luôn vâng theo ý Chúa, biết ăn năn hối cải khi
lầm lỗi và chăm chỉ cầu nguyện ca tụng Chúa.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ.
1. Gợi tâm tình
các em thân mến, qua bài học hôm nay, chúng ta biết vua Đavít rất tài ba,
thánh thiện đạo đức và trung thành. Tuy vậy, ông cũng đã có lúc yếu đuối, sa ngã vì
ông cũng là con người như chúng ta. Điều đáng nói ở đây là ông đã hết sức khiêm
tốn, đau buồn ăn năn than khóc tội lỗi. Ông biết nương nhờ vào lòng thương xót
của Thiên Chúa. Theo gương Đavít chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện.
2. Cầu nguyện :
Lậy Chúa, xưa Chúa đã xức dầu tuyển chọn Đavít để đem lại cảnh thái bình
cho dân Chúa, xin Chúa cũng hãy biến đổi con nên người đem lại hoà bình giữa anh
chị em con, cho con trở nên khí cụ gieo hạnh phúc trong tay Chúa.
Ước gì con luôn biết ca tụng tình thương của Chúa đối với con như vua Đavít
đã luôn biết ngợi khen Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con
. Amen.
VI. SINH HOẠT :
VII. BÀI TẬP :
1/Vua Đavít là người con thứ mấy của Giêsê ?
a. Con thứ tám b. Con út c. Cả a, b đều đúng.
2/ Ngôn sứ cáo tội vua Đavít là
a. Nathan b. Samuen c. Gionathan.
3/ Thiên Chúa hứa với vua Đavít điều gì ?
a. Triều đại ấy sẽ vững bền mãi. b. Dòng dõi ông sinh ra Đấng Cứu
Thế. c. a, b đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
1- Đoạn văn cho biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài?
Thiên Chúa luôn giữ lời Ngài đã hứa- Thiên Chúa cho ta làm con cái Chúa là do
lòng thương yêu của Ngài.
2- Có gương sáng nào cho ta noi theo?
Gương Đavít luôn sống đạo đức, chăm cầu nguyện, biết hối cải khi phạm lỗi lầm.
3- Qua đoạn văn này hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng em điều gì ?
+ Sống khiêm nhường.
+ Chăm cầu nguyện.
+ Khi nhận lỗi phải biết ăn năn hối lỗi và hối cải.
-Điều quyết tâm : Khiêm tốn nhận lỗi và sửa đổi.
XI. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì chính Chúa đã chọn con và đã gọi con
trong giờ này. Chúng con xin dâng lên Chúa những ước muốn của chúng con là biết
sống khiêm tốn và sửa mình theo gương vua Đavít.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
BÀI 19 :
ÊLIA VỊ NGÔN SỨ CỦA LÒNG NHIỆT THÀNH

I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


II- DẪN VÀO LỜI CHÚA.
1-Kiểm tra bài cũ
Thiên Chúa đã hứa với vua Đavít điều gì ? …
Ta học được điều gì từ vua Đavít ? (Tình bạn chân thành, lòng yêu mến đất nước,
hy sinh chiến đấu vì quê hương dân tộc, đạo đức kính mên Chúa và khiêm tốn nhìn
nhận lỗi lầm.)
2-Dẫn vào Lời Chúa (Xem bài đọc thêm, trang 77)
Ở bài trước, chúng ta đã học về vị vua anh hùng Đavít. Đavít lên ngôi vua lúc
30 tuổi, trị vì 40 năm, khi thấy mình già yếu, ông truyền ngôi cho con mình là
Salômôn.
Vua Salômôn có công xây dựng đền thờ Giêsusalem, mở mang kinh tế giầu
mạnh, nâng cao văn hoá, chính trị (ngoại giao tốt với nhiều nước lân bang). (Xem
sách Các Vua).
Vua Salômon nổi tiếng về khôn ngoan nhưng không được đạo hạnh bằng vua
cha. Ông sống xa hoa hưởng thụ, lấy nhiều vợ ngoại giáo. Các bà ấy làm cho vua hư
hỏng. Vua chiều theo các bà mà thờ lạy tà thần, lòng vua không còn thuỷ chung
với Thiên Chúa. Vì vậy Chúa để cho ông bị nhiều kẻ thù chống lại, đặc biệt là cuộc nổi
dậy của Gia-róp-am.
Vua Salômôn chết năm -931, trị vì 40 năm. Sau khi vua chết đất nước bị chia
cắt, mười chi tộc Miền Bắc ly khai, đưa Gia-róp-am lên làm vua, lập ra nước Israel,
lấy Samaria làm thủ đô. Con cháu Đavít chỉ còn cai trị vùng đất chi tộc Giuđa ở
Miền Nam, lấy Giêrusalem làm thủ đô.
Đất nước phân ly, dân chúng lãng quên giao ước, sống bê tha tội lỗi. Trước
hoàn cảnh ấy, Thiên Chúa sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ. Trong thời Nam-Bắc phân
tranh có các ngôn sứ sau đây :
− Ở Miền Bắc có các ngôn sứ Êlia, Êlisa, Amốt, Hôsê.
− Ở Miền Nam có các ngôn sứ Isaia, Mikha, Giêrêmia.
Các ngôn sứ nói lời của Thiên Chúa để cảnh cáo tội lỗi của dân và kêu gọi họ
hối cải. Hôm nay chúng ta sẽ được gặp một vị ngôn sứ nhiệt thành bảo vệ niềm tin
của Israel, đó là ngôn sứ Êlia.
Mời các em đứng lên nghe Lời Chúa trong Sách Các Vua nói về ngôn sứ Êlia và
sứ vụ của ông.
IV- CÔNG BỐ LỜI CHÚA : 1Vua 17,1-6
1- Dẫn giải Lời Chúa.
Sau khi lên làm vua ở Miền Bắc (gọi là nước Israel), vua Gia-róp-am không
muốn cho dân lên Đền Thờ ở Giêrusalem (thuộc miền Nam) để dâng lễ nữa, ông cho
xây dựng hai đền thờ ở Đan và Bê-ten. Trong đó có tượng con bê vàng là tượng trưng
cho ngai của Giavê Thiên Chúa, nhưng đối với người Ca-na-an thì con bê lại là biểu
tượng của thần Ba-al. Vì vậy dân chúng bị cám dỗ đi theo tà thần. Đến thời vua A-
kháp, hoàng hậu I-dơ-ven (Giê-gia-ben) là một người ngoại giáo đã công khai xây
đền thờ cho Ba-al và lôi kéo dân chúng đi vào con đương lầm lạc. Các ngôn sứ, Êlia
là tiêu biểu, đã mạnh mẽ chống lại.
2- Thảo luận : (theo tổ- sau đó đúc kết trên bảng cho học sinh ghi vào vở)
- Đoạn văn là một câu chuyện.
- Đoạn văn nói đến những ai?
o Ngôn sứ Êlia, vua Akháp, Thiên Chúa.
o Nhân vật chính : Ngôn sứ Êlia.
- Câu tóm ý : Câu 5 : “Ông đã ra đi và làm như lời Thiên Chúa dậy.”
- Tựa đề ngắn : Êlia, vị Ngôn Sứ nhiệt thành.
3. Bài học :
A. Nhân danh Thiên Chúa (HS đọc trong sách).
Sau khi đọc trong sách, các em có thấy được lý do nào khiến dân Israel ở Miền
Bắc đi thờ lạy thần Baal chưa ? Em nào biết ?
− Vua Gia-róp-am xây đền thờ có con bê vàng cho dân thờ lạy.
− Vua Om-ri cưới vợ ngoại đạo (I-dơ-ven) cho thái tử A-kháp.
− Vua A-kháp đã để cho hoàng hậu Idơven truyền bá việc thờ Baal.
Dân chúng đã đánh mất niềm tin và sự trung thành với Thiên Chúa, vậy ai là người
được Thiên Chúa dùng để nhắc nhở dân chúng ? (Thiên Chúa sai ngôn sứ Êlia đến cảnh
cáo bằng tai hoạ 3 năm 6 tháng hạn hán).
Câu chuyện tế lễ trên núi Các-men cho thấy ngôn sứ Êlia là một chiến sĩ anh dũng,
tranh đấu không mệt mỏi để bảo vệ đức tin.
HS ghi :
Dân chúng bất trung với giao ước đi theo các tà thần. Thiên Chúa sai ngôn sứ
Êlia đến để đưa dân trở lại. Ngôn sứ Êlia là một chiến sĩ nhiệt thành bảo vệ đức tin
cho dân Chúa.
B- Đứng về phía người nghèo.
Câu chuyện ông Na-bốt bị hãm hại và bị chiếm đoạt vườn nho cho thấy tình
trạng bất công trong xã hội thời bấy giờ, chắc chắn là còn rất nhiều người nghèo khác
phải chịu thiệt thòi. Ngôn sứ Êlia là người mãnh mẽ tố cáo tội ác này. (1V 21).
HS ghi :
Ngôn sứ Êlia bênh vực người nghèo, tố cáo những bất công trong xã hội thời
bấy giờ.
C. Trong gió hiu hiu (1V 19).
HS đọc trong sách trang 81.
Đặt câu hỏi :
-Vì sao ngôn sứ Êlia phải chạy trốn? (Vì hoàng hậu bách hại).
-Khi ông kiệt sức gần chết thì Chúa làm gì ? (Cho thiên thần đem…)
-Ông phải đi bao lâu mới đến núi Kho-rép ? (40 ngày đêm)
-Ông được gặp Chúa khi nào ? (Khi có làn gió nhẹ thoảng qua, tức là trong êm
đềm thinh lặng)
HS ghi :
Trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ, lúc nào ngôn sứ Êlia cũng trông cậy vào Thiên
Chúa, cố gắng tìm gặp Ngài trong tin tưởng phó thác. Về phần Thiên Chúa, Ngài luôn
thêm sức cho ông vượt qua mọi gian khó.
V. Cầu nguyện giữa giờ.
1- Gợi tâm tình
Các em thân mến,
Khi chịu phép rửa tội, mỗi người chúng ta đều được trao cho sứ mạng làm ngôn
sứ, tư tế và vương đế. Mỗi vì thế chúng ta cũng phải nhiệt thành làm chứng về niềm
tin của mình như ngôn sứ Êlia. Muốn có sức mạnh để làm chứng, chúng ta cũng cần
gặp Chúa trong thinh lặng như ngôn sứ Êlia, vậy chúng ta cùng sốt sắng cầu nguyện.
2- Cầu nguyện
Lậy Chúa toàn năng, xưa Chúa đã ban cho ngôn sứ Êlia được đức tin vững vàng
và lòng mến thiết tha. Giờ đây xin Chúa thương ban cho chúng con được lòng yêu
mến Chúa chân thành, để trong cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống này chúng
con luôn tìm thấy Chúa, nhận ra ý Chúa và biết trung thành theo Chúa, trở thành
những chứng nhân của Chúa trong đời sống hằng ngày.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT :
VII . BÀI TẬP :
1/ Ngôn sứ Êlia hoạt động dưới thời vua:
a- Om-ri. b- A-kháp. c- Gia-róp-am
2/ Ngôn sứ Êlia hoạt động ở :
a- Miền Bắc (Nước Israel ) b- Miền Nam (Nước Giuđa)
3/ Ngôn sứ Êlia đã nhiệt thành thi hành sứ vụ là nhờ :
a- Tài ăn nói b- Sức khoẻ b- Tin tưởng cầu nguyện.
4/ Ngôn sứ là :
a- Người thay mặt Chúa cai trị trên dân. b- Người nói thay cho Thiên
Chúa.
VII. SỐNG LỜI CHÚA :
1- Đoạn Kinh Thánh Này cho ta biết thêm gì về Thiên Chúa và tình yêu thương của
Ngài?
- Thiên Chúa yêu thương và giúp sức cho ngôn sứ Êlia vượt qua những khó khăn
khi thi hành sứ mạng được trao phó.
2- Có gương sáng nào cho em noi theo?
- Gương ông Êlia nhiệt thành chiến đấu vì đức tin, vượt thắng mọi khó khăn.
- Gương ông Êlia tìm gặp Chúa trong kiên trì và thinh lặng.
3- Qua bài học hôm nay, Thiên Chúa muốn dạy tôi điều gì ?
- Thi hành nhiệm vụ ngôn sứ bằng những lời nói ngay thẳng, thành thật, không nói
dối, không nói tục-nói bậy-nói xấu nhau.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lậy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã cho chúng con được học
biết giáo huấn của Chúa.
Xin cho chúng con luôn trung thành với Chúa và biết yêu mến anh em, sống
bác ái với mọi người.
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.

BÀI 20 :
THIÊN CHÚA HUẤN LUYỆN DÂN NGÀI TRONG THỜI LƯU ĐẦY

I-CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


1. Kiểm tra bài cũ
- Ngôn sứ là ai ?
Ngôn sứ là người được Chúa chọn và sai đi nói lời của Chúa cho dân.
- Điều nổi bật nơi ngôn sứ Êlia là gì ?
Ông quyết liệt chống lại tội thờ ngẫu tượng và bất công xã hội.
2. Kiểm tra quyết tâm
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Ai trong chúng ta đều có lần bị cha mẹ sửa phạt, rầy la… Như vậy phải chăng
cha mẹ không còn thương chúng ta? (- Không phải…)
Chúng ta luôn cảm thấy cha mẹ vẫn yêu thương ta, sửa phạt vì muốn ta nên
người.
Cũng có thể, trong lịch sử dân Chúa, biết bao lần Thiên Chúa sửa phạt dân vì
Ngài thương họ. Sửa phạt là vì muốn họ sống trung thành với Giao Ước để họ được
hạnh phúc thực sự.
Nô lệ ở Ai Cập, Chúa giải thoát tự do, 40 năm trong sa mạc Chúa dẫn vào đất
hứa, khi bị lưu đầy ở Babilon Chúa dùng ngôn sứ Êdêkien cho dân biết cuộc lưu đầy
sẽ qua đi và sẽ đến ngày Chúa cho dân trở về quê nhà. Bài trích sách Eâdêkien sau
đây sẽ báo trước điều đó.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA. Ed 37, 1- 14.
Phút thinh lặng.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
1-Thảo luận :
− Các nhân vật : Thiên Chúa, Ê-dê-ki-en, các bộ xương khô
− Nhân vật chính : Thiên Chúa
− Câu tóm ý : Câu 14 “ Ta sẽ ban Thần khí của Ta xuống trên các ngươi, và các
ngươi sẽ được sống. Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi”
− Tựa đề : Thiên Chúa sẽ phục hồi Israel .
2- Bài Học :
- Các ngôn sứ phía nam :
+ Chi tiết chứng tỏ Giu-đa cũng dần dần mắc vào những tội lỗi của Israel (
thờ phượng thì chuộng hình thức, xã hội bất công, chạy theo tà giáo, thờ bái ngẫu
thượng )
- Chúa cho ngôn sứ nào xuất hiện?
( Mikha, Isaia, Êdekien, Giêrêmia)
- Giuđa có đổi đời sống không?
( có nhưng còn đầy dẫy tội lỗi ) – bị lưu đầy/.
HS ghi : - Khi dân Ngài bị lưu đầy Thiên Chúa không bỏ rơi họ, Ngài vẫn sai các ngôn
sứ đến nâng đỡ và dậy dỗ họ.
+ Trong cảnh lưu đầy :
- khoảng 50 ngàn người phải đi bộ khoảng 700 dặm (cả ngàn cây số)
đến Babylon.
- Bị đối xử tàn tệ : kỳ thị, ngược đãi, ức hiếp.
+ Lúc này dân Chúa nhận ra điều gì? – Nhận ra tội mình đã phạm, biết ăn năn
+ hối cải + cầu nguyện.
+ Thiên Chúa đã làm gì? - ( sai các ngôn sứ đến để an ủi, dậy dỗ ).
HS ghi : Ngôn sứ Êdêkien đã an ủi dậy dỗ dân Ngài biết Thiên Chúa là Đấng chí
thánh. Ngài sẽ đổi mới họ bằng Thần Khí của Ngài.
+ Lắng nghe Lời Chúa.
-GLV tóm ý : Trong cảnh lưu đầy dân Chúa nhận ra lỗi lầm nhờ các ngôn sứ
hướng hẫn đặc biệt là Êdekien, Isaia, Giêrêmia
Dân gia tăng đời sống thánh thiện, quý trọng học hỏi Lời Chúa, dùng Thánh Vịnh để
cầu nguyện, vững tin chờ ngày về quê.
HS ghi : Đáp lại lời các ngôn sứ, dân lưu đầy sửa đổi đời sống, cùng nhau học hỏi cầu
nguyện, vững tin chờ ngày Thiên Chúa đưa về quê hương.
5 Cầu nguyện giữa giờ.
Lậy Chúa là Cha dầu lòng thương xót, xưa kia dân Chúa quên Giao Ước , từ
bỏ Chúa, vì thương yêu Chúa đã phạt thúc tỉnh họ. Trong cảnh lưu đầy, Chúa đã
không bỏ mặc họ mà sai các ngôn sứ đến để an ủi, nâng đỡ và dậy dỗ họ. Đáp lại
dân Chúa đã sửađổi đời sống chuyên chăm cầu nguyện và sửa đổi đời sống.
Xin Chúa dậy chúng con biết bắt chước dân Chúa, biết ăn năn hối cải và sửa đổi đời
sống theo Lời Chúa dậy, để chúng con xứng đáng là con cái Chúa. Chúng con cầu xin
nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
6. Sinh hoạt :
+ Chúa dậy, Chúa dậy- Ở đâu, ở đâu ?
+ Chúa dậy dỗ trong – Thánh lễ.
+ Chúa dậy dỗ trong – lớp giáo lý
+ Chúa dậy dỗ qua – cha mẹ thầy cô. Ah Ah Ah Ah Ah
7. Bài tập :
1. Chúa sửa phạt chúng ta vì:
a- yêu thương
b -ghét bỏ
c ta đáng bị như vậy
2. Dân Israel biết.
a- Nghe lời các ngôn sứ
b- Sửa đổi đời sống
c- học gỏi Lời Chúa
d- Các câu trên đều đúng.
3. Trong mọi biến cố cuộc đời ta phải.
a- tin tưởng vào Chúa
b- Cố gắng tích cực cộng tác với ơn Chúa ban
c- a, b đều đúng.
8. SỐNG LỜI CHÚA :
Đoạn văn cho biết thêm gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài?
( Thiên Chúa sửa phạt chúng ta vì yêu thương chứ không phải vì ghét bỏ, Thiên
Chúa là Đấng hay thương xót, tha thứ khi ta hối lỗi ăn năn.
- Gương sáng .
( Dân Israel biết nghe lời các ngôn sứ, hối lỗi, tin vào Chúa )
- Em phải làm gì ?
( Luôn tin vào Chúa, vì Chúa là Đấng trung thành.
9. Cầu nguyện kết thúc,
Lậy Chúa, chúng con cảm ơn Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã ban cho chúng con,
Chúa đã yêu chúng con. Xin cho con luôn tin yêu Chúa trong mọi sự và yêu thương
anh em, đặc biết là những người sống gần chúng con. Amen.

BÀI 21 :
DẬY MEN TIN MỪNG 4
SỐNG TỐT VỚI MỌI NGƯỜI.
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.
Lạy chúa, chúng con được xem là tương lai của Giáo Hội, của Xã Hội, chúng
con cũng khao khát Giáo Hội và Xã Hội ngày một tốt đẹp hơn, vì thế xi Chúa thương
giúp chúng con biết chuẩn bị cho mình đủ tài đức để có thể xây dựng một Giáo Hội,
một Xã Hội bằng tình yêu và những nhận thức mà Chúa muốn.
Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi.
*. Kiểm tra bài cũ :
1. Trong cảnh lưu đầy Thiên Chúa có hiện diện với dân Ngài không? Nếu có
Ngài hiện diện qua dấu chỉ nào?
- Thiên Chúa đã hiện diện với dân Ngài trong cảnh lưu đầy, qua các ngôn sứ
Ngài dạy dỗ họ, an ủi họ và hứa sẽ giải phóng họ.
2. Dân lưu đầy đã làm gì để đáp lại ời các ngôn sứ?
- Họ đã sửa đổi đời sống, cùng nhau học hỏi Lời Chúa , vững tin chờ ngày
được Thiên Chúa đưa về quê hương.
II. DẪN VÀO BÀI HỌC.
Người Việt Nam chúng ta có những câu nói rất hay như : “ học ăn học nói, học
gói học mở” hay “ tiên học lễ, hậu học văn”… Qua nhưng câu nói này ta thấy được
truyền thống của dân tộc việt là luôn luôn đề cao đến vấn đề đạo đức, lễ nghĩa. Việc
cư xử sao cho “ kính trên nhường dưới”. Luôn được dạy dỗ bảo ban cho con cháu
trong gia đình ngay từ nhỏ.
Bài học hôm nay cũng đưa ra những nhân đức căn bản giúp con người sống
đúng với địa vị làm người hơn
A NĂM NHÂN ĐỨC CĂN BẢN HẰNG NGÀY
Hướng dẫn:
-Là người phương Đông , sống theo văn hoá phương Đông người
Việt Nam chúng ta cũng nhấn mạnh đến năm nhân đức căn bản là: Nhân, Nghĩa, Lễ,
Chí, Tín.
Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng tìm hiểu về ý nghĩa của những từ này.
- Nhân : là xử tốt với mọi người.
-Lễ : Là biết tỏ ra lịch sự, kính trong người xng quanh.
- Nghĩa : là sống có tình với nhau như lương tâm nhắc nhở.
- Chí : là biết đắn đo cân nhắc để xử sự cách khôn ngoan.
- Tín : Là có tinh thần trách nhệm về mọi chuyện đáng cho người khác tin cậy.
Vậy năm nhân đức này không xa lạ gì với Kitô giáo chúng ta, chẳng hạn : có
thể hểu “ nhân “ là lòng bác ái, Chí là biết tìm kiếm và xử sự theo đúng ý Thiên
Chúa.
B. YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA GIÊSU ĐÃ YÊU THƯƠNG.
Hướng dẫn :
“ Yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương”. Đây không phải là điều dễ dàng
thực hiện. Nhưng đây lại là “ dấu chỉ”, chứng nhận đó là những môn đệ Chúa, mà
tiêu chuẩn mà những ai muốn làm con Chúa phải cố gắng đạt được.
Chúa Giêsu đã dậy ta yêu mến và tha thứ cho những kẻ thù ghét ta. Chính Chúa đã
nêu gương khi bị treo trên Thập giá. Ngài đã xin Thiên Chúa tha thứ cho những kẻ
làm hại Ngài.
C. XÉT MÌNH MỖI NGÀY.
Hướng dẫn :
Mạnh dạn xét mình mỗi ngày, nhận xét đánh giá lại công việc đã làm trog
ngày của mình là 9iều quan trong giúp ta mỗi một ngày sống tốt với người chúng
quanh hơn. Vì khi xét mình và đánh giá lại công việc trong ngày ta sẽ thấy được đâu
là yếu tố tích cực góp phần đưa chúng ta lại gần người khác, sống tốt với người khác
hơn, đâu là yếu tố tiêu cực làm mất đi sự tôn trọng, mối quan hệ tốt đẹp với người
khác, từ đó ta có thể hạn chế được điều xấu, phát triển những điều tốt.
* câu hỏi thảo luận :
Muốn trở thành co người tốt có những mối quan hệ tốt đẹp ta phải sống như
thế nào?
-XEM :
Có nhiều người chỉ biết nghĩ đến mình, làm theo sở thích của mình,bất chấp ý
kiến của người khác, không kể gì đấn sở thích của mình có ảnh hưởng gì đến người
khác hay không.
Không có tinh thần xã hội, tức là chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình, không nghĩ
đến lợi ích chung, không nghĩ đến lợi ích của cộng đồng.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những người rất tích cực, họ hy sinh suốt s9ời
âm thầm phục vụ những người bị bệnh cùi, nhữngtrẻ em mồ côi khuyết tật…..
Có những người phục vụ cộng đồng cách vô vị lợi, như các ông trùm, các bà
quản… ta thấy rõ sự phục vụ của họ nhất là vào các ngày lễ lớn hay tại các đám tang.
XÉT :
Trong cuộc sống ta thường nghe nói đến người tốt và người xấu. Như thế nào
là người tốt, như thế nào là người xấu ?
- Dơn gản nhất chúng ta có thẻ hiểu là : những hành động mang lại lợi ích cho
bản thân ta, mang lại lợi ích cho những người chung quanh, cho cộng đồng ta đang
sống là tốt còn ngược lại là xấu.
Luật Chúa Kitô dậy chúng ta sống tích cực hơn : những điều mình muốn hãy
làm cho người khác, những điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Vậy
ta xét xem cuộc sống của mình đã tích cự chưa?
- Ta có biết mạnh dạn chia sẻ với bạn bè khi họthiếu thốn chẳng hạn như
: một cây viết, một cuốn vở….
- Ta có cảm thấy ganh ghét khó chịu khi có bạn khác học giỏi hơn ta không?
- Ta có biết bảo vệ, gữ gìn tài sản chung như : bàn ghế, phòng học … ở trường
lớp không ?
- Có biết gìn giữ vệ sinh, môi trường xung quanh như : không xả rác bừa bãi,
phá hoại cây cảnh, hoa rác không ?
- Khi làm bất cứ việc gì ta có làm với tinh thần trách nhiệm với hàng xóm làng
giềng, với người chung quanh không?.
LÀM :
Để sống tốt ta nên xét mình sau mỗi hành động hay sau mỗi ngày để tìm ra
được những hành động đúng sai. Tiêu chuẩn đó lường sự đúng ai đó là : những điều
mình muốn hãy làm cho người khác, những điều mình không muốn thì đừng làm cho
người khác.
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Một giáo sư ở Chicagô đã hỏi các sinh viên của mình : “ Lần mới đây các bạn
giúp đỡ người khác là vào lúc nào” ?
Người thứ nhất trả lời : vào hôm thứ sáu, lúc đó tôi đang ở trên xe buýt thì có
một người đàn ông ôm một chiếc hộp cồng kềnh lên xe, tôi liền nhường chỗ cho ông
ta ngồi, ông ta từ chối nhưng lại nhờ tôi giữ dùm chiếc hộp, tôi đồng ý và ông ta tỏ
ra biết ơn.
- Người thứ hai trả lời : hai tuần trước đây tôi đi xe buýt, ngồi bên mọt bà nói
chuyện huyên thuyên. Bà ta muốn kiếm người nói chuyện. Tôi đã tỏ ra tử tế với bà
bằng cách lằng nghe và nói chuyện với bà ấy.
Người thứ ba trả lời : Tôi chẳng thể nhớ là tôi có lần nào giúp đỡ ai không, tôi
cảm thấy thực sự xấu hổ về điếu này, có lẽ một cái gì đó trục trặc trong con người
tôi, có lẽ tôi đã làm ngơ, nhắm mắt trướcnhững người gặp khó khăn hoạn nạn.
Đến lượt chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi mình bằng chính câu hỏi vị giáo sư
đã đặt ra cho các sinh viên : “ lần mới đây nhát bạn giúp đỡ người khác là vào lúc
nào?
Chúng ta sẽ trả lời sao ? liệu chúng ta có trả lời như hai sinh viên đầu không?.
Có biết yêu thương và cho đi thì con người mới thực sự riển nở và gặp lại chính
mình. đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc mà Chúa giêsu muốn dậy chúng ta
qua đoạn Tin Mừng sau đây.
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Mt ( 7, 12- 14 )
V. CẦU NGUYỆN .
Lạy Chúa là Thiên Chúa và Cha của chúng con, Cha đã dựng nên tất cả chúng
con vì yêu thương và Cha muốn tất cả chúng con phải biết yêu thương nhau như anh
em cùng một cha.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa giêsu Kitô, Con Một yêu dấu Cha, biết vượt
lên rên những tình cảm bình thường để yêu thương tất cả mọi người, cầu nguyện cho
cả những kẻ làm hại mình.
Lạy Cha, xin dẫn chúng con vào con đường yêu thương, quảng đại phục vụ mà Cha
muốn.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô chúa chúng co. Amen.
VI. SINH HOẠT : ( TẬP HÁT )
VII. BÀI TẬP :
1. Biết yêu thương và cho đi thì :
a. Con người thực sự triển nở và gặp lại chính mình
b. Gặp được đường dẫn tới hạnh phúc
c. Mới là môn đệ chân chính của Chúa Kitô.
d. a, b và c đều đúng.
2. Để có được những mốiquan hệ tốt :
a. Ta nên lấy sự thông cảm để đối xử với người khác
b. Ta nên quảng đại tha thứ để đối xử với người khác.
c. Ta không nên giúp đỡ người khác.
d. a và b đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA :
Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ xét xem điều gì hôm nay làm cho mình hạnh phúc
nhất? Điều này ích lợi hay có hại cho người khác ? nên làm hay nên tránh ?
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, giờ học đã kết thúc, xin cho Lời Chúa thấm sâu trong tâm hồn
chúng con. Xin thắp lên trong chúng con ngọn lưa yêu thương phục vụ của những
người làm con chúa.
( đọc kinh sáng danh ).

BÀI 22 :
TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM
(Gl 5, 13- 15)

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ


Lạy Chúa, trong giờ giáo lý hôm nay chúng con muốn cùng nhau chia sẻ, học
hỏi về tự do và trách nhiệm. Xin Chúa ban ơn soi sáng, để chúng con biết và ý thức
sử dụng tự do của mình theo ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng
con.
- Cúi xin Chúa sáng soi.
1- Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm
2- Viết tựa đề và Lời Chúa của bài mới
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Có bao giờ các em thấy người máy (robot) làm việc (hành động) chưa? Ở đâu
? - Đúng, trong truyền hình, phim ảnh, đôi khi ta thấy những người máy hoạt động,
nó làm bất kỳ việc gì cũng phải theo những quy định đã được lắp ráp và cài sẵn trong
bộ nhớ của nó (như trên TV quảng cáo robot ASIMO của hãng Honda, hay các robot
trong cuộc thi robotcon…). Nó không thể suy nghĩ và không có tự do chọn lựa, nó chỉ
biết làm theo lệnh và dừng lại theo lệnh của người điều khiển hay bộ điều
khiển. (Máy vi tính, các trò chơi vi tính cũng vậy).
Khác với người máy, con người có khả năng lựa chọn theo sự cân nhắc của
mình, có thể tuỳ ý mình hành động hoặc không hành động. Con người có thể làm chủ
các hành vi của mình. Đó là TỰ DO, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Nhờ
đó con người có khả năng tự định liệu, để mỗi người có thể đích thân tìm kiếm và
gặp gỡ Thiên Chúa. Đồng thời, Thiên Chúa cũng luôn tôn trọng tự do Ngài đã ban
cho ta.
Mời các em nghe Thánh Phaolô nói về sự tự do và trách nhiệm.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Gl 5, 13-15
Phút thinh lặng.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
Thảo luận (theo tổ)
- Từ ngữ chính : tự do
- Câu tóm ý : Câu 13… anh em đã được gọi để hưởng tự do…. Đừng lợi dụng
tự do để sống theo tính xác thịt…
- Tựa đề ngắn : Tự do là quà tặng của Chúa.
Tóm ý Lời Chúa :
Thánh Phaolô khẳng định và khuyên tín hứu Galata : Mọi người được Thiên
Chúa gọi để hưởng tự do, nhưng đừng lợi dụng tự do đó để sống theo tính xác thịt,
sống buông thả, mà phải sử dụng tự do trong tinh thần bác ái, yêu người thân cận
như chính mình. Sống theo khuôn thước: YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ. Không ai sống
một mình và sống cho riêng mình mà là sống với người khác và có trách nhiệm về
nhau.
Bây giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tự do và trách nhiệm để cùng rút ra
bài học áp dụng vào đời sống.
1- Tự do : (Xem lại Giáo lý CB1, bài 22)
+ Tự do là gì ?
Là khả năng chọn lựa theo sự cân nhắc của mình để quyết định đi đến hành
động hay không hành động.
Ví dụ : tối nay tivi chiếu phim hay, em lưỡng lự suy nghĩ đắn đo không biết
mình nên chọn điều nào học bài hay xem ti vi? Cuối cùng em chọn một trong hai.
Điều đó cho ta thấy rằng, để quyết định làm một điều gì, ta cần cân nhắc chọn
lựa. Đồng thời song song với quyết định ta cũng phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn
đó của ta.
Nếu chọn lựa học bài xong mới xem phim: kết quả là em thuộc bài, nhưng em
chấp nhận phải hy sinh bỏ một phần của bộ phim.
Nếu quyết định ngược lại, xem phim xong mới học bài: em được xem phim,
nhưng xem xong em buồn ngủ, không học bài tốt, bài kiểm tra bị điểm kém. Em phải
chịu trách nhiệm về chọn lựa của mình.
* Đọc phần I trong sách học sinh, 93-94 .
Trong những trường hợp nào ta không phải chịu trách nhiệm, hay được giảm
bớt trách nhiệm về việc làm của mình ? (3 trường hợp : …)
Ơn Chúa có làm mất tự do của con người không ? (Không, vì …)
HS ghi : Tự do rất quan trọng, vì nó làm cho các hành vi của con người có giá trị
tốt hay xấu về mặt luân lý, và mỗi người phải chịu trách nhiệm về những gì mình
nghĩ, mình nói hoặc mình làm.
2. Trách nhiệm luân lý . (Xem lại Giáo lý CB1, bài 23)
Để giúp con người nhận biết điều tốt điều xấu, Thiên Chúa ban cho chúng ta
tiếng nói lương tâm và sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Khi đứng trước một điều
tốt hoặc điều xấu. Nếu ta chọn điều tốt, nghĩa là ta đã nghe theo sự thúc giục của
Chúa Thánh Thần và tiếng lương tâm (điều đó giúp ta nên tốt và nâng cao giá trị con
người của mình lên).
Ngược lại, nếu ta chọn điều xấu, nghĩa là ta đã bỏ qua, không lắng nghe sự soi
sáng của Chúa Thánh Thần và lương tâm (làm cho ta nên xấu, đánh mất phẩm giá
cao quý của mình đi).
Như vậy, khi ta quyết định một điều gì với sự ý thức và tự do của mình thì ta
phải chịu trách nhiệm về hành vi đó.
Học sinh đọc phần 2 trong sách học sinh, trang 94.
Muốn đánh giá một hành vi là tốt hay xấu ta phải dựa vào đâu? (3 điểm sau
: Một là …)
Em hãy nhớ nguyên tắc này : Việc làm tốt phải đi đôi với mục đích tốt. (Phần bài
tập).
HS ghi : Tự do làm cho con người trở nên cao cả, nhưng nếu lạm dụng tự do làm
điều xấu, thì ta sẽ đánh mất phẩm giá làm người, và làm con Chúa của
mình, trở thành nô lệ cho tội lỗi.
3. Chọn lựa của tôi :
Sau khi đã tìm hiểu về tự do và trách nhiệm, bây giờ chúng ta sẽ chọn lựa như
thế nào?
Đọc phần 3, trang 95.
Tự do có phải là muốn làm gì thì làm không?
- Chúng ta phải khẳng định là không. Tự do không phải là sống theo đam mê,
buông thả. Nhưng tự do là làm chủ bản thân, bằng cách can đảm nói lên tiếng “không”
và tiếng “vâng” đúng chỗ.
* Nói tiếng vâng với thầy cô, cha mẹ và với những điều tốt.
* Nói tiếng không với những bạn xấu, điều xấu, những cám dỗ quyến rũ bên
ngoài và những dục vọng tội lỗi sâu kín trong ta.
Con người tự do gương mẫu là ai ?
- Là Đức Giêsu. Người đã hoàn toàn tự do khi xuống thế làm người, khi tự nguyện
chấp nhận cuộc khổ nạn vì yêu thương nhân loại. Người đã thể hiện sự tự do cao độ
khi chọn lựa vâng theo ý Chúa Cha.
Thiên Chúa luôn luôn yêu thương, để giúp ta có đủ can đảm vươn tới tự do
đích thực, Ngài luôn ban ơn trợ giúp. Điều quan trọng là ta có đủ can đảm cộng tác
với những ân sủng của Chúa hay không. (Ân sủng của Chúa có thể ví như trận
mưa. Chúng ta cộng tác với ơn Chúa bằng cách hứng lấy nước. Nếu không cộng tác
chúng ta cũng giống như người đem úp phi giữa trời mưa, chúng ta sẽ chẳng được tí
nước nào...)
HS ghi : Con người chỉ có tự do đích thực khi biết dùng tự do để cộng tác với ân
sủng của Chúa mà sống theo ý Ngài muốn hầu đạt tới hoàn thiện và hạnh
phúc trong Ngài.
V. CẦU NGUYỆN :
Lạy Cha nhân lành, vì yêu thương con, Cha đã ban cho con tự do để con lớn
lên, trưởng thành và hạnh phúc trong tình yêu của Cha. Khi làm nô lệ cho tội lỗi con
đánh mất phẩm giá cao quý của mình, nhưng Cha đã cho Đức Giêsu đến giải thoát
con khỏi ách nô lệ ấy. Xin cho con biết yêu quý sự tự do Cha đã ban tặng cho con.
Xin Cha ban sức mạnh Thánh Thần giúp con biết sử dụng tự do Cha đã ban tặng, để
sống đúng với phẩm giá cao quí của con người là hình ảnh Cha. Chúng con cầu xin
nhờ Đức Kitô Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT:
Băng reo “Công- Phạt”
Ý nghĩa : Sử dụng tự do đúng được thưởng, lạm dụng tự do sẽ bị phạt.
Có thể thay đổi thứ tự câu hô để tạo sự hào hứng.
Người điều Tất cả làm cử
khiển hô lớn điệu
CÔNG Đưa hai tay lên
trời.
THƯỞNG Giang ngang hai
tay ra.
TỘI Khom lưng, cúi
đầu
PHẠT Quì gối

VII. BÀI TẬP


Theo nguyên tắc : “Việc làm tốt phải đi đôi với mục đích tốt”, em làm một
bảng tương tự như dưới đây với các ví dụ khác để thay vào thay ví dụ nằm
trong ngoặc.
Hành động (ví dụ) Mục đích (ví dụ) Đánh
giá
Tốt (Chăm học) Tốt (để bố mẹ vui) Tốt
Tốt (………………………………) Tốt (………………………..) Tốt
Tốt (Chăm đi dự lễ) Xấu (để người ta biết) Xấu
Tốt ( …………………………) Xấu ( Xấu
…………………………)
Xấu (Ăn cắp tiền) Tốt (cho người nghèo) Xấu
Xấu (………………………..) Tốt (………………………..) Xấu

VIII. SỐNG LỜI CHÚA :


Trong tuần này quyết tâm : Tập sống “vâng” đối với cha mẹ, thầy cô.
IX. Cầu nguyện kết thúc :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nêu gương cho chúng con về việc sử dụng tự do. Chúa
đã sống tiếng “vâng” với cha mẹ với việc tốt và với Chúa Cha. Xin cho chúng con
cũng biết dùng tiếng “vâng” với cha mẹ, thầy cô, với việc tốt và với Thiên Chúa để
chúng con lớn lên, trưởng thành và hạnh phúc trong tình yêu của Chúa.
Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.

BÀI 23
LƯƠNG TÂM VÀ LUẬT CHÚA HƯỚNG DẪN TA
(1 Cr 4, 3- 5)

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần đến với chúng con và soi sáng, để chúng con
cùng nhau học hỏi, hiểu biết về lương tâm và luật Chúa ban hướng dẫn chúng con,
giúp chúng con sống xứng đáng là con cái Chúa.
1- Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm
2- Viết tựa đề và Lời Chúa của bài mới
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
- Khi em đi sau một người, nhìn thấy họ đánh rơi ví tiền. Em phân vân giữa
việc nhặt cất đi (vì không có ai nhìn thấy) hoặc nhặt trả lại cho họ. Sau một lúc suy
nghĩ, em quyết định nhặt và trả lại cho họ.
- Theo em khi làm một việc như vậy, em đã được sự thúc giục và nhắc bảo của
ai? (Của Chúa Thánh Thần và của lương tâm).
- Làm như vậy em cảm thấy thế nào? (Yên tâm, không áy náy)
- Ngược lại, vì không có ai nhìn thấy, em nhặt cất đi làm của mình, em cảm
thấy thế nào? (Áy náy, lo sợ, ray rứt).
Vậy khi đứng trước một điều tốt và một điều xấu, nếu em chọn điều xấu thì
Chúa Thánh Thần và lương tâm không làm việc trong em hay sao? (Không phải, Chúa
Thánh Thần vẫn soi sáng, lương tâm vẫn hướng dẫn. Nhưng em đã bỏ qua, không
lắng nghe sự hướng dẫn đó).
Ta có thể kết luận rằng : Mọi người chúng ta đều phải đối diện trước lương
tâm, là tiếng Chúa nói trong lòng, để trả lời về những việc mình đã làm.
- Nếu là điều xấu: lương tâm ta cắn rứt, trách móc và ta cảm thấy xấu hổ.
- Nếu là điều tốt : lương tâm ta sẽ khen ngợi và ta cảm thấy bình an, vui
sướng.
Chúng ta cùng lắng nghe thánh Phaolô nói về lương tâm ngay thẳng của mình
trước mặt Chúa.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA. (1 Cr 4, 3- 5).
Thinh lặng một phút.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
a. Tìm trọng tâm : (hội thảo theo tổ, ghi lại đúc kết)
- Từ ngữ chính : Lương tâm – xét xử
- Câu tóm ý : Câu 4 “Tôi không thấy lương tâm áy náy…”
- Tựa đề mới : SỐNG THEO LƯƠNG TÂM.
b. Lời Chúa dẫn đến bài học.
Trong đời sống hằng ngày, Chúa luôn mời gọi ta làm điều tốt và tránh điều
xấu. Khi làm điều tốt, ta làm đẹp lòng Chúa và lòng ta an vui. Ngược lại, khi làm điều
xấu thì ta làm Chúa buồn và lòng ta áy náy.
Lời mời gọi của Chúa trong tâm hồn ta chính là “tiếng lương tâm”.
1/ Lương tâm : (Xem lại Giáo lý CB1, bài 24)
Nơi tận đáy lòng chúng ta luôn có tiếng nói bảo chúng ta làm lành lánh dữ, đó
là tiếng của ai? (- Là tiếng nói của Chúa, gọi là tiếng lương tâm.)
- Vậy lương tâm là gì? (-Là sự phán đoán của lý trí mà Thiên Chúa đặt sẵn nơi
đáy lòng mỗi người để soi dẫn họ làm điều tốt.)
- Chúa ban lương tâm cho những ai? (-Cho mọi người. Cả những người chưa
nhận biết Chúa, vì Chúa yêu thương mọi người.)
- Lương tâm có phải là luật Chúa ghi trong tâm hồn ta không? (-Đúng vậy,
đó là luật tự nhiên.)
- Chúa làm gì để nâng đỡ lương tâm con người ? (-Chúa ban Thánh Thần để
nâng đỡ lương tâm ta.)
- Ta có buộc phải nghe tiếng lương tâm không ? (- Có, ta phải triệt để
nghe theo tiếng lương tâm, vì đó là tiếng Chúa).
- Lương tâm có thể sai lạc không? Khi nào? (- Có, vì hoàn cảnh sống. Ví dụ
: Một em bé mồ côi, được một nhóm trộm cướp nuôi, lớn lên em phải đi ăn cắp, em
không biết đó là tội, chỉ nghĩ đó là việc cần làm để sinh sống.)
Vậy ta phải làm gì để có lương tâm ngay thẳng, sáng suốt? (Học giáo lý và
lề luật Chúa để biết phân biệt tốt xấu. Năng cầu nguyện để có sức mạnh xa tránh
cám dỗ và chiến thắng tội lỗi. Khi cần thì phải bàn hỏi với những người đạo đức,
khôn ngoan.)
* HS đọc phần I trong sách học sinh.
HS ghi bài :
Lương tâm là tiếng Chúa nói trong lòng mỗi người, giúp lý trí phán đoán để nhận biết
và phân biệt tốt xấu, giúp ta làm lành, lánh dữ. Vì vậy ta phải nghe và làm theo tiếng
lương tâm dạy bảo.
2. Luật luân lý . (Xem lại Giáo lý CB1, bài 25)
Lương tâm hướng dẫn hành động của mọi người, vì vậy nó được gọi là luật gì
? (Tiếng nói của lương tâm chính là luật tự nhiên cho tất cả loài người.)
Nguyên luật tự nhiên đã đủ cho đời sống con người chưa? (Chưa đủ. Vì thế, khi
đã ban cho con người lương tâm, chính Thiên Chúa còn trực tiếp lên tiếng dạy bảo con
người, qua Abraham - Môsê - các ngôn sứ, và chiùnh Đức Giêsu Kitô đã đến để hoàn
tất mọi lề luật trong luật yêu thương . Những điều ấy được gọi là luật mạc khải của
Cựu Ước và Tân Ước.)
Cả luật tự nhiên (lương tâm) và luật mạc khải (Cựu Ước và Tân Ước) hợp thành
luật luân lý Kitô giáo, đặt nền tảng trên tình yêu thương. Mến Chúa – yêu người
là chu toàn mọi lề luật.
* HS đọc phần 2 trong sách học sinh, trang 98.
HS ghi bài :
Luật luân lý của Kitô Giáo bao gồm luật tự nhiên và luật mạc khải trong Cựu Ước và
Tân Ước. Luân lý Kitô Giáo qui hướng về tình yêu.
3. Giao ước trong cõi lòng
HS đọc phần 3 trong sách, trang 99.
HS ghi :
Luật Tân Ước là luật của ân sủng và tự do.
Vì được qui hướng về tình yêu nên lề luật không phải là sự áp đặt từ bên ngoài, nhưng
là lời mời gọi mọi người tự nguyện bước theo con đường đưa tới hạnh phúc.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban Thánh Thần soi sáng, dạy dỗ
để chúng con biết rằng: vì muốn cho chúng con sống tốt, Cha trên trời đã ban cho
mỗi người chúng con đều có một lương tâm. Xin cho chúng con biết lắng nghe Chúa
Thánh Thần dậy bảo trong lương tâm chúng con và biết làm theo ý Chúa. Để được
tiến xa hơn trên đường nên thánh, nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn
thiện. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
VI. SINH HOẠT :
Người điều khiển sẽ nêu lên những hành động. Tất cả lắng nghe và phân biệt :
• Việc tốt : hoan hô và vỗ tay (vui mừng).
• Việc xấu : chê xấu xa và gục đầu, hai tay úp mặt (xấu hổ).
NĐK TẤT CẢ NĐK TẤT CẢ
Học giáo Hoan hô, hoan Hận thù Xấu xa, xấu
lý hô xa
Bỏ lễ Xấu xa, xấu Vâng lời Hoan hô,
xa hoan hô
Yêu người Hoan hô, hoan Bướng Xấu xa, xấu
hô bỉnh xa
Siêng Hoan hô, hoan Lười biếng Xấu xa, xấu
năng hô xa
Ăn cắp … Đánh nhau …
Giúp bạn … Nói xấu …

VII. BÀI TẬP :


1/ Lương tâm là gì?
a. Sự phán đoán Chúa ban để hướng dẫn ta làm lành lánh dữ.
b. Tiếng Chúa nói nơi đáy lòng ta. c. Cả hai câu a+b đều đúng.
2/ Chúa ban lương tâm cho những ai?
a. Những người có đạo. b. Những người đã trưởng thành.
c. Cho mọi người, cả những người chưa nhận biết Chúa.
d. Cả a và b đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Bài học tâm linh :
- Chúa là Đấng phân xử cuối cùng và Ngài sẽ xét xử ta dựa trên việc ta có
sống theo tiếng lương tâm hướng dẫn hay không.
- Gương sáng: Thánh Phaolô thấy “lương tâm tôi không áy náy điều gì”.
- Tôi sẽ năng cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và xin Ngài soi sáng lương tâm tôi.
Quyết tâm : Tuần này, mỗi sáng, ngay khi ngủ dậy em đọc lời nguyện tắt:
“Lạy Chúa Thánh Thần xin soi sáng lương tâm con,
để con biết làm điều tốt và tránh điều xấu”.
Khi đọc kinh tối em xét mình xem đã làm theo tiếng lương tâm chưa.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC :
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã ban cho con có một lương tâm để nhắc nhở con
sống tốt để con được hạnh phúc.
Xin ban ơn giúp con biết nghe theo tiếng Chúa nói với con trong lương tâm để
luôn làm điều lành tránh điều dữ.
Kinh Sáng Danh.

BÀI 24 :
TỘI LỖI VÀ ƠN CHÚA
(Br 3, 1- 8)

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Hát : “Xin Thánh Thần hãy đến với chúng con, đốt tâm can thêm lòng yêu mến. Xin
mở lòng soi sáng trí khôn, giúp chúng con sống sao vẹn toàn.”
1. Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm.
- Lương tâm là gì ?
- Luật luân lý Kitô Giáo gồm những gì luật nào, trọng tâm là gì ?
- Em cần làm gì để đào tạo một lương tâm tốt ?
- Tuần vừa qua em đã thực hiện điều quyết tâm như thế nào ?
2. Ghi tựa đề bài học và Lời Chúa
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Trong cảnh lưu đầy, dân Chúa đã hiểu ra rằng : tội lỗi (không giữ giao ước) chỉ
đưa họ đến bế tắc, đau khổ, thất vọng… Nhờ các ngôn sứ nhắc bảo, họ nhận ra tội
lỗi, ăn năn thống hối và quyết tâm sửa đổi.
Chúng ta cùng nghe đoạn Kinh Thánh là lời cầu nguyện của tiên tri Baruc nói
lên tâm tình thống hối của dân Chúa, ăn năn, hối hận về những tội lỗi và van xin
Chúa tha thứ.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : (Br 3, 1- 8)
Thinh lặng một phút.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Ngôn sứ Barúc đã cầu nguyện với Chúa để nói lên tâm tình thống hối của dân
Chúa.
HỘI THẢO : theo nhóm, sau đó ghi phần đúc kết trên bảng:
- Nhân vật chính : Dân Do Thái trong cảnh lưu đầy ở Babylon đang khóc tội mình
và xin Chúa tha thứ.
- Từ ngữ chính : “Chúng con đạ phạm tội”( câu 1, 4, 7 lời xưng thú).
- Câu tóm ý : Câu 2: “Lạy Chúa, xin hãy nghe, xin thương xót, bởi vì chúng
con đã phạm tội chống lại Chúa”.
- Tựa đề ngắn : Thống hối và trở về với Chúa.
BÀI HỌC :
1. Ơn Chúa : (Xem lại Căn bản 1, b. 26. Giáo án CB1 t. 175, sách hs t. 94)
- Khi dạy ta sống theo lương tâm và luật Chúa, Thiên Chúa muốn mời gọi ta sống
ngày một hoàn thiện như Cha trên trời và trở nên công chính trước mặt Người. Thế
nhưng tự ta có thể tự làm cho mình trở nên công chính được không? (Không, vì
con người không đủ sức. Xem lại bài 9 và bài 11 : Con người yếu đuối, sa ngã,
không tự mình thoát ra khỏi tội lỗi được. Để cho con người có thể nên công chính,
Thiên Chúa phải giơ tay kéo con người lên, bắt từ việc kêu gọi ông Abraham.)
- Vậy phải nhờ vào đâu ta mới được trở nên công chính?
- Phải nhờ Chúa Thánh Thần giúp sức và phải tin vào Chúa Giêsu, nghĩa là phải nhờ
vào ơn Chúa.
- Ơn Chúa là gì?
Là sự trợ giúp Thiên Chúa ban để ta sống xứng đáng là con cái Ngài, và dự phần
vào sự sống của Ba Ngôi. (Chúa Giêsu dùng hình ảnh : cành nho gắn liền với thân
cây để có sự sống.)
- Khi chịu phép rửa tội em được ơn gì ? (- Em được sạch tội và được sự sống mới
của Chúa : em được nên thánh, đó là ơn thánh hoá).
- Ngoài ơn thánh hoá do Bí tích Rửa tội ta còn được ơn nào khác không? (- Ơn trợ
giúp gồm có : Những ơn riêng do các Bí tích khác, những ơn tuỳ theo chức phận
gọi là hiện sủng, những ơn đặc biệt để phục vụ cộng đoàn gọi là đoàn sủng).
- Như vậy, đố các em biết có mấy thứ ơn Chúa? (- Hai : …. )
- Đọc phần 1 trong sách học sinh.
HS ghi :
Ơn Chúa là sự trợ giúp Thiên Chúa ban để ta sống xứng đáng là con cái Ngài, và dự
phần vào sự sống của Ba Ngôi. Thiên Chúa dùng nhiều cách để ban ơn sủng cho con
người, đặc biệt là qua các bí tích.
2. Tội lỗi : (Xem lại Sách Giáo lý CB1 bài 27)
- Để cộng tác với ơn Chúa ta phải làm gì?
Trước hết ta phải nhận ra và dứt khoát với những tội lỗi mình đã phạm, và tránh xa
những dịp dẫn mình vào tội lỗi.
- Tội là gì?
Là lạm dụng tự do Chúa ban làm ngược lại tiếng lương tâm phạm đến luật Chúa.
- Tội gây ra những tác hại nào trong tâm hồn?
Làm cho ta phải xa lìa Chúa và anh em, đánh mất và làm lu mờ hình ảnh Chúa
trong tâm hồn ta.
- Có mấy thứ tội ?
Tội trọng và tội nhẹ.
- Tội trọng gây ra hậu quả nào?
Cắt đứt tình nghĩa với Chúa và làm cho ta phải xa lìa Chúa đời đời.
- Tội nhẹ gây ra hậu quả nào?
Làm cho ta bớt lòng yêu mến Chúa, tâm hồn sẽ hướng chiều vào điều xấu và dễ
phạm tội trọng hơn.
- Các tội ta thường phạm bắt đầu từ những đầu mối nào?
- Bảy mối tội đầu bao gồm những tội nào?
- Để dứt khoát với tội lỗi ta phải làm gì ?
o Xa tránh các cám dỗ, các dịp tội.
o Siêng năng xưng tội.
o Cố gắng sửa mình, đổi mới đời sống mỗi ngày.
- Đọc phần 2 trong sách học sinh.
HS ghi bài :
Tội làm cho ta mất tình nghĩa với Chúa, mất đi sự sống thiêng liêng. Để được ở lại
trong tình yêu Thiên Chúa, ta phải dứt khoát xa tránh tội lỗi, siêng năng xưng tội
rước lễ, cố gắng sửa mình hằng ngày.
3. Chọn lựa của tôi là luôn đứng về phía Chúa.
Tội lỗi làm ta xa cách Thiên Chúa. Tội chính là kẻ thù nguy hiểm nhất cho hạnh
phúc đời đời của chúng ta, vì vậy lúc nào chúng ta cũng cần phải tỉnh táo để nhận ra
kẻ thù này. Vậy có cách nào giúp ta nhận ra kẻ thù này không ?
- Xét mình hằng ngày.
Nên xét mình lúc nào ?
- Vào buổi tối, trước khi đi ngủ hay sau khi đọc kinh tối, ta nhìn lại “tư tưởng,
lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót” của mình trong một ngày vừa qua.
Xét mình hằng ngày có lợi ích gì?
- Giúp ta kịp thời nhận ra tội đã phạm cùng với nguyên nhân của tội và tìm
cách dứt khoát diệt trừ tội.
Dứt khoát với tội lỗi là làm sao?
- Tránh mọi dịp tội lớn nhỏ, không chiều theo cám dỗ một giây phút nào, dù
là một điều xấu rất nhỏ cũng vậy.
Muốn toàn thắng tội lỗi ta phải làm gì?
- Ta cần khiêm tốn xin Chúa giúp sức, biết rõ điểm yếu của mình để đề phòng,
cương quyết diệt trừ “bảy mối tội đầu”.
- Tập tính tốt : khiêm tốn, ngay thật, can đảm, bác ái …
Hay nói các khác, ta có thể dùng hình ảnh này cho dễ nhớ : tâm hồn chúng ta
như một khu vườn, hằng ngày ta phải lo nhổ sạch cỏ (đó là diệt trừ ‘bảy mối tội đầu’),
nhưng nếu nhổ cỏ rồi mà để đất trống thì cỏ sẽ mọc lên, vì vậy phải trồng cây tốt –
hoa đẹp vào (đó là tập những đức tính tốt) thì cỏ mới không còn chỗ mọc nữa.
Đọc phần 3 trong sách học sinh.
HS ghi bài :
Muốn đứng về phía Chúa ta phải dứt khoát với tội lỗi, tập các đức tính tốt, đáp lại ơn
Chúa trong từng giây phút của cuộc sống.
V. CẦU NGUYỆN :
1- Gợi ý :
Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, đã sai Con Một là Đức Giêsu Kitô đến trần
gian chịu chết và sống lại để đền thay tội lỗi chúng ta, cứu chúng ta khỏi ách nô lệ
tội lỗi, cho chúng ta trở thành con cái Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban thêm
ơn, giúp chúng ta không ngừng vươn lên khỏi tội nhơ, để xứng đáng với phẩm giá
là con cái Chúa và được ở mãi trong tình yêu Chúa.
2- Cầu nguyện :
Có thể chọn một trong hai kinh dưới đây :
 Hát Kinh Thương Xót (Thường hát trong Thánh Lễ)
 Đọc Thánh Vịnh 50 (Các học sinh phải có bản văn sau đây (photo ra), có thể chia
làm hai bè thay phiên nhau đọc từng đoạn)

Tv 50: 3-21
- Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
- Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
- Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án,
liêm chính khi xét xử.
- Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.
Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật,
dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.
- Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.
- Xin cho con được nghe
tiếng reo mừng hoan hỷ,
để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng.
- Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi
và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm.
- Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.
- Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.
- Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ,
và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con;
- đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi,
ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.
- Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ,
xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính.
- Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
- Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm,
con có thượng tiến lễ toàn thiêu,
Ngài cũng không chấp nhận.
- Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát,
một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.
- Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on,
thành luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài xây dựng lại.
- Bấy giờ Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền,
lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế.
Bấy giờ thiên hạ giết bò tơ dâng trên bàn thờ Chúa.
VI. SINH HOẠT
Người điều khiển Học sinh
Đứng về phía Xét mình hằng
Chúa ngày
Đứng về phía Ăn năn thống
Chúa hối
Đứng về phía Quyết chí sửa
Chúa mình
Đứng về phía Xa tránh dịp tội
Chúa
Đứng về phía Tập tành nhân
Chúa đức

VII. BÀI TẬP


1. Có mấy thứ ơn Chúa ?
a- Một b- Hai c- Ba d- Bốn
2. Bí tích nào ban ơn thánh hoá ?
a- Rửa tội b- Truyền chức thánh c- Hôn phối
3. Chúa ban ơn trợ giúp cho ta làm gì ?
a- Chu toàn bổn phận (hiện sủng).
b- Phục vụ cộng đoàn (đoàn sủng).
c- Cả hai câu a và b đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA :
Mỗi tối, trước khi đi ngủ em nhớ xét mình để xin lỗi Chúa và sửa mình.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ hồng ân Chúa đã ban cho chúng con trong giờ học
vừa qua. Xin giúp chúng con khiêm tốn xét mình hằng ngày để xa tránh tội lỗi và
sống đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

BÀI 25
THỜ PHƯỢNG THIÊN CHÚA HẾT LÒNG
(Đnl 6, 4- 9)

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, chúng con đã thuộc lòng và đọc đi đọc lại nhiều lần điều răn thứ
nhất và quan trọng nhất trong mười điều răn, đó là : Thứ nhất, thờ phượng một Đức
Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
Xin Chúa ban Thánh Thần soi sáng, để hôm nay chúng con học hỏi và hiểu sâu
xa điều răn ấy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Đọc kinh : Cúi xin Chúa sáng soi
1- Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm
2- Viết tựa đề và Lời Chúa của bài mới
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Chúng ta đang cùng nhau học về lương tâm và luật Chúa. Vậy luật luân lý (Kitô
giáo) gồm những luật nào?
- Gồm luật tự nhiên lương tâm, luật mạc khải trong Cựu Ước và Tân Ước.
- Luật mạc khải Cựu Ước đã được Thiên Chúa mạc khải qua ai ? (Ông Môsê trên
núi Sinai).
- Vậy em nào có thể kể tóm lược câu chuyện giao ước Sinai? [Ba tháng sau khi
ra khỏi Ai Cập, dân chúng ở dưới chân núi Sinai, Môsê lên núi Sinai 40 đêm ngày,
nhận mạc khải của Chúa. Khi ông Môsê đem Hai Bia Đá Giao Ước xuống, dân đã quên
Chúa, đi thờ ngẫu tượng (bò vàng) ông Môsê tức giận đập vỡ Bia Đá và tiêu huỷ
tượng bò vàng. Ông Môsê lên núi lần nữa và nhận lại Bia Giao Ước. Bia Giao ước được
Chúa ghi khắc Mười Điều Răn. Điều răn thứ nhất và quan trọng nhất trong Giao Ước
Sinai là : Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.]
- Chúng ta cùng lắng nghe chính lời Thiên Chúa dạy bảo dân Người và giới răn
này.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Đệ Nhị Luật 6, 4- 9
Thinh lặng một phút.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA.
Thờ phượng, yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, đó là bổn phận của chúng
ta, là con cái của Thiên Chúa.
Thảo luận (theo tổ –đúc kết trên bảng cho học sinh ghi vào vở)
- Từ ngữ chính : Yêu mến Chúa.
- Câu tóm ý : (câu 5 : Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn
và hết sức ngươi)
- Tựa đề ngắn : Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Bài học : (Xem lại giáo lý Căn Bản 1, 2 bài : 28 và 29 –
Sách Giáo án CB1 trang 187 đến 202))
1. Điều răn thứ nhất (thờ phượng một Đức Chúa Trời)
Để hiểu rõ điều răn thứ nhất dạy ta thế nào, mời các em đọc phần I trong sách
học sinh.
Dựa vào nội dung vừa đọc, đặt câu hỏi cho các em trả lời.
……………….
HS ghi :
Điều răn thứ nhất dậy ta nhận biết và chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, cùng biểu
lộ lòng tôn thờ ấy bằng đức tin, đức cậy và đức mến.
2. Yêu Chúa hết tâm hồn .
Khi không nghe nói tới và không hiểu biết một người nào đó, em không thể
yêu mến người ấy. Biết rồi mới có thể yêu nến. Khi yêu mến người ấy rồi thì chắc
chắn không bao giờ chúng ta lại nói xấu hay nghĩ xấu hoặc làm một điều gì mất lòng
người đó cả.
Đối với Thiên Chúa cũng vậy :
+ Muốn yêu mến Chúa hơn ta phải làm gì?
(Nghe và học hỏi Lời Chúa. )
+ Tất cả những ta nghĩ, ta nói, ta làm phải quy hướng về mục đích gì? (- Mục
đích đẹp lòng Chúa.)
Thật vậy, nghe và học hỏi Lời Chúa làm chúng ta hiểu biết Chúa và yêu mến
Chúa nhiều hơn. Mọi điều ta suy nghĩ, nói năng, hành động đều quy hướng về mục
đích làm đẹp lòng Chúa. Sống đẹp lòng Chúa tức là đã yêu mến Chúa trên hết mọi
sự.
Chính Chúa Giêsu đến trần gian để tỏ cho chúng ta biết về Chúa Cha và dậy ta
yêu mến Ngài trên hết mọi sự bằng cách sống đẹp lòng Ngài trong mọi sự.
HS đọc phần 2 trong sách.
Cùng đối thoại để hiểu rõ hơn.
+ Thế nào là yêu mến Chúa trên hết mọi sự? (Là chỉ tôn thờ
một mình Thiên Chúa mà thôi, mọi sự khác trên đời này như tiền của – sức khoẻ –
tài năng… chỉ là phương tiện để giúp ta phụng sự Chúa, ta không chạy theo chúng.)
+ Còn thế nào là yêu mến Chúa hết lòng hết sức? ( -Là mọi nơi, mọi lúc,
tư tưởng, lời nói đến việc làm ta hướng về Chúa và lo làm đẹp lòng Ngài.)
+ Điều gì ngăn cản ta yêu mến Chúa? (- Khi ta yêu quý những sự trần gian
này hơn Chúa và khi ta đặt mình lên trên anh em).
+ Nếu chỉ bày tỏ lòng yêu mến Chúa bằng cách, đọc kinh, xem lễ thôi đã đủ
chưa? (- Chưa đủ, cần phải bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua cách sống đẹp lòng Chúa
mọi nơi mọi lúc.)
+ Những điều răn nào dậy ta yêu mến Chúa? (- Ba điều răn đầu trong Mười
Điều Răn).
HS ghi :
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức là :
- Hướng mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm về Thiên Chúa;
- và mọi nơi mọi lúc đều yêu mến Ngài, sống đẹp lòng Ngài.
3. Dành ưu tiên cho Thiên Chúa .
Được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài, chúng ta phải
luôn quy hướng về Chúa vì Ngài là khởi đầu và là cùng đích của ta.
Trong Cựu Ước Thiên Chúa đã cho dân Ngài biết rằng chỉ mình Ngài là Thiên
Chúa. Ngoài Ngài ra không còn Chúa nào khác, tất cả đều là tạo vật do Thiên Chúa
làm nên, vì thế không được thờ phượng bất cứ tạo vật nào. “Hãy yêu mến
Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức hết linh hồn và hết sức Ngươi”.
Điều đó có nghĩa là luôn biết ơn và dành ưu tiên cho Chúa trong mọi điều ta
nghĩ, ta nói và ta làm.
Đọc phần 3 trong sách học sinh.
Kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự là luôn biết ơn và
dành ưu tiên cho Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm và luôn mau mắn vâng
theo ý Ngài từ những điều nhỏ nhất.
+ Dành ưu tiên cho Thiên Chúa trong mọi điều ta nghĩ nghĩa là thế nào?
+ Dành ưu tiên cho Thiên Chúa trong mọi điều ta nói nghĩa là gì?
+ Dành ưu tiên cho Thiên Chúa trong mọi việc ta làm là thế nào?
Ghi bài :
Dành ưu tiên cho Thiên Chúa là đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự ở đời này, để Ngài
làm chủ mọi tư tưởng – lời nói – việc làm của ta.
V. CẦU NGUYỆN :
Lậy Thiên Chúa là Cha nhân ái, Cha đã yêu con vô cùng. Đã dựng nên con
giống hình ảnh Cha. Cho con được làm con Cha, ban cho con mọi sự, ngay cả Con
Một Cha là Đức Giêsu, Cha cũng không tiếc với con. Thế mà con lại chưa yêu mến
Cha trên hết mọi sự. Hôm nay con hiểu rõ bổn phận con phải đáp trả lại tình Cha.
Con xin thưa với Cha rằng: con quyết tâm yêu mến Cha trên hết mọi sự, yêu mến
Cha mọi nơi mọi lúc và yêu mến Cha hết lòng hết sức. Xin Cha ban thêm lòng mến
cho con. Xin cho con biết vâng theo ý Cha, trong ý nghĩ, lời nói và việc làm. Xin giúp
con luôn sống dưới cái nhìn yêu thương của Cha và làm đẹp lòng Cha. Để con luôn
làm vinh danh Cha, và để con xứng đáng là người con được cha thương yêu
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
- Đọc kinh Kính Mến.
VI. SINH HOẠT : Băng reo : YÊU MẾN CHÚA
Người điều Tất cả
khiển
Yêu mến Chúa Trên hết mọi sự.
Yêu mến Chúa Hết lòng hết sức
Yêu mến Chúa Mọi nơi mọi lúc
Ưu tiên cho Nói, nghĩ, làm…
Chúa Ah.. Ah…Ah
VII. BÀI TẬP : (Làm vào giấy kiểm tra).
1/ Ta phải yêu mến Chúa thế nào?
- Trên hết mọi sự, hết lòng hết sức
2/ Yêu Chúa trên hết mọi sự là làm sao?
- Chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi, mọi sự khác chỉ là phương tiện
giúp ta phụng sự Ngài.
3/ Yêu Chúa hết lòng hết sức là làm sao?
- Mọi nơi mọi lúc, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA :
Trong tuần này em sẽ đọc lời nguyện tắt này trước mỗi công việc :
“Lạy Chúa, con làm việc này vì yêu mến Chúa”.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã soi sáng cho chúng con hiểu : Thờ phượng
Chúa trên hết mọi sự và yêu mến Chúa hết lòng hết sức là bổn phận của chúng con.
Là những người con bé nhỏ của Chúa, chúng con quyết tâm yêu mến Chúa bằng
chính cuộc sống của chúng con : từ ý nghĩ, lời nói, cho đến việc làm.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Đọc kinh Sáng Danh.

BÀI 26 :
DẬY MEN TIN MỪNG 5
XÂY DỰNG BẦU KHÍ GIA ĐÌNH

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, Chúa đã ban cho tất cả mỗi người chúng con đều có một gia đình,
nơi chúng con được nuôi nấng, được yêu thương. Xin cho chúng con trong giờ học
hôm nay thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng một gia đình đầm ấm yêu
thương.
Đọc kinh Lạy Cha.
Kiểm tra bài cũ :
1. Những tội phạm đến đức tin là gì?
- Không chịu tìm hiểu các chân lý mạc khải.
- Chủ ý nghi ngờ các chân lý ấy.
- Có ý chối bỏ các chân lý, trở thành rối đạo, bỏ đạo hoặc ly khai khỏi Hội Thánh.
2. Để ngày càng lớn lên trong đức tin ta phải làm gì?
- Ta cần đào sâu Giáo lý, siêng năng cầu nguyện và góp phần truyền bá đức tin.
Kiểm tra quyết tâm
Ghi tựa đề bài học
II. GIẢI THÍCH BÀI HỌC.
Gia đình có một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên xã hội loài
người. Gia đình là vườn ươm nảy nở nhân cách của con người. Chỉ nơi gia đình con
người mới học được cách hiến thân vì người khác. Chỉ nơi gia đình con người mới được
giáo dục và hướng dẫn tới sự trưởng thành trọn vẹn trong nhân tính, đó là sống một
cuộc sống biết hoà mình vào người khác, phục vụ người khác bằng tình thương yêu
mà Thiên Chúa đã đặt trong tâm hồn con người.
Vì vậy cần phải quan tâm xây dựng bầu khí gia đình.
1. Hãy quan tâm tới bầu khí gia đình.
Khi còn bé ta thường cảm thấy gia đình là nơi an toàn, đầm ấm, yêu thương
nhất. Gia đình bao giờ cũng là chỗ dựa vững chắc nhất cho cuộc đời trong những lúc
khó khăn. Lời hát của nhạc sỹ Đình Diễn trong bài hát “Cầu Cho Cha Mẹ” đã cho ta
thấy kinh nghiệm của những người con xa gia đình: “Ai qua là bao chốn xa, thấy đâu
vui cho bằng mái nhà”.
Thế nhưng, càng lớn lên thì việc học hành, các mối quan hệ, công việc
làm ăn kéo ta rời xa gia đình của mình, hoà nhập vào xã hội. Đôi khi ta cảm thấy bị
mất tự do trong gia đình, khó chịu với người này người nọ. Trong cuộc sống gia đình
dù êm đềm mấy thì cũng có lúc ta cảm thấy ngột ngạt vì những bất hoà nho nhỏ do
ý kiến, tính tình, sở thích, quan niệm sống khác nhau. Những khó khăn trong công
việc làm ăn, những lúc ốm đau bệnh tật cũng có phần làm cho gia đình mất bình an và
vui tươi.
Tuy nhiên, dù còn nhỏ ta cũng có thể góp phần cải thiện bầu khí gia đình bằng
cách sống hiếu thảo, chăm chỉ học tập, giúp đỡ mọi người trong nhà, nếu làm được
như vậy thì chắc chắn gia đình ta sẽ êm đềm hạnh phúc hơn.
2. Làm cho cha mẹ được vui.
Con cái là niềm vui, là nguồn hạnh phúc trong gia đình, con cái cũng là động
lực giúp cho cha mẹ vượt qua bao gian nan thử thách trong cuộc mưu sinh, xây dựng
một gia đình ấm no hạnh phúc.
- Với phận làm con ta có thể làm cho cha mẹ vui lòng bằng lời nói. Biết quan tâm
hỏi han khi cha mẹ lo lắng, mệt mỏi hay lúc ốm đau.
- Ngoài lời nói ra, ta cũng có thể bày tỏ quan tâm bằng cách giúp đỡ những công
việc ta có thể làm như : nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, trông em… Bằng thái độ tích
cực vui tươi.
- Đặc biệt cha mẹ rất hạnh phúc khi con cái biết tin cậy vào cha mẹ qua việc biết
vâng lời, bày tỏ chia sẻ với cha mẹ những chuyện vui buồn ở trường lớp, những
lo lắng khó khăn của việc học.
- Chúng ta có thể băn khoăn tìm kiếm một món quà để làm vui lòng một người bạn
vào dịp sinh nhật, thì có lẽ nào chúng ta lại không băn khoăn tìm cách (có sáng
kiến) làm cho cha mẹ, những người đã sinh thành ra ta, yêu thương ta, chịu vất
vả vì ta … được vui.
3. Yêu thương anh chị em ruột thịt.
Tục ngữ Việt Nam có câu : “Anh em như thể tay chân”. Sự hoà thuận, yêu
thương giữa anh chị em trong gia đình góp phần rất lớn tạo nên một gia đình ấm êm
hạnh phúc.
Niềm vui của cha mẹ là thấy con cái hoà thuận vui vẻ. “Chị ngã em nâng” là
bài học cha ông ta hằng căn dặn từ xa xưa tới nay. Anh chị em cần phải biết hy sinh,
nhường nhịn nhau, quảng đại tha thứ và chịu đựng những khuyết điểm của nhau
trong tinh thần xây dựng.
Hôm nay, ta đang được sống trong gia đình với cha mẹ và anh chị em. Hãy biết
quý trọng và góp phần xây dựng gia đình yên vui.
Câu hỏi thảo luận :
Chúng ta phải làm gì để góp phần xây dựng gia đình mình hạnh phúc?
XEM :
- Có nhiều gia đình sống hoà thuận, anh chị em giúp đỡ nhau, con cái vâng lời, hiếu
thảo với cha mẹ. Những gia đình đó hạnh phúc.
- Nhiều người sống trong gia đình mà không biết quan tâm đến gia đình, không chia
sẻ với gia đình những khó khăn mà gia đình đang gặp phải.
- Có nhiều em chỉ nghĩ một phía; đòi hỏi cha mẹ và người khác lo cho mình cái này,
cái kia mà không lo lắng nghĩ cho người khác. Thích làm gì là làm không để ý đến
lời dạy dỗ khuyên bảo của cha mẹ. Khi bị mắng mỏ, rầy la thì giận dỗi,
không ăn cơm, không nói chuyện, thậm chí còn bỏ nhà đi. Cha mẹ đau khổ vì con.
- Có những em cảm thấy khó chịu khi phải coi em hay làm việc nhà như quét dọn,
nấu cơm, giặt đồ ...
XÉT :
- “Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
- “Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”
- Những câu ca dao tục ngữ trên nói lên nhận thức đúng đắn về công ơn sinh thành,
về tình yêu thương trong gia đình mà chúng ta phải khắc ghi, phải lấy đó làm tiêu
chuẩn sống.
- Trong cuộc sống hằng ngày các em có nhận ra được công ơn của cha mẹ không?
- Các em làm gì để đáp lại công ơn ấy?
- Anh chị em trong nhà có biết yêu thương, giúp đỡ nhau như cha mẹ mình mong
muốn không?
- Mẹ Têrêsa Calquitta có một nhận xét : “Đôi khi thật khó khăn để nở một nụ cười
với những người sống bên cạnh chúng ta, nhất là với những người thân thiết nhất
trong gia đình, nhưng điều đó lại xảy ra dễ dàng hơn với những người xa lạ.” Em
thấy mình có như vậy không ?
- Các em có thấy nhiều bạn cùng tuổi với mình có hoàn cảnh gia đình còn khó khăn,
thiếu thốn hơn mình không? Gặp những trường hợp như vậy, các em có so sánh để
thấy được những hạnh phúc mình đang có từ gia đình mình không? Để trân trọng,
bảo vệ hạnh phúc đó không ?
LÀM :
Em phải làm gì để góp phần làm cho gia đình mình ấm êm, hạnh phúc hơn?
- Cầu nguyện cho cha mẹ và anh chị em mình hằng ngày.
- Đọc kinh chung mỗi tối với gia đình, để tạo bầu khí đạo đức, hiệp nhất, gần gũi
với nhau …
- Dành cho cha mẹ những lời yêu thương, kính trọng.
- Vâng lời, làm theo sự chỉ dạy của cha mẹ, không cãi lại.
- Làm điều cha mẹ mong mỏi nhất : chăm học và ngoan ngoãn.
- Giúp cha mẹ những việc nhỏ theo sức mình có thể : nấu cơm, giặt giũ, quét nhà,
lau bàn, rửa chén …
- Tiết kiệm tiền bạc cho cha mẹ : cẩn thận giữ sách vở, đồ dùng, không đua đòi đồ
chơi, xe cộ, quần áo …
- Anh chị em trong nhà biết nhường nhịn nhau, giúp đỡ nhau.
- Là anh chị thì giúp cha mẹ để dạy cho các em học bài, học giáo lý, nhắc nhở các
em làm những điều tốt.
- Mẹ Têrêsa khuyên chúng ta : “Hãy làm một điều đơn giản này thôi, là nở nụ cười
với bất cứ người nào chúng ta gặp gỡ, nhất là những khi thật là khó khăn để cười
với họ. Hãy cười với từng người bạn gặp và dành thời giờ cho những người thân
yêu trong gia đình của bạn. Thật không dễ dàng chút nào để yêu thương những
con người sống kề cận với mình. Có lẽ dễ dàng để giúp cho một người đang đói
khát một bát cơm, ly nước, hơn là chia sẻ và quantâm đến nỗi đau khổ và cô đơn
của chính những người thân yêu trong gia đình mình ...”
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Những năm đầu thập niên 90 tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ ấm tình
thương, những tổ ấm này do các đoàn thể hoặc tư nhân thiện chí lập nên nhằm giúp
các em mồ côi có được một mái ấm gia đình hoặc tạo cơ hội cho những em bụi đời
bỏ nhà ra đi trở về làm hoà với gia đình của mình. Đồng thời tạo điều kiện cho các
gia đình đó đón nhận lại con cái. Một vài nước Bắc Âu không có trại mồ côi nhưng
chính phủ tìm những gia đình tình nguyện nhận các em về nuôi. Các chính phủ này
cho rằng, đó là phương cách tốt nhất để ngăn ngừa các tệ đoan xã hội sau này. Vì
gia đình là môi trường tốt nhất cho người ta được phát triển quân bình. Thậm chí,
hiện nay nhiều nơi cho rằng không nên tập trung các bệnh nhân tâm thần vào một
nhà thương biệt lập như xưa nữa. Nhưng nên đưa họ trở về gia đình thì mới mong
chữa trị cho họ đạt kết quả tốt hơn.
Những sự kiện trên cho thấy gia đình có một giá trị vô cùng tốt đẹp, cao quí
mà Thiên Chúa đã dành riêng cho con người. Chúng ta cùng lắng nghe Lời Chúa
trong sách Huấn Ca nhắn nhủ về tình gia đình.
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
(Hc 7, 27- 28; 30, 1- 8)
V. CẦU NGUYỆN .
Lạy Chúa Giêsu yêu mến, Chúa là mẫu gương hoàn hảo về cách sống làm một
người con hiếu thảo cho chúng con noi theo.
Là con, Chúa đã chu toàn Thánh ý Chúa Cha, xuống thế làm người cứu chuộc
chúng con.
Những năm dài sống trong gia đình Thánh Gia ở Nazareth, Chúa đã vâng phục
Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria, Chúa đã làm mọi việc với một lòng yêu mến lớn lao :
yêu mến Chúa Cha, Thánh Cả Giuse, Mẹ Maria, và tất cả mọi người. Chúa đã sống
quên mình vì mọi người, muốn đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương sống hiếu thảo từ Chúa, để chúng con biết
yêu mến gia đình, cha mẹ, và anh em chúng con, để mỗi một ngày chúng con trở
nên giống Chúa hơn, xứng đáng làm người con ngoan trong gia đình, người con hiếu
thảo của Chúa .
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. SINH HOẠT
- Chia lớp làm hai phe để thi nhau hát những bài về gia đình, tình cha, tình mẹ

- Tập hát: “Cầu cho cha mẹ” (Để hát trong phần cầu nguyện).
VII. BÀI TẬP
1. Để là người con hiếu thảo ta phải:
a. Vâng lời cha mẹ. b. Cầu nguyện cho gia đình
c. Thương yêu giúp đỡ anh chị em. d. Cả a, b, c, đều đúng
2. Gia đình là nơi:
a. Ta được học hỏi nhiều nhất b. Làm cho ta mất tự do nhất
c. Ta được yêu thương nhất d. Cả a và c đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Nói năng ngọt ngào, cư xử hoà nhã với mọi người trong gia đình.
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, qua giờ học hôm nay chúng con nhận ra rằng : chúng con chưa thật
sống làm người con hiếu thảo trong gia đình, xin Chúa tha thứ cho chúng con. Chúng
con hứa với Chúa chúng con sẽ vâng lời cha mẹ, yêu thương mọi người trong gia đình
chúng con nhiều hơn nữa. Chúng con xin dâng lên Chúa bài hát này như lời kinh chân
thành tha thiết, xin Chúa xuống ơn cho gia đình chúng con.
(Hát bài cầu cho cha mẹ).

Bài 27
CẦU NGUYỆN LÀ GÌ ?

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ:


Lạy Chúa, xin chúc lành cho chúng con trong giờø học hôm này để mỗi lần đến
với giờ học là mỗi lần chúng con cảm thấy được Chúa hướng dẫn và dìu dắt đến gần
với Chúa hơn.
(đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi).
1) Kiểm tra bài cũ:
- Vâng lời cha mẹ – yêu thương anh chị em trong gia đình, khích lệ nâng đỡ nhau
trong công việc học hành – giúp đỡ nhau trong việc gia đình.
2) Viết tựa đề bài học:
CẦU NGUYỆN LÀ GÌ ?
Lời Chúa Tv 62, 2. 7– 8
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA:
Có một người lính, đã từng tham gia cuộc nội chiến ở nước Mỹ vào những năm
từ 1861 – 1865, thuật lại câu chuyện:
Hôm ấy, bộ chỉ huy ra lệnh cho các đơn vị phải canh phòng cẩn mật, nếu bắt
gặp người khả nghi không nói đúng mật khẩu có thể bắn ngay. Đêm hôm ấy, một
bóng đen xuất hiện, lính trong đồn chĩa súng quát hỏi: “Ai đó?” Người lạ rụt rè trả
lời: “Một người bạn, một người anh em”, lính canh hỏi mật khẩu, người kia lúng
túng: “Không, tôi nào có biết câu mật khẩu nào, tôi vừa chạy khỏi phía bên kia để
xin đầu hàng phía các anh bên này, tôi không muốn tiếp tục bắn giết chính anh em
của mình nữa!”.
Người lính canh vốn có lòng nhân hậu nhưng anh không thể làm trái với quân
lệnh. Anh ta bảo nạn nhân: “Đã có lệnh phải bắn bỏ ngay những ai không biết mật
khẩu. Một là anh quay trở lại bên kia, hai là anh chỉ có nước sửa soạn dọn mình chờ
chết thôi!”.
Người lạ mặt nghe vậy thì tuyệt vọng, quỳ ngay xuống chiến hào, đưa tay run
run làm dấu Thánh Giá để sẵn sàng chờ đợi viên đạn kết liễu mạng sống … Điều bất
ngờ xảy ra, anh lính canh thấy vậy thì vội buông súng, chạy đến đỡ người lính đối
phương đứng dậy rồi kéo anh ta chạy thật nhanh về chiến tuyến của mình. Anh ta
giải thích cho người vừa thoát chết: “Lạy Chúa! May quá, anh có biết không : Mật
khẩu mà ngày hôm nay chỉ huy chúng tôi đã qui định chính là: làm dấu Thánh Gíá”.
Trong lúc tuyệt vọng, người lính này chỉ còn biết trông cậy vào Thiên Chúa. Khi
gặp những khó khăn, thử thách người ta cũng thường hay đi tìm sự giúp đỡ từ những
người khác. Giống như tác giả đoạn Thánh Vịnh mà chúng ta sắp nghe sau đây, đã
tìm kiếm sự giúp đỡ từ Thiên Chúa là nguồn an bình thật sự. Mời các em cùng lắng
nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA
Tv 62, 2.7 – 8
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA: (Xem lại giáo lý : - CB1 bài 8
- CB 3, bài 25 – 32)
1) Dẫn giải Lời Chúa:
Đây là một đoạn trích trong sách Thánh Vịnh, là bộ sưu tập thánh ca gồm
những bài ca vịnh được sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ đời vua Đavít đến thế
kỷ III trước công nguyên. Đây cũng là kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu Ước cũng
như Tân Ước. Mọi tình huống, mọi tâm tình của con người đựợc diễn tả, bộc bạch
trước Thiên Chúa với lòng đơn sơ, tin tưởng. Để hiểu rõ hơn đoạn Thánh Vịnh mà
chúng ta vừa nghe mời các em cùng thảo luận.
2) Thảo luận:
- Từ ngữ chính: Con tìm kiếm Chúa.
- Câu tóm ý (C2): “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ.
Ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.”
- Tựa đề ngắn: “Thưa chuyện với Chúa”
3) Bài học
Thiên Chúa mời gọi ta yêu mến Ngài hết lòng hết sức và qua Đức Giêsu Kitô,
Ngài đã nhận chúng ta là con của Ngài. Những gì ta cần, ta ước muốn Ngài đều biết
rõ. Ngài sẵn lòng ban cho ta mọi điều tốt lành vì Ngài là Đấng Toàn Năng yêu thương,
là người Cha trên mọi người Cha, vì thế chúng ta hãy năng chạy đến với Ngài để trò
chuyện, ngợi khen, cảm tạ và cầu xin một cách thân tình.
a- Cầu nguyện :
* Hướng dẫn: (X. Căn bản 1, bài 8)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt vào lòng con người một nỗi khát khao
Ngài là nguồn mạch sự sống. Vì thế con người chỉ hạnh phúc khi mối liên hệ giữa
Thiên Chúa và con người gắn bó, bền chặt. Muốn được như vậy con người cần phải
cầu nguyện. Thế nhưng em có biết cầu nguyện là gì không ? [- Là đến gặp gỡ Thiên
Chúa, mở lòng lắng nghe và thưa chuyện thân mật với Ba Ngôi như con nói chuyện
với người cha hay người mẹ tốt lành. (Ga 15,4; Mt 6,6 -8)]
- Khi cầu nguyện ta phải có tâm tình nào? (- Phải có tâm tình của người con là khiêm
nhường, tin, cậy và yêu mến.)
- Ai giúp ta cầu nguyện? (- Chúa Thánh Thần ngự trong lòng chúng ta. Ngài giúp ta
biết lắng nghe và biết nói trong tình con thảo.)
- Khi cầu nguyện Chúa nói gì với ta? (-Chúa cho ta nhận biết Ngài, Chúa an ủi nâng
đỡ, soi sáng và thúc giục ta sống theo ý Ngài.)
- Còn ta nói gì với Chúa? (- Ta nói nên tâm tình thờ lạy, biết ơn, thống hối ngợi khen,
cầu xin những ơn lành cần thiết cho ta và mọi người.)
- Vậy cầu nguyện có cần thiết không? (- Rất cần thiết, vì nếu không cầu nguyện ta
không thể sống thân tình với Chúa.)
* Học sinh ghi:
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với
Ngài trong tình yêu, để cầu xin những ơn cần thiết.
Thiên Chúa không ngừng kêu gọi mỗi người đến gặp Người cách huyền nhiệm
trong cầu nguyện. Suốt dòng lịch sử cứu độ, chúng ta thấy cầu nguyện như lời Thiên
Chúa và con người mời gọi nhau. (GLCG. 2591).
b- Cầu nguyện trong thinh lặng
* Hướng dẫn: (Xem lại giáo lý CB3, bài 30)
* Học sinh ghi:
Ngoài việc đọc kinh và cầu nguyện tự phát thành lời, ta có thể cầu nguyện
trong thinh lặng bằng cách : kiểm điểm đời sống, suy niệm, tâm sự với Chúa hay
chiêm niệm trong lòng.
c- Cầu nguyện riêng
Bóng đèn muốn sáng phải cần đến nguồn điện. Cầu nguyện cũng nối kết người
Kitô hữu với nguồn sống như vậy. Chúa Giêsu đã nêu gương cho ta về việc cầu
nguyện. Ngài luôn tìm mọi dịp để cầu nguyện với Chúa Cha và hằng kết hợp với Chúa
Cha trong mọi nơi, mọi lúc.
* Học sinh ghi:
Ta cần năng cầu nguyện chung với gia đình và cộng đoàn, đồng thời cũng phải
có giờ để cầu nguyện riêng nữa. Vì Thiên Chúa là nguồn sống của ta nên ta cần đến
Người.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ:
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ:
VII. BÀI TẬP:
1) Cầu nguyện là:
a/ Xin cho ta được những ơn cần thiết.
b/ Cần đọc thật nhiều kinh, không cần suy nghĩ gì.
c/ Gặp gỡ thưa chuyện với Chúa trong tình yêu thương.
d/ Cả a và c đều đúng. e/ Cả a, b, c đều đúng
2) Ta có thể cầu nguyện bằng:
a/ Đọc kinh nguyện, thánh ca, thánh vịnh.
b/ Suy gẫm và chiêm niệm trong thinh lặng.
c/ Cả a và b đều đúng.
d/ Cả a và b đều sai.
3) Ta không thể cầu nguyện đúng cách:
a/ Nếu không biết đọc kinh.
b/ Nếu không đọc Kinh Thánh.
c/ Nếu không có Chúa Thánh Thần trợ giúp.
d/ Cả a,b và c đều đúng.
VIII. DỐC LÒNG
Bài học hôm nay cho chúng ta biết rằng:
- Cầu nguyện là điều hết sức cần thiết cho đời sống của người Kitô hữu.
- Thiên Chúa luôn khát khao, mong mỏi con người đến với Ngài qua con đường cầu
nguyện.
Quyết tâm: Thưa chuyện với Chúa trước khi đi ngủ.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ:
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho con có thời giờ để đến với Chúa trong
giờ học vừa qua. Xin cho chúng con luôn nhớ đến bài học hôm nay là: siêng năng cầu
nguyện để đời sống chúng con mỗi ngày một gắn bó với Chúa hơn.
(Đọc Kinh Sáng Danh)

Bài 28
CẦU NGUYỆN CHUNG : PHỤNG VỤ

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ:


Lạy Chúa, xin ban ơn Thánh Thần đến mở rộng tâm trí chúng con. Để chúng
con có thể đón nhận và hiểu được những gì Chúa muốn nói với chúng con trong giờ
học hôm nay.
(Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi)
1- Kiểm tra bài cũ:
a/ Cầu nguyện là gì?
- Là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để gặp gỡ, hiệp thông với Ngài trong tình
yêu thương, và cầu xin những ơn cần thiết.
b/ Tại sao ta nên siêng năng cầu nguyện?
- Ta nên siêng năng cầu nguyện vì Thiên Chúa là nguồn sống của ta, Ngài hằng
mời gọi và mong chờ ta tới gặp gỡ Ngài.
2- Kiểm tra điều điều quyết tâm :
3- Viết tựa đề bài học:
CẦU NGUYỆN CHUNG : PHỤNG VỤ
Lc Tv 94,1 – 7.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA:
Huấn luyện viên Grant Teaff của trường đại học Baylor thuộc bang Texes có
viết tác phẩm tựa đề: “TÔI TIN”. Trong đó ông mô tả một biến cố đã xảy ra khi ông
đang dạy học tại đại học Murry.
Một buổi tối thứ bảy, ông cùng đội bóng thuê một chiếc máy bay để trở lại
Texes. Máy bay vừa cất cánh thì động cơ bị trục trặc. Phi công thông báo rằng: máy
bay sẽ phải đáp khẩn cấp. Đang khi máy bay lao xuống thì một em trong đội bóng
kêu to: “Tụi em sợ quá thầy ơi! Thầy làm ơn giúp tụi em cầu nguyện với!”
Teaff liền cầu nguyện lớn tiếng thay cho mọi người. Vài giây sau, chiếc máy
bay tiếp đất an toàn. Bị cọ xát mạnh, thân máy bay xẹt lửa dữ dội, nhưng máy bay
không bị nổ và cũng không một ai bị thương.
Tối hôm sau, Teaff và cả gia đình cùng đến nhà thờ để cảm tạ Chúa. Giữa giờ
cầu nguyện, Teaff đứng lên, ra khỏi nhà thờ và đi đến cư xá của đại học Murry cách
đó khoảng 1km5. Ông đi thẳng đến phòng thay quần áo thể thao của đội bóng và
quỳ xuống cầu nguyện:
Lạy Chúa, con biết Chúa có một kế hoạch, một mục đích và một ý định đối với
cuộc đời con cũng như đối với cuộc đời của các bạn trẻ này. Con không biết kế hoạch
và ý định đó của Chúa thế nào, nhưng từ nay trở đi, con sẽ nhấn mạnh cho các em
được con huấn luyện biết rằng, trong cuộc đời còn có điều quan trọng hơn là chỉ biết
chơi bóng đá, con sẽ cố gắng giúp các em nhận ra rằng: Chúa đã dành cho cuộc đời
chúng con một mục đích.
Qua câu chuyện này chúng ta thấy ba hình thức cầu nguyện.
+ Cầu nguyện riêng: nghĩa là khi chúng ta cầu nguyện một mình như Teaff đã
làm trong phòng thay quần áo của đội bóng.
+ Cầu nguyện theo nhóm: nghĩa là khi chúng ta cùng gia đình bạn bè cầu
nguyện như Teaff đã làm trên chiếc máy bay cùng với đội bóng.
+ Cầu nguyện cộng đồng: nghĩa là khi chúng ta cùng cầu nguyện với cộng
đồng Kitô hữu rộng lớn hơn như Teaff và gia đình đã làm vào buổi tối Chúa
nhật, tại nhà thờ với cộng đoàn, sau khi ông may mắn thoát chết.
Trong bài trước chúng ta đã đề cấp đến việc cầu nguyện riêng. Hôm nay chúng
ta sẽ đề cập đến việc cầu nguyện chung. Nhưng trước hết mời các em cùng lắng nghe
Lời Chúa.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA:
Tv 94,1-7
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA:
(Xem lại giáo lý CB4, bài 1-3)
1) Dẫn giải Lời Chúa:
Lời văn và cung nhịp của đoạn thánh vịnh mà chúng ta vừa nghe thật sôi nổi,
vui tươi và thể hiện một niềm tin tưởng thật mạnh mẽ vào sức mạnh, quyền năng và
tình thương của Thiên Chúa. Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng thảo luận:
2) Thảo luận:
- Từ ngữ chính: “Ta reo hò mừng Chúa”
- Câu tóm ý: “Hãy đến, ta reo hò mừng Chúa, cùng tung hô người là núi đá độ trì
ta.” (C1)
- Tựa đề ngắn: “Cầu nguyện chung” (hay: “Cùng nhau cầu nguyện”).
3) Bài học:
Cầu nguyện là hơi thở, là sự sống của người tín hữu. Khi cầu nguyện, họ được
Thánh Thần dẫn đến Chúa Cha. Có nhiều hình thức cầu nguyện, hoặc gặp gỡ Thiên
Chúa một cách riêng tư, hoặc cùng nhau chúc tụng ngợi khen Ngài.
3.1- Cầu nguyện chung :
* Hướng dẫn:
Chúa Giêsu đã nói: “Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất
cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” (Mt 18,19). Như vậy ta
thấy việc cầu nguyện chung rất cần thiết vì nó nói lên mối liên hệ ba chiều: bản thân
ta - Thiên Chúa - tha nhân.
Chúng ta thấy buổi cầu nguyện chung thường diễn ra ở đâu? (Ở nhà thờ, trong
gia đình, nơi học giáo lý… )
Chúng ta thường làm gì trong các buổi cầu nguyện chung? (Đọc kinh, hát thánh
ca, nghe Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa.)
Những buổi kinh tối trong gia đình có cần thiết không ? (Rất cần thiết để mang
lại bầu khí đạo đức, thuận hòa, vui tươi, yêu thương hiệp nhất trong gia đình.)
* Học sinh ghi:
Khi cầu nguyện chung, ta nghe Lời Chúa, giữ thinh lặng, cầu nguyện tự phát, hát
thánh ca hoặc đọc kinh chung với nhau.
Việc cầu nguyện chung ở gia đình rất cần thiết, giúp cho gia đình luôn sống trong ân
sủng, tình yêu và sự thông hiệp của Ba Ngôi Thiên Chúa.
3.2- Phụng vụ
Đọc phần II, trang 119
Đặt câu hỏi :
- Phụng vụ là gì? (Là việc tôn thờ chính thức của Hội Thánh.)
- Mục đích của phụng vụ là gì ? (Để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con
người.)
- Phụng vụ gồm những gì ? (Thánh Lễ, bí tích, các Giờ Kinh Phụng vụ, các phụ
tích- x.CB4, bài 28)
- Ai cử hành phụng vụ ? (Tất cả, mỗi người tuỳ theo chức phận).
- Ta phải có thái độ nào khi tham dự phụng vụ ? (Tích cực, thành kính, ý thức,
yêu mến, lắng nghe để hiểu và hiệp thông với những điều đang được cử
hành.)
- Ta lãnh nhận được gì khi tham dự phụng vụ? (Được liên kết với cả Ba Ngôi
Thiên Chúa: Cha – Con – Thánh Thần.)
* Học sinh ghi:
Phụng vụ là việc tôn thờ chính thức của Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi
và thánh hóa con người. Phụng vụ gồm thánh lễ, các bí tích, các giờ kinh phụng vụ
và các phụ tích (các phép lành).
3.3- Vai trò của bạn
Đọc phần III, trang 120.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ:
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa là Linh Mục Tối Cao, là Đấng trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người. Xin cho chúng con luôn yêu mến và siêng năng tham
dự Thánh lễ. Xin ban Thánh Thần tình yêu Chúa để biến đổi đời sống chúng con nên
của lễ ca khen chúc tụng danh Chúa đến muôn đời. Chúng con cầu xin Chúa là Đấng
hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
VI. SINH HOẠT:
VII. BÀI TẬP:
1) Phụng vụ là việc:
a/ Tham dự thánh lễ. b/ Cầu nguyện chung.
c/ Tôn thờ chính thức của Hội Thánh và thánh hóa con người.
2) Phụng vụ gồm:
a/ Các giờ kinh phụng vụ. b/ Các bí tích và các phụ tích.
c/ Thánh Lễ. d/ Cả a,b và c đều đúng.
VIII. DỐC LÒNG:
- Bài học hôm nay giúp ta biết rằng:
Thiên Chúa ưa thích thấy con người cùng nhau cầu nguyện. Chúa Giêsu sẽ ở giữa
họ để nối kết họ lại với Ngài và làm cho lời họ kêu xin được nhận lời.
- Quyết tâm: Chọn 1 trong 2 điều sau
Cầu nguyện chung với gia đình mỗi tối trong giờ kinh.
Cố gắng siêng năng tham dự giờ chầu Thánh Thể với cả Giáo xứ.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ:
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúng con cảm tạ Chúa đã đến với chúng con và hướng
dẫn chúng con trong giờ học vừa qua, xin giúp chúng con biết siêng năng cầu nguyện
chung. Amen.

Bài 29
CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ:


Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian để sống và chia sẻ cuộc sống với chúng
con. Chúng con dâng lên Chúa giờ học hôm nay, xin thương thánh hóa và hướng dẫn
chúng con bằng Thánh Thần Chúa để chúng con biết thông cảm và sống tốt hơn với
mọi người xung quanh.
(Đọc kinh cúi xin Chúa sang soi).
- Kiểm tra bài cũ:
a/ Phụng vụ là gì?
Là việc tôn thờ chính thức của Hội Thánh để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và
thánh hóa con người.
b/ Ta phải làm gì để có thể tham dự phụng vụ một cách tích cực?
Ta cần tìm hiểu ý nghĩa những lời nói, cử chỉ và các dấu hiệu tượng trưng trong
nghi thức phụng vụ, để hiệp thông với các cử hành.
- Kiểm tra việc sống điều quyết tâm
- Viết tựa đề bài học:
CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI

II. DẪN VÀO LỜI CHÚA:


Được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài và được Ngài nhận làm
con cái, nên con người có mối quan hệ sâu xa với Thiên Chúa. Ngoài ra con người còn
được Thiên Chúa tạo dựng để sống với người khác làm thành một gia đình, xã
hội, quốc gia và cộng đồng nhân loại rộng lớn. Đó là mối liên hệ giữa người với người
trong cuộc sống. Hay nói các khác là con người có xã hội tính.
Tất cả các quan hệ xã hội chỉ bền chặt và đem lại hạnh phúc cho nhau nếu
được xây dựng trên nền tảng yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Lời Chúa trong bài
học hôm nay nhắc nhở chúng ta những điều nên làm và những điều nên tránh để có
thể cùng nhau xây dựng một gia đình, một quan hệ xã hội thật tốt đẹp. Mời các em
cùng lắng nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA:
Lv 19, 1-3. 11-18
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA:
1) Dẫn giải Lời Chúa:
Sách Lê Vi là công trình sưu tập các luật về phụng tự được xếp vào sau sách
xuất hành, được coi như luật lệ do Chúa đã ban qua ông Môsê. Thật sự các luật lệ
này đã phát triển qua nhiều thế hệ. Để hiểu rõ đoạn Kinh Thánh vừa nghe chúng ta
cùng thảo luận:
2) Thảo luận:
- Từ ngữ chính: Yêu thương.
- Câu tóm ý: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”
- Tựa đề ngắn: “Sống tốt với mọi người”
3) Bài học:
3.1- Con người có tính xã hội :
“Không ai là một hòn đảo”.
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta và Ngài cũng muốn chúng ta yêu
thương nhau. Chúa Giêsu còn nói rõ: yêu người nghèo khổ là yêu chính Ngài (Mt 25,
35). Để cuộc sống chung giữa người với người được tốt đẹp, con người phải biết sống
theo Lời Chúa dạy là yêu thương nhau. Không có tình yêu, gia đình sẽ lộn xộn, mất
hạnh phúc, làng xóm chia rẽ hận thù, thế giới xảy ra chiến tranh. Như vậy con người
không được chỉ sống cho riêng mình, theo ý mình mà còn phải sống với người khác,
sống vì người khác và sống cho người khác.
- Ta có thể sống mà không cần đến ai chăng? (Không, ta phải sống cùng với
nhau và nhờ vào nhau để sống. Cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe cộ và tất cả những gì ta
sử dụng đều có bàn tay người khác làm nên.)
- Trong đời sống thường ngày ta chung sống với ai? (Với cha mẹ, anh chị, em,
ông bà, cô bác, bạn bè, những người cùng lối xóm…)
Tất cả các mối quan hệ trong xã hội qui về năm quan hệ chính:
- Giữa tổ quốc và công dân.
- Giữa cha mẹ và con cái.
- Giữa vợ chồng với nhau.
- Giữa anh chị em với nhau.
- Giữa bạn hữu với nhau.
Năm quan hệ này gọi là gì ? (- Ngũ luân).
* Học sinh ghi:
Trong đời sống xã hội có năm quan hệ chính gọi là ngũ luân, tức là các quan hệ: tổ
quốc và công dân, cha mẹ và con cái, vợ chồng, anh chị em, bạn hữu.
3.2- Vui tươi - chuyên cần - phục vụ
Trong 10 điều răn, ba giới răn đầu quy về tương quan giữa người với Thiên
Chúa, còn 7 điều răn sau đều nói đến các tương quan giữa con người với nhau trong
xã hội. Đoạn Sách Lê Vi mà các em vừa nghe khuyên các em đừng làm điều ác, điều
xấu, điều bất công, đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng hà hiếp kẻ khác… Nhưng phải
yêu thương họ “như chính mình”. Như vậy, luật sống của người Kitô hữu chính là
sống yêu mến.
Ở lứa tuổi các em, tình yêu có thể diễn tả bằng ba thái độ sống : vui tươi –
chuyên cần – phục vụ. Khi sống như vậy các em sẽ góp phần làm cho thế giới này
thêm vui tươi, phấn khởi, thân thiện, hoà thuận, bình an và làm cho những mối quan
hệ bền chặt hơn.
Chúng ta cùng làm một bảng phân tích để thấy những đức tính căn bản cần
phải có để sống các quan hệ xã hội :
CÁC QUAN HỆ ĐỨC TÍNH CĂN THÁI ĐỘ SỐNG
XÃ HỘI BẢN CẦN CÓ CÁC QUAN HỆ
1. Tổ quốc và Trung thành tận
SỐNG YÊU
công dân. tuỵ.
THƯƠNG
2. Cha mẹ và Hiếu thảo. - VUI TƯƠI
con cái.
- CHUYÊN CẦN
3. Vợ chồng với Yêu thương, kính
- PHỤC VỤ
nhau. trọng.
4. Anh chị em với Yêu thương, lễ độ,
nhau. hoà thuận
5. Bạn hữu với Chân thành.
nhau.

Học sinh ghi :


Để sống tốt các mối quan hệ xã hội em cần chu toàn trách nhiệm trong yêu thương,
thể hiện qua ba thái độ : vui tươi – chuyên cần – phục vụ.
3.3- Đi bước trước
Hướng dẫn :
Theo lẽ thường tình thì ai cư xử tốt với chúng ta thì chúng ta cũng đáp lại như
vậy. “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Nhưng nếu ai cũng ngồi đợi người khác làm
việc tốt cho mình trước thì thế giới này mãi mãi không bao giờ được đổi mới, con
người không bao giờ tìm được hạnh phúc. Thiên Chúa đã không làm như vậy. Người
không đợi chúng ta tốt rồi mới yêu thương chúng ta:
- Ngay khi loài người tội lỗi bất xứng, Thiên Chúa đã đi bước trước, có sáng
kiến gọi Abraham và ban lời hứa.
- Dù dân Israel nhiều lần phản bội, Người vẫn trung thành với lời Giao Ước,
tìm mọi cách để cứu độ con người, đem con người trở về sống trong mối
quan hệ yêu thương với Thiên Chúa và sống bình an với nhau.
- Thiên Chúa Hy sinh chính Người Con Một yêu dấu là Đức Giêsu cho nhân
loại.
Học sinh ghi:
Trong cách sống với người khác em cần phải học theo gương mẫu của
Thiên Chúa :
- Luôn có sáng kiến trước để làm cho mối quan hệ được tốt đẹp hơn.
- Trung thành yêu thương không mệt mỏi, dù gặp khó khăn, dù bị đáp trả
bạc bẽo.
- Luôn quên mình và âm thầm hy sinh lo cho người khác.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ:
Lạy chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã nêu gương sống yêu thương bằng việc hiến
mình cứu chuộc chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con biết sống quảng đại và
yêu thương mọi người. Xin Chúa ban niềm vui cho những người mà chúng con gặp
gỡ tiếp xúc hằng ngày. Để cho thế giới chúng con đang sống được hòa bình, mọi
người đều biết kính trọng và yêu thương nhau.
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời – Amen.
VI. SINH HOẠT:
VII. BÀI TẬP:
1) Muốn cho xã hội được tốt đẹp, mỗi người phải:
a/ Học tập tốt để phục vụ tốt mục đích xã hội.
b/ Chu toàn trách nhiệm trong tình yêu thương.
c/ Chăm lo, giáo dục thế hệ trẻ.
d/ Chăm lo, giúp đỡ người già cả.
2) Đối với thiếu niên tình yêu thương có thể được diễn tả bằng:
a/ Học giỏi, chăm làm, đạo đức.
b/ Yêu thương, chăm làm, phục vụ.
c/ Vui tươi, chuyên cần, phục vụ.
VIII. DỐC LÒNG:
- Bài học hôm nay cho ta biết: Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người
để tất cả cùng chung sống hạnh phúc với Người. Vì thế Người cũng muốn con người
biết chung sống với nhau trong tình yêu thương.
Quyết tâm: Làm một việc biểu lộ tình yêu thương, (chọn 1 trong 2 điều):
-  Em chia sẻ một dụng cụ học tập nào đó với một người bạn đang thiếu thốn.
-  Em đi bước trước, nói “Xin lỗi”, làm hoà trước (dù mình không có lỗi) khi
có xích mích với bạn.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ:
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã cho con được học biết về các quan hệ
xã hội. Xin cho Lời Chúa trong giờ học hôm nay biến đổi chúng con nên khí cụ
bình an và yêu thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
Đọc Kinh Sáng Danh,
Hay hát Kinh Hoà Bình (Lạy Chúa từ nhân, xin cho con … ).
BÀI 30 :
DẬY MEN TIN MỪNG 6

DƯỚI MÁI TRƯỜNG THÂN YÊU

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.


Lạy Chúa, Chúa đã ban cho tất cả chúng con có sự khôn ngoan, hiểu biết. Xin
cho chúng con biết say mê học hỏi để chúng con yêu mến Chúa hơn, yêu mến cuộc
sống hơn.
Đọc kinh cúi xin Chúa sáng soi.
Kiểm tra bài cũ :
1. Trong đời sống xã hội có mấy quan hệ chính, là những quan hệ nào?
- Có 5 quan hệ chính gọi là ngũ luân, tức là các quan hệ : tổ quốc và công dân, cha
mẹ và con cái, vợ và chồng, anh chị em với nhau, bạn bè với nhau.
2. Trong đời sống chúng ta có thể bày tỏ tình yêu thương bằng những thái độ nào
?
- Vui tươi, chuyên cần và phục vụ.
Kiểm tra việc thực hiện điều quyết tâm
Ghi tựa đề bài học
II. DẪN VÀO BÀI HỌC
Nhìn lại lịch sử nhân loại, ta thấy loài người đã tiến được một bước khá dài trên
đường văn minh tiến bộ.
- Từ thời “ăn lông ở lỗ” đến nay con người đã thám hiểm được những hành tinh xa
xôi như mặt trăng, sao hoả…
- Biết bao bệnh tật trong quá khứ tưởng như bất trị : bệnh phong, bệnh lao… nay đã
được khống chế.
- Những tiện nghi loài người đang sử dụng như : máy bay, xe hơi, điện, vi tính, kỹ
thuật số … đã làm cho cuộc sống của con người ngày càng thêm tiện nghi và thoải
mái hơn.
Tuy nhiên để có được những điều vừa kể, ta phải nói đến công lao của rất nhiều
người đã cống hiến tâm trí, sức lực tạo ra những thành quả mà ngày nay nhân loại
đang được hưởng. Không chỉ trong quá khứ mà ngày nay vẫn có những nhà khoa học
đang miệt mài nghiên cứu, để phục vụ cho con người, cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chúng ta nghĩ gì về những thành quả của những người đi trước đã để lại cho
chúng ta? Chúng ta có biết trân trọng, học hỏi để kế tục và tiếp tục phát huy thêm
không?
Trong giờ học hôm nay, chúng ta cùng nhau xem lại thái độ của mình về vấn
đề học hành.
1. Đời học sinh là một hồng ân.
Hướng dẫn :
Có thể ta không nhận ra được tầm quan trọng của việc học khi ta còn
nhỏ. Nhưng nay đã lớn ta phải ý thức hơn về việc học của mình.
- Trước hết việc học giúp ta nâng cao giá trị con người, giúp mở mang trí tuệ, biết
suy nghĩ, phán đoán và biết sống với mọi người.
- Nếu tất cả mọi người không đi học thì đất nước sẽ lạc hậu, nghèo đói, không có
những phát minh, những sáng kiến để phục vụ con người, cuộc sống sẽ thấp kém,
khó khăn hơn.
- Hơn nữa, việc học còn giúp ta kiếm được việc làm để mưu sinh trong cuộc sống và
có khả năng giúp đỡ người khác.
2. Công ơn thầy cô.
Hướng dẫn :
Tất cả các bác sỹ, kỹ sư, tổng thống… ai cũng có một người thầy. Dù rằng công
việc của thầy cô âm thầm, nhưng cuộc đời của họ đã trở thành những nấc thang
không thể thiếu để đưa học trò của mình đến thành công về mặt trí thức nhất là về
mặt đạo đức nữa.
Cha mẹ sinh ra ta, còn thầy cô khai mở cho ta đời sống trí tuệ, sự hiểu
biết. Những câu tục ngữ như : “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Không thầy đố mày làm
nên” có ý dậy chúng ta biết công lao dạy dỗ của thầy cô rất lớn lao, vì thế ta phải
kính yêu và biết ơn họ.
Đọc phần II, trang 126.
3. Làm thơm danh cho trường cho lớp.
Đọc phần III, trang 127

THẢO LUẬN :
XEM:
- Bên cạnh những em tự nguyện muốn được đi học thì cũng có những em không thích
học, đi học chỉ vì bị cha mẹ ép buộc.
- Có em di học chỉ để lấy điểm cao, được phần thưởng, làm cho cha mẹ vui lòng.
- Có em đi học vì đuợc nô đùa, phá phách với bạn bè, trốn tránh phụ giúp việc nhà.
- Có em đi học vì có niềm vui được mở rộng tầm hiểu biết, học để sau này (làm bác
sỹ, kỹ sư, giáo viên … ) trở thành người có ích để phục vụ con người, phục vụ xã
hội.
XÉT:
- Muốn học tốt, trước hết phải nhớ mục đích của việc học là để mở mang kiến thức
cho chính mình, chuẩn bị cho tương lai, trở nên người có ích cho gia đình và xã
hội.
- Các em thấy việc học như thế nào? (buồn, vui, vất vả, lo lắng vì bài vở, khó chịu
mất tự do vì bị thầy cô nhắc nhở, cha mẹ kiểm tra bài vở). Muốn học có kết quả em
phải cố gắng trước những khó khăn.
- Điều quan trọng nhất : có bao giờ các em nghĩ rằng mình là một học sinh Kitô hữu
không ? Một học sinh Kitô hữu có gì khác với những học sinh khác? - Em học để
phát triển những khả năng Chúa trao ban, như những nén bạc phải sinh lời (x. Mt
25, 14-30). Đó là một trách nhiệm mà em phải “tính sổ” với Chúa.
- Học tập với tinh thần của người Kitô Hữu :
+ Học để hiểu biết hơn về công trình tạo dựng vũ trụ và thấy được phẩm giá cao
đẹp của con người mà Thiên Chúa đã dựng nên.
+ Là người Kitô hữu chúng ta thể hiện sự trung thực, không gian dối trong khi làm
bài.
+ Các em có bày tỏ lòng kính trọng, sự biết ơn, vâng lời lễ phép với thầy cô
không? Vì thầy cô là những người được Thiên Chúa gửi đến để hướng dẫn giáo
dục em.
+ Các em sống bác ái : yêu thương giúp đỡ những bạn học cùng lớp.
+ Tôn trọng công ích : giữ gìn tài sản trường lớp.
LÀM :
Thiên Chúa luôn muốn mỗi người con của Ngài là men tốt, là muối mặn biến đổi
môi trường đang sống. Để trở nên “muối-men có chất lượng” chúng ta học thật tốt
bằng cách luôn:
+ Xem việc đi học là một hồng ân Chúa ban.
+ Ý thức học hết sức mình để làm phát triển những khả năng Chúa trao, như
những nén bạc phải sinh lời. Ra sức học hành để sau này có khả năng xây
dựng cuộc sống, xã hội, phục vụ con người theo tinh thần Tin Mừng.
+ Yêu mến kính trọng thầy cô vì họ là những người Thiên Chúa gửi đến với ta.
+ Yêu thương, giúp đỡ bạn học vì họ cũng là con Chúa, là anh em với ta.
III. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Tác giả của sách Huấn Ca đề cao sự khôn ngoan và khuyên mọi người hãy tìm
đến sự khôn ngoan trong lề luật của Chúa để cư xử đúng phận làm
con cái Thiên Chúa.
Mời các em cùng nghe đoạn trích sau đây để thấy được vẻ đẹp và niềm vui của
khôn ngoan mà ra sức học hành để một ngày kia chúng ta cũng đạt được vẻ đẹp và
niềm vui ấy.
IV. CÔNG BỐ LỜI CHÚA.
Hc 6, 18- 28
V. CẦU NGUYỆN .
Lạy Chúa Giêsu yêu mến. Phúc Âm đã ghi lại rằng: “Chúa càng thêm tuổi càng
thêm khôn ngoan”. Xin cho chúng con mỗi ngày cũng được mỗi lớn lên trong ơn khôn
ngoan của Thánh Thần Chúa. Để chúng con yêu mến luật Chúa, hăng say học hành,
để chúng con thấy việc học là niềm vui, là hạnh phúc mà Chúa đang ban cho chúng
con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT.
VII. BÀI TẬP :
1. Học hành là :
a. Ân huệ Chúa ban. b. Điều cần thiết giúp ta nên người
c. Điều duy nhất mang lại giầu có. d. a và b, đều đúng.
2. Là một học sinh Kitô hữu tốt ta phải :
a. Chăm chỉ học hành. b. Kính thầy, thương bạn.
c. Bảo vệ và làm đẹp cho trường lớp. d. Cả a, b, c, đều đúng.
VIII. SỐNG LỜI CHÚA.
Chọn một ý trong phần “làm” của phần thảo luận (xem-xét-làm).
IX. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết rằng việc học không bao giờ kết thúc, không
bao giờ là đủ cả. Vì thế xin Chúa luôn ban ơn giúp sức cho chúng con để suốt cuộc
sống chúng con luôn đi tìm kiếm sự khôn ngoan trong Chúa và dùng cả cuộc đời mình
làm vinh danh Chúa.
Đọc Kinh Sáng Danh

Bài 31
DỌN LÒNG ĐÓN NHẬN ĐẤNG CỨU THẾ

I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ:


Lạy Chúa Giêsu là Thầy Chí Thánh, chúng con ao ước được Chúa đến với chúng
con trong giờ học này, dể chúng con được chính Chúa hướng dẫn dạy dỗ .
(Đọc Kinh Lạy Cha – hay Kinh Cúi xin Chúa sáng soi).
1)Kiểm tra bài cũ và điều quyết tâm:
2) Viết tựa đề bài học:
DỌN LÒNG ĐÓN NHẬN ĐẤNG CỨU THẾ
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA:
Qua các bài học từ đầu năm đến nay, chúng ta đã cùng chung nhịp bước với
dân Chúa.
- Chúng ta đã gặp cụ Apraham, tổ phụ của những người tin vào Thiên Chúa.
- Chúng ta đã vượt qua Biển Đỏ cùng với ông Môsê, tiến vào sa mạc ký kết Giao Ước
Sinai.
- Chúng ta đã chứng kiến những cảnh thăng trầm của dân Chúa: chinh phục Đất Hứa,
triều đại huy hoàng của vua Đavít, quốc gia Do Thái bị chia đôi, sụp đổ và bị lưu
đày.
- Trong thời gian 50 năm bị lưu đày tại Babilon, dân Chúa đã học biết nhiều điều. Lúc
đầu họ thất vọng vì tưởng rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi họ. Thế nhưng nhờ các ngôn
sứ, dần dần họ nhận ra không phải như vậy: Thiên Chúa vẫn yêu thương họ, dùng
đau khổ để thanh luyện họ, giúp họ trưởng thành hơn. Lưu đày là biến cố thức tỉnh
dân Chúa quay trở lại với Ngài.
- Niềm tin và hy vọng được thắp lên khi được các ngôn sứ phác họa trước cho thấy
một vài nét về Đấng Cứu Thế.
Đoạn Kinh Thánh mà các em sắp nghe là một trong những hình ảnh về Đấng
Cứu Thế được tiên tri Isaia loan báo, mời các em cùng lắng nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA:
Is 50, 4-5
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA:
1) Dẫn giải Lời Chúa:
Đoạn Kinh Thánh chúng ta vừa nghe được trích từ sách Isaia là cuốn sách lớn
nhất trong Kinh Thánh. Đoạn trích này lấy trong chương 50 còn gọi là
“Sách An Ủi” của Isaia Đệ Nhị – Một ngôn sứ thời lưu đày, loan báo về niềm hy vọng
cứu độ và sứ mạng mới của dân Chúa. Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng thảo luận:
- Từ ngữ chính: Nghe lời Ngài giáo huấn.
- Câu tóm ý: “Mỗi sáng Ngài đánh thức tôi, Ngài thức tỉnh tai tôi, để nghe lời
Ngài giáo huấn”.(C4)
- Tựa đề ngắn: “Chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế”
3) Bài học: (Xem lại : “Lịch Sử Cứu Độ”, chương 5 + Giáo lý CB1 bài 14 đến bài 20)
3.1 Dưới ách ngoại bang
Đọc phần I, sách học sinh, trang 129.
- Sau khi được hồi hương trở về, người Do Thái có được độc lập tự do không
? (Không, họ vẫn phải chịu sự cai trị của ngoại bang.)
- Đó là những nước nào ? (Ba Tư, Hy Lạp, Rôma).
- Dưới ách thống trị của ngoại bang, dân Do Thái muốn gì ? (Họ mong đợi Đấng
Cứu Thế đến giải thoát và giúp họ trở thành một vương quốc hùng mạnh như thời
vua Đavit.)
- Người Do Thái gọi Đấng Cứu Thế là gì ? (Mêsia, nghĩa là Đấng được Thiên
Chúa tuyển chọn và xức dầu tấn phong, dịch ra tiếng Hy Lạp là Đấng Kitô).
* Học sinh ghi:
Phần đông dân Do Thái chỉ mong đợi Đấng Mêsia đến để cứu giúp họ về mặt chính
trị và vật chất, chỉ có những người đơn sơ khiêm nhường, thật lòng mến Chúa yêu
người, là người nghèo của Thiên Chúa, mới biết chờ đợi Ngài đến Cứu chuộc loài người
khỏi tội lỗi.
3.2 Đấng Cứu Chuộc về mặt tâm linh
- Xem lại về Đấng Mêsia trong “Lịch Sử Cứu Độ”, chương 3, II, 2
- Đọc phần II, sách học sinh, trang 130.
* Học sinh ghi:
Các ngôn sứ loan báo Đấng Mêsia sẽ thuộc dòng dõi vua Đavít, sinh tại Belem bởi
một trinh nữ. Ngài là người tôi trung của Thiên Chúa, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và
chịu chết để cứu chuộc mọi người và thông ban Thánh Thần cho ta.
3.3 Tiếng gọi trong sa mạc
Học sinh ghi:
Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, Thiên Chúa đã cho ông Gioan Tẩy Giả đi trước
dọn đường. Ông làm phép rửa giúp mọi người thống hối, sửa đổi đời sống để đón
nhận Đấng Cứu Thế.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ:
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương, Chúa đã đến trần gian này để dạy dỗ và chia
sẻ cuộc sống với chúng con. Chúng con tin rằng hằng ngày Chúa vẫn đến với từng
người chúng con trong Thánh Lễ, qua Bí Tích Thánh Thể.
Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, biết dọn lòng trong sạch để đón Chúa
mỗi ngày đến đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống.
Chúng con cầu xin vì Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời – Amen.
VI. SINH HOẠT:
VII. BÀI TẬP:
1) Đấng Mêsia theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là:
a/ Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
b/ Kitô: Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.
c/ Cả a và b đều đúng.
2) Phần đông dân Do Thái chỉ mong đợi Đấng Mêsia đến để:
a/ Giải thoát họ khỏi nô lệ tội lỗi.
b/ Thánh hóa đổi mới họ bằng Thánh Thần.
c/ Giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma.
d/ Cả a,b và c đều đúng.
VIII. DỐC LÒNG
-Bài học cho ta biết: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và thành tín. Ngài đã ban Con
Một của Ngài để ta được cứu sống và sống đời sống mới trong Thánh
Thần.
-Quyết tâm: Chuẩn bị tâm hồn kỹ lưỡng mỗi lần đi tham dự thánh lễ và rước lễ.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con một giờ học bên Chúa,
qua giờ học hôm nay, chúng con biết rằng Chúa luôn yêu thương và luôn muốn ở lại
trong chúng con, xin cho chúng con luôn sẵn sàng mở rộng cõi lòng để đón Chúa và
đem Chúa đến cho cả những người xung quanh.
Đọc Kinh Sáng Danh hay hát bài “Thắp sáng lên”.

You might also like