Professional Documents
Culture Documents
Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh Ii
Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh Ii
Giáo Trình Giáo Lý Kinh Thánh Ii
*Tóm ý : Kitô giáo thừa hưởng phần Cựu Ước của Do Thái giáo. Tuy nhiên, đức tin
Kitô giáo không đơn thuần là sự tiếp nối quá khứ của dân Do Thái, vì so với Cựu
Ước, Tân Ước có những nét mới mẻ hẳn.
BÀI 2 :
ĐỌC TIN MỪNG NHƯ THẾ NÀO?
BÀI 3 :
NƯỚC DO THÁI THỜI CHÚA GIÊSU (Lc 3, 1-3)
Bài 4:
THIÊN CHÚA ĐÃ SAI CON NGÀI ĐẾN (Gl 4, 4 – 7)
*Tóm ý toàn bài : Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa ,bởi quyền năng Chúa Thánh
Thần đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh nữ Maria để cứu độ nhân loại.
Mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài
bằng lời đáp trả từng ngày trong cuộc sống chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ , Vì yêu thương chúng con, Cha đã cho Con
Một yêu dấu của Cha xuống thế làm người để cứu độ chúng con. Xin Cha giúp
chúng con luôn biết phó thác đời con cho Cha, xin cha cứ định đoạt về con như ý
Cha muốn. Dù Cha làm cho con ra sao, con vẫn tạ ơn Cha. Con sẵn sàng đón nhận
tất cả, miễn là Thánh ý Cha được thể hiện nơi con và nơi các tạo vật của Cha.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô con Cha, Chúa chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện do : (câu b)
a. Sự bất tuân của Ađam và Evà
b. Ba Ngôi Thiên Chúa với lời Xin vâng của Đức Maria.
c. Thánh Giuse và mẹ Maria.
2. Ta có thể tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là :
a. Thiên Chúa
b. Con Thiên Chúa
c. Đấng Cứu Thế
d. Cả 3 câu đều đúng.
( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, giải phóng chúng ta khỏi mọi thứ
nô lệ, làm cho ta trở nên những người con của Thiên Chúa, có khả năng đáp lại ý
Thiên Chúa trong cuộc sống của mình.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều
gì?
Tôi sẽ đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa cộng tác vào chương trình cứu độ
của Ngài nơi bản thân tôi, nơi gia đình tôi, nơi giáo xứ, nơi quê hương đất nước của
tôi.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, cảm tạ Cha đã ban cho chúng con giờ học
hôm nay, xin Cha giúp chúng con từ hôm nay biết dứt khoát ra khỏi những
ràng buộc của tội lỗi, để chúng con tự do sống phụng thờ Cha như Cha đã
dạy chúng con hôm nay. Amen.
BÀI 5 :
CHÚA GIÊSU Ở NA-DA-RÉT SỐNG MỖI NGÀY THẬT ĐẸP
Lc 2, 51 – 52
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con dâng lên Chúa giờ học hôm nay. Xin Chúa ban
Chúa Thánh Thần xuống trên mỗi người chúng con, giúp chúng con hiểu biết, yêu
mến và noi gương Chúa sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một hôm, du khách đến Đất Thánh dừng lại trước một di tích cổ đã đổ
nát…Lúc sau, có một người đàn bà Ả rập đi tới bên di tích cổ, cúi nhặt một viên đá
rồi ném vào cái cột đó, đứa bé đi theo mẹ cũng làm như vậy. Hỏi bà lý do, bà đáp :
-Đây là mồ của một đứa con xấu, đã phản phúc với cha mình.
Hỏi tên cha hắn là gì, bà đáp :
- Đavít
Nói xong bà tiếp tục đi… Du khách biết đây là mồ chôn Absalôm, đứa con
phản nghịch. Mồ chôn hắn đã trở thành bia ghi sự nhuốc nha muôn đời. Khi một
người Hồi giáo đi qua, họ vừa ném đá, vừa nói :
-Absalôm hãy bị nguyền rủa! Và chúc dữ cho tất cả những đứa con nào ngụy
nghịch, bất hiếu với cha mẹ.
Ngược lại, ngôi mộ của Chúa Giêsu được mọi du khách kính cẩn suy tôn, bởi
Chúa Giêsu là một người con hiếu thảo với Thiên Chúa Cha và đối với cha mẹ Ngài ở
Nadarét. Và Đức Giêsu cũng luôn sống tốt với mọi người như đoạn Lời Chúa chúng
ta sẽ công bố giờ đây.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Lc 2, 51-52 (Thinh lặng giây lát)
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
-Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Thánh Luca
-Thời gian viết ? Khỏng năm 70 – 80
Thánh Luca kể lại biến cố Đức Giêsu được cha mẹ Ngài dẫn đi hành hương
Đền Thờ Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua, lúc Đức Giêsu được 12 tuổi.
Xong kỳ lễ, mọi người ra về nhưng Đức Giêsu còn ở lại Đền thờ. Sau một
ngày đàng, cha mẹ Ngài mới biết không có Ngài trong đoàn lữ hành. Ông bà lo lắng
trở lại Đền thờ tìm con. Sau ba ngày, ông bà mới tìm thấy Đức Giêsu đang trong
Đền thờ, ngồi giữa các Thầy dạy, vừa nghe và hỏi họ. Sau đó Đức Giêsu trở về
Nadarét với cha mẹ và hằng vâng phục các Ngài.
2. Các em học sinh hội thảo
Đây là đoạn kinh thánh thuộc loại chuyện kể.
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Đức Giêsu, Cha mẹ Ngài, Thiên Chúa, mọi người.
-Nhân vật chính : Đức Giêsu
b.Câu tóm ý : câu 52
c.Đặt tựa đề ngắn : Na-da-rét : Trường Chúa dạy
Hoặc : Tuổi trẻ của Chúa Giêsu tại Na-da-rét
3. Bài học giáo lý
Để cứu chuộc nhân loại, Đức Giêsu đã vâng phục Chúa Cha : xuống thế làm
người trong một gia đình lao động nghèo. Kinh thánh không mô tả chi tiết cảnh
sống từng ngày của Đức Giêsu ở Nadarét, nhưng cho chúng ta biết rằng Ngài ngày
càng tấn tới về nhân đức, càng đẹp lòng Thiên Chúa và mọi người. Chúng ta cùng
nhau tìm hiểu để nhận ra những điều Chúa muốn dậy chúng ta qua đời sống ẩn dật
của Ngài.
3.1 Con người
Là con người, chúng ta có những mối tương quan với Thiên Chúa và với tha
nhân. Để những mối tương quan đó ngày càng bền vững và tốt đẹp, con
người cần phải có nhân đức.
Nhân đức bao gồm :
-Các nhân đức đối thần : Tin – Cậy – Mến
-Các nhân đức tự nhiên : khôn ngoan, dũng cảm , tiết độ và công bằng
…
Hình ảnh Đức Giêsu tại Nadarét là : Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững
mạnh, đầy khôn ngoan…
Tại Nadarét, chúng ta bắt gặp một cậu bé, rồi một thiếu niên, một thanh
niên…Đức Giêsu lớn lên theo năm tháng như tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, nếu chỉ “lớn xác” mà thôi thì chưa chắc đã được “mọi người
thương mến”. Đức Giêsu ngày càng khôn lớn : mỗi ngày một thêm khôn
ngoan, thêm hiểu biết, thêm nhân đức. Một cách nào đó, Ngài đã kết hợp
với mọi người. Ngài đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí
óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim
con người. Sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, Ngài đã thực sự trở nên một người
giữa chúng ta, giống như chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. (MV 22 )
*Tóm ý : Ở Nadarét, Chúa Giêsu đã sống thật đẹp tuổi trẻ của Ngài :
đạo đức, hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, chăm học, chăm làm, yêu thương
mọi người.
3.2 Con Thiên Chúa
Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?(Lc2,49)
Bổn phận ở đây có thể hiểu là sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha giao phó cho
Đức Giêsu.
Khi bước vào trần gian, Đức Kitô nói: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để
thực thi ý Ngài (Dt10,7)
Nhờ chiêm ngắm Đức Giêsu, chúng ta biết được người con của Thiên Chúa là
như thế nào. Đó là người hằng thưa vâng với Cha, luôn ước mong thi hành ý
muốn của Cha và hoàn tất công trình của Ngài (Ga 3,34)
Giáo hội gọi Đức Giêsu là Ađam mới , trái ngược với Ađam cũ , Đức Giêsu là
Thiên Chúa nhưng đã vâng phục Đức Chúa Cha , xuống thế làm người .
Việc Chúa Giêsu vâng phục Mẹ Ngài và cha nuôi chứng tỏ Ngài đã chu toàn
điều răn thứ tư. Đó là hình ảnh Ngài vâng phục Cha trên trời như con thảo,
vâng phục đến tận cùng.( x.SGLC 532 )
Gia đình Nadarét, đó là trường học của con Thiên Chúa. Ngài đã sống 30
năm ở đó để chuẩn bị cho sứ mạng của mình. Gia đình chúng ta cũng vậy.
Chính trong gia đình mình, với những vất vả thường ngày, những hy sinh cố
gắng âm thầm, qua tương quan với bố mẹ, anh chị em mà mỗi người chúng
ta được mời gọi sống đời sống làm con Thiên Chúa.
*Tóm ý: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người đã sống cảnh đời bình
thường như mọi người chúng ta để ta có thể kết hợp với Ngài bằng
chính cuộc sống thường ngày của chúng ta.
3.3 Từng ngày vươn lên
Từ khi ông bà nguyên tổ phạm tội, môt cuộc chiến cam go chống lại quyền
lực bóng tối tiếp diễn trong suốt lịch sử nhân loại. Dấn thân vào cuộc chiến
này, con người phải luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện.
Trong các bài giảng, Đức Giêsu thường nhắc đến sự phát triển của hạt
giống, của thân cây ( Mt 13,31-33 ). Đó là sự phát triển kiên trì và đều đặn,
từng ngày trong cuộc sống, , từ những việc âm thầm bé nhỏ nhất, mỗi ngày
vươn lên một chút, dần dần hình thành nơi ta những thói quen tốt như siêng
năng cầu nguyện, quan tâm đến mọi người, chăm chỉ học hành và làm
việc…Những điều ấy đòi ta khép mình vào kỷ luật hằng ngày, cố gắng bền bỉ
từng ngày là một việc vừa sức ta và sẽ giúp ta trở nên giống Chúa Giêsu
hơn.
*Tóm ý : Cuộc sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết noi
gương Chúa Giêsu : cố gắng luyện tập từng ngày, từ những việc rất
nhỏ của bổn phận trong giây phút hiện tại mà Chúa đang chờ đợi ta.
*Tóm ý toàn bài: Nadarét là trường học của Chúa Giêsu. Nơi đó, chúng ta bắt
đầu hiểu về cuộc đời Đức Giêsu, đó là trường dạy của Tin mừng : trước hết, là bài
học về khiêm tốn và thinh lặng. Tâm hồn cần thinh lặng để kết hợp với Thiên Chúa.
Kế đến là bài học về đời sống gia đình và xã hội : hoà hợp, yêu thương, đạm bạc,
đơn sơ và bền vững. Tiếp theo là bài học về lao động, tuy nhọc nhằn nhưng mang lại
ơn cứu độ
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay lớp chúng con đến thăm nhà của Chúa. Chúng con
thấy cuộc sống ở đây âm thầm, lặng lẽ cũng gần gũi với cuộc sống học hành và lao
động của gia đình chúng con quá.
Chúa đã sống, học hành và làm việc ở đây suốt 30 năm trường trong tình yêu
mến, vâng phục Chúa Cha, hiếu thảo với Cha mẹ, cùng lòng yêu thương ,gắn bó với
mọi người.
Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Chúa : đón nhận cuộc sống Chúa
ban cho chúng con hàng ngày trong thinh lặng để kết hợp với Chúa Cha. Xin cho
chúng con biết sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ.yêu thương, bác ái với mọi người.
Và xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận những vất vả trong công việc, trong học
tập, cùng những kỷ luật của cuộc sống. Để chúng con được cộng tác với Chúa trong
công cuộc cứu độ nhân loại. Và làm cho Danh Chúa ngày càng được tôn vinh khắp
nơi. Chúng con cầu xin, vì Chúa là…
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP : Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Để cứu độ chúng ta Đức Giêsu đã : (câu a)
a. Làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi
b. Phạm tội như chúng ta để cứu độ chúng ta
c. Làm thợ mộc và sống khiêm tốn tại Nadarét. d. Cả 3 câu đều đúng.
2. Cuộc sống của Chúa Giêsu ở Nadarét đã dạy em những bài học: (câu d)
d. Khiêm tốn và thinh lặng b. Đời sống gia đình và xã hội: hoà hợp, yêu
thương, đạm bạc
e. c. Chăm chỉ học tập và lao động d. Cả 3 câu đều đúng.
VIII. ĐIỀU ĐỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Khi đặt chúng ta vào thế giới này, Thiên Chúa có một chương trình cho mỗi
người chúng ta. Ngài ban cho chúng ta đủ ơn và tạo điều kiện giúp ta có thể thực
hiện điều Ngài muốn, kể cả khi ta gặp nghịch cảnh.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi cần nhận ra những khả năng mà Thiên Chúa ban cho tôi để tìm cách phát
triển chúng, hầu hoàn thiện bản thân tôi như ý Chúa muốn, và làm đạp thế giới
này hơn mỗi ngày.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con qua giờ học
hôm nay, chúng con được hiểu biết hơn về cuộc sống ẩn dật của Chúa tại
Nadarét, để rồi chúng con sẽ noi gương Chúa áp dụng vào đời sống chúng
con. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện điều chúng con đã dốc lòng hôm
nay. Chúng con tin rằng : với sự soi sáng và trợ giúp của Chúa, cuộc sống
chúng con sẽ được biến đổi ngày càng nên tốt hơn. Và chúng con cũng được
Thiên Chúa Cha và mọi người thương mến như Chúa. Amen.
BÀI 7 :
ĐỨC GIÊSU SÁNG SUỐT CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
Mt 4, 1 – 14
BÀI 8 :
BƯỚC THEO CHÂN CHÚA
Ga 1, 35 – 51
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, này chúng con đây đang bắt đầu giờ học giáo lý. Xin
dâng lên Chúa từng người trong lớp chúng con,xin Chúa ban ơn, giúp
chúng con học giờ này với tất cả lòng yêu mến và thao thức được nghe
Chúa dạy dỗ chúng con.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…..
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Trên con đường Đamas, bóng ngựa phi vun vút, cuốn hút cát bụi mịt mù.
Những bóng người hung hăng với gươm giáo và chiếc áo khoác bay theo chiều gió.
Đột nhiên, một vầng sáng chói loà và tiếng nói rền vang như sấm khiến anh chàng
phi tuấn mã bị quật ngã té nhào- mà những cận vệ của anh không hiểu điều chi !
Sau những phút hoàn hồn, mắt Anh không còn nhìn thấy thế giới bên ngoài,
anh bàng hoàng sợ hãi thưa với Đấng gọi tên mình : “Lạy Ngài, Ngài là ai ? Ngài
muốn tôi làm gì ?”
Đó là cách thế Chúa gọi Saolô và Chúa đã làm cho anh từ một kẻ lùng bắt đạo
Chúa trở thành Tông đồ dân ngoại, một biệt danh chỉ dành cho Phaolô. Và Chúa
cũng vẫn đang kêu gọi mỗi người chúng ta bước theo Ngài, như xưa Chúa đã gọi
các môn đệ mà chúng ta sẽ cùng nhau nghe Thánh Gioan kể lại trong đoạn Tin
mừng sau đây :
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Ga 1, 35 –51
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe của ai ? Gioan
Được viết ở đâu ? Eâphêsô
Thời gian viết ? Cuối thế kỷ thứ I
Đoạn Tin mừng này nằm trong khuôn khổ biến cố nhập cuộc của Đức Giêsu,
trong lúc dân chúng đang mong đợi Đấng Mêsia, họ muốn được thấy Ngài, thì
Đức Giêsu xuất hiện, bắt đầu cuộc đời công khai. Tất cả diễn ra trong quan hệ
với Gioan, gồm 3 màn :
-Gioan đứng trước một toán điều tra, tuyên bố : Không, tôi không phải là
Đấng Kitô; Vị Kitô thiệt đang ở giữa dân chúng mà bà con không biết
(19.28)
-Gioan đứng trước mặt Đức Giêsu. Ông làm chứng cách tích cực : “Kia là Con
Thiên Chúa) (29.34 )
-Sau hết, Gioan tách mình ra khỏi đám môn đồ, chỉ cho họ tìm tới Đức Giêsu.
Và Đức Giêsu bắt tay tổ chức một nhóm hướng về tương lai.
2.Các em học sinh thảo luận
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả, Hai môn đồ của Gioan Tẩy giả, Simon,
Philipphê, Nathanaen
-Nhân vật chính : Đức Giêsu
b. Câu tóm ý cả đoạn : câu 45
c. Đặt tựa đề ngắn : Những môn đệ đầu tiên.
3.Bài học giáo lý
3.1 Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?
Các Tin mừng Nhất lãm giới thiệu các môn đệ đầu tiên được Chúa gọi theo
Ngài, khi các ông đang làm công việc thường nhật của mình ( Mt 4,18-19.21-
22; Mc1,16-20; Lc 5,1-11). Và họ đã mau mắn đi theo Ngài ( Mt 4,20.22 )
Riêng Tin mừng Gioan cho thấy: dường như nơi bản thân các bạn trẻ đang
thao thức gặp Đấng Mêsia qua việc họ thắc mắc với Gioan Tẩy giả. (Ga
1,19.29)
Gioan Tẩy giả đã thẳng thắn cho họ biết ông không phải là Đức Kitô mà chỉ là
người dọn đường. Và khi Đức Giêsu xuất hiện, Gioan đã giới thiệu Ngài chính
là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ của Gioan đã lên đường bước theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại
hỏi họ và mời họ đến với Ngài. Họ đã đến và ở lại với Ngài.
Ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên, môn đệ đã gọi Đức Giêsu là “ Thầy”, và đi loan
báo cho anh em, bạn hữu “Ngài là Đấng Mêsia”. Đấng đã được tiên báo trong
sách Luật và các Tiên tri, là người cả thiên hạ mong chờ như một thủ lãnh
toàn dân. Họ đã gặp chính vị đó, như là “Con Thiên Chúa, Vua Ítraen.”
Các môn đệ của Đức Giêsu là những người trẻ, năng nổ, thao thức tìm kiếm
chân lý, họ cố sức nhận định để biết đâu là giá trị thật và ai mới là vị Thầy
đích thực phải theo.
Trong thế giới hôm nay cũng có nhiều tiếng gọi thôi thúc giục giã lên đường :
đất nước, kiến thức, thể thao, du lịch,,,Đó cũng là những Gioan Tẩy giả Chúa
dùng để lôi kéo chúng ta thao thức tìm kiếm Chúa, để rồi tới lúc ta đã biết
suy nghĩ hơn, khao khát gặp Chúa, thì Đức Giêsu sẽ quay lại, âu yếm nhìn ta
và hỏi : “Bạn tìm ai ?”.Rồi cũng như Gioan và Anrê, ta sẽ hỏi Ngài: “Thưa
Thầy, Thầy ở đâu?”
*Tóm ý: Chỉ có Chúa Giêsu mới là lý tưởng, là vị Thầy đích thực
của ta. Chúng ta hãy luôn tìm kiếm, gặp gỡ và ở lại với Chúa trong
cuộc sống hàng ngày để được Chúa dạy dỗ, hướng dẫn cuộc đời
chúng ta.
3.2 Tinh thần của người môn đệ
Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ từ những hoàn cảnh, nghề nghiệp khác
nhau…Một số người trong họ đã quen biết nhau trước, có những người chưa
bao giờ biết nhau. Từ khi được Chúa Giêsu chọn gọi, họ đã sống gắn bó với
Chúa, trở nên bạn hữu của nhau, liên kết với nhau thành một nhóm, sống
dười sự dẫn dắt của Thầy Giêsu, mang lấy tinh thần của Ngài, sống theo giáo
huấn của Thầy qua tinh thần Bài giảng trên núi : nghèo khó,hiền lành, sầu
khổ, khao khát nên công chính, thương người, trong sạch, xây dựng hoà
bình, chịu bách hại vì đạo. Đây chính là con đường mà Thầy Giêsu đã đi để
nêu gương cho ta. Khi sống các mối phúc, cuộc sống chúng ta sẽ được biến
đổi nên tốt lành, thánh thiện, và sẽ được hưởng hạnh phúc đích thật là chính
Chúa.
*Tóm ý: Là môn đệ của Chúa, chúng ta sống theo tinh thần của
Chúa bằng việc thực hành các mối phúc. Đây là con đường Chúa đã
đi để ta noi theo mà nên giống Chúa hơn.
3.3 Nhập cuộc và khao khát được biến đổi
Trong cuộc sống, có những biến cố, những kỷ niệm ghi đậm nét trong tâm
hồn và làm thay đổi cuộc đời chúng ta…
Thánh Gioan đã viết lại kinh nghiệm gặp gỡ Chúa của mình: lúc ấy là 4 giờ
chiều, buổi chiều đầu tiên Gioan được gặp Chúa, được “nếm” thử Chúa để
“thèm” Chúa, khao khát Chúa. Chính vì thế, trên con đường theo Chúa sau
này, Gioan luôn theo Chúa thật sát và trung thành. Gioan nhận mình là “
người môn đệ Chúa yêu”.
Đáp lại lòng khao khát của Gioan, Chúa Giêsu đã để Gioan được ở bên Ngài
trong mọi biến cố vui buồn của Chúa: Trên núi Ta-bo, trong vườn Cây Dầu và
trên đỉnh Núi Sọ.
Các em hãy mở Tin mừng ra, đọc một đoạn, xin Chúa Thánh Thần giúp ta
hình dung khung cảnh, câu chuyện, nhập vai, mang lấy tâm tình của những
người đang gặp Chúa để nếm cảm tình yêu Chúa đã dành cho chúng ta và
đang kêu mời ta đáp trả. Hãy chiêm ngắm Chúa, sống gần gũi Chúa, khao
khát Chúa,chắc chắn cuộc sống ta sẽ được biến đổi nên giống Chúa.
*Tóm ý: Có biết Chúa Giêsu , có nếm thử Chúa một lần, ta mới
không nguôi khao khát Chúa. Nhờ đọc Kinh thánh ta sẽ hiểu biết
Chúa Giêsu hơn, và nhờ năng gặp gỡ Ngài qua việc cầu nguyện, ta
sẽ sống gắn bó với Ngài hơn.
*ToÙm ý toàn bài : Thánh Augustino đã kể lại kinh nghiệm : Ngài chỉ tìm
được hạnh phúc ,bình an khi gặp được Chúa. Và khi gặp chúa, nếm cảm tình
yêu Chúa thì không thể xa Chúa được. Như các môn đệ xưa, chúng ta cũng
hãy thao thức tìm kiếm Chúa. Chúa sẽ ban cho ta kinh nghiệm được Chúa
yêu và được yêu Chúa. Có như thế cuộc sống chúng ta sẽ đạt được hạnh
phúc đích thực là chính Chúa.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy chúa Giêsu, vì yêu thương, Chúa đã chọn gọi các môn đệ xưa theo
Chúa, để các Ngài tìm được hạnh phúc vĩnh cửu. Xin cho hết mọi người trên thế
giới, đặc biệt các người trẻ chúng con đang khao khát đi tìm lý tưởng sống cho
chính mình, tìm gặp được chính Chúa là Vị Thầy đích thực, là lý tưởng sống, giúp
chúng con hăng hái lên đường theo Chúa mỗi ngày, sống theo những lời giáo
huấn của Chúa, để cuộc đời chúng con ngày càng gắn bó với Chúa hơn, và được
biến đổi nên giống Chúa hơn, hầu qua cuộc sống chúng con mọi người nhận biết
Chúa là Chân-Thiện –Mỹ. Chúng con cầu xin….
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII. BÀI TẬP: Người môn đệ của Chúa Giêsu sống theo tinh thần nào ? - Tám mối
phúc:………..
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Đức Giêsu là Chiên Thiên chúa, Đấng Mêsia. Ngài có sức thu hút giới trẻ.
2. Gương tốt nên theo?
-Gioan Tẩy giả : khiêm tốn nhìn nhận sự thực về mình, xoá mình đi để đề
cao Đức Giêsu.
-Chúa Giêsu : ân cần, quan tâm đến người khác.
-Các môn đệ : khao khát chân lý, mau mắn lên đường theo lời mời gọi của
Chúa.
3. Qua bài học này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, các môn đệ đã bỏ tất cả mà theo Chúa
Giêsu. Để bước theo Chúa Giêsu, tôi cần phải từ bỏ điều gì? Điều gì đang
cản trở tôi trở nên môn đệ Chúa Giêsu?
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã gọi chúng con đến để
gặp gỡ Chúa trong giờ học giáo lý hôm nay.Xin Chúa giúp chúng con
luôn mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi chúng con trong cuộc sống hàng
ngày.Amen.
BÀI 9 :
LẠY CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI
Mt 6, 9 - 13
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay, xin Chúa ban
Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập tâm hồn chúng con, giúp chúng con đón
nhận lời dậy của Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Cha với tất cả lòng yêu
mến của chúng con. Amen
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Con gái ông K.Marx có lần đã thú nhận với người bạn của bà rằng: từ nhỏ, bà
đã không được hướng dẫncho biết cóThiên Chúa, tôn giáo và tín ngưỡng.
Chính bà cũng không hề cảm thấy có một tâm tình tôn giáo nào.Tuy nhiên,
một ngày kia, tình cờ đọc được một lời kinh của người Kitô hữu,bà hằng
mong ước những câu kinh ấy sẽ biến thành sự thực…Nghe nói thế, người bạn
của bà không khỏi ngạc nhiên và hỏi: “ Kinh gì mà hay thế?”.Thay vì trả lời,
người con gái của ông K.Marx chậm rãi đọc Kinh Lạy Cha. Vâng , đây là lời
kinh của chính Đức Giêsu dạy các môn đệ và Hội thành.là lời kinh căn bản
của Kitô giáo. Thánh Luca ghi lại bản Kinh Lạy Cha ngắn ( có 5 lời nguyện
xin).Còn Thánh Matthêu ghi lại bản dài hơn ( có 7 lời nguyện xin ). Truyền
thống phụng vụ của Hội thánh sử dụng bản văn Matthêu. Mời các em cùng
lắng nghe bản kinh tuyệt hảo này.
BÀI 11 :
ĐỨC GIÊSU YÊU THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI YẾU ĐUỐI
Mt 11, 28 – 30
Bài 12 :
NGÀI CÓ ĐÚNG LÀ ĐẤNG PHẢI ĐẾN
Mt 11, 2-6
*Tóm ý : Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc nhân loại bằng con đường yêu
thương và phục vụ. Chúng ta cần mở lòng đón nhận và thay đổi cách nhìn, cách suy
nghĩ và hành động theo ý Chúa.
1.2 Những dấu hỏi hôm nay
Khi nghe những lời đồn thổi về Đức Giêsu, Vua Hêrôđê rất muốn gặp Ngài để
mong được xem một vài phép lạ. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp ứng đòi hỏi đó,
và nhà Vua đã tỏ thái độ khinh dể Ngài (Lc 23,8-11)
Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ bánh, dân chúng muốn tôn Ngài làm Vua.
Họ kéo đến với Ngài để mong Chúa làm phép lạ nữa. Nhưng Đức Giêsu chỉ nói đến
Bánh Hằng Sống. Họ lẩm bẩm: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Họ đã bỏ
đi hết, kể cả nhiều môn đệ của Ngài (Ga 6,22…)
Nến như ngày xưa, có nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu với hy vọng để được
ăn no (Ga 6), để thấy dấu lạ (Mt12,26-39)…Thì ngày nay,nhiều người cũng tìm
đến với Chúa Giêsu với hy vọng: sẽ được Ngài đáp ứng những nhu cầu vật chất,
chính trị hay xã hội…Thay vì được đáp ứng, họ chỉ thấy Chúa im lặng hay Chúa
đòi hỏi phải từ bỏ mình và vác thập giá hằng ngày. Nhiều người đã bỏ Chúa theo
các giáo phái, đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa.
*Tóm ý : Tin là từ bỏ chính mình, phó thác cuộc đời chúng ta cho tình yêu thương
quan phòng của Thiên Chúa không điều kiện.
1.3 Câu hỏi của chính bạn
Các em thân mến, khi còn bé chúng ta đã tiếp nhận đức tin từ Cha mẹ, người
đỡ đầu, từ Cha xứ, các Giáo lý viên…Và chúng ta được học hỏi về Chúa tuần tự
qua các lớp giáo lý và được lãnh nhận các Bí tích Khai tâm Kitô giáo mà ít khi hay
chưa biết suy nghĩ và lựa chọn sống niềm tin của mình.
Chúng ta bắt đầu lớn, nhìn lại cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra những sự trợ giúp
cũng như những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy những vấn nạn trong
đời sống đức tin. Chúng ta phải tự hỏi : “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải
đến không, hay chúng con phải chờ đợi ai khác ?” Và chính chúng ta phải tìm cho
ra câu trả lời, để cho đức tin của chúng ta trở thành một thái độ do chính chúng
ta quyết chọn.
Hãy tự vấn : Cuộc sống tôi có luôn tìm Chúa không? Hay đang tìm gì khác
ngoài Chúa? Tôi có tin Chúa, theo Chúa lúc an vui cũng như lúc gặp thử thách
không? Hay tôi chỉ mong Chúa đáp ứng những mong muốn của riêng tôi ?
Hãy đến với Chúa Giêsu, hãy nhìn và lắng nghe Ngài như các môn đệ của Gioan
Tẩy giả. Hãy để Chúa Giêsu uốn nắn, sửa chữa những sai lạc của chúng ta. Hãy
làm theo lời dậy dỗ của Chúa.
*Tóm ý: Hãy đến với Chúa Giêsu và bạn hãy hỏi Ngài: Thưa Thầy, Thầy có đúng là
Đấng phải đến không ? Và hãy thinh lặng để nghe Ngài trả lời.
*Tóm ý toàn bài: Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô trong bí tích rửa tội,
đòi hỏi chúng ta ngày càng thao thức tìm kiếm, yêu mến và sống gắn bó với Chúa
Giêsu theo đường lối của Người là cứu độ nhân loại bằng yêu thương và phục vụ .
Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu không phải vì những nhu cầu vật chất nhưng
là tìm sự sống đời trước mọi vấn nạn của cuộc sống , ta hãy hỏi Chúa Giêsu và
nghe Ngài trả lời .
Bài 13 :
NHẬN BIẾT CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU THẾ
Mt 11,25-27
Bài 14:
SÁNG SUỐT NHẬN ĐỊNH
Lc 10,38-42
I- CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, thật hạnh phúc cho chúng con được cùng nhau đến đây để
dâng lời cảm tạ Chúa, để lắng nghe lời Chúa và được Chúa dạy bảo. Chúng con
cũng xin dâng lên Chúa cuộc sống của chúng con với những nỗi lo toan, nhiều ước
mơ, hoài bảo. Để rồi, nhiều lúc chúng con không còn biết nên chọn điều nào là tốt
hơn. Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên mỗi người chúng con, để Ngài soi
sáng, thánh hoá, giúp chúng con trong giờ học này gặp được Chúa, lắng nghe Chúa
dạy và chọn sống ý Chúa.
Hát : Hãy chiếu sáng tâm hồn con…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Một thương gia người Mỹ, lúc chết , có để lại một gia tài lớn: một triệu
dollars. Gia tài này sẽ thuộc về người con gái của ông- cô Grace. Với điều kiện
theo di chúc là cô phải bỏ đạo Công Giáo và rời Nữ tu viện Đaminh ở Newyork,
nơi cô vào tu năm lên 23 tuổi. Nếu cô từ chối điều kiện trên, cô sẽ chẳng nhận
được một đồng xu nào. Nữ tu Grace tuyên bố rằng không có gì ở trên đời này
có thể làm cho cô từ bỏ tu viện và tôn giáo của cô và vì thế, cô vui vẻ từ bỏ
phần gia tài của cô! Đó là sự lựa chọn của cô Grace : giữa Chúa và tiền của, cô
đã dứt khoát chọn Chúa.
Cuộc sống của chúng ta cũng luôn có những điều phải lựa chọn. Chúng
ta hãy lắng nghe chính Chúa Giêsu dạy chúng ta nên chọn điều gì là tốt hơn
qua đoạn Tin Mừng sau đây:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Lc 10, 38-42
. Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1. Dẫn giải đoạn Kinh thánh vừa công bố
Đoạn Tin Mừng này được Thánh Luca viết trong trình thuật “ Đức Giêsu lên
Giêrusalem”. Thánh Luca nhấn mạnh tính khẩn trương đối với môn đồ cũng như
những ai theo Đức Giêsu phải nhanh chóng có quyết định, phải chọn ngay một kiểu
sống với những đòi hỏi quyết liệt tương xứng với việc tiến bước đi theo Ngài. Với
câu chuyện hết sức đời thường là chuyện tiếp khách nhưng lại hàm chứa nhiều điều
lý thú liên quan đến chúng ta. Để thấy rõ vấn đề hơn, mời các em thảo luận đoạn
Tin Mừng trên.
2. Các em học sinh thảo luận
Đoạn Tin Mừng Lc 10, 38- 42 này là một câu chuyện kể
a. Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
Chúa Giêsu, Mác-ta và Maria
-Nhân vật chính : Maria
b. Câu tóm ý : câu 42
c. Đặt tựa đề ngắn : Cô Mac-ta và Maria
3. Bài học giáo lý
3.1 Một giằng co, hai lựa chọn
Bê-ta-ni-a là một ngôi làng nằm bên sườn núi Oâliu, cách Giêrusalem
khoảng 3 km về phía đông bắc. Trong làng này có ba chị em Mac-ta, Maria và
La-da-rô rất thân với Chúa Giêsu. Mỗi lần lên Giêrusalem, Chúa Giêsu và các
môn đệ thường ghé lại đây nghỉ đêm.
Hôm ấy, Chúa Giêsu ghé Bê-ta-ni-a, Mác-ta chạy ra đón, mời Chúa vào
nhà nghỉ ngơi. Rồi Mácta tất bật lo cơm nước để thết đãi Chúa. Còn Maria ngồi
bên chân Chúa, nghe Ngài nói. Mỗi người một việc, hai chị em đã phân công
với nhau cách tự phát và hợp lý.
Thế nhưng rồi hình như Mácta quá lo lắng, chị đã cắt ngang câu chuyện
giữa Chúa Giêsu và Maria.
Chúa đã phản ứng thế nào? Chúa không bảo Maria xuống bếp phụ với
Mácta. Chúa cũng không bảo Mácta bỏ mọi chuyện bếp núc lên ngồi nói chuyện
với Chúa. Chúa an ủi Mácta và giúp cô nhận định : điều Chúa vui lòng về chị
không phải là những việc chị làm cho Ngài nhưng là chính tình yêu mến đang
thúc giục chị làm những việc ấy. Chị quên rằng Chúa mong chờ tấm lòng và
chính con người của ta hơn là những việc ta có thể làm cho Ngài. Chúa khen
Maria đã chọn phần tốt nhất, dù Maria đã chẳng làm gì hơn là trìu mến ngồi
nghe Chúa.
Tóm ý : Chúng ta hãy luôn tự hỏi đâu là điều làm đẹp lòng Chúa nhất trong lúc này
để thực thi, và hãy chu toàn mọi việc bổn phận vì lòng yêu mến Chúa. Vì Chúa
mong chờ tấm lòng và chính con người của ta hơn là những công việc ta có thể làm
cho Ngài.
Tóm ý toàn bài : Cuộc sống luôn có những điều phải lựa chọn. Khi phải lựa chọn giữa
hai điều tốt, chúng ta có thể bị đánh lừa. Do đó cần bình tâm,tỉnh thức và cầu nguyện
, để với ơn Chúa soi sáng chúng ta mới biết chọn điều đẹp lòng Chúa nhất mà thi
hành với tất cả tình yêu của chúng ta.
V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giúp cho cô Mácta nhận định : bầu khí vui vẻ thì hơn
những món ăn thịnh soạn.Bản thân Chúa thì quan trọng hơn những món ăn để đãi
Chúa. Trong mọi việc hãy làm vì lòng yêu mến Chúa, và khi phải lựa chọn giữa hai
việc tốt hãy chọn làm điều nào làm đẹp lòng Chúa hơn.
Cũng như cô Mácta, nhiều khi chúng con cũng làm việc mà không tìm ý Chúa, đang
khi làm công việc bổn phận của mình nhưng lại khó chịu với người khác để rồi kêu
trách Chúa. Và lạy Chúa, ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt, nhưng khi phải chọn
giữa hai điều tốt, con thường dễ bị đánh lừa chọn điều không phải ý Chúa muốn.
Xin Chúa giúp con luôn biết sống cầu nguyện, để nhờ đời sống kết hợp mật
thiết với Chúa,con sẽ được sáng suốt để nhận ra đâu là ý Chúa, để con mau mắn
đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, luôn chọn làm điều đẹp lòng Chúa hơn. Chúng con cầu
xin, vì Chúa….
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII- BÀI TẬP GIÁO LÝ :
Em hãy chọn câu đúng nhất
1. Hình ảnh Maria ngồi bên chân Chúa diễn tả :
a. Bà không quan tâm đến việc làm bếp. b. Bà yêu mến Chúa và
tha thiết nghe lời Chúa.
c. Trong gia đình mỗi người có một bổn phận khác nhau. d. Cả ba câu đều
đúng. ( Câu b )
2. Để nhận định sáng suốt ta cần:
a. Thường xuyên cầu nguyện và xét mình kỹ mỗi ngày. b. Tham khảo ý kiến
của những người khác.
c. Thi hành ngay những việc mình thích cách tận tình. ( câu a.)
3. Thái độ bình tâm là :
a. Tha thiết yêu mến Chúa b. Giữ lòng được thăng bằng, không
nghiêng trước về bên nào.
c. Giữa hai điều tốt, chọn điều đẹp lòng Chúa hơn. d. Cả ba câu đều
đúng. ( Câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG.
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Thiên Chúa không đánh giá chúng ta theo công việc chúng ta đã làm, nhưng
là tình yêu mến của chúng ta trong các công việc.
2. Gương tốt nên theo :
Theo gương Maria: yêu mến và tha thiết lắng nghe Lời Chúa.
3. Qua đoạn văn này,hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
- Điều quan trọng không phải là làm điều tôi ưa thích, mà là làm điều Chúa
muốn.
- Chu toàn việc nhỏ nhất với tất cả lòng yêu mến.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ tình yêu Chúa đã dành cho chúng con
trong giờ học giáo lý hôm nay. Chúa cho chúng con biết Chúa nhìn vào tâm hồn chứ
không ở hình dáng bên ngoài. Xin Chúa giúp chúng con từ nay đừng quá lo lắng, bối
rối trước những vấn đề, những lo lắng của cuộc sống, nhưng biết siêng năng cầu
nguyện để đón nhận nguồn ánh sáng của Chúa mà thi hành những điều Chúa muốn
nơi chúng con .
Sáng Danh Đức Chúa Cha…
BÀI 15 :
PHẦN CÁC CON, CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI?
Mt 16, 13 – 20
Tóm ý toàn bài: Câu hỏi : “Đức Giêsu Kitô, Ngài là ai ?” vẫn luôn chất vấn con
người mọi thời, và câu trả lời vẫn tùy vào cách sống của mỗi người. Từng ngày,
Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta: “phần các con, các con bảo thầy là ai?” Hãy trả lời
Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta.
V- CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giêsu,Chúa đã đặt câu hỏi cho những ai theo Chúa : “Phần các con,
các con bảo thầy là ai?” Xin cho chúng con luôn biết trả lời : “Thưa Thầy, Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và xin Chúa giúp chúng con sống điều chúng
con đã tuyên xưng bằng việc can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày, qua những
chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con, và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa .Chúng con cầu xin, vì Chúa là Đấng
hằng sống…
VI- SINH HOẠT GIÁO LÝ
VII- BÀI TẬP GIÁO LÝ
Nếu bạn bè của em ( cùng lớp, cùng khu xóm vv…) hỏi em : “Đức Giêsu là
ai?” Em sẽ trả lời thế nào ?
Hoặc câu hỏi trắc nghiệm sau :
1. Để trả lời câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” Em cần :
a. Siêng năng cầu nguyện và để Chúa làm chủ đời mình.
b. Tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật
c. Đọc lại lời tuyên xưng của ông Phêrô
( câu a )
2. Chúa Giêsu đã đặt câu hỏi “Ngài là ai?” cho :
a. Các môn đệ.
b. Ông Phêrô.
c. Mỗi người chúng ta.
d. Cả ba câu đều đúng
( câu d )
VIII- ĐIỀU DỐC LÒNG
1- Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngài ?
Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
2- Gương tốt nên theo : noi gương Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu :
“ Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống”.
3- Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Hãy luôn tự hỏi mình : “ Đức Giêsu là ai đối với tôi?” Là bạn, là Thầy, là
Đấng Cứu độ… và hãy sống tâm tình của những mối tương quan đó.
IX- CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giờ học vừa
qua. Qua lời tuyên xưng của Thánh Phêrô, Chúa đã mạc khải cho chúng con Chúa là
Đấng Kitô, Đấng Cứu độ chúng con, là Thiên Chúa thật và là người thật. Xin Chúa
giúp chúng con vừa biết tuyên xưng ngoài miệng ,vừa sống niềm tin vào Chúa từng
ngày trong cuộc sống chúng con.Amen
Bài 17 :
CHÚA GIÊ-SU BỊ CHỐNG ĐỐI
Mc 8, 31-33
Bài 18:
BỮA TIỆC LY VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Ga 3, 1-15
Con ngưới thời nào cũng phải đối đầu với đau khổ và sự chết. Tại sao có
những người chất phác hiền lành lại gặp cảnh đau khổ, oan trái? Tại sao con người
phải chết? Làm sao để vượt thắng những bế tắc do sự chết gây ra?
Đức Giê-su đã không trốn tránh đau khổ và sự chết. Ngài đã trải qua nỗi đau
đớn và cô đơn tột cùng đến độ đã phải thốt lên : “Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?”.
Chính khi chịu thương khó và chịu chết trên thập giá như thế, Con Thiên
Chúa làm người đã giọi ánh sáng vào những câu hỏi trên đây của chúng ta. Nhờ đó,
ta hiểu rằng :
1. Chính tội lỗi loài người là đầu mối đưa đến đau khổ và sự chết.
2. Đau khổ và sự chết trở nên có ý nghĩa và giá trị khi ta đón nhận với
tình yêu thương.
3. Nếu được liên kết với Thập giá của Đức Ki-tô, đau khổ và sự chết của
mỗi người có thể làm phát sinh ơn ích cho bản thân và cho người
khác.
“Hạt lúa rơi xuống đất, nếu không mục nát đi, thì chỉ trơ trọi một
mình. Nhưng nếu mục nát đi mới trổ sinh nhiều bông hạt” ( Ga12,24 )
“Nếu ta cùng chết với Đức Ki-tô, ta sẽ cùng sống vơi Ngài. Nếu ta
cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” ( 2Tm2,11-12 )
Mục đích của phần 3 :
Giúp các em hiểu và sống mầu nhiệm Tử nạn và Phục Sinh.
Ý nghĩa và giá trị của đau khổ và của những hy sinh vất vả dưới ánh sáng
tình yêu cứu chuộc.
Mở lòng mình ra quan tâm đến nỗii đau khổ của người khác.
Bài 19 :
ĐỨC GIÊ-SU CHẾT ĐỂ CHIẾN THẮNG ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT
Mt 26, 36-46
Bài 21:
CHÚA ĐÃ CHẾT VÀ SỐNG LẠI ĐỂ CỨU CHUỘC TA
Mt 28, 1-8
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã thương dẫn dắt chúng con đến
đây để được lắng nghe Lời Chúa, được chia sẻ với nhau niềm vui của những người
con được Chúa yêu thương cứu chuộc.
Chúng con xin dâng lên Chúa giờ học hôm nay, xin Chúa giúp chúng con hiểu Chúa
hơn, yêu Chúa hơn và dấn thân phụng sự Chúa hết tâm hồn và thân xác chúng con.
Cúi xin Chúa sáng soi…
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA
Abraham từ khi được Thiên Chúa chọn càng ngày càng trở nên sống thân tình
với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế vua Ramos cho gọi
Abraham tới và hỏi:
- Tại sao nhà ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của Vương quốc?
Abraham trả lời giọng cương quyết không chút sợ hãi:
- Tâu Hoàng thượng bởi vì lửa thiêu rụi các thần tương ấy.
- Như vậy thì hãy tôn thờ lửa. –Vua trả lời Abraham nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt lửa.
- Thế thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu Hoàng thượng, không, vì hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, vì nước
bởi mây mà ra.
- Thế thì hãy tôn thờ mây.
- Tâu Hoàng thượng, không, vì gió mạnh hơn mây và nó có thể làm cho
mây tan biến.
- Vậy thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế Abraham trả lời vua:
- Như vậy chúng ta hãy tôn thờ con người vì con người có hơi thở.
Vua kiên nhẫn:
- Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời:
- Thưa Hoàng thượng, không, bởi vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lớn:
- Thế thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói:
- Đấng duy nhất phải tôn thờ là chủ tể cả sự sống và sự chết, đó là Thiên
Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc tranh cãi với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên
Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn
gửi: Thiên Chúa là chủ tể cả sự sống và sự chết. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm
người, Ngài đã chết để giao hoà ta với Thiên chúa và Ngài đã sống lại để ban cho ta
sự sống mới làm con Thiên Chúa. Chúng ta hãy lắng nghe thánh Mat-thêu thuật lại
trong đoạn Tin Mừng sau đây:
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : Mt 28, 1-8
Thinh lặng giây lát
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA
1.Giải thích đoạn Kinh Thánh vừa công bố :
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe nằm trong chương cuối của Tin Mừng theo
thánh Mat-thêu. Kể lại biến cố Chúa Giê-su sống lại với những yếu tố : ngôi mộ
trống và những lần Chúa Giê-su hiện ra.
Thánh Mat-thêu đã mô tả thời gian, nơi chốn, các nhân vật và diễn tiến một cách
chi tiết để nhằm mục đích khẳng định Chúa Giê-su đã sống lại thực và đây là biến
cố có nền tảng vững chắc.
Chúng ta hãy cùng thảo luận đoạn Tin Mừng này để thấy rõ hơn sứ điệp mà tác giả
muốn loan báo.
2.Các em học sinh thảo luận:
Đoạn Tin Mừng Mt 28,1-8 này là một câu chuyện kể
a.Đoạn văn nói tới những nhân vật nào ?
-Bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, thiên thần, lính canh, Chúa Giê-su, các
môn đệ.
-Nhân vật chính: Bà Ma-ri-a Mac-đa-la
b.Câu tóm ý cả đoạn : câu 6
c. Đặt tựa đề ngắn : Các bà đi thăm mộ Chúa Giê-su
hoặc : Chúa Giê-su đã sống lại.
3.Bài học giáo lý
Sáng ngày thứ nhất trong tuần ( tức sáng Chúa nhật Phục sinh), các phụ nữ,
Phê-rô và Gio-an đã đến mộ Chúa Giê-su. Họ đã gặp ngôi mộ trống không, tảng đá
lấp cửa mộ đã bị lăn qua một bên. (Lc 24,2-3.12; Mc 16,4; Ga 20,1-7). Đứng trước
mộ trống có nhiều phản ứng khác nhau :
- Xác của Chúa đã bị trộm lấy. Đây là ý nghĩ đầu tiên của bà Ma-ri-a Mác-đa-
la. (Ga 20,2.13.15)
- Ngạc nhiên, chẳng hiểu ra làm sao! Đây là phản ứng của các môn đệ. (Lc
24,12.22-24). Nói chung, trừ duy nhất một mình Gio-an “đã thấy và đã tin”
(Ga 20,8), còn tất cả mọi người khi đứng trước ngôi mộ trống đều bàng
hoàng, không hiểu. Phải đợi cho đến khi được Chúa Giê-su Phục sinh hiện ra,
các môn đệ mới hiểu tại sao.
3.1 Những lần hiện ra:
a- Với các phụ nữ :
Hai thánh sử Mat-thêu và Mác-cô kể lại việc Chúa Giê-su hiện ra với các
bà sáng sớm ngày Chúa nhật Phục sinh khi các bà ra thăm mộ (Mt 28, 9-10
;Mc 16,9-11). Còn thánh Gio-an kể việc Chúa Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-a
Mác-đa-la (Ga 20,11-18)
Khi gặp Chúa Giê-su Phục sinh, các phụ nữ đã được Chúa trao cho sứ điệp
: loan báo tin Chúa Giê-su đã sống lại.
b- Với các môn đệ :
Trong nhóm các Tông đồ thì Phê-rô là người đầu tiên được gặp Chúa Lc
24,34)
Với hai môn đệ trên đường về Em-mau. Họ đã nản lòng bỏ về quê, nhưng
dọc đường Chúa Giê-su đã tiến đến nói chuyện với họ. Lúc vào quán trọ họ
với nhận ra Ngài, thì Ngài đã biến mất. Họ chạy về báo tin cho anh em. (
Lc24,13-35; Mc 16,12-13).
Với các Tông đồ :ai nấy đang ở trong phòng đóng kín cửa lại vì sợ người Do
Thái, thì Chúa Giê-su hiện ra, đứng giữa họ. Thấy Ngài, họ sợ hãi, không tin
được, tưởng là ma. Nhưng rồi Ngài cũng ăn uống với họ và nói chuyện ( Ga
29,19-19; 21,1-24; Lc 24,36-39; Mc 16,14-20; Mt 28,16-20; Cv1, 3-9).
Có một môn đệ tên là Tô-ma vắng mặt hôm ấy nên không tin. Tám ngày
sau, cũng trong căn phòng ấy, Tô-ma đang ở với anh em thì Chúa Giê-su
xuất hiện, đưa các vết thương cho Tô-ma xem.
Chúa Giê-su còn tỏ mình cho các môn đệ vào một buổi sáng trên bãi biển,
ăn sáng và nói chuyện với họ.
Lần khác, Ngài tỏ mình cho 500 người đang tụ họp. Ngài cũng tỏ mình cho
một người về sau này mới được chọn làm Tông đồ, tức là Phao-lô.
-Tóm ý : Chúa Giê-su đã chết thật sự và được an táng như mọi người, nhưng ngày
thứ ba Ngài đã sống lại. Ngài hiện ra nhiều lần với các môn đệ, cùng trò truyện, ăn
uống thân mật với họ.
3.2 Chúa Giê-su đã sống lại thật :
Chúa Giê-su đã sống lại thật hay các môn đệ đã dựng chuyện lên hoặc đã
tưởng tượng ra những lần gặp gỡ ?
a. Các môn đệ là những kẻ cứng lòng, chậm tin (Mc 16,14; Lc 24,25.38).
Chính các môn đệ đã không dễ dàng tin vào việc Chúa Giê-su sống lại từ cõi
chết như :
-Khi nghe các bà báo tin, các ông không tin, cho là chuyện vớ vẩn ( Lc 24,11;
Mc 16, 11)
-Khi nghe các môn đệ nói đã được thấy Chúa, Tô-ma đã không tin. Bởi vậy, lần
hiện ra sau đó Chúa Giê-su bảo Tô-ma : “Hãy đặt ngón tay vào đây…Đừng
cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (Ga 20, 27)
-Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giê-su đã nhiều lần khiển trách các ông cứng
lòng, “chậm tin”, “ngờ vực” (Mc 16,14; Lc 24,25.38). Ngài đã phải chứng minh
cho các ông thấy rằng Ngài không phải là hồn ma : “Nhìn chân tay Thầy coi,
chính Thầy đây mà ! Cứ rờ mà xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy
Thầy có đây?” (Lc 24,39).
-Phao-lô, nếu không thực sự gặp gỡ được Chúa Phục sinh, chắc chắn Phao-lô
không thể nào từ một người hăng say bắt đạo (Cv 8,3; 9,1-2.21;22,4-5) lại
trở lại Ki-tô giáo và trở nên vị Tông đồ của dân ngoại.
b. Những lần hiện ra :
Chúa Giê-su Phục sinh không chỉ hiện ra một lần mà nhiều lần với nhiều người
khác nhau (các phụ nữ, các môn đệ). Ở nhiều nơi khác nhau (trong phòng,
trên đường đi, bên bờ biển). Và nhiều lúc khác nhau ( sáng, chiều, tối vv…).
Hơn nữa, Ngài còn ăn uống với các môn đệ, để cho các ông sờ đến chân tay
của Ngài. Bởi thế, trong bài giảng ngày lễ Ngũ Tuần trước đám đông tại Giê-
ru-sa-lem, thánh Phao-lô đã khẳng định : “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa
đã làm cho sống lại. Về điểm này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32).
c. Sự biến đổi của các môn đệ :
Tất cả những ai được gặp Đức Giê-su Phục sinh đều có sự biến đổi :
.Các phụ nữ đang buồn phiền, than khóc đã vội vã loan báo Tin Mừng Phục
sinh.
.Khi Chúa Giê-su bị bắt và bị giết, các môn đệ đã lẩn trốn, ẩn núp trong nhà,
có người thất vọng bỏ về quê. Thế nhưng sau khi gặp lại Ngài, họ không còn
sợ hãi. Họ đi loan báo khắp nơi rằng Ngài đã sống lại. Nhóm môn đệ ít ỏi và
quê mùa ấy đã lên đường rao giảng từ Giê-ru-sa-lem cho đến các thành
phố của đế quốc, rồi từ Rôma đến Châu Phi, Tiểu Á, vượt cả ranh giới đế
quốc sang tận Aán Độ trong thế kỷ đầu và sẵng sàng hy sinh ngay cả tính
mạng mình cho niềm tin và lời rao giảng về Đức Ki-tô Phục sinh.
-Tóm ý : Đức Giê-su đã sống lại thật. Ngài đã củng cố niềm tin và
biến đổi cả lối sống cho các môn đệ của Ngài.
3.3 Nền móng của Ki-tô giáo:
Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, đó là nền tảng Đức tin Ki-tô giáo. Trong
kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng : “Người chịu đóng đinh vào Thập giá vì
chúng tôi, chịu khổ hình và mai táng thời Phong-xi-ô phi-la-tô. Ngày thứ ba
Người sống lại như lời Thánh Kinh”.
Đức Giê-su đã sống lại, không phải sống lại để kéo dài cuộc sống thêm ít lâu
như La-da-rô, nhưng sống lại để không bao giờ chết nữa. Ngài sống lại để ở
mãi giữa chúng ta. Ngài sống lại để làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được
sống đời đời.
Ki-tô giáo bắt đầu bằng sự kiện : Đức Giê-su đã sống lại. Mọi bài giảng
trong Hội Thánh xưa nay đều bắt nguồn từ sự kiện ấy. Tất cả sách vở Ki-tô
giáo đều chỉ nhắm nói điều ấy. Toàn thể cuộc sống, tình yêu thương, sự thật
và niềm hy vọng của Ki-tô giáo cũng là điều ấy : Đức Giê-su người Na-da-rét
đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết và Ngài chính là Đấng Cứu chuộc
nhân loại.
Là một thiếu niên, ít khi chúng ta nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ đến sự
sống. Chúa Giê-su cũng đã chết và Phục sinh để đem lại ý nghĩa cho cả cuộc
sống trần thế của chúng ta. Ngài làm cho cuộc sống chúng ta không những
mở ra với thiên nhiên vạn vật và với mọi người chung quanh, mà còn mở ra
với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Vâng, cuộc sống thường ngày của ta được
phong phú hơn gấp muôn ngàn lần khi, nhờ Đức Ki-tô Phục sinh, chúng ta
được sống trong tình thân mật với Cha trên trời.
- Tóm ý : Tin vào Chúa Giê-su Phục sinh, đó là nền tảng Đức tin Ki-tô giáo. Tin
vào Chúa Giê-su Phục sinh, ta luôn sống lạc quan tin tưởng, dù có bị thiệtthòi, mất
mát ở đời này, ta vẫn can đảm theo đường lối Chúa vì tin rằng ta sẽ dược dự phần
vinh quang với Người.
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Đức Giê-su đã chết và đãõ sống lại thực sự. Đây là biến cố có
nền tảng vững chắc.
Phục sinh vừa là một biến cố lịch sử, được các môn đệ chứng thực vì họ đã thực sự
gặp Đấng Phục sinh, vừa là biến cố siêu việt vì nhân tính của Đức Ki-tô đi vào trong
vinh quang Thiên Chúa.
Sự Phục sinh của Chúa Ki-tô mở đường đưa nhân loại vào hạnh phúc đích thật và
vĩnh hằng.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa đã đến với các môn đệ để ban
bình an và niềm vui Phục sinh cho các Ngài. Xin Chúa cũng đến với chúng con lúc
chúng con khóc lóc, chán nản và bỏ cuộc, lúc chúng con sợ hãi, âu lo, lúc chúng
con cố chấp không tin, hay khi chúng con mệt mỏi, thất vọng… Để chúng con
thấy Chúa mỗi ngày, để chúng con tin Chúa đang sống, đang đến và đang ở thật
gần bên chúng con, giúp chúng con sống tin tưởng và đáp trả tình yêu Chúa mỗi
ngày như ý Chúa muốn. Vì Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT :
Hát : Chúa nay thực đã Phục sinh…
VII. BÀI TẬP
Em hãy chọn câu đúng nhất :
1. Ta tin chắc Chúa đã sống lại thật dựa vào những yếu tố:
a.Ngôi mộ trống, không có xác Ngài ở đó.
b.Ngài hiện ra nhiều lần cho các môn đệ.
c.Các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu d)
2. Nền tảng Đức tin của Ki-tô giáo là:
a.Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô.
b.Thánh Phê-rô và các Tông đồ
c.Đức Giê-su đã chết và sống lại.
d.Cả 3 câu đều đúng.
( câu c)
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1. Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Người ?
Đức Giê-su đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta.Nhờ phép Rửa, tất cả
chúng đã chết cho tội lỗi để cùng sống lại với Đức Ki-tô và sống đời sống mới
làm con cái Thiên Chúa.
2. Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì ?
Tôi phải mặc lấy tâm tình của thánh Phao-lô để sống làm con cái Thiên Chúa :
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện
nay tôi sống kiếp phàm nhân trong trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng
đã yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20)
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa qua từng giờ giáo lý, chúng con được hiểu
biết hơn về tình thương Chúa đã dành cho chúng con. Xin Chúa ban thêm đức tin
cho chúng con, xin Chúa chúc lành cho những cố gắng của chúng con hôm nay và
luôn mãi. Amen.
Bài 22 :
THIÊN CHÚA GIAO HOÀ TA VỚI NGƯỜI
Ep 2,11 -18
Bài 23 :
NHỮNG NGƯỜI BẠN CỦA CHÚA GIÊ-SU
Ga 15, 10 – 17
Bài 25 :
SỐNG MẦU NHIỆM TỬ NẠN VÀ PHỤC SINH
Rm 6,3-11
-Tóm ý : Bí tích Rửa tội còn giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Đức Ki-tô Tử
nạn và Phục sinh bằng việc liên lỉ từ bỏ tội lỗi, lột bỏ con người cũ để mặc lấy con
người mới của Ngài.
Bài 26 :
CHÚA GIÊ-SU LÊN TRỜI NGỰ BÊN HỮU ĐỨC CHÚA CHA
Cv 1, 3-11
*TÓM Ý TOÀN BÀI : Chúa Giê-su lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là Ngài
chấm dứt sự hiện diện hữu hình ở trần gian để bước vào vinh quang và danh dự
dành cho Thiên Chúa. Ngự bên hữu Chúa Cha, Chúa Giê-su là Thủ lãnh của ta, là
trung gian hằng chuyển cầu với Chúa Cha cho ta và hằng ban Thánh Thần hướng
dẫn ta trong Hội Thánh.
Ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang để tổng kết lịch sử. Ngài sẽ
hoàn tất cuộc chiến thắng cuối cùng của sự thiện trên sự ác và quy tụ vạn vật để
dâng lên Thiên Chúa Cha trong Trời mới Đất mới.
V. CẦU NGUYỆN GIỮA GIỜ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con hoan hỉ dâng lời cảm tạ, vì
Con Một Chúa đã lên Trời vinh hiển. Là Thủ lãnh, người đã đi trước mở đường dẫn
chúng con vào Nước Chúa, khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc
phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Xin cho chúng con luôn
nghiệm thấy Người ở giữa chúng con hằng ngày cho đến tận thế như lời Người đã
hứa; để dù đang sống ở trần gian này nhưng chúng con luôn biết hướng lòng về
quê hương đích thực trên Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng con. Amen.
VI. SINH HOẠT GIÁO LÝ: Hát : Chúa về Trời
VII. BÀI TẬP GIÁO LÝ: Em hãy chọn câu đúng nhất :
1.Chúa Giê-su lên trời có nghĩa là:
a.Ngài không ở với con người nữa mà chỉ trở lại vào ngày tận thế.
b.Ngài vẫn ở với con người cách hữu hình và vô hình.
c.Ngài ở với loài người cách trọn vẹn hơn. ( câu c)
2. Chúa Giê-su vẫn ở với chúng ta hằng ngày trong :
a.Hội thánh và Kinh nguyện của Hội thánh.
b.Lời Chúa và các bí tích.
c.Những người nghèo khó, đau yếu, tù đày… d.Cả 3 câu đều
đúng. ( câu d )
VIII. ĐIỀU DỐC LÒNG
1.Đoạn văn giúp ta biết gì về Thiên Chúa và tình thương của Ngừơi?
Chúa Giê-su về Trời là để thực hiện sứ mạng ở với loài người cách trọn vẹn
hơn : Ngài vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúa Giê-su hằng ban
Thánh Thần để hướng dẫn Hội thánh.
2.Qua đoạn văn này, hôm nay Thiên Chúa muốn dạy riêng tôi điều gì?
Trong niềm mong đợi ngày Chúa Giê-su trở lại, dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần, tôi phải trở nên nhân chứng của Chúa qua đời sống yêu thương,
phục vụ, góp phần đem ơn cứu độ đến cho anh chị em mình.
IX. CẦU NGUYỆN CUỐI GIỜ
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con gìờ học giáo lý
hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện điều quyết tâm mà Chúa đã soi sáng
cho chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sống theo sự hướng dân của Chúa
Thánh Thần để trở nên nhân chứng Tình yêu của Chúa giữa lòng đời hôm nay.
Amen.
PHẦN IV
CHÚA GIÊ-SU DẪN TA VÀO MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA
Mục đích : Giúp các em đi sâu hơn vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và có
những tương quan gắn bó mật thiết với từng Ngôi.
Làm lan toả Tình yêu Ba Ngôi trong việc góp phần xây dựng một xã hội
chân thật, yêu thương và hướng thượng.
Tất cả cuộc đời Đức Giê-su, từ lời nói cho đến hành động đều nhắm tỏ cho ta
biết Chúa Cha và tình thương của Ngài dành cho mỗi người chúng ta.
Trong Bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su nói : “Thầy không gọi các con là tôi tớ, vì tôi
tớ không biết việc chủ mình làm. Thầy đã gọi các con là bạn hữu, vì mọi điều Thầy
đã nghe nói nơi cha Thầy, Thầy đã tỏ cho các con biết” (Ga 15,15). Chúa Giê-su đã
bày tỏ cho ta biết tất cả những điều kín nhiệm nơi Ngài : Ngài bởi Chúa Cha mà
đến, nay Ngài trở về cùng Chúa Cha và sẽ cử Chúa Thánh Thần đến với ta. Chúa
Thánh Thần là tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần cũng nối
kết chúng ta vào sự sống thâm sâu của chính Thiên Chúa, như lời cầu nguyện của
Chúa Giê-su : “Để hết thảy chúng nên một, cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và
Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở
trong Chúng Ta, và thế gian tin rằng Cha đã sai Con” ( Ga 17, 21)
Bài 27 :
CHÚA GIÊ-SU LÀ THIÊN CHÚA NHƯ CHÚA CHA
Ga 20, 24-29
c. Chúa Giê-su chỉ có một bản tính là bản tính Thiên Chúa:
Các lạc thuyết này chối bỏ nhân tính của Chúa Giê-su mà chỉ nhìn nhận thiên
tính (thần tính) SGLC 465
Ai chủ trương ? Chủ trương thế Hội Thánh tuyên xưng thế nào?
nào?
-Thời các Tông đồ có những người chủ -Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn
trương thuyết Aûo thân, cho rằng Con khắp thế gian, họ là những kẻ không
Thiên Chúa chỉ giả vờ làm người chứ tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng
không là người thật. đã đến và trở nên người phàm (2 Ga
-Giám mục A-pô-li-na-ri-ô (chết năm 7).
390) : Chúa Giê-su không có linh hồn -Thần Khí nào tuyên xưng Đức Giê-su
con người như ta, Ngôi Lời thế chỗ cho Ki-tô đã đến và trở nên người phàm, thì
linh hồn (bị Công đồng Công-tăng-ti- Thần khí ấy bởi Thiên Chúa (1Ga 4,1-
nốp kết án năm 381) 3).
-Tu viện trưởng Eutychès (chết năm -Công đồng Ê-phê-xô (431) và Công
454) cho rằng Chúa Giê-su chỉ có một đồng Khan-kê-đô-ni-a (451) : Chúa
bản tính là bản tính Thiên Chúa (bị
Công đồng Khan-kê-đô-ni-a kết án năm Giê-su là Thiên Chúa thật và là người
451) thật, một ngôi vị trong hai bản tính.
-Tóm ý : Về Mầu nhiệm Chúa Ki-tô, ta có thể thấy 3 lạc thuyết chính :
1. Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa mà chỉ là một thụ tạo.
2. Chúa Giê-su có 2 Ngôi vị.
3. Chúa Giê-su chỉ có một bản tính là bản tính Thiên Chúa.
Bài 28 :
CHÚA GIÊ-SU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC TÔNG ĐỒ
Ga 15,26-27; 16,7.12-13
Bài 30 :
CHÚA THÁNH THẦN LÀ THIÊN CHÚA CHA VÀ CHÚA CON
Ga 14, 15-17.25-26
Bài 31 :
CHỈ CÓ MỘT THIÊN CHÚA MÀ THÔI LÀ
CHÚA CHA, CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN
Mt 28,16-20