Môi Trường Và Con Người: Bài Tập Trên Lớp Số 1 Chủ Đề: Lũ Lụt Do Phá Rừng, Thủy Điện Và Một Số Yếu Tố Khác

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Trường Đại học Bách Khoa


----------------------------------------

MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI

BÀI TẬP TRÊN LỚP SỐ 1

Chủ đề: LŨ LỤT DO PHÁ RỪNG, THỦY ĐIỆN

VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ KHÁC

GVHD: Huỳnh Hữu Nghị

Nhóm thực hiện: Nhóm 5

STT Họ và tên MSSV Nội dung

1 Huỳnh Minh Khôi 2113794 Kết luận

Nguyễn Bá Gia
2 1911515 Nguyên nhân
Long

3 Nguyễn Đức Thọ 1915344 Hiện trạng

4 Phạm Thị Mỹ Linh 2011534 Biện pháp khắc phục + Tổng hợp Word

5 Huỳnh Hoàng Tuấn 2112574 PowerPoint

TP. HCM – 07/2022

1
MỤC LỤC

1. Hiện trạng.....................................................................................................................2
2. Nguyên nhân gây lũ lụt và sự tác động của con người tới môi trường....................5
2.1 Sự phá hủy tài nguyên rừng:.................................................................................5
2.2 Sự ô nhiễm không khí............................................................................................8
3. Biện pháp khắc phục:................................................................................................10
3.1/ Nâng cao ý thức người dân:...............................................................................10
3.2/ Bảo vệ tài nguyên rừng:......................................................................................10
3.3/ Bảo vệ môi trường khí quyển:............................................................................11
3.4/ Xây dựng các hệ thống ngăn chặn.........................................................................11
4. Kết luận.......................................................................................................................11

1. Hiện trạng

2
Lũ lụt là thiên tai phổ biến nhất và ác liệt nhất ở nước ta. Theo tài liệu ghi chép của
các cơ quan quản lý nhà nước thì trong thế kỉ XIX, chỉ riêng ở ĐBSH đã có khoảng 30
năm lũ lụt rất lớn, 26 năm vỡ đê tả ngạn sông Hồng, 18 năm vỡ đê hữu ngạn sông Hồng,
gây ra thiệt hại hàng chục vạn hecsta mùa màng, cuốn trôi công trình, gây dịch bệnh,
cướp đi sinh mệnh của hàng ngàn người và gia súc….

Thế kỉ XX: mặc dù hệ thống đê điều đã được bổ tu, kiên cố hóa nhưng do lũ lớn, đã
có 23 năm vỡ đê lớn gây thiệt hại 7 triệu tấn thóc, số dân bị ảnh hưởng lên đến 2,71 triệu
người. lũ do bão gây ra từ miền Trung từ năm 1992 đến năm 1999 đã chết 2716 người,
bị thương 1655 người, gây thiệt hại kinh tế 8000 tỷ VND. Nhìn chung quy mô tổn thất
do lũ lụt ngày càng nặng nề. Riêng ở ĐBSCL, lũ năm 1996 làm 217 người chết, thiệt hại
2182 tỷ VND

Lũ năm 2000 làm 48 người chết, thiệt hại 3962 tỷ VND. Vùng ven biển miền Trung,
các trận lũ diễn ra từ năm 1971 đến 1990 đã làm chết và mất tích 2800 người, thiệt hại
3400 tỷ VND. Khí hậu thay đổi bất thường. đầu vào khí cực bắt nguồn từ khu vực
Siberia nước Nga tràn xuống Việt Nam ngày 3/01/2008, đã gây ra tình trạng rét đậm ở
miền Bắc, đồng thời thiết lập một chuỗi 40 ngày âm u, rét rướt không ánh mặt trời tại
đây. Lượng mưa trung bình thay đổi, lũ lụt ngày càng nhiều hơn.

Giai đoạn 1911-1920 1921-1930 1931-1940 1941-1950

Lượng mưa
Trung bình 1521 1889 1691 1845
(mm)

Lượng mưa trung bình ở Hà Nội qua các giai đoạn

Qua bảng trên ta có thấy lượng mưa trung bình ở Việt Nam tăng rất mạnh, dẫn tới tình
trạng lũ lụt kéo dài và gây nhiều thiệt hai nặng nề.

Từ 1996-2020, đã lần lượt xảy ra 30 trận lũ đăc biệt lớn trên nhiều lưu vực sông trong
cả nước. Một số trận lũ lớn ở việt nam:
3
Năm Nơi xảy ra lũ

1986 Kỳ Cùng (Lạng sơn), sông Trà Khúc (Sơn Giang)

1987 Sông An Lão (An Hòa), sông Vệ (An Chỉ)

1990 Sông Bến Đá (Cầu Đồng), Nậm La ( Sơn La – lũ quét nghiêm trọng)

1992 Sông Kiến Giang (Kiến Giang), sông Bến Hải (Gia Vòng)

1993 Sông Đà Rằng (Củng Sơn), sông Srê Pok (Bản Đôn), sông Gianh

1996 Sông Đà (Hòa Bình), sông Lũng, Dakbla (Kon Tum), sông Mã (Cẩm Thủy)

1998 Sông Thu Bồn (Thành Mỹ, Nông Sơn)

1999 Sông Hương (Kim Long), sông Trà Khúc, sông Vệ (An Chỉ)

2000 ĐBSCL (Tân Châu, Châu Đốc), sông Bé (Phước Hoài)

2001 Sông Cầu (Gia Bảy)

2002 Sông Ngàn Phổ (Sơn Diệm – lũ quét ác liệt, diện rộng)

2003 Lũ lớn trên một số sông ở Trung và Nam Trung Bộ

2010 Lũ lớn ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ

Các trận lũ lớn ở Việt Nam (Nguồn: Ngô Đình Tuấn, 2003)

Những trận lũ lụt lớn này là hậu quả của những trận mưa cực lớn. lượng mưa/ngày
trong nhiều trường hợp lên tới 500-800mm. trong một số trường hợp đặc biệt như:

Tà Can Tác Đô Trà Phú Đông


Khu vực Huế Truồi
lương lộc Muối Lương My Thọ Sơn

Lượng mưa
trong ngày 1422 1630 1138.5 830 779.6 788.4 716.4 722.0 731.5
(mm)

4
Khu vực có lượng mưa trong ngày đặc biệt cao giai đoạn 1986-2002

Một mặt khác, lũ lụt dẫn tới xói mòn đất và bồi lắng lòng hồ tăng. Hồ Hòa Bình,
lượng sói mòn trung bình trong những năm đầu là trên 80 triệu m3.

Bảng thống kê thiệt hại do lũ lụt gây ra ở Việt Nam.

6 tháng
Các thiệt hại 1998 1999 2000 2001 đầu năm Tổng cộng
2022

Người chết
67 762 337 443 396 2005
(người)

Diện tích
18.34 126.68
cây trồng 53.307 41.143 51.054 290.540
7 9
(ha)

Nhà bị ngập 11.38 1.062.62 776.96 390.25


15.477 2.256.703
(căn) 1 9 3 3

Thiệt hại
kinh tế (tỷ 250 4.509 2.905 1.963 1.535 11.136
VND)

Thiệt hại do lũ lụt gây ra ở việt nam (Nguồn: báo cáo hiện trạng môi trường Việt
Nam 2002, Bộ TNMT)

2. Nguyên nhân gây lũ lụt và sự tác động của con người tới môi trường
Có 2 nguyên nhân chính gây ra hiện tượng lũ lụt ở nước ta, đó là do sự phá hủy về tài
nguyên rừng, và sự ô nhiễm không khí dẫn tới sự biến đổi khí hậu gây ra hiện tượng
mưa kéo dài, lũ lụt.

5
2.1 Sự phá hủy tài nguyên rừng:
Bảng 3.3. Diện tích các loại rừng đến hết 2005 (ha)

STT Loại rừng Diện tích Độ che phủ (%)

Tổng diện tích 12.616.699 37

Trong đó: - Rừng phòng hộ 6.199.682


1
- Rừng đặc dụng 1.929.303

- Rừng sản xuất 4.487.714

Rừng tự nhiên 10.283.172

Trong đó: - Rừng phòng hộ 5.328.450


2
- Rừng đặc dụng 1.849.049

- Rừng sản xuất 3.105.674

Rừng trồng 2.333.526

Trong đó: - Rừng phòng hộ 871.232


3
- Rừng đặc dụng 80.254

- Rừng sản xuất 1.382.040

Diện tích chưa có rừng 6.411.990

Trong đó: - Rừng phòng hộ 3.377.417


4
- Rừng đặc dụng 417.716

- Rừng sản xuất 2.616.857

Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2006

Trước đây, phần lớn đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ khoảng một thế
kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Sau chiến tranh, diện tích rừng chỉ còn lại khoảng 9,3

6
triệu ha, chiếm 28,2% diện tích cả nước. Diễn biến diện tích rừng ở Việt Nam được
minh hoạ ở bảng 3.4.

Bảng 3.4. Diễn biến diện tích rừng qua các năm (Đơn vị: 1.000.000ha)

Năm

1945 1976 1980 1985 1990 1995 2002 2004 2005

Loại rừng

Tổng diện 14,30 11,16 10,60 11,78 12,30 12,61


9,892 9,175 9,302
tích 0 9 8 5 7 7

1,919
Rừng trồng 0 0,093 0,422 0,584 0,745 1,050 2,219 2,334
5

Rừng tự 14,30 11,07 10,18 9,308 8,430 8,252 10,08 10,28


9,865
nhiên 0 6 6 3 7 5 8 3

Độ che phủ
43,0 33,8 32,1 30,0 27,8 28,2 35,8 36,7 37,0
(%)ha/ngư
0,57 0,31 0,19 0,14 0,12 0,12 0,14 0,15 0,15
ời

Nguồn: Bộ NNPTNT tính đến tháng 12 năm 2005

Qua bảng trên ta có thể thấy được rằng diện tích rừng ngày càng giảm trong thế kỉ 19
do sự tàn phá nặng nề của chiến tranh và lũ lụt ngày càng tăng lên và được khắc phục
vào thể kỉ 20 khi nhận biết được tầm quan trọng của tài nguyên rừng.

Nguyên nhân mất rừng có nhiều, nhưng một số nguyên nhân chính là:

- Phá rừng: Một số hoạt động phát triển kinh tế thiếu cân nhắc như phá rừng ngập
mặn để nuôi tôm, chặt rừng để trồng cây công nghiệp như: cao su, cà phê làm cho hậu
quả thiên tai ngày càng nặng nề hơn, các yếu tố môi trường sống ngày một xấu đi. Bảng

7
3.6 chỉ diễn biến tình hình phá rừng, khai thác trái phép và diện tích bị thiệt hại qua các
năm.

Bảng 3.6. Diễn biến về tình trạng phá rừng 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Tổng
Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
cộng

Số vụ phá 12,29 11,43 9,73


8,363 8,040 5,929 8.632 5.808 70.237
rừng 5 8 2

Diện tích 4.43


8,251 6.633 3.661 8.828 8.449 1.784 1.651 43.693
thiệt hại, ha 6

Nguồn: Cục Kiểm lâm, Bộ NN&PTNT, 2009

- Vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng (BV&PTR):

Năm 2007, cả nước đã phát hiện 39.693 vụ vi phạm Luật BV&PTR. Riêng các tỉnh
từ Thanh Hoá đến Bình Thuận đã phát hiện 18.019 vụ, chiếm 45,4%. Cũng năm 2007 cả
nước đã có 19.937 vụ vi phạm về vận chuyển lâm sản trái phép. Lượng lâm sản tịch thu
được trong năm 2007 vào khoảng gần 40.000m 3 gỗ tròn, gấp 5.000m gỗ xẻ và hơn 1 tỷ
đồng tiền bán các loại lâm sản khác đã bị tịch thu. Trong số 4.874 vụ vi phạm đã phát
hiện được vào 2 tháng đầu năm 2008 trên phạm vi cả nước, có 584 vụ phá rừng làm
nương rẫy, 473 vụ khai thác trái phép và 2.524 vụ khai thác vận chuyển gỗ trái phép

Rừng bị mất sẽ dẫn đến những hậu quả tất yếu là khô hạn, hoang mạc hóa (HMH) và
thoái hoá vật lý đất. Số liệu của văn phòng điều phối công ước chống SMH. (Bộ Nông
nghiệp và PTNT, 2009) cho biết, nước ta hiện có khoảng 7.055.000 đang chịu tác động
mạnh bởi quá trình HMH bao gồm đất trống bị thoái hoá mạnh, đất bị đá ong hoá, đụn
cát và bãi cát di động tập trung ở các tỉnh miền Trung. Từ đó dẫn đến sự sói mòn đất,
biến đổi khí hậu, gây ra hiện tượng lũ lụt.

8
2.2 Sự ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí làm cho biến đổi khí hậu từ đó dẫn tới hiện tượng lũ lụt kéo dài và
ngày càng trầm trọng hơn.

Ô nhiễm không khí do hoạt động công nghiệp và ĐTH:

Các loại hình công nghiệp trong các khu đô thị tương đối đa dạng, bao gồm cả các
loại hình công nghiệp gây ô nhiễm như giấy, giấy tái sinh, dệt nhuộm, thuộc da, luyện
cán cao su, xi mạ điện, luyện kim, sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến
gỗ, chế biến thực phẩm tươị sống, hoá chất,... Với công nghệ sản xuất nói chung còn lạc
hậu và mức dầu tư cho bảo vệ môi trường thấp, các hoạt động sản xuất công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp tại các thành phố tiếp tục sản sinh ra lượng lớn các chất thải thuộc
nhiều dạng với nhiểu thành phần khác nhau.

 Ô nhiễm bụi: Nồng độ bụi trong không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp,
Hô Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số tiêu chuẩn cho phép
từ 2 đến 3 lần ơ các nút giao thông thuộc các đô thị này, nồng độ bụi lớn hơn tiêu
chuẩn cho phép từ 2 dến 5 lần: ở các khu đô thị mới dang diễn ra quá trình thi
công xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ tầng kỹ thuật thì nồng độ bụi thường vượt
tiêu chuẩn cho phép từ 10 đến 20 lần. ở các thành phố, thị xã thuộc đồng bằng
Nam Bộ có mức ô nhiễm bụi trung bình cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 đến
1,5 lần, như ở thành phố Cần Thơ, thị xã Rạch Giá. thị xã Hà Tiên, thị xã Bến Tre.
Nói chung, ô nhiễm bụi ở các tỉnh thành miền Nam trong mùa khô thường lớn
hơn trong mùa mưa.
 Ô nhiễm khí SO2: Nồng dộ khí SO2 trung bình ở các đô thị và khu công nghiệp
nước ta còn thấp hơn trị sô tiêu chuẩn cho phép. Trong các thành phố, thị xã đã
quan trắc thì ở các thành phô Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Biên Hoà, Thủ Dầu Một,
Vũng Tàu, Long An có nồng dộ khí SO2 lớn nhất, nhưng vẫn thấp hơn trị sô tiêu
chuẩn cho phép tới 2 lần; ở các thành phố khác còn lại. như Hà Nội, Hải Phòng.
9
Hạ Long, Thanh Hoá, Vinh, Huế, Cẩn Thơ, Cà Mau, Mỹ Tho.... nồng dộ khí SO2
trung bình ngày đều dưới 0.1mg/m3 tức là thấp hơn trị sô tiêu chuẩn cho phép tới
3 lần.
 Ô nhiễm các khí CO, NO2 ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Hải Phòng, nồng độ khí CO trung bình ngày dao động từ 2 đến 5mg/m3,
nồng độ khí NO2 trung bình ngày dao dộng từ 0.04 đến 0,09mg/m3, chúng dều
nhỏ hơn trị số tiêu chuẩn cho phép, tức là ở các đô thị và khu công nghiệp Viêt
Nam, nói chung chưa có hiện tượng ô nhiễm khí CO và khí NO2. Tuy vậy, ở một
số nút giao thông lớn trong đô thị. nồng độ khí CO và khí NO2 dã vượt trị số tiêu
chuẩn cho phép, như ở ngã tư Đinh Tiên Hoàng - Điện Biên Phủ (TP. Hồ Chí
Minh), trị số trung binh ngày của năm 2001: 0J9, gấp khoảng 3,2 lần trị sô" Liêu
chuẩn cho phép, nồng độ CO năm 2001: 15,48, gấp 3,1 lần trị số liêu chuẩn cho
phép; tương tự, năm 2002; nồng độ khí N02 = 0,191mg/m3 và khí CO =
12,67mg/m3 (Trần Hiếu Nhuệ. 2009).

Ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông vận tải: Cùng với quá trình CNH và
ĐTH, phương tiện giao thông cơ giới ở nước ta tăng lên rất nhanh, đặc biệt là ở các đô
thị. Trước năm 1980. khoảng 80 — 90% dân đô thị đi lại bằng,xe đạp,ngày nay, ngược
lại, khoảng 80% dân đô thị đi lại bằng xe máy, xe ô tô con. Nguồn thải từ giao thông vận
tải đã trở thành một ngụồn gây ô nhiễm chính đôi với môi trường không khí ở đô thị,
nhất là ở các độ thị lớn nhự Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.,Hải Phòng, Đà Nẵng. Do số
lượng xe máy tăng lên rất nhanh,.không những làm tăng nhanh nguồn thải gây ô nhiễm
không khí, mà còn gậy ra tắc nghẽn giao.thông ở nhiều đô thị lớn. Ở Hà Nội có khoảng
40 điểm thường xuyên bị ùn tắc giao thông, ở TP. Hồ Chí Minh là 80 điểm. Khi tắc
nghẽn giao thông, mức độ ô nhiễm hơi xăng dầu có thể tăng lên 4 - 5 lần so với lúc bình
thường. Ở Việt Nam, khoảng 75% số lượng ô tô chạy bằng nhiên liệu xăng, 25% số
lượng ô tô chạy bằng dầu DO, 100% xe máy chạy bàng xăng, ô nhiễm khí CO và hơi

10
xãng dầu (HC) thường xảy ra ở các nút giao thông lớn. Trước năm 2001, ở các nút giao
thông này còn bị ô nhiễm chì (Pb).

Ô nhiễm không khí do hoạt động xây dựng: Hiện nay hoạt động xây dựng nhà cửa,
đường sá, cầu cống,... diễn ra rất mạnh đặc biệt là ở các đô thị. Các hoạt động xảy dựng
như đào lấp đất, đập phá công trình cũ, vât liệu xây dựng bị rơi vãi trong quá trình vận
chuyển, thường gây ô nhiễm bụi rất trầm trọng đối với môi trường không khí xung
quanh, đặc biệt là ô nhiễm bụi, nồng độ bụi trong không khí ở các nơi có hoạt động xây
dựng vượt trị số tiêu chuẩn cho phép tới 10 - 20 lần.

3. Biện pháp khắc phục:


3.1/ Nâng cao ý thức người dân:
- Tăng cường nâng cao nhận thức, đào tạo và hướng dẫn cho người dân, nhất là ở
những khu vực ven rừng.
- Cần nghiên cứu và xây dựng bản đồ nguy cơ sạt lở đất và xác định các điểm có
nguy cơ xảy ra lũ lụt, sạt lở đất.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ những người dân ở các địa phương không
nhận các tiền dịch vụ môi trường rừng thay cho chi phí trồng rừng để nâng cao
tinh thần trách nhiệm tham gia bảo vệ, phát triển rừng.
- Chú trọng và hướng người dân đến công tác trồng rừng chắn sóng bảo vệ hệ thống
đê biển.
- Chú trọng cải thiện đời sống các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ rừng
nhằm khuyến khích và nâng cao trách nhiệm bảo vệ rừng của họ.
3.2/ Bảo vệ tài nguyên rừng:
- Kiểm tra, truy quét các đầu nậu, vận chuyển và buôn bán gỗ, các tổ chức, cá nhân
tiếp tay cho những hành vi sai trái gây ảnh hưởng tiêu cực đến rừng.
- Quyết tâm đình chỉ, thu hồi các dự án kém hiệu quả; dừng những dự án gây ảnh
hưởng đến rừng tự nhiên.
- Tạm thời đóng cửa rừng tự nhiên theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ từ
nhiều năm trước.
- Làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc làm mất rừng,...
- Trồng rừng, cải tạo và bảo vệ rừng. Vì rừng có tác dụng giảm thiểu các tác hại do
lũ gây ra: giảm tốc độ nước đọng trên bề mặt đất, tăng cường dòng chảy ngầm cho
lưu vực các con sông, ngăn chặn và giảm thiểu tình trạng xói mòn đất.
- Khai thác và lên kế hoạch trồng hợp lý rừng sản xuất, hạn chế các hành vi khai
hoang chuyển rừng thành đất nông nghiệp.

11
3.3/ Bảo vệ môi trường khí quyển:
- Nghiên cứu các phương pháp kiểm soát ô nhiễm, giảm tác hại từ các loại khí thải
như CO2,...
- Phân vùng bảo vệ môi trường căn cứ vào mức độ và phạm vi tác động tới môi
trường.
- Kiểm soát chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã
hội ứng phó với biến đổi khí hậu.
3.4/ Xây dựng các hệ thống ngăn chặn:
Xây dựng hệ thống đê điều dọc theo các tuyến sông có vai trò quan trọng. Ví dụ:
trận lũ lớn vào năm 1993 ở Tây Bắc Mỹ đã phá hủy hầu hết các công trình kiến trúc
do công tác phòng chống lụt lụt không được chuẩn bị hoàn chỉnh. Nhiều đê đắp bị
suy yếu, xuống cấp, hoặc rất thấp không đủ ngăn lũ. Ngược lại ở các khu vực được
đắp đê tốt, vững chắc, có tính toán kỹ thuật tốt thì hầu như không bị thiệt hại và thiệt
hại không đáng kể.
Xây dựng các hệ thống hồ chứa nước phòng chống lũ kết hợp với nuôi trồng
thủy sản: ở Việt Nam, chủ trương của chính phủ là xây dựng các hồ chứa nước lũ với
tổng dung tích tăng thêm 15-20 tỷ m3, đồng thời đi đôi với việc nâng cấp và mở rộng
quy mô các công trình tiêu úng. Tính đến nay cả nước có 75 hệ thống thủy lợi vừa và
lớn, rất nhiều hệ thống trạm thủy lợi nhỏ, 600 hồ chứa vừa và lớn: 3000 hồ, đập nhỏ
và hơn 2000 trạm bơm lớn phục vụ cho việc tưới tiêu, có khoảng cách 5000 cống lớn,
8000 km bờ bao ngăn lũ ở ĐBSCL và hàng ngàn km kênh rạch. Trong hơn 30 năm
qua, các công trình thủy lợi đã mang lại nhiều hiệu quả rất lớn cho nhiều mục tiêu
kinh tế, góp phần bảo đảm an toàn sản xuất lương thực và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Xây dựng hồ điều tiết lũ tại các khu vực thường hay xảy ra lũ quét,...
Xây dựng các hệ thống điều tiết dòng lũ, phần dòng lũ,...

4. Kết luận
Từ lâu, các nhà khoa học đã cảnh báo tàn phá thiên nhiên là cái giá phải trả rất đắt do
con người gây ra.
Các công trình thủy điện vừa và nhỏ do chủ yếu nằm trên các lưu vực sông nhánh
hoặc suối với diện tích lưu vực nhỏ, độ dốc lớn nên dung tích hồ chứa rất nhỏ. Do vậy
hiệu quả cắt giảm lũ không đáng kể. Việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện đòi hỏi
phải chuyển đổi mục đích sử dụng một số diện tích đất rừng nhất định (gồm đất thực tế
có rừng và chưa có rừng). Bài toán quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội bền vững thiếu
“nhạc trưởng” chỉ huy chung nên việc đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở của các ngành đã
làm cho bài toán phòng tránh thiên tai ngày càng phức tạp.
12
Ngoài ra, công tác dự báo và cảnh báo chưa theo kịp diễn biến bất thường của thời
tiết. Việc xây dựng các tuyến đường giao thông vuông góc dòng chảy, không đủ khẩu độ
thoát nước, làm dao động lớn mực nước giữa các vùng. Thủy điện, nạn phá rừng, xây
dựng cơ sở hạ tầng không hợp lý đã góp phần không nhỏ vào biến cố thiên tai…(1)
Thật ra đến nay độ che phủ rừng ở miền Trung là rất cao. Bình quân che phủ rừng của
miền Trung là trên 50%, cao hơn cả nước. Đấy là cái thứ nhất phải khẳng định như thế.
Thứ hai, để đánh giá tác động của rừng với lũ thì cần phải có nghiên cứu khoa học rất
tổng thể.
Thế nhưng nói một cách chính xác, độ che phủ rừng cũng có tác động đến lũ lần này.
Nhưng tác động đến mức độ nào thì cần phải có nghiên cứu đánh giá rất cụ thể. Nếu
khẳng định do phá rừng hay do rừng không tốt mà bị như thế thì cũng chưa đúng (2) .
Nói lũ lụt vừa rồi do phá rừng là chính xác nhất. Lũ lụt diễn ra hằng năm, năm nào
cũng vậy nhưng việc lên tiếng về nạn phá rừng, xây thủy điện tràn lan chưa đủ sức nặng.
Phá rừng thì không giữ được nước, đất rừng sạch bóng, mưa càng nhiều nước càng thấm
vào trong đất, núi bị mềm và hóa bùn thì phải sạt lở.
Lâu nay nhiều nhà khoa học đã lên tiếng phản đối việc tỉnh nào cũng cho xây hàng
chục thủy điện. Ở Quảng Nam gần 50 thủy điện lớn nhỏ, có đến cả chục bậc thang thủy
điện, phá biết bao nhiêu rừng, phá rừng để làm hồ chứa nước, làm đường đi.
Dọc miền Trung hiện nay mỗi tỉnh đều có hàng chục thủy điện. Thủy điện như những
“quả bom nước” treo lơ lửng trên đầu người dân. Hiện có một số tỉnh đang xem xét lại
việc phát triển thủy điện tại địa phương và mạnh dạn loại bỏ nhiều dự án thủy điện nhỏ,
việc này rất đáng hoan nghênh.
Theo tôi biết, hiện cả nước đang có khoảng 800 thủy điện, còn khoảng 450 thủy điện
đang xin đầu tư nữa. Dự án nào cũng mở đường lấy gỗ, xây hồ lấy gỗ rồi mới làm thủy
điện. Chính phủ phải có một hội thảo khoa học về chuyện này, từ đó phải dừng ngay
chuyện làm thủy điện tràn lan, thậm chí lần lượt tháo dỡ bớt thủy điện bởi vấn đề cung
cấp.

13
5. Tài liệu tham khảo:

[1] Giáo trình con người và môi trường (Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam).

[2] Kim Yến, Góc nhìn đại biểu: giải pháp nào cho vấn nạn phá rừng?, trích từ:
https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?
UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=44130

[3] Vụ TTCĐ, Tìm giải pháp giảm thiểu lũ quét, sạt lở đất ở miền Trung, trích từ:
https://phongchongthientai.mard.gov.vn/Pages/tim-giai-phap-giam-thieu-lu-quet-sat-lo-
dat-o-mien-trung.aspx

[4] (1) TS Tô Văn Trường, chuyên gia độc lập về tài nguyên nước và môi trường,
nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi Việt Nam.

[5] (2) Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp.

14

You might also like