Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 77

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

TRẦN THI NGA

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN BÌNH LUẬN


TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH
LỚP 11 TRƯỜNG THPT A THANH LIÊM -
THANH LIÊM - HÀ NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Sơn La, năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

TRẦN THI NGA

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN BÌNH LUẬN


TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH
LỚP 11 TRƯỜNG THPT A THANH LIÊM -
THANH LIÊM - HÀ NAM

Chuyên ngành: XH2a

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thùy Dung

Sơn La, năm 2013


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng tới
phòng Khoa học và Quan hệ quốc tế, thư viện trường Đại học Tây Bắc, thư viện
tỉnh Sơn La, cùng các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy – học Ngữ Văn và Ban
chủ nhiệm khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện giúp đỡ chúng em trong việc thực
hiện đề tài này.
Đặc biệt, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo, Thạc sĩ
Nguyễn Thùy Dung – người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ
em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Em xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã tận tình giúp đỡ, động viên em hoàn
thành khóa luận này.
Trong quá trình thực hiện khóa luận do thời gian có hạn nên không tránh
khỏi thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013


Người thực hiện

Trần Thị Nga


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ĐC : Đối chứng
GV : Giáo viên
KHGD : Khoa học giáo dục
HS : Học sinh
NXB : Nhà xuất bản
SGK : Sách giáo khoa
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TN : Thực nghiệm
Tr : Trang
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 3
3. Mục đích- đối tượng nghiên cứu.................................................................. 5
3.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
3.2. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 5
4.Nhiệm vụ - phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
4.1.Nhiệm vụ của đề tài ..................................................................................... 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết............................................................. 6
5.2. Phương pháp khảo sát thực tế.................................................................... 6
5.3. Phương pháp thống kê ................................................................................. 7
5.4. Phương pháp thực nghiệm .......................................................................... 7
6. Cấu trúc khóa luận ...................................................................................... 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ................................. 9
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................................... 9
1.1.1. Thao tác lập luận với tư cách là một hoạt động của tư duy ................. 9
1.1.1.1. Khái quát về tư duy ............................................................................... 9
1.1.1.2. Thao tác lập luận ................................................................................ 10
1.1.2. Bình luận với tư cách là một thao tác lập luận ................................... 11
1.1.2.1. Khái niệm bình luận và thao tác lập luận bình luận.......................... 11
1.1.2.2. Cách bình luận ................................................................................... 12
1.1.3. Mối quan hệ giữa các thao tác lập luận bình luận với các thao tác lập
luận khác......................................................................................................... 15
1.1.3.1. Quan hệ với thao tác lập luận chứng minh, giải thích ...................... 15
1.1.3.2. Quan hệ với thao tác lập luận phân tích ............................................ 16
1.1.3.3. Quan hệ với thao tác lập luận so sánh ............................................... 17
1.1.3.4. Quan hệ với thao tác lập luận bác bỏ ................................................. 18
1.1.4. Lập luận bình luận với tư cách là một bộ phận trong kĩ năng làm văn
nghị luận ......................................................................................................... 19
1.1.4.1. Khái niệm văn nghị luận .................................................................... 19
1.1.4.2. Khái niệm về kĩ năng .......................................................................... 20
1.1.4.3. Con đường hình thành kĩ năng làm văn nghị luận ........................... 20
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................................................................... 21
1.2.1. Về chương trình - sách giáo khoa ........................................................ 21
1.2.2. Thực tiễn dạy và học ............................................................................ 22
Tiểu kết ........................................................................................................... 24
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN BÌNH
LUẬN TRONG BÀI LÀM VĂN NGHỊ LUẬN ............................................ 25
2.1. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP
LUẬN BÌNH LUẬN TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN ............................. 25
2.1.1. Cần căn cứ vào nội dung chương trình SGK để lựa chọn nội dung
cũng như cách thức, biện pháp cụ thể ........................................................... 25
2.1.2. Căn cứ vào những yêu cầu cần đạt để định ra những tiêu chí nội dung
của bài tập rèn luyện ...................................................................................... 26
2.1.3. Tuân thủ nguyên tắc bộ môn: lí thuyết thực hành ............................. 26
2.1.4. Rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận phải đảm bảo quy trình ......... 27
2.2. TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP LUẬN BÌNH LUẬN CHO
HỌC SINH TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN............................................ 28
2.2.1. Rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ học lí thuyết làm văn ........ 28
2.2.1.1. Mục đích ............................................................................................. 28
2.2.1.2. Nội dung ............................................................................................. 29
2.2.1.3. Phương pháp ...................................................................................... 30
2.2.2. Rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ thực hành làm văn ........... 32
2.2.2.1. Mục đích ............................................................................................. 32
2.2.2.2.Nội dung .............................................................................................. 32
2.2.2.3. Phương pháp ...................................................................................... 32
2.2.2.4. Hệ thống bài tập thực hành ................................................................ 37
2.2.3. Rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ trả bài ............................... 44
2.2.3.1.Mục đích .............................................................................................. 44
2.2.3.2 Nội dung .............................................................................................. 45
2.2.3.3. Phương pháp ...................................................................................... 45
Tiểu kết……………………………………………………………………...…47

Chương 3: THỰC NGHIỆM ......................................................................... 48


3.1. MÔ TẢ THỰC NGHIỆM ....................................................................... 48
3.1.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 48
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm ............................................................................ 48
3.1.3. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ...................................................... 48
3.1.4. Về kế hoạch thực nghiệm ..................................................................... 49
3.2. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ................................................................... 49
3.3. CÁCH THỨC DẠY THỰC NGHIỆM ................................................... 49
3.4. KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ........................ 50
3.4.1. Các tiêu chí đánh giá ............................................................................ 50
3.4.1.1. Về định tính ........................................................................................ 50
3.4.1.2. Về định lượng ..................................................................................... 51
3.4.2. Kết quả đánh giá thực nghiệm ............................................................. 51
3.4.2.1. Về giáo viên thực hiện ........................................................................ 51
3.7.2.2. Về phía học sinh thực nghiệm ............................................................ 51
Tiểu kết………………………………………………………………………...54

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 55


TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….58

PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đất nước ta đang từng ngày đổi mới và phát triển trong xu thế hội
nhập thế giới. Mục tiêu trước mắt là đào tạo ra những con người toàn diện, tích
cực và chủ động. Đây không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành Giáo dục mà là
của toàn xã hội, nhưng ngành Giáo dục giữ vai trò chủ chốt với một trọng
trách vô cùng lớn lao. Quá trình đổi mởi nước ta diễn ra bắt đầu từ những
năm 1960-1980 của thế kỉ 20 với khẩu hiệu “biến quá trình đào đạo thành quá
trình tự đào tạo”. Từ đó đến nay, vấn đề giáo dục vẫn luôn được quan tâm và
bàn tới, đặc biệt là vấn đề thay đổi và cải biến phương pháp dạy học. Một xu
hướng dạy học hiện đại và tiến bộ được đưa ra là thay đổi vị trí, vai trò của
người thầy và người trò. Đổi mới phương pháp dạy học mấu chốt là việc giáo
viên dạy cho học sinh học phương pháp, cách thức, kĩ năng tiếp cận và giải
quyết vấn đề; học sinh học phương pháp, cách thức làm công cụ hữu dụng
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
1.2. Đối với môn Ngữ Văn, việc đổi mới đã đem đến một hiệu quả không
nhỏ trong quá trình dạy học Ngữ Văn từ cấp THCS (trung học cơ sở) đến THPT
(trung học phổ thông). Sự hợp nhất cả 3 phần Văn – Tiếng Việt – Làm Văn
trong một cuốn sách Ngữ Văn đã thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa các phần
này. Mục đích cuối cùng của việc học môn Ngữ Văn và đặc biệt của phần Làm
văn ở trường phổ thông là giúp HS có thể tạo lập được những văn bản hay, có
tính sáng tạo. Để đạt được mục đích này, việc cung cấp cho học sinh những tri
thức về văn bản là cần thiết.Tuy nhiên, muốn HS độc lập tạo ra những văn bản
có tính sáng tạo thì việc cung cấp những tri thức là chưa đủ mà điều quan trọng
là phải hình thành và củng cố cho các em các kĩ năng và các thao tác lập luận
văn bản.
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn
chứng về một vấn đề nào đấy và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho
người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những
gì mình đề xuất. Loại văn này đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ
thông. Tuy nhiên, đặc trưng của văn nghị luận là phải lập luận để làm sáng tỏ
một vấn đề nên với học sinh để làm được bài văn nghị luận không phải là đơn
giản, và để giúp cho học sinh nắm vững và có kĩ năng làm bài văn nghị luận
không phải là việc dễ dàng. Nếu không nắm vững những nét riêng, đặc điểm
riêng của các kiểu bài nghị luận có thể dẫn đến tình trạng nhầm lẫn giữa các kiểu
bài đó; nếu lập luận không chặt chẽ thì bài văn sẽ rời rạc, thiếu sức thuyết phục.

1
Vì vậy, trong nhà trường, việc rèn luyện viết văn nghị luận là yêu cầu rất trọng
yếu của quá trình học tập.
Như ở trên đã nói, đặc trưng của văn nghị luận là phải lập luận nên để học
sinh phổ thông tạo được những văn bản hay, đầy sáng tạo thì việc dạy các em sử
dụng tốt các thao tác lập luận là vô cùng quan trọng. Vì vậy, sách giáo khoa Ngữ
văn từ THCS đến THPT đã đưa ra các thao tác lập luận thành từng nội dung cụ
thể nhằm giúp cho học sinh hiểu sâu sắc bản chất của các thao tác, từ đó vận
dụng tốt các thao tác vào quá trình tạo lập văn bản.
1.3. Ở cấp THCS các em đã được làm quen với hai thao tác lập luận là
thao tác chứng minh và giải thích. Đến THPT các em tiếp tục được làm quen với
bốn thao tác lập luận là: phân tích, so sánh, bác bỏ và bình luận trong chương
trình Ngữ văn lớp 11. Bốn thao tác lập luận này là trọng tâm phần Làm văn của
sách Ngữ văn lớp 11. Trong đó thao tác lập luận bình luận là một thao tác không
thể thiếu trong văn nghị luận. Thao tác này là một nội dung mới, lần đầu tiên
được đưa vào trường phổ thông theo tinh thần đổi mới nên rất khó đối với giáo
viên và học sinh. Với không ít học sinh, thực hiện thao tác bình luận là một công
việc mà các em cảm thấy rất khó, và rất ngại làm. Nhiều em thường hay nhầm
lẫn giữa thao tác lập luận bình luận với các thao tác chứng minh và giải thích.
Đặc biệt, nhiều học sinh còn chưa thấy được bình luận là một hoạt động có
nguồn gốc từ chính cuộc sống. Học sinh còn chưa nhận ra mối dây liên hệ giữa
bình luận như một công việc mà các em đang phải chật vật làm trong nhà
trường với bình luận, như một công việc mà các em vẫn thoải mái tiến hành
khá thường xuyên và khá thành công trong thực tế. Vì thế, sự “bình luận”
trong nhiều bài làm của học sinh gượng gạo, thiếu tự nhiên, thiếu nhiệt tình.
Trong khi đó hiện nay chưa có nhiều tài liệu, nhiều công trình nghiên cứu
khoa học bàn về bình luận với tư cách là một thao tác lập luận hoặc nếu có thì
chỉ nói về bình luận như một kiểu bài nghị luận cụ thể nên chúng tôi mạnh
dạn lựa chọn đề tài: “Rèn luyện kỹ năng lập luận bình luận trong làm văn
nghị luận cho học sinh lớp 11 trường THPT A Thanh Liêm - Thanh Liêm -
Hà Nam” với mong muốn phần nào giúp cho giáo viên bớt đi những khó khăn,
lúng túng khi rèn luyện cho học sinh “Thao tác lập luận bình luận” trong SGK
Ngữ văn lớp 11.
Đồng thời, qua việc nghiên cứu này sẽ giúp cho người nghiên cứu nâng
cao hiểu biết của mình, có một vốn kiến thức vững chắc về bộ môn Tập làm
văn, đặc biệt là về thao tác lập luận bình luận cũng như cách viết một bài văn

2
bình luận đúng, hay, phù hợp với yêu cầu để phục vụ tốt cho công tác giảng
dạy sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bình luận là một kĩ năng quan trọng của làm văn nghị luận ở nhà trường
phổ thông, và rèn luyện kĩ năng bình luận cho học sinh là một vấn đề được các
nhà nghiên cứu hết sức quan tâm.
Cuốn sách tiêu biểu thứ nhất viết về bình luận là cuốn “Lí luận văn học”
do Phương Lựu làm chủ biên. Trong cuốn sách này, tác giả Phương Lựu cùng
một số tác giả khác đã nói đến bình luận với tư cách là một dạng thức của lập luận.
Theo đó các tác giả cho rằng:“Bình luận là đánh giá, xem xét cái đúng, cái sai, mặt
hay, mặt dở (tức là bình) của một hiện tượng, một sự vật, một quan niệm… đồng
thời đào sâu, mở rộng thêm (luận) nhằm phát huy những mặt tích cực, ngăn ngừa
những mặt tiêu cực, sai trái”[9, 444]. Không chỉ vậy các tác giả còn chỉ ra rằng
bình luận còn liên đới với cả chứng minh, giải thích và phân tích.
Trong cuốn “Làm văn nghị luận như thế nào” của nhà xuất bản Nghệ
Tĩnh cũng nói đến bình luận là một trong ba kiểu bài nghị luận cơ bản. Cũng
giống quan đểm của các tác giả trong cuốn Lí luận văn học, các tác giả trong
cuốn Làm văn nghị luận như thế nào cũng nêu lên bản chất của bình luận nhưng
đã có sự mở rộng và yêu cầu cụ thể hơn đối với bài văn bình luận: “Bình luận là
kiểu bài nghị luận đòi hỏi người viết phải xác định công khai luận đề đúng hay
sai, đúng sai ở chỗ nào, vì sao lại đúng sai như thế…Kiểu bài bình luận luôn
luôn nêu yêu cầu nâng cao vấn đề, mở rộng vấn đề, từ vấn đề này bàn sang vấn
đề khác có liên quan. Phải lật xuôi lật ngược vấn đề, rào đón những thắc mắc
của người đọc, người nghe; kiên quyết đấu tranh, gạt bỏ những nhận thức sai
trái, có hại; khẳng định những nhận thức đúng đắn”[20, 22]. Không chỉ vậy các
tác giả còn đưa ra yêu cầu cụ thể về giọng văn bình luận là phải “sôi nổi, hùng
hồn, giàu tính chiến đấu”. Nói cách khác “người viết bình luận phải bộc lộ chủ
quan của mình bằng tất cả trí tuệ và cảm xúc”.
Các tác giả Lê A, Nguyễn Trí trong cuốn “Làm văn” mặc dù không trực
tiếp nói về thao tác lập luận bình luận nhưng đã nói đến bình luận trên phương
diện là một kiểu bài văn nghị luận cụ thể. Theo đó Lê A, Nguyễn Trí đã chỉ ra
những đặc điểm cơ bản của văn nghị luận và đưa ra phương pháp làm bài bình
luận đối với cả bài bình luận xã hội và bình luận văn học. Điều này đã giúp ích
rất lớn cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học văn.
Một cuốn sách khác cũng đóng góp không nhỏ vào việc hình thành kĩ
năng làm văn bình luận là cuốn “Rèn kĩ năng làm văn nghị luận” của tác giả Bảo
3
Quyến. Ở đây tác giả không chỉ nói đến bình luận như một trong những thao tác
tổ chức nên nội dung bài văn nghị luận mà còn nói đến bình luận như một kiểu
bài cụ thể. Cũng giống như đối với kiểu bài phân tích, chứng minh, giải thích và
bình giảng Bảo Quyến đã chỉ ra đặc điểm, yêu cầu và đã đề xuất phương pháp
làm bài đối với từng phần cụ thể trong bài văn bình luận. Trong bài văn bình
luận ngoài hai phần đặt vấn đề và kết thúc vấn đề thì trong phần giải quyết vấn
đề tác giả Bảo Quyến nhấn mạnh cần phải thực hiện 3 thao tác là “giải thích
luận đề”,“bình luận đề” và “luận luận đề” [11, 21]. Như vậy chúng ta có thể
thấy rằng, Bảo Quyến cũng như nhiều tác giả khác mặc dù nhìn nhận bình luận trên
nhiều phương diện khác nhau nhưng đều đi đến nhận định: bình luận có hai thao
tác cơ bản là đánh giá (bình) và bàn luận (luận). Đặc biệt Bảo Quyến còn nhận thấy
bình luận không phải là một kiểu bài riêng biệt mà là “một kiểu bài tổng hợp vì
trong nó có cả giải thích, phân tích, chứng minh”. Do đó, “muốn làm bài bình luận
người làm phải biết vận dụng tổng hợp các thao tác giải thích, phân tích, chứng
minh”[11, 20]. Quan điểm này của Bảo Quyến là một quan điểm tiến bộ bởi vì
trong thực tế không có bài văn nghị luận nào chỉ sử dụng đơn thuần một thao tác
lập luận mà nó là sự kết hợp của nhiều thao tác lập luận.
Hiện nay, các tác giả biên soạn SGK Ngữ Văn đã tách các thao tác lập
luận thành từng bài riêng với mục đích nắm bản chất từng thao tác lập luận, từ
đó có cách hiểu rộng hơn, sâu hơn về mỗi thao tác, đồng thời giúp các em vận
dụng linh hoạt các thao tác này vào viết bài văn nghị luận.
Trong SGK Ngữ Văn 11 tập 2 bộ cơ bản, các tác giả Phan Trọng Luận (tổng
chủ biên), Trần Đăng Suyền (chủ biên phần Văn), Lê A (chủ biên phần Làm văn),
đã thống nhất đưa ra khái niệm bình luận như sau: “bình luận nhằm đề xuất và
thuyết phục người đọc (người nghe) tán đồng với nhận xét, đánh giá, bàn luận của
mình về một hiện tượng (vấn đề) trong đời sống hoặc trong văn học”[12,73].Từ
khái niệm đó các tác giả đã đưa ra cách bình luận thường gặp nhất để giáo viên và
các em HS tham khảo. Bên cạnh đó các tác giả còn thống nhất quan điểm không
dựa vào các thao tác lập luận để chia nhỏ văn bản nghị luận thành nhiều loại: chứng
minh, phân tích, bình giảng, bình luận… và khẳng định mỗi thao tác lập luận có thể
có thể sử dụng ở nhiều kiểu bài nghị luận khác nhau, và ở mỗi bài nghị luận có thể
sử dụng nhiều thao tác lập luận khác nhau. Thao tác lập luận bình luận không chỉ
có mặt trong các kiểu bài mà thao tác này còn có mối liên hệ mật thiết với các thao
tác khác: phân tích, so sánh, bác bỏ… Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với thực
tế viết văn lại vừa tạo điều kiện để luyện tập cho HS biết cách sử dụng thao tác lập
luận trong suốt quá trình học văn nghị luận từ THCS đến THPT và ứng dụng vào
việc học tập cũng như cuộc sống sau này.

4
Cho đến nay thao tác lập luận bình luận chỉ mới được đề cập mang tính
định hướng chung trong các sách giáo viên (bộ cơ bản và bộ nâng cao) và trong
tài liệu bồi dưỡng giáo viên lớp 11 môn Ngữ văn, chưa có công trình nghiên cứu
một cách toàn diện, sâu sắc về vấn đề này và nếu có thì rất ít. Vì vậy thực hiện
khóa luận “Rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận trong làm văn nghị luận cho
học sinh lớp 11 trường THPT A Thanh Liêm” chúng tôi mong muốn sẽ mở ra
một hướng tiếp cận mới trong quá trình dạy học thao tác lập luận, cụ thể là thao
tác lập luận bình luận cho các em học sinh trường THPT A Thanh Liêm, từ đó
góp phần nâng cao chất lượng học tập cho các em.
Các tài liệu và các đề tài nghiên cứu trước sẽ là định hướng để chúng tôi
tiến hành nghiên cứu. Chúng tôi sẽ lấy đó làm cơ sở lí thuyết để luận văn được
chặt chẽ. Luận văn cũng chỉ là sự tiếp nối những công trình của các tác giả đi
trước với mục đích cụ thể hơn về thao tác lập luận bình luận cho một đối tượng
cụ thể. Hy vọng đây sẽ là một công trình nghiên cứu thiết thực đối với học sinh
lớp 11 nói chung và học sinh lớp 11 trường THPT A Thanh Liêm nói riêng.
3. Mục đích- đối tượng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu thực tế làm văn bình luận của học sinh lớp 11 trường
THPT A Thanh Liêm để đưa ra những giải pháp nhằm giúp các em rèn luyện kỹ
năng lập luận bình luận trong văn nghị luận sao cho hiệu quả nhất.
Đúc rút những kinh nghiệm trong học tập và nghiên cứu, báo cáo kết quả sau
4 năm học tập và rèn luyện ở trường Đại học, cũng như chuẩn bị kiến thức, tư thế
vững vàng trước khi bước vào giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường phổ thông.
Trau dồi kinh nghiệm và thao tác để sẵn sàng cho hoạt động nghiên cứu
khoa học sau này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các giải pháp rèn luyện kĩ năng lập luận bình
luận cho học sinh lớp 11 trường THPT A - Thanh Liêm -Thanh Liêm - Hà Nam.
4. Nhiệm vụ - phạm vi nghiên cứu
4.1.Nhiệm vụ của đề tài
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu với khả năng và tài liệu cho phép
chúng tôi xác định đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
-Xây dựng cơ sở lí thuyết làm cơ sở lí luận cho vấn đề nghiên cứu trong đề tài.

5
-Tìm hiểu thực trạng của việc học Ngữ Văn của học sinh lớp 11 trường
THPT A Thanh Liêm.
- Đề xuất phương pháp thích hợp để rèn luyện kỹ năng lập luận bình luận
trong văn nghị luận cho học sinh lớp 11 trường THPT A Thanh Liêm.
-Tiến hành dạy học thực nghiệm để khẳng định tính khả thi của những
giải pháp mà đề tài đã đề xuất.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là: các bài học thao tác lập luận bình
luận và các bài có mối quan hệ với thao tác lập luận bình luận như: “Thao tác
lập luận bình luận”, “Luyện tập thao tác lập luận bình luận”…Giới hạn chủ yếu
là nghiên cứu dạy học thao tác lập luận bình luận theo SGK Ngữ Văn 11 chương
trình chuẩn (có liên hệ với chương trình SGK Ngữ Văn 11 nâng cao) áp dụng
đối với học sinh THPT A Thanh Liêm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng khóa luận, chúng tôi đã vận dụng nhiều phương
pháp dạy học tiếng Việt, dạy học Làm văn. Giữa các phương pháp có sự phối
hợp với mức độ và phân bố khác nhau ở từng phần. Dưới đây là một số phương
pháp nghiên cứu cơ bản nhất đã được chúng tôi vận dụng.
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu lí thuyết là phương pháp được tiến hành dựa trên cơ sở tìm
hiểu, nghiên cứu và thu thập những thành tựu lí luận đã có làm tiền đề cho việc
xác định giả thuyết khoa học mà mình đặt ra.
Cụ thể với đề tài này để đưa ra phương pháp rèn luyện kĩ năng lập luận bình
luận trong văn nghị luận, chúng tôi đã nghiên cứu lí thuyết để tìm hiểu thế nào là
bình luận, một số cách bình luận, thế nào là lập luận, lập luận bình luận,... từ đó
mới có thể đưa ra các kĩ năng lập luận thích hợp nhất cho các em HS lớp 11
trường THPT A Thanh Liêm, với hi vọng sẽ “lấp đầy” những “khoảng trống” về
kĩ năng cho các em.
5.2. Phương pháp khảo sát thực tế
Từ trước đến nay, chúng ta luôn đề cao mối quan hệ thiết thân giữa lí luận
và thực tiễn, trong đó, thực tiễn nắm vai trò cốt yếu trong quá trình nhận thức và
hành động. Bởi vậy, sau khi nghiên cứu những vấn đề lí thuyết chúng tôi đã tiến
hành khảo sát thực tế. Cụ thể, chúng tôi đã đi khảo sát một số lượng nhất định,

6
thăm dò ý kiến thái độ của các em đối với việc vận dụng thao tác lập luận bình luận
vào bài viết của mình.
Như vậy, phương pháp khảo sát thực tế là tổ chức tiếp cận tri giác tìm
hiểu đối tượng trong thực tế, điều tra và tổng hợp các vấn đề thực tiễn có liên
quan mật thiết đến khóa luận.
5.3. Phương pháp thống kê
Đây là một trong những phương pháp của toán học. Chúng tôi sử dụng
phương pháp này để xử lí các số liệu thu nhận được trong quá trình điều
tra,thực nghiệm.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp tổ chức, triển khai giả thuyết
khoa học của khóa luận vào giảng dạy thực tế nhằm kiểm tra, đánh giá một cách
khách quan tính khả thi của các vấn đề đưa ra và từ đó hiệu chỉnh lại nhằm đạt
được sự tin cậy và mang tính khoa học nhất nơi khóa luận.
Phương pháp này được thực hiện trên một số những phương diện sau:
- Xây dựng cơ sở thực nghiệm sư phạm thông qua các bài thiết kế nội
dung dạy học.
- Tổ chức thực hiện giảng dạy ở trường phổ thông.
- Thông qua quá trình thực hiện giảng dạy kiểm tra và đánh giá nhận thức,
kỹ năng lập luận bình luận của học sinh, từ đó đề xuất một số giải pháp về việc
rèn luyện các thao tác lập luận trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, đồng thời
khẳng định mức độ thành công của khóa luận.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Cơ sở lí luận bao gồm:Thao tác lập luận, thao tác lập luận bình luận, cách
bình luận, mối quan hệ giữa thao tác bình luận với các thao tác lập luận khác và
các lí thuyết liên quan đến việc hình thành kĩ năng lập luận bình luận trong làm
văn nghị luận cho học sinh.
Đối với cơ sở thực tiễn, chúng tôi tiến hành khảo sát chương trình SGK
lớp 11, thăm dò thực tiễn dạy và học Làm Văn của học sinh lớp 11 trường THPT
A Thanh Liêm huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam.

7
Chương 2: Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận trong
văn nghị luận cho học sinh lớp 11 trường THPT A Thanh Liêm.
Đưa ra các giải pháp cụ thể để rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận trong
văn nghị luận cho HS lớp 11.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Bao gồm thiết kế giáo án thực nghiệm, tổ chức dạy thực nghiệm và đánh
giá kết quả thực nghiệm

8
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Thao tác lập luận với tư cách là một hoạt động của tư duy
1.1.1.1. Khái quát về tư duy
Trong thực tiễn cuộc sống, có rất nhiều cái mà ta chưa biết, chưa hiểu.
Song để làm chủ được thực tiễn, con người cần phải hiểu thấu đáo những cái
chưa biết đó, phải vạch ra cái bản chất, mối liên hệ có tính quy luật của chúng.
Quá trình đó gọi là tư duy.
Vậy tư duy là gì? Trước khi đi định nghĩa tư duy là gì chúng ta hãy xét bài
toán của Gauss: 1 + 2 + 3 + 4 +…+ 100 =?, khi còn nhỏ Gauss đã giải như sau:
1 + 100 = 101, 2 +99 =101, 3 +98 = 101… = 50 x 101 = 5050
Qua ví dụ trên, ta nhận thấy Gauss đã nhận thức được mối quan hệ có tính
chất quy luật của dãy số và cách giải này là cách giải mới, đó chính là tư duy.
Từ đây ta rút ra định nghĩa “Tư duy là một quá trình tâm lí, phản ánh
những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy
luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa
biết”.[21, 106]
Như vậy, tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản
chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu
tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí.
Thuộc mức độ nhận thức cao - nhận thức lí tính, tư duy có những đặc
điểm cơ bản: tính “có vấn đề” của tư duy, tính gián tiếp của tư duy, tính trừu
tượng và khái quát hóa, tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ và có quan hệ
mật thiết với nhận thức cảm tính.
Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đấy
nảy sinh trong nhận thức hay hoạt động thực tiễn. từ khi chủ thể gặp tình huống
có vấn đề, nhận thức được vấn đề đến khi giải quyết được vấn đề là một quá
trình bao gồm nhiều giai đoạn. Nhà tâm lí học K.K. Platônôp đã tóm tắt các giai
đoạn của một quá trình tư duy bằng sơ đồ dưới đây:

9
Nhận thức vấn đề

Xuất hiện các liên tưởng

Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết

Kiểm tra giả thuyết

Chính xác hóa Khẳng định Phủ định

Giải quyết vấn đề Hành động tư duy mới

Đây chính là lôgic của tư duy. Số lượng các giai đoạn có thể không cần
đầy đủ trong những trường hợp nhất định, nhưng thứ tự các giai đoạn phải tuân
theo sơ đồ trên.
Rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận cho học sinh lớp 11 trong bài làm
văn nghị luận là một hoạt động có mối liên hệ trực tiếp tới các hoạt động tư duy,
tới vấn đề lôgic và đó là một hoạt động mang tính trí tuệ cao.
1.1.1.2. Thao tác lập luận
Lập luận là đưa ra các lí lẽ, bằng chứng nhằm dẫn dắt người nghe (đọc)
đến một kết luận nào đó mà người viết (nói) muốn đạt tới.Lập luận được định
nghĩa rất khác nhau tùy theo ngữ cảnh của hiểu biết về lí tính như là một hình
thức của tri thức. Theo định nghĩa lôgic, lập luận là hành động sử dụng lí tính để
rút ra một kết luận từ các tiền đề nhất định bằng cách sử dụng một phương pháp
luận cho trước, và hai phương pháp tường minh được sử dụng rộng rãi nhất để
đạt đến kết luận là lập luận suy diễn và lập luận quy nạp.
Hiểu một cách khái quát, lập luận là trình bày hệ thống lí lẽ và luận
chứng của mình một cách chặt chẽ, rành mạch, gãy gọn theo một trình tự hợp lí,
đúng với quy luật lôgic nhằm khẳng định hoặc bênh vực một ý kiến, làm sáng tỏ
vấn đề mà người nói, người viết cho là đúng đắn. Hay nói một cách khác, lập
luận là quá trình liên kết, xâu chuỗi luận điểm, luận cứ nhằm làm rõ luận đề theo
một quan niệm nhất định để người đọc hiểu, tin ở những kết luận mà người viết
muốn dẫn dắt người đọc đến. Lập luận là sản phẩm của tư duy lôgic, do vậy lập
luận vừa phải có lí lẽ, bằng chứng thuyết phục, lại phải biết trình bày, dẫn dắt

10
sao cho lập luận chặt chẽ, thuyết phục. Mặt khác, lập luận phải có đích, đích của
lập luận phải tìm ra những chân lí mới rút ra từ những tri thức khác, là con
đường đi đến nhận thức chân lí một cách khoa học.
Lập luận trong văn nghị luận ngoài có các yếu tố luận điểm, luận cứ, luận
chứng còn có cách lập luận, phương pháp lập luận. Trong đó luận điểm chính là
ý kiến xác định của người viết với vấn đề đặt ra. Luận cứ là các tài liệu dùng
làm cơ sở cho việc thuyết minh cho luận điểm còn luận chứng là sự phối hợp, tổ
chức các lí lẽ và dẫn chứng để thuyết minh cho luận điểm, thực chất đây là cách
đưa luận cứ vào quỹ đạo logic để tạo thành sức thuyết phục của luận điểm.
Để lập luận, người ta phải sử dụng các thao tác lập luận. Đặc điểm của các
thao tác này là người viết sử dụng ngôn ngữ để nêu sự thực, trình bày lí lẽ và
qua đó đánh giá sự đúng - sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra các kiến giải, phát
biểu ý kiến, thể hiện rõ lập trường, quan điểm của bản thân. Việc trình bày lí lẽ
được người viết thể hiện thông qua các phương thức tư duy lôgic như khái niệm,
phán đoán, suy lí và hệ thống dẫn chứng nhằm đạt được mục đích khiến người
đọc tin theo. Như vậy, thao tác lập luận chính là thao tác được sử dụng để thực
hiện một hành động lập luận. Nói cách khác, thao tác lập luận là những động tác
được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động
lập luận.
Khi lập luận người ta có thể dùng nhiều thao tác như: chứng minh, giải
thích, phân tích, so sánh, bác bỏ và bình luận. Các thao tác này học sinh được
tiếp cận cụ thể trong môn Ngữ văn từ cấp THCS đến cấp THPT.
1.1.2. Bình luận với tư cách là một thao tác lập luận
1.1.2.1. Khái niệm bình luận và thao tác lập luận bình luận
Theo từ điển tiếng Việt, bình luận là bàn điều hay, lẽ dở, việc nên hay hư
như: bình luận thời cuộc, viết bài bình luận…
Trong cuộc sống, đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông, ta rất hay
gặp từ bình luận. Đó có thể là bình luận tình hình thời sự, bình luận quân sự,
bình luận thể thao… thậm chí đơn giản là bình luận về một con người, bình luận
về một lối sống… Trong những trường hợp này, bình luận có nghĩa là bàn bạc,
đánh giá nhằm thuyết phục người đọc (người nghe) tán đồng với nhận xét, đánh
giá, bàn luận của mình về một hiện tượng (vấn đề) trong đời sống hoặc trong
văn học.
Ví dụ như trong lĩnh vực thể thao, trên trang báo mạng thethaovanhoa.vn
ngày 14/01/2013 đã bình luận về trận đấu bóng đá giữa M.U và Liverpool như
sau: “Đó không còn là một cặp đấu cân tài cân sức, như cuộc chiến giữa hai

11
đội bóng vĩ đại nhất nước Anh đáng ra phải thế. Nhưng đó là một trận đấu mà
người thất bại Liverpool vẫn xứng đáng được tôn trọng, và kẻ chiến thắng M.U
cần phải học cách tôn trọng đối thủ”. Ở đây, lĩnh vực bình luận là thể thao,
người bình luận đã đưa ra những ý kiến đánh giá của mình để người đọc phải
suy ngẫm về lối chơi của đội “quỷ đỏ M.U”.
Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh, dân chủ; mọi người đều
có quyền và có trách nhiệm tham gia giải quyết các vấn đề trong xã hội; các
quan điểm, ý kiến có tinh thần xây dựng đều được trân trọng và khuyến khích.
Con người trong thời đại như thế phải dám và phải có khả năng tham gia bình
luận, để trở thành người có ích cho cuộc sống.
Hiểu theo tinh thần ấy thì lập luận bình luận là một hoạt động mà con
người vẫn thường xuyên tiến hành ở cuộc đời. Có thể nói, không một học sinh nào
chưa từng nhiều lần lập luận bình luận và chưa từng có ít nhất một lần lập luận bình
luận thành công. Những kinh nghiệm rút ra từ những lần lập luận bình luận trong
cuộc sống ấy rất có ích cho việc tìm hiểu về văn bình luận ở nhà trường.
Chương trình Ngữ văn hiện hành coi bình luận là một thao tác. Nhưng có
lẽ bình luận không nằm trong cùng hệ thống với các thao tác như so sánh hay
bác bỏ. Ngang bậc với bình luận phải là các thao tác giải thích, chứng minh,
phân tích. Phải đặt bình luận vào hệ thống cùng với các thao tác giải thích,
chứng minh để khu biệt bình luận với giải thích, chứng minh, mới mong nắm
được bản chất thật sự của thao tác lập luận này. Như vậy, bình luận là một loại
thao tác lập luận; về mặt này, nó cũng giống chứng minh và giải thích. Nhưng
bình luận không nhằm mục đích làm cho người đọc (người nghe) hiểu rõ như
giải thích hay tin là đúng, là có thật như chứng minh. Mục đích của bình luận là
đánh giá và bàn luận. Đã gọi là đánh giá thì phải có sự xác định phải trái, hay
dở, đúng sai. Cũng vậy, đã gọi là bàn luận thì phải có sự trao đổi ý kiến với
người đối thoại. Nói một cách khái quát, bình luận một thao tác lập luận, trong
đó người viết (người nói) bàn luận, đánh giá một vấn đề để đi đến việc nhận
định đầy đủ, sâu sắc về vấn đề đó và những điều do vấn đề đó gợi ra. Nó gồm
hai thao tác cụ thể là: bình (đánh giá) và luận (bàn bạc và mở rộng vấn đề).
1.1.2.2. Cách bình luận
Như chúng ta biết rằng, thao tác bình luận được sử dụng trong cả biện
luận và trong văn nghị luận. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của khóa luận tôi chỉ
trình bày cách bình luận trong văn nghị luận.
Bình luận không phải là giải thích, không để chứng minh, cũng không
phải là gải thích và chứng minh cộng lại. Yêu cầu cao nhất của hoạt động bình
12
luận không phải là dễ hiểu (đó là yêu cầu của giải thích), hay có nhiều dẫn
chứng phong phú, đáng tin cậy (đó là yêu cầu của chứng minh). Trôi chảy, hấp
dẫn, giàu nhiệt tình thuyết phục, giàu tính đấu tranh cho quan điểm, ý kiến đúng
đắn, đó mới là những phẩm chất thích hợp với thao tác bình luận. Cũng bởi
những đặc trưng đó mà cách bình luận khác với chứng minh và giải thích. Có
nhiều cách bình luận. Sau đây là một trong những cách thường gặp nhất. Theo
cách này, tiến trình bình luận bao gồm ba bước:
Bước thứ nhất, ta phải xác định được hiện tượng (vấn đề) cần bình luận.
Người đọc (người nghe) không thể tiếp nhận và càng không thể tiếp nhận một
cách hứng thú những lời bình luận về một hiện tượng (vấn đề), một khi họ còn
mơ hồ về chính cái hiện tượng (vấn đề) được đưa ra bình luận. “Có bột mới gột
nên hồ”, không một quy tắc nào cứu vãn nổi một bài bình luận mà ở đó, người
làm văn buộc phải viết về một nội dung mà mình không biết, không có gì để bàn
luận, không cần trao đổi ý kiến với ai. Vì thế, trước tiên, người bình luận nên
trình bày một cách trung thực, đầy đủ, rõ ràng nhưng ngắn gọn về hiện tượng
(vấn đề) mà ở đó, mình sẽ đem ra bàn luận cùng người đọc (người nghe). Trong
bình luận xã hội, để xác định vấn đề bình luận, cần tiến hành giải thích nghĩa
đen,nghĩa bóng của các khái niệm, hình ảnh, cách diễn đạt bóng bẩy trong đề.
Từ đó rút ra vấn đề cần bình luận là gì. Ví dụ, khi bình luận câu tục ngữ : Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn ta phải giải thích gỗ và nước sơn tiêu biểu cho cái gì, toàn câu
tục ngữ đó muốn nói gì. Vấn đề đặt ra có phải là quan điểm đánh giá giá trị nội
dung cao hơn giá trị hình thức hay là quan điểm khái quát, rộng lớn hơn: giá trị
thực dụng cao hơn giá tị thẩm mĩ?. Đối với bình luận văn học, cần đọc kĩ đề bài
để xác dịnh vấn đề cần bình luận là gì (một tác phẩm, một tác giả, một quan
điểm lí luận văn học,…), phạm vi tư liệu mà đề bài yêu cầu sử dụng. Ở bước thứ
nhất này, cần lưu ý: không nên cố trình bày hiện tượng (vấn đề) đó cốt cho phù
hợp nhất với quan điểm của mình, vì việc làm ấy khiến người đọc (người nghe)
ngờ vực, cảm thấy sự bình luận không thật công bằng, không thật vô tư.
Tiếp đó, người bình luận sẽ nêu ra và bảo vệ quan điểm của riêng mình
theo một trong các cách sau:
(1)Đứng hẳn về một phía, ủng hộ phía mình cho là đúng và bác bỏ phía
mình chắc chắn là sai. Như trong đoạn văn sau đây, người viết đã bác bỏ hoàn
toàn ý kiến cho rằng: “Cứng quá thì gãy”:
“Người ta thường nói:“Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi
được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu
đổi cứng ra mềm?

13
Ngô Tử là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà đốt cháy đền tà, chống lại
yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ
chức vị ở Minh ti, thật xứng đáng. Vậy kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng
cỏi”.[12, 26]
(2) Kết hợp những phần đúng và loại bỏ phần còn hạn chế của mỗi phía,
để đi tới một sự đánh giá mà mình tin là thật sự công bằng, hợp lí. Bởi lẽ, bất kì
một sự vật, hiện tượng nào cũng khó hoàn hảo, bên cạnh những hạt nhân hợp lí
còn chứa đựng những không ít những yếu tố tiêu cực. Trở lại VD trên, khi bình
luận câu tục ngữ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, rõ ràng việc coi trọng giá trị thực
dụng đúng về cơ bản. Tuy vậy, nếu quá coi trọng giá trị thực dụng mà xem nhẹ
hoặc bỏ qua giá trị thẩm mĩ cũng không đúng.
Cách bình luận này sẽ giúp chúng ta tránh được khuynh hướng cực đoan,
một chiều trong đánh giá. Thông thường, chúng ta thường hay đánh giá quá cao
các hiện tượng (vấn đề) được bình luận, xem nó là hay, là có giá trị hơn cả. Đây
là nhược điểm hay gặp trong các bài bình luận. Cần có thái độ khách quan, đúng
mực, đáng khen thì khen, đáng khen đến mức độ nào thì khen đến mức độ ấy.
(3) Đưa ra một cách đánh giá của riêng mình, sau khi đã phân tích các
quan điểm, ý kiến khác nhau về đề tài cần bình luận. Tuy nhiên, để có đánh giá
hợp lí, người bình luận phải đứng trên một lập trường đúng đắn. Lập trường đó
là các lợi ích chung của xã hội, của dân tộc, của cộng đồng người và các thành
viên trong đó.
Việc lựa chọn cách làm nào trong ba cách kể trên phải xuất phát từ một,
và chỉ một cơ sở duy nhất: cơ sở chân lí. Sau khi đã chọn được một cách thức
phù hợp với chân lí rồi thì nhiệm vụ của người bình luận là tìm cách thuyết phục
người đọc (người nghe) đặt niềm tin vào sự đánh giá của mình bằng các lí lẽ và
dẫn chứng thuyết phục. Các dẫn chứng đó lấy từ thực tế cuộc sống, các con số
thống kê, các sự kiện lịch sử một cách khách quan, chính xác và tinh tế.
Cuối cùng, để luận bàn sâu rộng hơn, người bình luận có thể đề cập đến
hành động, thái độ, cách giải quyết cần có trước hiện tượng vừa được nhận xét,
đánh giá; cũng có thể bày tỏ những cảm nhận, nghĩ suy mà mình đã rút ra khi
liên hệ với thời đại, hoàn cảnh sống, lứa tuổi của mình và của người đang lắng
nghe mình bình luận. Khi bình luận về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu, người bình luận liên hệ với thực tế bạo lực gia đình hiện
nay ở Việt Nam cũng như đưa ra những lời kêu gọi chống bạo lực gia đình là
một cách để vấn đề bàn luận sâu rộng hơn. Hay khi bình luận về câu ca dao:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau

14
cùng”, cần liên hệ với thực tế xã hội hiện nay về tính đoàn kết dân tộc, qua đó
kêu gọi mọi người hãy sống đoàn kết. Nhưng sự bình luận có tầm vóc lớn hơn,
có giá trị cao hơn nữa nếu người bình luận có thể bàn thêm về những ý nghĩa xa
rộng, sâu sắc, và bất ngờ nữa mà hiện tượng đời sống được bình luận gợi ra.
Chẳng hạn như khi bình luận về ý thơ: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” của
Nguyễn Đình Chiểu, người viết đã gợi ra cho người đọc nhiều suy ngẫm về bài
học đạo lí trong ứng xử: “Từ câu tục ngữ “Uống Nước nhớ nguồn” đến câu thơ
“Làm ơn há dẽ trông người trả ơn”, ta thấy bài học đạo lí ứng xử đầy tình
người. Quan niệm sống đẹp ấy làm nên tâm hồn Việt Nam, sức mạnh nhân nghĩa
Việt Nam”.[6, 500]
1.1.3. Mối quan hệ giữa các thao tác lập luận bình luận với các thao tác lập
luận khác.
Do đặc trưng văn nghị luận là bàn luận, làm sáng tỏ một vấn đề xã hội hay
văn học nào đó nên rất cần có sự kết hợp thành thạo giữa các thao tác nghị luận,
lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Chính vì vậy, trong quá trình làm văn
nghị luận, thao tác lập luận bình luận không bao giờ đứng độc lập, tách biệt mà
luôn có sự phối hợp với các thao tác lập luận khác như : chứng minh, giải thích,
so sánh, phân tích, bác bỏ.
1.1.3.1. Quan hệ với thao tác lập luận chứng minh, giải thích
Để chứng minh một vấn đề ta cần dùng đến lí lẽ và dẫn chứng để minh
họa, xác nhận, khẳng định, bênh vực chắc chắn sự đúng đắn của một ý kiến, một
nhận định, một vấn đề. Tuy nhiên, để mở rộng nâng cao vấn đề cần chứng minh
thì việc người viết đưa ra những nhận định, đánh giá, bàn luận của bản thân (tức
là bình luận) là vô cùng quan trọng. Hoặc để tăng tính thuyết phục của dẫn
chứng đưa ra, người viết phải phân tích, có khi là phải bình luận dẫn chứng.Ví
dụ: “Cuộc đối thoại giữa mây và em bé không chỉ nói lên tâm hồn bay bổng hồn
nhiên của tuổi thơ mà còn khẳng định ngợi ca tình yêu mẹ của tuổi thơ rất đẹp
và mãnh liệt:
“Mẹ đợi tôi ở nhà, tôi có lòng nào bỏ được mẹ tôi”.
Yêu mẹ hiền, yêu mái nhà êm ấm… là những tình cảm trong sáng, đằm
thắm của em bé. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống bên mẹ hiền:
“Con làm mây nhé, mẹ làm mặt trăng
Hai tay con ôm mặt mẹ, còn mái nhà ta là trời xanh”.

15
Trí tưởng tượng diệu kì và tình yêu thiếu nhi nồng nàn của Ta-gor đã
sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về hạnh phúc tuổi thơ. Ở đây, tình mẫu tử được
nâng lên ngang tầm với vũ trụ”.[6, 371]
Trong đoạn văn trên, có sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa thao tác chứng
minh và bình luận. Cùng với việc đưa ra dẫn chứng để chứng minh cho tình yêu mẹ
của tuổi thơ rất đẹp và mãnh liệt, người viết đã đi đến khẳng định trí tưởng tượng
diệu kì và tình yêu thiếu nhi của Ta-gor. Đồng thời đánh giá về tình mẫu tử được
nói đến trong bài, đó là “tình mẫu tử được nâng lên ngang tầm với vũ trụ”.
Tương tự, khi giải thích một vấn đề, người ta dùng lí lẽ là chủ yếu và dẫn
chứng dùng để cắt nghĩa, giảng giải, phân tích, bình luận để làm sinh động vấn
đề. Từ đó dễ nhận biết và hiểu vấn đề một cách sâu sắc hơn. Ví dụ, sau khi đã
giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, lấy những dẫn
chứng trong thực tế để chứng minh thì người viết có thể mở rộng vấn đề bằng
cách đưa ra luận cứ Tại sao phải ăn quả nhớ kẻ trồng cây? như sau:
“Con người là một thành viên của xã hội, sống trong xã hội và hưởng thụ
mọi thành quả vật chất và tinh thần của xã hội. Mọi thành quả trong xã hội đều
do những người đi trước và những người đương thời tạo nên. Vì vậy, khi “ăn
quả” phải nhớ đến công ơn của những người hai sương một nắng là ra những
hạt gạo - “hạt vàng”. Ngày nay, được sống trong hòa bình xây dựng đất nước,
chúng ta phải biết ơn những anh hung liệt sĩ đã hi sinh cho đất nước nở hoa như
Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc…
Không biết trân trọng những người đã làm ra mọi thành quả của xã hội là
vong ân bội nghĩa. Biết ơn những người đã tạo ra quả ngọt cho đời còn giúp
chúng ta gắn bó với đồng bào, tạo dựng cuộc sống đoàn kết, thương
yêu”.[19,50]
Như vậy để làm một bài văn nghị luận giải thích hay chứng minh thì phải
có sự kết hợp cả thao tác giải thích, chứng minh và bình luận thì bài làm mới sâu
sắc và nhận được sự đồng tình của người đọc, người nghe.
1.1.3.2. Quan hệ với thao tác lập luận phân tích
Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều bộ phận,
yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối
tượng.Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật hiện tượng,
mối quan hệ giữa hình thức với bản chất, nội dung. Phân tích giúp nhận thức đầy
đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của đối tượng. Để phân tích thực sự có
giá trị cần phải có thao tác tổng kết, nhận định, đánh giá về đối tượng phân tích.

16
Như chúng ta đã biết, mục đích phân tích văn học là để nhận định, đánh
giá xác đáng một hiện tượng văn học. Vì vậy, sau khi tiến hành phân tích theo
hướng đề ra, bài viết phải đề xuất nhận định, đánh giá hiện tượng văn học về
tính độc đáo (cấu tứ mới lạ, đổi mới so với truyền thống), giá trị nhận thức (mức
độ sâu, nông so với vấn đề nêu ra), giá trị tư tưởng (thái độ đối với nhân dân, đất
nước, con người), giá trị nghệ thuật (mức độ tài nghệ, sức thuyết phục, gợi cảm,
phong cách). Ví dụ, sau khi phân tích bài Đi đường của Hồ Chí Minh, có thể
nhận định đó là một bài thơ hay, súc tích, thể hiện tinh thần lạc quan của nhà
cách mạng vĩ đại và tâm hồn phón khoáng cao đẹp của một nhà thơ.Bài thơ nhỏ
mà có kịch tính. Thoạt đầu tưởng đâu con người bị nuốt chửng giữa trùng san bị
“nuốt” vào tầm mắt. bài thơ thể hiện tư tưởng một cách tự nhiên, không có chút
gì lên gân, gượng ép.
Hay khi phân tích một vấn đề lí luận văn học, thao tác nêu lên chỗ mạnh,
chỗ yếu, đóng góp và hạn chế của hiện tượng văn học được xét (giai đoạn văn
học hoặc phong cách tác giả) chính là thao tác bình luận. Ví dụ, đối với tính chất
sử thi của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, sau khi phân tích ta có thể
đánh giá văn học sử thi đã xây dựng được những hình tượng về nhân dân, Tổ
quốc anh hùng, góp phần đoàn kết, cổ vũ nhân dân đấu tranh giành độc lập,
thống nhất Tổ quốc. Cùng với các sáng tác mang tính sử thi thời trước (như
Thánh Gióng, Bình Ngô đại cáo, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc…), văn học giai
đoạn này góp phần nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc. Tuy vậy, sự độc tôn của một loại hình văn học đã ít nhiều hạn chế sự đa
dạng của văn học, hạn chế cách nhìn đời sống theo các góc độ khác nhau.
Những lời nhận định, đánh giá đã nâng cao giá trị của phân tích, đem lại
tính mục đích cho phân tích.
1.1.3.3. Quan hệ với thao tác lập luận so sánh
So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối
tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống nhau hay khác
nhau, từ đó thấy được giá trịcủa từng sự vật hoặc một sự vật mà mình quan tâm.
Trong khi đó, bình luận là một hoạt động nghị luận nhằm đánh giá và bàn luận
về một hiện tượng (vấn đề) nào đó. Bình luận sinh ra từ sự trao đổi giữa những
người ít nhiều đã biết. Do đó, người nói (người viết) cần đối chiếu ý kiến của
mình với những ý kiến khác cùng về hiện tượng, vấn đề để có thể đứng về phía
cái đúng, phê phán cái sai, hoặc dung hòa những mặt đúng của hai quan điểm
đối lập, hoặc đưa ra một ý kiến hoàn toàn riêng biệt. Như vậy trong bình luận đã

17
có so sánh, đối chiếu làm sáng rõ vấn đề cần bàn luận. Hoạt động so sánh làm
cho phần bàn luận càng thêm sâu sắc, sinh động, giàu sức thuyết phục hơn.
Ta xét ví dụ sau: “Tiền bạc giống như chiếc găng tay. Còn tình bạn giống
như một bàn tay. Một cái thì hữu ích, còn cái kia thì lại thiết yếu.Trái ngược với
điều mọi người thường nghĩ rằng khái niệm hạnh phúc thường khó giải thích
hoặc hạnh phúc thường tùy thuộc vào việc bạn có của cải nhiều hay không - các
nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu và nhận thấy các yếu tố như số lượng bạn
bè mức độ thân thiết với bạn bè và gia đình cùng mối quan hệ với đồng nghiệp,
hàng xóm hợp lại chiếm tới 70% yếu tố làm nên hạnh phúc. Nếu bạn muốn biết
ai đó có hạnh phúc hay không thì đừng hỏi họ có bao nhiêu tiền, cũng đừng hỏi
họ có thu nhập bao nhiêu mà hãy hỏi mối quan hệ của họ với bạn bè. Có được
những người bạn tâm giao hay thậm chí chỉ cần có một người bạn hiểu mình
thật sự và có thể chia sẻ mọi điều là hạnh phúc lắm rồi”.
Đoạn trích trên đã nêu ra lời bàn luận về sự thiết yếu của tình bạn trong
cuộc sống quan trọng hơn là tiền bạc. Để nêu bật điều này, tác giả đã so sánh
tình bạn như một bàn tay, còn tiền bạc chỉ như một chiếc găng tay. Bàn tay thì
thiết yếu không thể thay thế được, còn tiền bạc chỉ hữu ích trong thời điểm nào
đó thôi. Cách lập luận kết hợp thao tác bình luận với so sánh như vậy có tác
động rất lớn tới nhận thức của con người về tầm quan trọng của tình bạn.
1.1.3.4. Quan hệ với thao tác lập luận bác bỏ
Trong đời sống cũng như trong sách báo,ta có thể bắt gặp những ý kiến
sai lầm, những lời nói, bài viết lệch lạc, thiếu chính xác (trái ngược với thực tế,
với đạo lí, không phù hợp với chân lí…hoặc sử dụng cách lập luận không logic,
phản khoa học,…).Đứng trước những tình huống đó, chúng ta thường trao đổi,
tranh luận, đánh giá để bác bỏ ý kiến sai trái đó. Khi bác bỏ cũng phải có lí lẽ để
giải thích, có sự bàn bạc, đánh giá và đưa ra những dẫn chứng để chỉ rõ những
sai lầm, lệch lạc, thiếu khoa học của một quan điểm, một ý kiến nào đó. Như
vậy, vấn đề đưa ra nghị luận mới sâu sắc, giàu sức thuyết phục.
Ví dụ, Nguyễn Đình Thi đã bác bỏ một ý kiến sai lầm về thơ như sau: “Từ
trước đến nay đã có nhiều định nghĩa về thơ, nhưng lời định nghĩa nào cũng vẫn
không đủ. Có người nghĩ rằng thơ là những lời đẹp. Nhưng đâu phải như vậy. Dưới
ngọn bút của Hồ Xuân Hương, những chữ tầm thường của lời nói hằng ngày nôm na
mách qué đã trở thành những lời thơ được truyền tụng mãi. Và Nguyễn Du không
những để lại câu thơ như “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” mà còn viết:
“Thoắt trông lờn lợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!”
18
Cũng không phải thơ là những đề tài “đẹp”, phong hoa tuyết nguyệt của
các cụ ngày xưa, hoặc những nhớ mong sầu lụy của các chàng và nàng một thời
trước Cách mạng. Nhà thơ Pháp Bô-đơ-le đã làm bài thơ nổi tiếng về cái xác
chó chết đầy dòi bọ, và ở thời chúng ta, cái xe đạp, khẩu ba-dô-ca, cho đến cái
ba lô trên vai chiến sĩ, bong dây thép gai hung ác của đồn giặc,… đều có thể
đem nói trong thơ. Nhà thơ ngày nay không đi tìm cái muôn đời viển vông bên
ngoài cuộc sống thực của con người…”[12, 27]
Trong ví dụ trên, để bác bỏ luận điểm “thơ là những lời đẹp” Nguyễn
Đình Thi đã đưa ra một loạt những lập luận cùng những lời đánh giá, nhận xét
nhằm bác bỏ nhận định đó và đi tới khẳng định thơ còn là những lời lẽ giản dị ,
gần với cuộc sống thực của con người.
Như vậy, dù có vị trí, vai trò khác nhau nhưng các thao tác lập luận vẫn
gắn liền, song hành cùng nhau trong mỗi bài văn nghị luận. Qua đây ta có thể
khẳng định, giữa các thao tác lập luận luôn có sự giao thoa, đan xen lẫn nhau,
đôi khi không thể tách bạch chúng ra được.
Trong chương trình Làm văn truyền thống, người ta thường căn cứ vào
các thao tác lập luận chủ yếu để chia ra các kiểu bài: phân tích, giải thích, bình
luận có nghĩa là gọi theo thao tác chính được sử dụng trong bài nghị luận.
Nhưng trong thực tế, rất hiếm những trường hợp làm văn nghị luận chỉ sử dụng
một thao tác lập luận duy nhất. Bởi vậy, cần phải biết vận dụng kết hợp các thao
tác lập luận. Tuỳ thuộc vào vấn đề, vào đối tượng tiếp nhận mà người viết có thể
lựa chọn một số thao tác nhất định. Ví dụ như với đề bài: Bình luận câu nói của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thì thao tác lập
luận chính ở đây là bình luận, nhưng để lập luận được chặt chẽ, sinh động nhiều
chiều thì cần phải kết hợp với thao tác giải thích, chứng minh.
1.1.4. Lập luận bình luận với tư cách là một bộ phận trong kĩ năng làm văn
nghị luận
1.1.4.1. Khái niệm văn nghị luận
Làm văn thường được bắt đầu bằng lối miêu tả. Gắn với lối văn miêu tả là
lối văn tự sự. Giữa hai lối văn này có mối quan hệ khăng khít với nhau và chúng
có chung một tên gọi là lối văn hình tượng, tức là lối văn nhằm tái hiện con
người và cuộc sống theo một cách nào đó bằng ngôn ngữ, bằng lời văn. Bên
cạnh đó còn có lối viết bộc lộ, giãi bày trực tiếp những tình cảm, suy nghĩ của
người viết trước một sự vật, hiện tượng hay một vấn đề nào đó. Cách viết này
được gọi là lối văn cảm tưởng.

19
Nếu bài văn thiên về trình bày các ý kiến, các lí lẽ được gọi là lối văn nghị
luận. Đây là lối văn bao hàm tất cả các lối văn nêu trên, song chủ yếu nó nhằm
trình bày các ý kiến, các lí lẽ để giải thích, chứng minh, biện luận thuyết phục về
một vấn đề nào đó. Nó nhằm tác động vào trí tuệ, lí trí của người đọc nhiều hơn
vào cảm xúc, tình cảm. Nó là sản phẩm của tư duy logic.
Có thể hiểu một cách đơn giản, văn nghị luận là sự bàn bạc thảo luận để đi
tới khẳng định hay bác bỏ một vấn đề nào đó. Để khẳng định hay bác bỏ thì phải
lập luận, mà muốn lập luận phải có lí lẽ và dẫn chứng. Như vậy, lí lẽ, dẫn chứng
là phương tiện, còn lập luận là phương thức để nghị luận. Văn nghị luận có đề
tài, chủ đề là những vấn đề thuộc phạm vi chính trị, xã hội, hoặc văn học.
“Nói một cách khái quát văn nghị luận là một loại văn trong đó người viết
đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn
luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng với những ý kiến của mình và
hành động theo những điều mà mình đề xuất.”[2, 173]
1.1.4.2. Khái niệm về kĩ năng
Gần đây chúng ta nghe nói rất nhiều về thuật ngữ “kĩ năng” như là kĩ
năng sống, kĩ năng mềm, kĩ năng chuyên môn, trung tâm huấn luyện kĩ năng,…
Các doanh nghiệp khi tuyển dụng cũng đòi hỏi ứng viên phải hội đủ các kĩ năng
cần thiết. Vậy kĩ năng là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt, kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức
trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế.
Trong tâm lí học, kĩ năng được nghiên cứu nhiều, song chưa thống nhất,
có hai hướng quan niệm cơ bản như sau:
Nhóm tác giả thứ nhất coi kĩ năng như một phương thức, cách thức hành
động được con người nắm vững, là khả năng con người thực hiện hành động
một cách có kết quả.
Một số tác giả khác lại chú ý đến mặt kĩ thuật của hành động và đề cao kết
quả cuối cùng của hành động. Nhóm tác giả này cho rằng: Kĩ năng là khả năng
của con người tiến hành một cách có kết quả mục đích hành động đã được tự
giác trong các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
1.1.4.3. Con đường hình thành kĩ năng làm văn nghị luận
Như đã phân tích ở trên, kĩ năng là sự vận dụng tri thức vào hoạt động
thực tiễn để giải quyết một nhiệm vụ nào đó, là năng lực hành động để đạt kết
quả với mục đích đã đề ra. Do đó muốn có kĩ năng trước hết ta phải có tri thức
về lĩnh vực đó và phải trực tiếp thực hiện các thao tác, các hành động và phải

20
luyện tập nhiều lần để đạt kết quả như mong muốn. Trên cơ sở đó, để hình thành
kĩ năng làm văn nghị luận, học sinh cần phải có những hiểu biết nhất định văn
nghị luận cũng như những lí thuyết liên quan. Điều quan trọng hơn là các em phải
trực tiếp thực hiện các thao tác lập luận trong văn nghị luận như: so sánh, phân
tích, bác bỏ, bình luận… một cách thường xuyên theo định hướng của thầy cô.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Về chương trình - sách giáo khoa
Từ khi cải cách giáo dục cho tới nay, môn Ngữ Văn được “lên ngôi” hay
nói cách khác là môn Ngữ Văn được trả về theo đúng nghĩa đích thực của
nó.Theo đó, phân môn Tập làm văn được khẳng định và việc dạy-học Làm văn
cũng được lưu tâm. Cách viết một bài văn nghị luận đã có rất nhiều sáng tạo.
Chính vì vậy, SGK Ngữ văn đã đưa vào dạy các thao tác lập luận thành một nội
dung cụ thể cho nên việc dạy các em sử dụng tốt các thao tác lập luận, đặc biệt
là thao tác lập luận bình luận là vô cùng quan trọng. Đây là dấu hiệu tốt đẹp của
phương pháp lấy học sinh làm chủ thể của quá trình dạy học.
Sau khi tiến hành khảo sát về chương trình SGK Ngữ văn 11 THPT chúng
tôi thu được kết quả như sau:
‫ ٭‬Về chương trình:
Chương trình dùng làm cơ sở đề xuất phương pháp rèn kĩ năng lập luận
bình luận trong bài văn nghị luận của chúng tôi là chương trình Sách giáo khoa
Ngữ văn mới Trung học phổ thông. Trong SGK Ngữ văn 11, thao tác lập luận
bình luận được phân phối 2 tiết với 1 tiết học lí thuyết “Thao tác lập luận bình
luận” và 1 tiết luyện tập “Luyện tập thao tác lập luận bình luận”.
Trong tiết học lí thuyết, các em được học về mục đích, yêu cầu của thao
tác lập luận bình luận và cách bình luận. Trong tiết thực hành, các em được giáo
viên hướng dẫn làm một số bài tập có sử dụng thao tác lập luận bình luận và viết
một số đoạn văn bình luận theo đề tài đã đưa ra trong SGK.
‫ ٭‬Về SGK:
Sách dùng để giảng dạy và tiến hành học tập là cuốn “Ngữ văn 11”. Sách
giáo khoa đã cung cấp cho học sinh những kiến thức lí thuyết trong bài “Thao
tác lập luận bình luận” và hệ thống bài tập thực hành cơ bản trong cả bài học lí
thuyết và bài thực hành “Luyện tập thao tác lập luận bình luận”
Chúng tôi lấy SGK Ngữ Văn 11 làm tài liệu nghiên cứu chính, cũng lấy đó
làm cơ sở để đề xuất những phương pháp rèn luyện kỹ năng lập luận bình luận

21
trong làm văn nghị luận cho học sinh lớp 11 -Trường THPT A Thanh Liêm –
Thanh Liêm.
1.2.2. Thực tiễn dạy và học
Qua quá trình khảo sát thực tiễn, chúng tôi thấy rằng đa phần đội ngũ giáo
viên bộ môn Ngữ Văn của trường THPT A Thanh Liêm đều được đào tạo bài
bản, chính quy, nắm vững những yêu cầu, kiến thức và kĩ năng trong quá trình
giảng dạy bộ môn Ngữ văn, góp phần năng cao chất lượng học tập chung của
các em học sinh trong nhà trường.
Giáo viên dạy Văn của nhà trường đều tâm huyết với nghề, yêu mến bộ
môn và có trách nhiệm trong công tác giảng dạy. Có những giáo viên đã nhiều
năm đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, cấp trường. Đối với mỗi bài
giảng, các thầy cô đều dồn hết công sức, sự nhiệt tình vào bài soạn, nhằm truyền
tải đến các em đầy đủ kiến thức cần thiết và cao hơn là truyền tải đến các em
lòng yêu mến, say mê bộ môn Ngữ văn. Chính vì vậy, có rất nhiều những giờ
dạy tạo được niềm hứng thú đối với các em học sinh, khiến các em tiếp thu bài
một cách có hiệu quả và đạt được thành công nhất định.
Giống như các môn học khác ở nhà trường phổ thông, Làm văn cũng có
những giờ lí thuyết. Nhưng lí thuyết Làm văn không phải là lí thuyết lí luận mà
là lí thuyết thực hành. Dạy Làm văn thực chất là thực hành kĩ năng Làm văn cho
học sinh. Vì vậy GV dạy học bộ môn Làm văn đã sử dụng những phương pháp
có liên quan đến dạy học lí thuyết và thực hành như: phương pháp rèn luyện theo
mẫu, phương pháp thực hành...
Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng, sự linh động sáng tạo trong dạy học để phù
hợp với đối tượng HS trường THPT A Thanh Liêm chưa thực sự rõ ràng, tức là
chỉ áp dụng phương pháp chung của bộ môn vào dạy học như tất cả các trường
khác mà chưa có những phương pháp cụ thể đối với dạy học Làm văn, đặc biệt
là các kĩ năng lập luận. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chưa biết tích hợp
kỹ năng lập luận với một số thao tác như: thao tác lập luận chứng minh, giải
thích, phân tích, bình luận... vào dạy học những bài lí thuyết và thực hành.
Việc rèn luyện kĩ năng lập luận trong văn nghị luận vẫn chưa được quan
tâm một các thỏa đáng, đặc biệt là kĩ năng lập luận bình luận kĩ năng có ở hầu
hết các bài văn nghị luận. GV cũng chưa thực sự chú trọng việc rèn luyện kĩ
năng lập luận bình luận cho HS lớp 11, dạy học kĩ năng lập luận bình luận GV
còn thả lỏng cho HS tự phát huy, chỉ dạy hết trách nhiệm của mình về lí thuyết
cũng như là hướng dẫn trong tiết thực hành. Chính vì vậy, số HS có thể viết bài
văn nghị luận đúng và hay không nhiều.

22
Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy kết quả học tập bộ môn Ngữ văn của các
em học sinh trong nhà trường vẫn chưa được cao. HS vẫn chưa biết cách lập
luận, đặc biệt là việc vận dụng thao tác lập luận bình luận vào bài văn của
mình. Hầu hết, các em làm văn nghị luận chủ yếu dựa theo cảm tính và hứng
thú ngẫu nhiên của bản thân, nhiều em còn có tư tưởng học lệch, học theo khối
thi đại học nên coi thường môn Văn. Điều đó đã dẫn đến kết quả học tập bộ
môn Làm văn của các em HS trong nhà trường là không cao. Khi được hỏi
ngẫu nhiên rằng các em có thích học Làm văn không, cụ thể là văn nghị luận
thì kết quả thu được như sau:
Số học sinh Thích Không thích Bình thường

83 17 28 38

100% 20.5 33.7 45.8

Kết quả cho thấy, số lượng các em yêu thích học văn nghị luận chiếm số
lượng không nhiều. Gần một nửa số học sinh điều tra (45.8%) không thích học
văn nghị luận. Khi được hỏi lí do vì sao không thích kiểu bài này thì hầu hết các
em đều trả lời vì kiểu bài này khó và các em chưa hiểu rõ về kiểu bài này. Ngoài
ra do một số em chất lượng học tập bộ môn Ngữ Văn còn yếu, các em không có
sự cảm nhận tinh tế về văn nên các em không thích bộ môn Ngữ văn nói chung
và kiểu bài văn nghị luận nói riêng.
Để nắm rõ hơn về thực trạng học môn Ngữ Văn của HS, đặc biệt là kĩ năng
lập luận bình luận trong văn nghị luận, chúng tôi tiến hành ra đề, yêu cầu HS làm
bài và thu lại chấm điểm, kết quả như sau:

Kết quả Giỏi Khá Trung bình Yếu

Số Số Số Số
Số lượng % % % %
lượng lượng lượng lượng

11A1
1 2.2 24 53.3 16 35.6 4 8.9
45 HS

11A7
3 7.1 26 62 10 23.8 3 7.1
42HS

23
Nhìn chung, các em đã biết lập luận bình luận trong bài văn của mình.
Tuy nhiên các em còn mắc một số lỗi thường gặp như: lập luận còn thiếu chặt
chẽ, sự bình luận còn gượng gạo, khó thuyết phục, cũng có khi các em đưa ra ý
kiến đánh giá, nhận xét chưa thật sát với đối tượng nghị luận. Bên cạnh đó, HS
chưa biết vận dụng kết hợp thao tác lập luận bình luận với các thao tác khác để
bài văn thêm sâu, thêm thuyết phục. Bởi vậy, chất lượng viết bài văn nghị luận
còn chưa cao. Số lượng các em viết một bài văn đúng và hay còn ít, thậm chí có
một số em viết chưa đúng.
Thực tế trên cho thấy: HS lớp 11 trường THPT A Thanh Liêm đang rất
cần được rèn luyện kĩ năng lập luận, nhất là kĩ năng lập luận bình luận. Phương
pháp rèn luyện mà chúng tôi đề xuất trong luận văn này sẽ đóng góp phần nào
cho việc rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận cho các em.

Tiểu kết
Bất kì giải pháp dạy học nào được đưa ra cũng đều xuất phát từ cơ sở lí
luận và cơ sở thực tiễn của quá trình dạy học. Chính vì vậy, để có được những
giải pháp thiết thực nhằm rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận cho HS lớp 11
trường THPT A Thanh Liêm, ở chương này chúng tôi tìm hiểu cơ sở lí luận
cũng như cơ sở thực tiễn của quá trình dạy và học Làm văn của thầy trò trường
THPT A Thanh Liêm . Những hiểu biết nhất định về các thao tác lập luận trong
văn nghị luận, thao tác lập luận bình luận cũng như thực tế chương trình SGK
Ngữ Văn lớp 11, thực trạng lập luận bình luận trong văn nghị luận của HS lớp
11 trường THPT A Thanh Liêm là những tiền đề đầu tiên để chúng tôi có thể
đưa ra những giải pháp nhằm rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận cho HS khi
làm văn nghị luận.

24
CHƯƠNG 2
TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN BÌNH LUẬN
TRONG BÀI LÀM VĂN NGHỊ LUẬN

2.1. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP
LUẬN BÌNH LUẬN TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
2.1.1. Cần căn cứ vào nội dung chương trình SGK để lựa chọn nội dung
cũng như cách thức, biện pháp cụ thể
Trong chương trình SGK Ngữ văn 11 bộ cơ bản có 3 bài liên quan mật
thiết và chặt chẽ với việc rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận:
+ Thao tác lập luận bình luận
+ Luyện tập thao tác lập luận bình luận.
+ Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận.
Đối với những bài học trên, SGK đã đưa ra những kiến thức lí thuyết cần
thiết (Bài học - ghi nhớ) và hệ thống những bài tập rèn luyện kĩ năng lập luận
bình luận, hướng dẫn từ yêu cầu đến những cách bình luận đúng đắn.
Trên cơ sở đó, chúng tôi có thể triển khai thêm một số dạng bài tập để rèn
luyện kĩ năng lập luận bình luận cho học sinh.
Bên cạnh đó, việc rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận có thể triển khai và
tiến hành trong các giờ học lí thuyết và thực hành.Ở những tiết học này, học sinh
được giới thiệu và luyện tập về thao tác lập luận bình luận, chủ yếu là kĩ năng
viết đoạn văn, bài văn nghị luận. Đặc biệt, tiết học Luyện tập thao tác lập luận
bình luận sẽ triển khai các nội dung luyện tập nhằm vận dụng thao tác lập luận
bình luận trong kĩ năng nói, hình thức thảo luận nhóm, tổ. Đây là một hình thức
phát biểu, trao đổi miệng, nhằm bày tỏ quan điểm của mỗi cá nhân trước những
vấn đề đặt ra trong học tập, sinh hoạt và trong cuộc sống. Và những vấn đề mà
SGK đưa ra để học sinh trao đổi, thảo luận bao gồm cả vấn đề nghị luận xã hội
và nghị luận văn học.
Ngoài ra, việc rèn kĩ năng bình luận còn có thể triển khai và tiến hành
trong các giờ trả bài dựa trên cơ sở những bài viết về văn nghị luận của học sinh.
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh rèn kĩ năng bình luận thông qua những ý
kiến sai lầm trong bài làm cụ thể, từ đó vừa mài sắc tư duy, vừa chấn chỉnh lại
cách diễn đạt cho học sinh.

25
2.1.2. Căn cứ vào những yêu cầu cần đạt để định ra những tiêu chí nội dung
của bài tập rèn luyện
Văn bản viết hay lời nói (văn miệng) của học sinh là một sản phẩm mang
tính chất thực hành tổng hợp. Để có một văn bản hoàn chỉnh cần đáp ứng những
yêu cầu sau:
+ Phải đúng hướng;
+ Phải đúng trật tự;
+ Phải mạch lạc;
+ Phải trong sáng.
Trong đó:
- Đúng hướng hay không đúng hướng phụ thuộc vào việc xác định vấn đề,
ở thao tác lập luận bình luận là việc xác định hiện tượng, vấn đề cần bình luận
và quan điểm cá nhân của người viết về hiện tượng, vấn đề đó.
- Mạch lạc, trong sáng phụ thuộc vào khâu sử dụng từ ngữ, ngữ pháp,
khâu lập luận và việc liên kết văn bản, cụ thể ở thao tác lập luận bình luận là
việc xác định cách thức bình luận sao cho phù hợp và chính xác.
- Trật tự hay không trật tự, phong phú hay không phong phú phụ thuộc
vào khâu lập dàn ý, sắp xếp các ý.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi định hướng các dạng bài tập chính để rèn
luyện kĩ năng lập luận bình luận như sau:
- Dạng bài tập nhận diện.
- Dạng bài tập luyện tập vận dụng.
- Dạng bài tập chữa lỗi.
2.1.3. Tuân thủ nguyên tắc bộ môn: lí thuyết thực hành
* Làm văn là môn học thực hành của các giờ ngôn ngữ và văn học.
Khi làm một bài văn, học sinh phải vận dụng tổng hợp những kiến thức về
văn học, về ngôn ngữ và những hiểu biết về đời sống, về thế giới xung quanh
mình, đồng thời học sinh phải huy động năng lực suy nghĩ, tìm tòi những kiến
thức, giải quyết sáng tạo một vấn đề cụ thể. Bên cạnh đó, học sinh còn phải biết
vận dụng những kĩ năng như lập luận, dùng từ, đặt câu,…để diễn đạt nội dung
đó dưới hình thức trong sáng, sinh động và hấp dẫn. Những kiến thức về văn

26
học, tiếng Việt, và những kĩ năng viết đó đều được giảng dạy trên lớp qua các
tiết đọc văn, từ ngữ, ngữ pháp văn bản.
Kết quả học tập môn Làm văn của học sinh thể hiện khá đầy đủ trình độ
Ngữ văn của học sinh và là thước đo chính xác kết quả giảng dạy của giáo viên.
* Về phương pháp giảng dạy, bộ môn phải nhấn mạnh nguyên tắc thực hành
“Thừa nhận nguyên tắc thực hành của môn Tập làm văn đã được nhất trí
dễ dàng về mặt lí thuyết: khâu làm văn được coi là khâu hoàn thiện quá trình
học giảng văn, văn học sử, lí luận văn học và Tiếng Việt. Nó hoàn thiện vì qua
Làm văn, học sinh được bổ sung và tự bổ sung những hiểu biết về văn học đã
thu nhận được trong các phân môn. Cũng qua Làm văn, vốn “kiến thức chết” sẽ
trở thành “kiến thức sống”. Hiểu biết tản mạn, được có khi “hỗn loạn” được
phạm trù hóa, được chuyển hóa về chất. Ai cũng thừa nhận qua làm văn học sinh
không chỉ thử thách về vốn kiến thức hay hiểu biết lí thuyết về làm văn mà còn
phải huy động một cách tổng lực nhiều yếu tố về vốn sống, về văn hóa, về tư
duy,tình cảm…”(Một số giải pháp nhằm nâng cao tính thực hành trong Làm
văn nghị luận ở THCS, Luận văn thạc sĩ KHGD, Lê Ngọc Bảy, Huế - 2001)
Ở nguyên tắc này, giáo viên phải có ý thức tổ chức giờ học, phân bố thời
gian hợp lí, cân đối gữa hai phần lí thuyết và luyện tập, kích thích và tạo điều
kiện để học sinh làm việc nhiều hơn, tự mình chiếm lĩnh kiến thức, tự mình rèn
luyện kĩ năng.
2.1.4. Rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận phải đảm bảo quy trình
Để rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận cần phải đảm bảo các quy trình sau:
Quy trình đi từ lí thuyết đến thực hành bao gồm: Lí thuyết chung - Rèn
luyện kĩ năng bộ phận - Hoàn thành văn bản - Chấm, trả bài - Ôn tập.
Quy trình sản sinh văn bản: Định hướng - Lập đề cương - Triển khai đề
cương thành văn bản - Đánh giá - Kiểm tra văn bản.
Quy trình hệ thống hóa kiến thức, giảng kiến thức mới và luyện tập thực hành.
Thao tác lập luận bình luận là một thao tác tương đố khó so với các thao
tác lập luận khác, bởi lẽ khi sử dụng thao tác này học sinh phải có khả năng tư
duy nhất định. Chính vì vậy, việc rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận sẽ trởi
nên khó hăn và vất vả hơn. Điều đó đòi hỏi người giáo viên trước khi cho học
sinh tiến hành luyện tập cần phải xác lập một quy trình và mô hình rèn luyện
thích hợp với đối tượng học sinh.

27
* Xét về quy trình lập luận bình luận: Khi rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận
phải tiến hành theo quy trình nhất định.
Thứ nhất, phải đi từ những ví dụ, ngữ liệu cụ thể để giúp học sinh hình
thành những khái niệm, những vấn đề lí thuyết cơ bản.
Thứ hai, tiến hành luyện tập các bài tập theo cấp độ từ dễ đến khó.
Thứ ba, báo các kết quả luyện tập bằng chính bài viết của học sinh.
* Xét về mô hình rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận: rèn luyện kĩ năng lập
luận bình luận nên tiến hành theo mô hình sau:
- Xác định hiện tượng (vấn đề) cần bình luận.
- Nêu ra và bảo vệ quan điểm của riêng mình theo một trong ba cách:
Đứng hẳn về một phía, ủng hộ phía mình cho là đúng và bác bỏ phía mình chắc
chắn là sai; kết hợp những phần đúng và loại bỏ phần còn hạn chế của mỗi phía,
để đi tới một sự đánh giá mà mình tin là thật sự công bằng, hợp lí; đưa ra một
cách đánh giá của riêng mình, sau khi đã phân tích các quan điểm, ý kiến khác
nhau về đề tài cần bình luận.
- Đưa ra hành động, thái độ, cách giải quyết cần có trước hiện tượng vừa
được nhận xét, đánh giá.
2.2. TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LẬP LUẬN BÌNH LUẬN CHO
HỌC SINH TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
Việc rèn kĩ năng lập luận bình luận cho học sinh có thể tích hợp với giờ đọc
văn. Tuy nhiên, nó được tiến hành chủ yếu và trực tiếp trong các giờ Làm văn.
2.2.1. Rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ học lí thuyết làm văn
2.2.1.1. Mục đích
Như bất kì bộ môn nào trong nhà trường phổ thông, Làm văn cũng có
những giờ lí thuyết. Nhưng lí thuyết của Làm văn không phải lí thuyết lí luận (lí
thuyết thuần túy) mà cơ bản là lí thuyết thực hành. Vì vậy, trong Làm văn,
chúng ta không thể coi nhẹ lí thuyết. Hơn nữa, ở Làm văn, thực hành nằm ngay
trong lí thuyết, lí thuyết là cơ sở dẫn đường cho thực hành. Nếu lơ mơ về lí
thuyết sẽ dẫn học sinh đến chỗ mất phương hướng làm bài, không định được
kiểu bài và từ đó sẽ viết nên những bài văn nặng về kinh nghiệm, bài nào cũng
giống bài nào, chung chung, tẻ nhạt, thiếu hẳn sự sáng tạo cá nhân. Lí thuyết
không phải mục đích cuối cùng của Làm văn nhưng đó lại là cơ sở để rèn luyện
kĩ năng làm văn, cái đích cuối cùng của việc rèn luyện. Điều này cho thấy sự

28
cần thiết của việc học lí thuyết làm văn cũng như việc rèn luyện kĩ năng làm văn
ngay trong giờ học lí thuyết.
Rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ học lí thuyết nhằm củng cố sâu
sắc những kiến thức về khái niệm, yêu cầu và cách thức bình luận. Đồng thời
biết vận dụng lí thuyết vào thực hành, giải quyết những bài tập luyện tập. Chính
vì vậy mà dạy học lí thuyết phải lồng nghép với thực hành. Đối với bài thao tác
lập luận bình luận có thể tiến hành theo hai cách: cách thứ nhất đi từ giảng lí
thuyết đến minh họa bằng văn bản mẫu (ngữ liệu), sau đó yêu cầu học sinh lấy
ví dụ minh họa về thao tác lập luận bình luận. Cách thứ hai đi từ ngữ liệu, sau đó
học sinh tự mình rút ra kết luận và hình thành khái niệm.
Trong hai cách hình thành khái niệm và kiến thức lí thuyết cơ bản trên thì
cách đưa ngữ liệu để rồi học sinh tự hình thành khái niệm là cách thức được giáo
viên thường xuyên tiến hành ở các lớp học đầu cấp. Tuy nhiên, việc lựa chọn
ngữ liệu phải được chọn lọc kĩ lưỡng, phải đảm bảo tính chuẩn mực, thẩm mĩ
cũng như có khả năng kích thích tư duy học sinh, để từ đó hình thành kiến thức
lí thuyết đúng và chuẩn mực.
Khi tiến hành lồng ghép giữa lí thuyết và thực hành chúng ta có thể sử
dụng hai phương pháp là diễn dịch và quy nạp. Diễn dịch và quy nạp đều là
những thao tác tư duy lôgic quen thuộc và không quá khó trong cách tiếp nhận
của học sinh. Nếu diễn dịch đi từ một nguyên lí chung suy ra những hệ luận,
những đoán định cụ thể, đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể;
thì quy nạp là quá trình suy nghĩ, vận động, tự xem xét những những bộ phận,
đối tượng riêng lẻ để tìm mối liên hệ bản chất giữa chúng với nhau, từ đó nâng
lên thành nhận định khái quát và những đặc điểm tính chất chung của chúng.
Mỗi phương pháp có những ưu điểm và hạn chế riêng đòi hỏi người giáo viên
phải thực sự linh hoạt, chủ động trong quả trình sử dụng chúng. Ngoài ra còn có
thể sử dụng kiểu trình bày tổng - phân - hợp, đây là cách thức tổng hợp đi từ
những vấn đề cụ thể và cuối cùng là khái quát nâng cao và mở rộng vấn đề.
Có thể nói với mục đích rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận là lồng ghép
giữa lí thuyết và thực hành đã góp phần không nhỏ vào sự thành công của một
giờ học rèn luyện thao tác lập luận bình luận cho học sinh lớp 11 ở THPT.
2.2.1.2. Nội dung
Trong giờ lí thuyết, để rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận thành công và
hiệu quả, giáo viên nên sử dụng hệ thống bài tập nhận diện về mục đích, yêu cầu
và cách thức bình luận. Có hai nội dung quan trọng trong giờ học lí thuyết là
kiến thức lí thuyết đơn thuần và vận dụng các kiến thức lí thuyết để làm bài
29
tập.Với nội dung này, đòi hỏi người dạy phải tổ chức dạy bài lí thuyết theo một
quy trình khoa học, hợp lí để học sinh có thể nắm được tri thức một cách cụ thể.
Muốn vậy, theo chúng tôi giáo viên phải trình bày một cách cụ thể thao tác lập
luận bình luận tức là phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Bên cạnh việc hình thành khái niệm cho học sinh, giáo viên phải chỉ rõ
vai trò, mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bình luận trong quá trình tạo lập
văn bản. Cụ thể là giáo viên phải chỉ ra được đặc điểm cơ bản của thao tác lập
luận trong ngữ liệu. Nêu rõ mối quan hệ giữa thao tác lập luận bình luận với các
thao tác lập luận khác trong quá trình triển khai nội dung nghị luận.
- Như đã nói ở chương I, thao tác lập luận bình luận là một thao tác của tư
duy lôgic, vì vậy việc thực hiện nó phải tuân theo những yêu cầu hoặc theo trình
tự của quá trình duy. Điều này, thể hiện ở việc giáo viên trình bày nội hợp lí,
lôgic, đảm bảo tính khoa học.
- Khi dạy về thao tác lập luận bình luận, GV phải chỉ rõ cách thức thực
hiện thao tác này để học sinh có cơ sở và biết cách vận dụng vào thực hành.
- Để thực hiện việc dạy thao tác lập luận bình luận hay bất kì một thao tác
nào khác thì yêu cầu trước hết phải bám sát vào ngữ liệu cụ thể được đưa ra
trong SGK. Từ việc xem xét, nghiên cứu các ngữ liệu để thấy được mục đích,
yêu cầu của thao tác lập luận bình luận. Từ đó hình thành khái niệm về thao tác
lập luận bình luận cho học sinh. Đồng thời, thông qua việc tìm hiểu ngữ liệu ta
có thể chỉ ra được cách thức tiến hành, cách thức trình bày trong quá trình triển
khai nội dung nghị luận.
2.2.1.3. Phương pháp
Để rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận cho học sinh trong giờ học lí
thuyết Làm văn trước hết, giáo viên cung cấp thông tin, đưa ngữ liệu, tổ chức
cho học sinh quan sát, tìm hiểu ngữ liệu bằng hệ thống câu hỏi khoa học, chính
xác. Từ đó học sinh nhận biết được thao tác lập luận bình luận và nhận biết được
cách thức bình luận thông qua ngữ liệu đó.
Ví dụ:
+ Giáo viên đưa ra ngữ liệu: Giáo viên đưa ra một bức tranh cho học sinh
quan sát, yêu cầu học sinh đánh giá, nhận xét về bức tranh đó. Đồng thời, giáo
viên yêu cầu học sinh nhận xét về việc thực hiện nội quy quy định trường lớp
của học sinh hiện nay.
+ Học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên khái quát, định hướng: những lời
nhận xét, đánh giá về bức tranh, về việc thực hiện nội quy quy định của học sinh

30
hiện nay (đối tượng) chính là bình luận. Vậy em hiểu thế nào là bình luận? Từ đây
giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra được khái niệm bình luận, thao tác bình luận.
+ Sau khi đã hình thành được khái niệm, giáo viên tiếp tục đưa ra ngữ liệu
là đoạn trích Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ (Ngữ văn 11, tập 1) và tổ
chức cho học sinh trả lời các câu hỏi mục I.2 SGK/71. Từ việc phân tích ngữ
liệu và định hướng của giáo viên học sinh nắm được mục đích cũng như yêu cầu
của bình luận là gì và rút ra được kết luận thứ nhất trong mục ghi nhớ. Ở đây,
giáo viên nên cho học sinh so sánh với chứng minh và giải thích để các em thấy
được bản chất của bình luận là đánh giá và bàn bạc chứ không phải là làm cho
người đọc (người nghe) hiểu rõ như giải thích hay tin là đúng là có thật như
chứng minh.
+ Tiếp đó, để học sinh nắm được các bước thực hiện thao tác lập luận
bình luận, giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngữ liệu là văn bản bài
luyện tập 2 SGK trang 73. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích xem người
viết đã nêu vấn đề bình luận như thế nào, nhận xét về cách nêu đó; bố cục của
văn bản? Tác giả đã bình luận về nguyên nhân và hậu quả của tai nạn giao thông
như thế nào và kết luận, mở rộng ra sao về vấn đề đó? Qua đây, học sinh rút ra
được kết luận thứ hai trong phần ghi nhớ.
+ Cuối cùng, học sinh luyện tập thông qua những bài tập trong SGK để
củng cố thêm cho các em về cách thực hiện thao tác lập luận bình luận trong văn
nghị luận và bước đầu áp dụng thao tác này vào việc thực hành viết một đoạn
văn, bài văn nghị luận.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thời gian dạy học có hạn, chỉ có 45 phút cho
một tiết dạy, giáo viên vừa phải cung cấp ngữ liệu, vừa phải hình thành kĩ năng
bình luận, lại vừa phải tổ chức cho học sinh luyện tập. Với ngần ấy công việc,
khó có thể đảm bảo lượng thời gian quy định. Chúng tôi thiết nghĩ, giáo viên
nên tận dụng tối đa các ngữ liệu có trong SGK, bằng SGK hoặc bằng bảng phụ,
hoặc bằng máy chiếu để tiết kiệm thời gian, làm cho học sinh có thể tiện theo
dõi. Khi dạy đến cách bình luận, hướng dẫn học sinh hình thành cách bình luận
khái quát nhất theo các bước, cuối cùng giáo viên dùng bảng phụ hay máy chiếu
đưa ra sơ đồ, học sinh có thể nhìn vào đó làm bài tập mà không ảnh hưởng đến
thời gian của giờ học.
Phần luyện tập vận dụng, ngoài bài tập trong SGK, giáo viên có thể tham
khảo kiến thức tích hợp trong sách bài tập hay cho học sinh làm một số bài tập
về thao tác lập luận bình luận. Như vậy, học sinh sẽ được củng cố thêm lí thuyết
và sẽ vận dụng tốt lí thuyết vào thực hành.

31
2.2.2. Rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ thực hành làm văn
2.2.2.1. Mục đích
Như trên đã phân tích, mục tiêu cao nhất của giờ học lí thuyết là cung cấp
những kiến thức lí thuyết cơ bản thì mục tiêu của giờ học thực hành là biến
những kiến thức trừu tượng kia thành những sự trải nghiệm thực tế. Học sinh
biết vận dụng những kiến thức lí thuyết đã học vào giải quyết những vấn đề bài
tập sinh động và đa dạng.
Rèn kĩ năng lập luận bình luận hay bất cứ kĩ năng của thao tác lập luận
nào cũng không thể tách rời mục tiêu là giúp học sinh tạo lập được một văn bản
hoàn chỉnh từ những kiến thức lí thuyết đã học. Kĩ năng tạo lập văn bản có cả kĩ
năng tạo lập văn bản nói và kĩ năng tạo lập văn bản viết, mà bản chất của lập
luận bình luận là đánh giá và bàn bạc thì kĩ năng tạo lập văn bản nói lại càng trở
nên quan trọng. Khi nói cần phải đạt đến trình độ nói đúng và nói hay. Nói đúng
là nói chính xác vấn đề cần bàn bạc, trao đổi. Nói hay là nói đúng nhưng cao
hơn nữa là thuyết phục được lòng người đọc khiến họ tin và hành động theo
mình. Trong thời đại ngày nay rất cần kĩ năng và năng lực nói tốt để có thể đưa
ra những quan điểm, ý kiến của mình góp phần giải quyết các vấn đề trong xã
hội. Tuy nhiên, rèn kĩ năng viết trong lập luận bình luận cũng rất quan trọng bởi
văn nghị luận là loại văn phổ biến trong chương trình Ngữ văn THPT. Những
vấn đề của xã hội và văn học luôn được đặt ra và trong đó có rất nhiều những ý
kiến, quan điểm khác nhau thậm trí là trái ngược nhau. Điều đó đòi hỏi học sinh
phải có kĩ năng viết thành thạo để đưa ra được những nhận xét, đánh giá, bàn
bạc của mình, chỉ ra những quan điểm sai trái, bảo vệ điều đúng đắn. Đó là một
năng lực thể hiện tư duy ngôn ngữ của học sinh, không những giúp các em hoàn
thiện kĩ năng thực hành mà còn mài sắc tư duy, giúp các em trưởng thành về mặt
nhân cách và nâng cao về mặt trí tuệ. Với những mục tiêu cơ bản và quan trọng
như vậy thì giờ thực hành có hai hoạt động nối tiếp nhau là rèn kĩ năng nói và
rèn kĩ năng viết trong lập luận bình luận.
2.2.2.2.Nội dung
Trong giờ thực hành, nội dung của giờ thực hành chủ yếu là luyện nói và
luyện viết đoạn văn có sử dụng lập luận bình luận. Bên cạnh đó còn có hệ thống
các bài tập thực hành để rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
2.2.2.3. Phương pháp
- Luyện kĩ năng nói cho học sinh trong giờ thực hành thao tác lập luận
bình luận.

32
Trong chương trình Ngữ văn nói chung, Ngữ văn 11 nói riêng, ngoài mục
luyện tập chiếm một nửa thời lượng mỗi tiết làm văn, còn khá nhiều số giờ thực
hành luyện tập riêng, đặc biệt là số giờ luyện nói. Giờ học này rất quan trọng.
Bởi vì nó không chỉ củng cố lý thuyết mà còn góp phần rèn luyện kĩ năng, hình
thành kĩ xảo. Để giờ luyện nói thực sự có hiệu quả, tránh cho các em cảm giác
nhàm chán, đơn điệu, tẻ nhạt, người giáo viên cần ý thức được tầm quan trọng
của tiết học. Giáo viên cần chuẩn bị, xây dựng kế hoạch giảng dạy thật kĩ lưỡng,
tạo được những tình huống sư phạm để phát huy hiệu quả đào tạo học sinh về
nhiều mặt.
Hình thức luyện nói cho học sinh qua giờ thực hành về thao tác lập luận
bình luận chủ yếu thông qua những tình huống giao tiếp cụ thể. Thông thường,
một giờ thực hành làm văn với mục tiêu rèn kĩ năng nói được thể hiện dưới hình
thức thảo luận nhóm. Đây là một hình thức phát biểu, trao đổi miệng nhằm bày
tỏ quan điểm của mỗi cá nhân trước những vấn đề đặt ra trong học tập, sinh hoạt
và cuộc sống. Trong thảo luận, phát biểu miệng, trước một vấn đề đặt ra
thường có nhiều ý kiến, quan điểm không đồng nhất, thậm chí trái ngược
nhau. Do vậy mà thông qua tranh luận, bàn bạc, đánh giá sẽ đi đến quan điểm
thống nhất. Với thao tác lập luận bình luận, có thể tiến hành rèn luyện kĩ năng
nói theo các bước sau:
+ Ra đề: GV nên ra đề ngay sau tiết học Thao tác lập luận bình luận để
HS có thời gian chuẩn bị. Trong khâu này GV cần lưu ý: không nên ra những đề
bài không phù hợp với lứa tuổi học sinh. Đề văn nên yêu cầu các em bình luận
về một hiện tượng (vấn đề) đang tồn tại ở nhà trường hoặc đang được giới trẻ
trong xã hội quan tâm. Đề bài phải có ý nghĩa giáo dục về cái thật, cái đẹp và cái
tốt. Nên cho HS được bình luận về những hiện tượng (vấn đề) có nhiều ý kiến
khác nhau trong thực tế.
+ Phân tích đề, lập dàn ý, chọn luận điểm trình bày: HS phải hoàn thành
công việc này trước khi tới lớp. Cụ thể là: phải xác định được hiện tượng (vấn
đề) cần bình luận, cho một đối tượng người nghe (người đọc) như thế nào, và
bình luận nhằm đạt được mục đích gì; phác ra được dàn ý đại cương của bài
bình luận; chọn được từ dàn ý đó một luận điểm mà mình sẽ xây dựng một lập
luận để bình luận, xác định các luận cứ và cách tổ chức luận cứ trong lập luận
bình luận đó, hình dung được mình sẽ trình bày lập luận đó bằng ngôn ngữ, dáng
điệu, cử chỉ như thế nào.
+ Giáo viên giới thiệu sơ lược về hình thức thực hành là thảo luận nhóm
và việc vận dụng lập luận bình luận khi phân tích, làm sáng tỏ vấn đề thảo luận.

33
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh triển khai những vấn đề thảo luận, định
hướng học sinh đánh giá, nhận xét vấn đề, bảo vệ quan điểm của mình trong vấn
đề thảo luận. Các nhóm bàn bạc, có thể tranh cãi để đi đến chỗ thống nhất ý kiến
của nhóm mình về các vấn đề cần thảo luận.
+ Tổ chức cho học sinh phát biểu ý kiến của mình, giáo viên để học sinh
được thoải mái, dân chủ trong quá trình nói, kích thích những suy nghĩ độc lập,
không áp đặt hay gạt phăng những ý kiến trái chiều. Có thể mời đại diện của một
vài nhóm trình bày ý kiến của nhóm mình trước lớp hoặc chỉ định cụ thể một số
học sinh đại diện cho các trình độ khá, trung bình,yếu lên trình bày trước lớp.
+ Giáo viên đề nghị học sinh nhận xét, góp ý cho các bạn trình bày về các
mặt: nội dung ý kiến, cách thức lập luận, ngôn ngữ, cử chỉ, tác phong.
+ Giáo viên tổng kết, nhận xét và đánh giá khả năng luyện tập vận dụng
của học sinh, đưa một số tình huống tiếp theo để hoc sinh thảo luận ở nhà hoặc
ngoài giờ học.
Ví dụ, giáo viên tiến hành rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong tiết
Thực hành thao tác lập luận bình luận với vấn đề “Lời ăn tiếng nói của một học
sinh văn minh, thanh lịch”. Có thể tiến hành theo các bước như sau:
+ Ra đề và nhắc học sinh chuẩn bị trước ở nhà. Đề bài là bài tập 1 SGK/81
+ Giáo viên nhắc học sinh về hình thức thảo luận nhóm, giáo viên tiến hành
chia nhóm, nhóm tự cử trưởng nhóm và hoạt động độc lập với các nhóm khác.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh triển khai vấn đề thảo luận “Lời ăn tiếng
nói của một học sinh văn minh, thanh lịch”. Giáo viên định hướng thời gian thảo
luận, nội dung thảo luận và đặc biệt định hướng học sinh suy nghĩ về vấn đề
thảo luận: bình luận về toàn bộ các vấn đề của đề bài hay một khía cạch của đề
bài (chống nói tục; “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”; biết nói lời “cảm ơn”,
“xin lỗi” của một học sinh văn minh, thanh lịch…).
+ Giáo viên tổ chức cho học sinh tự thể hiện ý kiến, quan điểm của mình,
chỉ ra những tốt, xấu, phải trái, đúng sai, hay dở của vấn đề. Quan điểm, đánh
giá, nhận xét của bản thân và ý nghĩa sâu rộng mà vấn đề gợi ra.
+ Giáo viên tổ chức cho học sinh tự đánh giá về những bài phát biểu theo
hình thức đánh giá chéo nhóm. Nếu có những vấn đề trái chiều giữa các nhóm
thì giáo viên tiếp tục tổ chức tranh luận để đi đến thống nhất vấn đề.
+ Giáo viên khái quát, định hướng lại nội dung thảo luận; nhận xét và cho
điểm các nhóm. Với đề bài trên cần phải đảm bảo các ý sau:

34
(1)Biểu hiện trong lời ăn tiếng nói của học sinh văn minh, thanh lịch:
• Nói năng lịch sự, lễ phép, nói có đầu có đuôi.
• Biết nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ.
• Biết nói lời xin lỗi khi làm việc sai trái.
• Không nói tục, chửi thề....
(Dẫn chứng cụ thể)
-> Đó là những biểu hiện thể hiện nếp sống văn hóa, lịch sự trong giao tiếp; tạo
niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống.
(2) Những thói hư, tật xấu trong lời ăn tiếng nói của học sinh hiện nay:
• Nói tục, chửi thề.
• Nói không đầu, không đuôi, không có sự lễ phép.
• Không biết nói lời xin lỗi và lời cảm ơn.
• Nói nhưng không tôn trọng người nghe....
(Dẫn chứng cụ thể)
-> Phê phán, lên án những lời nói thiếu văn hóa, thiếu văn minh, lịch sự.
(3) Rèn luyện thói quen trong giao tiếp, ăn nói phải lịch sự, có văn hóa, biết tôn
trọng người nghe, biết lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Các nhóm có thể trình bày toàn bộ các vấn đề trên hoặc chọn một luận
điểm để trình bày.
-Luyện kĩ năng viết cho học sinh trong giờ thực hành thao tác lập luận
bình luận:
Bên cạnh kĩ năng nói thì kĩ năng viết cũng là một trong những kĩ năng
quan trọng trong làm văn. Kĩ năng viết được bộc lộ rõ nét nhất qua mỗi bài viết
của học sinh trong những giờ kiểm tra trên lớp, hay những bài tập giáo viên giao
cho các em làm ở nhà. Việc rèn kĩ năng viết cho học sinh là một công việc đòi
hỏi người giáo viên phải tốn nhiều công sức và thời gian. Khi rèn kĩ năng viết
giáo viên phải chú ý đến đề tài, vấn đề vừa sức, có ý nghĩa thiết thực đối với học
sinh, phát huy được tính sáng tạo, tư duy độc lập và phải phù hợp với quỹ thời
gian của học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên phải thu bài, chấm trả bài chính xác,
kịp thời, biết động viên những bài có chất lượng tốt, và giải quyết những vấn đề
tồn đọng trong mỗi bài viết của học sinh.

35
Song song với việc rèn kĩ năng viết cho học sinh thông qua những bài trên
lớp hay ở nhà thì giáo viên cũng nên tổ chức cho học sinh quan sát, tìm hiểu
cuộc sống xung quanh sau đó viết bài thu hoạch. Bài thu hoạch là cách gián tiếp
kiểm tra năng lực sử dụng lập luận bình luận dưới hình thức ngoại khóa.
Tuy vậy, có thể nhanh chóng thấy được kết quả vận dụng của học sinh thì
người giáo viên cần biết tổ chức luyện tập ngay trong những giờ thực hành
trên lớp. Giáo viên có thể đánh giá năng lực của học sinh thông qua những
bài thực hành nhỏ như viết một đoạn văn có sử dụng thao tác lập luận bình
luận với đề tài giáo viên cho sẵn hoặc học sinh tự lựa chọn. Đây là cấp độ
luyện tập đơn giản và cơ bản so với việc thực hành luyện tập viết một bài văn
hoàn chỉnh. Hơn nữa, trong một bài làm văn nghị luận của học sinh không
phải chỉ có vận dụng duy nhất một thao tác lập luận bình luận mà là sự kết
hợp, vận dụng nhiều thao tác khác nhau. Do đó, việc rèn kĩ năng viết tối ưu
của thao tác lập luận bình luận là viết một đoạn văn ngắn để bày tỏ quan
điểm, ý kiến của mình về vấn đề đặt ra. Giáo viên có thể tiến hành tổ chức rèn
luyện kĩ năng viết theo các bước sau đây:
+ Giáo viên nêu vấn đề nghị luận, đưa đề bài, có thể là vấn đề xã hội hoặc
vấn đề văn học.
+ Giáo viên nêu nhiệm vụ thực hành và tổ chức cho học sinh luyện tập, học
sinh có thể luyện tập theo hình thức nhóm hoặc theo hình thức cá nhân độc lập.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh báo cáo kết quả bằng văn bản, tổ chức cho
học sinh so sánh kết quả bài làm và đáp án.
+ Giáo viên chọn một bài tiêu biểu để chữa mẫu, rút kinh nghiệm bài làm
cho cả lớp.
*Lưu ý
Để có hiệu qủa thực sự trong giờ luyện làm văn, giáo viên cần đối chiếu
yêu cầu thực hành của bài học theo những vấn đề lí thuyết của nó, quan tâm tới
phạm vi kiến thức sẽ được học sinh huy động vào làm bài, tạo được nhu cầu thể
hiện, cần bộc lộ ở học sinh cũng như sự lắng nghe, sự quan tâm của giáo viên
với những gì học sinh sẽ thể hiện trong bài viết của mình.
Trong nghị luận xã hội, thao tác lập luận bình luận vô cùng cần thiết. Bởi
đáp án của một bài văn nghị luận xã hội thông thường luôn có phần đánh giá,
bàn bạc về những thói quen, cách sống, quan điểm đúng, sai, những biểu hiện
đẹp hay xấu…để giáo dục, khuyên răn con người. Khi dùng thao tác lập luận
bình luận người viết cần tỏ thái độ khách quan, trung thực.

36
Khi bình luận một vấn đề cần xem xét vấn đề đó ở nhiều phương diện, khía
cạnh khác nhau, cần đặt bản thân mình vào trường hợp, tình huống đó để có cảm
nhận đầy đủ và bình luận vấn đề. Để thuyết phục người đọc, khi bình luận một
vấn đề nào đó, người viết cần đưa ra lí do chính đáng, lí lẽ thuyết phục, dẫn
chứng cụ thể, đồng thời phải đưa ra một đề xuất, một lời nhận xét, đánh giá hợp
lí, đúng đắn.
2.2.2.4. Hệ thống bài tập thực hành
Khi tổ chức dạy học Làm văn, một yếu tố không thể thiếu được là hệ
thống bài tập. Có thể nói, bài tập chính là công cụ, là phương tiện để giáo viên
thực hiện những ý đồ rèn luyện các kĩ năng cho học sinh. Trong thực hành Làm
văn, hệ thống bài tập còn là cơ sở, là những tài liệu thiết thực cho học sinh trong
quá trình tạo lập các văn bản khác. Vì vậy, thực hành phải được thực hiện ngay
sau giờ học lí thuyết, trước giờ viết bài.
Thông thường, để tổ chức nội dung thực hành, giáo viên cần căn cứ từ
những vấn đề lí thuyết để làm cơ sở định hướng cho hoạt động thực hành được
triển khai thông qua hệ thống bài tập cụ thể. Theo chúng tôi, để tổ chức rèn
luyện kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh về thao tác lập luận bình luận, nên
sử dụng một số kiểu bài tập sau:
- Bài tập nhận diện thao tác lập luận bình luận
- Bài tập luyện tập vận dụng thao tác lập luận bình luận
- Bài tập chữa lỗi thao tác lập luận bình luận
a. Cách thức tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập nhận diện thao tác lập luận
bình luận
Mẫu bài tập nhận diện là mẫu bài tập đơn giản nhất trong hệ thống bài tập
rèn luyện kĩ năng. Bài tập nhận diện không đòi hỏi tư duy cao và yêu cầu của
mẫu bài tập này thường là ngắn gọn, súc tích, rõ ràng và khoa học. Ở đây, bài
tập nhận diện giúp học sinh nhận biết về những kiến thức lí thuyết của lập luận
bình luận như mục đích, yêu cầu và cách thức bình luận. Bên cạnh đó, loại bài
tập này cũng giúp học sinh nhận biết những đoạn văn, những bài làm văn nghị
luận có sử dụng thao tác lập luận bình luận. Và thông qua những mẫu đã được
tiếp xúc, học sinh dễ dàng tái hiện kiến thức lí thuyết về lập luận bình luận, đồng
thời học sinh cũng định hình được cách thức bình luận để vận dụng vào việc viết
các đoạn văn, bài văn có sử dụng thao tác lập luận bình luận.

37
Bài tập nhận diện thường có các mẫu sau đây:
-Tái hiện kiến thức lí thuyết.
-Trả lời nhanh các câu hỏi trắc nghiệm.
-Nhận diện kiến thức thông qua việc tìm hiểu một đoạn văn.
Để giúp học sinh nhận diện kiến thức một cách dễ dàng và nhanh chóng,
giáo viên nên thiết kế hệ thống câu hỏi bài tập hợp lí, dùng hệ thống bài tập trắc
nghiệm và tự luận ở mức độ phù hợp sẽ kích thích khả năng nhận diện và tái
hiện kiến thức một cách hiệu quả ở học sinh.
Trước hết, giáo viên nên đưa ra mẫu bài tập tái hiện kiến thức lí thuyết và
bài tập trắc nghiệm để học sinh luyện tập. Ví dụ như 2 bài tập sau:
Bài tập 1: Hãy nhắc lại những yêu cầu, mục đích và cách thức của thao tác lập
luận bình luận?
Với dạng bài tập này yêu cầu học sinh phải nắm bắt, tái hiện các kiến thức
lí thuyết về thao tác lập luận bình luận đã được học từ trước. Đặc biệt, học sinh
nhận biết cách lập luận bình luận để phục vụ cho việc giải quyết những bài tập
luyện tập sau này.
Bài tập 2: Đáp án nào sau đây được coi là chính xác nhất khi nói về mục đích
của lập luận bình luận:
A. Nhằm thuyết phục người đọc, người nghe tán đồng với ý kiến của mình.
B. Khẳng định cái đúng, sai, tốt, xấu, lợi, hại của vấn đề
C. Khen ngợi cổ vũ cái tốt; phê phán cái dở cái sai...
D. Tất cả các ý kiến trên
Đây là dạng bài tập trắc nghiệm nhanh, dạng bài tập này giúp học sinh định
hình trong tư duy về mục đích của lập luận bình luận và phương hướng bình
luận đúng đắn, tránh rơi và ngụy biện.
Với hai mẫu bài tập trên, giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài,
xác định chính xác yêu cầu của đề bài, học sinh có thể hoàn thành nhanh bài tập.
Đối với mẫu bài tập nhận diện kiến thức thông qua việc tìm hiểu một đoạn
văn phức tạp hơn. Kiểu bài tập này thường gồm hai phần: cung cấp ngữ liệu và
phần trình bày yêu cầu. Ngữ liệu có thể là một đoạn văn nghị luận hoặc cũng có
thể là cả một bài văn nghị luận. Sau phần trình bày ngữ liệu là phần nêu yêu cầu
bài tập. Phần nêu yêu cầu thường được thể hiện bằng cách diễn đạt như: xác
định đoạn văn sử dụng thao tác lập luận nào? Xác định các bước thực hiện thao
tác đó trong đoạn văn (bài văn)? Ví dụ, cho đoạn văn sau:

38
“Người ta thường chia thời gian mỗi ngày thành ba phần: tám giờ làm
việc, tám giờ ngủ và tám giờ nhàn rỗi, mặc dù không phải ai cũng có được tỉ lệ
đều đặn như thế. Hai tiếng “nhàn rỗi” gây cho ta ấn tượng tám giờ không làm
gì, có vẻ vô thưởng vô phạt, không quan trọng.
Kì thực thời gian nhàn rỗi là cực kì quý báu. Đó là thời gian để mọi người
sống cuộc sống của riêng mình. Đó là thời gian để đọc sách báo, tự học, xem ti
vi, chơi thể thao, đàn hát, múa nhảy, vẽ tranh, làm thơ, đi mua sắm, giao lưu với
bạn bè, thăm viếng người ruột thịt… Thời gian nhàn rỗi làm cho người ta giàu
có hơn về trí tuệ, tăng cường thêm về sức khỏe, phát triển thêm về năng khiếu,
cá tính,phong phú thêm về tinh thần, quan hệ. Thiếu thời gian nhàn rỗi, đời sống
con người sẽ nghèo nàn, thậm chí là không có cuộc sống riêng nữa!
Đánh giá đời sống mỗi người cao hay thấp hãy nhìn vào thời gian nhàn
rỗi của họ. Có người làm việc “đầu tắt mặt tối” không có lấy chút nhàn rỗi.Có
người phung phí thời gian ấy vào các cuộc nhậu nhẹt triền miên. Có người biết
dùng thời gian ấy để phát triển chính mình. Phải làm sao để mỗi người có thời
gian nhàn rỗi và biết sử dụng hữu ích thời gian ấy là một vấn đề lớn của xã hội
có văn hóa.
Đánh giá đời sống một xã hội cũng phải xem xã hội ấy đã tạo điều kiện
cho con người sống với thời gian nhàn rỗi như thế nào. Công viên,bảo tàng, thư
viện, nhà hát, nhà hàng, câu lạc bộ, sân vận động, điểm vui chơi… là những cái
không thể thiếu. Xã hội càng phát triển thì các phương tiện ấy càng nhiều, càng
đa dạng và hiện đại.
Xã hội ta đang chăm lo các phương tiện ấy, nhưng vẫn còn chậm, còn sơ
sài, chưa có sự quan tâm đúng mức, nhất là ở các vùng nông thôn.
Thời gian nhàn rỗi chính là thời gian của văn hóa và phát triển. Mọi
ngươi và toàn xã hội hãy chăm lo thời gian nhàn rỗi của mỗi người”.[14,91]
Em hãy xác định đoạn văn trên sử dụng thao tác lập luận nào? Nêu các
bước thực hiện thao tác bình luận trong đoạn văn?
Để thực hiện kiểu bài tập này, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh thực hiện
theo những bước sau:
+ Cho học sinh đọc kĩ nội dung ngữ liệu.
+ Xác định mục đích bình luận của văn bản (tìm vấn đề cần bình luận).
+ Tìm hiểu bố cục của văn bản (các bước thực hiện).
+ Rút ra kết luận, nhận xét về đặc điểm, giá trị của luận điểm được bình luận.

39
+ Thông thường sau khi cho học sinh trình bày các vấn đề được đưa ra
trong ngữ liệu thì giáo viên cũng phải yêu cầu các em chốt lại các vấn đề trình
bày trước đó. Từ đây các em có thể rút ra xem đoạn văn đa sử dụng thao tác lập
luận nào?
Đây chính là cơ sở để học sinh hiểu thấu đáo cách bình luận.
Muốn giờ luyện tập được tiến hành thuận lợi và đạt kết quả tốt, giáo viên
hướng dẫn học sinh thực hiện theo trình tự sau:
+ Yêu cầu học sinh nhắc lại khái niệm bình luận, mục đích, yêu cầu của
thao tác lập luận bình luận, cách thực hiện thao tác lập luận bình luận trong một
ngữ liệu cụ thể.
+ Vận dụng những tri thức đó vào việc phân tích các ngữ liệu trong bài tập.
+ Đánh giá tác dụng của thao tác lập luận bình luận trong việc làm sáng tỏ
luận điểm của ngữ liệu.
Như vậy, để học sinh nhận diện được thao tác lập luận bình luận, người ta
phải căn cứ vào những đặc điểm cơ bản, căn cứ vào cách thực hiện của thao tác
đó. Chính vì thế, việc nhận diện thao tác lập luận bình luận là quá trình phân tích
ngữ liệu.
Ví dụ, trong đoạn văn trên cần xác định:
+ Mục đích bình luận: thể hiện và làm sáng tỏ luận điểm “Ý nghĩa của
thời gian nhàn rỗi”.
+ Để thể hiện quan điểm của mình về ý nghĩa của thời gian nhàn rỗi,
trước hết tác giả khẳng định “thời gian nhàn rỗi là cực kì quý báu”, là “thước đo
để đánh giá mức sống của mỗi người”, “đánh giá đời sống của xã hội”. Bên
cạnh đó tác giả còn mở rộng vấn đề bằng cách đưa ra hiện trạng sự chăm lo của
xã hội đối với thời gian nhàn rỗi của mỗi người. Cuối cùng khẳng định thời gian
nhàn rỗi là “thời gian của văn hóa và phát triển”. Nhiệm vụ của mọi người và
toàn xã hội là phải chăm lo thời gian nhàn rỗi của mỗi người.
Như vậy, để nhận diện thao tác lập luận bình luận, giáo viên phải xuất
phát từ các tri thức cơ bản về thao tác lập luận này để từ đó định hướng cho học
sinh tiến hành hoạt động nhận diện.
Kiểu bài tập này thường được thực hiện sau khi giáo viên dạy xong phần
lí thuyết hoặc là trong quá trình nhắc lại nội dung lí thuyết của tiết luyện tập.
Chính vì vậy khi thực hiện giờ dạy, giáo viên nên đặt kiểu bài tập này bên cạnh
nội dung lí thuyết.

40
b. Cách tổ chức học sinh thực hiện bài tập luyện tập vận dụng thao tác lập luận
bình luận.
Trong quá trình tổ chức thực hành, bên cạnh kiểu bài tập củng cố những
vấn đề lí thuyết thì giáo viên phải sử dụng kiểu bài tập cho học sinh vận dụng
những tri thức của thao tác này vào quá trình tạo lập văn bản. Đây là kiểu bài tập
giúp giáo viên có thể đánh giá được khả năng tiếp thu kiến thức và khả năng vận
dụng những tri thức đó vào việc làm sáng tỏ luận điểm của đối tượng. Mặt khác,
khi cho học sinh thực hiện kiểu bài tập này có nghĩa là đã rèn cho các em kĩ
năng sử dụng thao tác đó để triển khai nội dung nghị luận. Kiểu bài tập này giúp
các em không bị lúng túng khi trình bày những suy nghĩ, nhận thức của mình về
một sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Trong thực tế giảng dạy, giáo viên ít
cho học sinh rèn luyện kiểu bài tập này vì nó gây mất thời gian, không đảm bảo
giờ học. Việc rèn luyện này thường được giao về nhà nhưng lại thiếu sự hướng
dẫn, kiểm tra của giáo viên. Vì vậy mà nhiều học sinh vần không biết cách viết
văn. Cho nên, ở dạng bài tập này nên cho học sinh viết một đoạn văn ngắn tại
lớp, giao luận điểm sẵn để các em dễ triển khai.
Bài tập kiểu này thường được triển khai thành hai phần: Phần yêu cầu và
phần nêu nội dung.
Ví dụ 1: Bàn về một hiện tượng (vấn đề) đang được xã hội quan tâm (như: vệ
sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai…)
Ví dụ 2: Bàn về tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao qua truyện
ngắn Chí Phèo.
Ví dụ 3: Bình luận ý thơ sau:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Để giúp học sinh thực hiện kiểu bài này thì giáo viên phải xác định rõ cho
học sinh về thao tác cần thực hiện. Đồng thời, giáo viên phải xác định rõ cho
học sinh về nội dung tri thức, các vấn đề cơ bản về thao tác lập luận bình luận.
Mục đích và cách thức thực hiện chung trong quá trình khai thác và trình bày
nội dung văn bản nghị luận. Đây là nền tảng để học sinh triển khai nội dung bài
viết. Bên cạnh những yêu cầu cần thiết cho bài tập này, giáo viên cần chú ý cách
thức thực hiện bài tập này. Theo chúng tôi, để học sinh tiến hành làm bài tập
một cách thuận lợi, giáo viên nên thực hiện theo các bước sau:
+ Xác định nội dung bài tập. Ví dụ như đối với ví dụ 3 ở trên, nội dung
cần thực hiện là bình luận hai câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Hai

41
câu thơ đã nói lên bi kịch của người phụ nữ ngày xưa: đau khổ, bạc mệnh. Ý thơ
mạng tính chất khái quát rất cao, biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của
Nguyễn Du qua Truyện Kiều.
+ Xác định yêu cầu thực hiện. Trong ví dụ 3, yêu cầu học sinh phải dùng
thao tác lập luận bình luận để viết. Học sinh phải đưa ra được những nhận xét,
đánh giá, lời bàn về ý thơ đó. Câu thơ đó nói đúng hay sai, hay hay dở? Nó được
thể hiện như thế nào trong cuộc đời Kiều và những người phụ nữ khác trong
Truyện Kiều? Có sự liên hệ, mở rộng, so sánh với xã hội ngày nay.
+ Hướng dẫn học sinh lập dàn ý bằng cách xây dựng những ý chính cần
trình bày theo nội dung bài tập. Việc làm này nhằm mục đích cho học sinh tìm
hiểu luận điểm cỏ bản cần bình luận, xác định các ý và tìm dẫn chứng làm nổi
bật luận điểm. Chẳng hạn, để học sinh lập dàn ý cho đề bài ở ví dụ 3, giáo viên
cần gợi ý cho học sinh xác định các nội dung trong dàn bài như sau:
(1)Giải thích
• Phận là thân phận, số phận. Theo quan niệm cũ số phận con người là do
một thế lực huyền bí, thiêng liêng định đoạt.
• Bạc mệnh là số phận, số mệnh tiền định, mỏng manh, đen tối, trải qua
nhiều đau thương bất hạnh.
(2)Bình
• Hai câu thơ đã nói lên bi kịch của người phụ nữ ngày xưa: đau khổ,
bạc mệnh.
• Nguyễn Du đã phản ánh một sự thật đau lòng trong xã hội phong kiến
suy tàn, thối nát.
• Ý thơ mạng tính chất khái quát rất cao, biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân
đạo của Nguyễn Du qua Truyện Kiều: đồng cảm với những nỗi đau đớn của
người phụ nữ bạc mệnh; lên án, tố cáo những thế lực bạo tàn đã chà đạp lên
quyền sống, hạnh phúc của con người.
(3)Luận: Liên hệ với phụ nữ trong xã hội hiện nay.
+ Sau khi cho học sinh lập dàn ý,giáo viên dành thời gian để cho học sinh
viết thành đoạn văn (bài văn) tương ứng với yêu cầu đã cho.
+ Dành thời gian cho học sinh trình bày nội dung mà các em đã chuẩn bị.

42
+ Cuối cùng, giáo viên đánh giá lại việc sử dụng thao tác lập luận bình
luận trong quá trình tạo lập văn bản của học sinh. Điều chỉnh những chỗ chưa
phù hợp hoặc bổ sung những chỗ còn thiếu trong bài làm văn của các em.
Vậy để có thể thực hiện được kiểu bài tập này, yêu cầu cần thiết là phải
tăng thời gian thực hành. Mặt khác, giáo viên phải căn cứ vào thời gian thực
hành để lựa chọn cách ra những bài tập phù hợp với thời gian để không làm
chậm tiến trình học tập.
c. Cách tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập chữa lỗi thao tác lập luận bình luận
Kiểu bài này vô cùng cần thiết. Nó giống như khâu cuối cùng trong bài
tập thực hành. Bên cạnh những kiểu bài cho học sinh vận dụng tri thức đã học
vào tạo lập văn bản thì một trong những việc cần thiết là phải sửa chữa những
sai sót trong khi thực hiện thao tác lập luận bình luận khi viết bài của học sinh.
Dù có làm bất kì một kiểu bài tập nào thì khâu cuối cùng của việc hướng dẫn
thực hành cũng là việc điều chỉnh, bổ sung, sửa chữa những chỗ học sinh chưa
thực hiện đúng, chưa làm được hay làm chưa chính xác. Vì vậy, có thể nói sửa
lỗi sai cũng là nột trong những mặt quan trọng của hoạt động thực hành. Công
việc sửa lỗi sai cũng là một hình thức để giáo viên củng cố thêm kiến thức phần
lí thuyết cho học sinh. Mặt khác, thông qua khâu chữa lỗi giáo viên còn thực
hiện được mục đích rèn luyện kĩ năng và trình độ sử dụng thao tác lập luận bình
luận của học sinh trong quá trình tạo lập văn bản.
Khi sử dụng thao tác lập luận, học sinh thường mắc lỗi nên việc chữa lỗi
thường lấy từ chính bài làm của các em. Các lỗi này thường là do các em không
hiểu đúng về thao tác lập luận, hoặc không sử dụng đúng chỗ hoặc không diễn
đạt chặt chẽ. Tuy nhiên, khi sửa lỗi cho các em, cần chú ý đến cách phân tích,
nhận xét lỗi sai. Việc làm này cần được thực hiện một cách khéo léo, nhẹ nhàng
để từ đó HS nhận ra lỗi sai, biết cách sửa lỗi trong bài làm của mình. Cần tránh
phê phấn, chê bai quá mức khiến các em mất tự tin.
Trong quá trình sửa lỗi sai, giáo viên cần chú ý đến một số vấn đề sau:
+ Dựa vào lí luận của hệ thống tri thức về thao tác lập luận bình luận đã
được trang bị trong giờ học lí thuyết để phân tích lỗi sai (cần chú ý đến việc sử
dụng ngôn ngữ, trình bày luận điểm, hệ thống dẫn chứng và cách tiến hành thao
tác lập luận trong bài văn, đoạn văn để chỉ ra chỗ chưa đúng hoặc chỗ chưa phù
hợp với ngữ liệu).
+ Cần phân biệt lối hành văn và lỗi sử dụng sai hoặc sủ dụng chưa phù hợp
thao tác lập luận bình luận trong quá trình triển khai nội dung văn bản nghị luận.

43
+ Xác định nguyên nhân mắc lỗi (do chưa xác định đúng mục đích nghị
luận hặc chưa biết cách sử dụng thao tác lập luận bình luận).
+ Sửa lỗi sai, điều chỉnh hoặc sửa lại cho đúng hơn, phù hợp hơn.
Để có thể chỉ ra lỗi sai trong ngữ liệu cụ thể, giáo viên nên thực hiện theo
những trình tự sau:
+ Xác định nội dung cụ thể cần nghị luận
+ Phân tích các luận điểm cơ bản cần thực hiện khi triển khai nội dung đó.
+ Sử dụng thao tác lập luận bình luận trong quá trình tạo lập văn bản.
+ Tìm trong ngữ liệu những chỗ không đúng với trình tự hoặc sắp xếp
không phù hợp với mục đích triển khai.
+ Phân tích các lỗi bằng cách chỉ ra các biểu hiện của chúng.
+ Sửa lại các lỗi đó cho phù hợp với nội dung và mục đích sử dụng của
thao tác lập luận bình luận để làm nổi rõ nội dung vấn đề.
+ Đánh giá việc sửa lỗi của học sinh nhằm giúp các em hiểu rõ hơn về
cách thức sử dụng thao tác lập luận bình luận trong quá trình triển khai nội dung
nghị luận và giúp các em tránh mắc những lỗi đó trong quá trình tạo lập văn bản
nghị luận.
Có thể nói rằng, sử dụng hệ thống bài tập để rèn luyện kĩ năng lập luận
bình luận cho học sinh là một phương pháp khoa học và hiệu quả. Trên đây là hệ
thống bài tập cơ bản, giáo viên có thể vận dụng những bài tập này vào luyện tập
và rèn luyện kĩ năng bình luận cho học sinh. Tuy nhiên giáo viên có thể sử dụng
những bài tập khác cùng dạng và áp dụng theo quy trình rèn luyện như trên cũng
đều mang lại hiệu quả nhất định.
2.2.3. Rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ trả bài
2.2.3.1.Mục đích
Từ trước tới nay, đa số những giờ trả bài làm văn không được giáo viên
coi trọng đúng mức, thậm chí còn có trường hợp bỏ qua hoặc cắt xén thời gian
của giờ trả bài để dành cho những bài học khác. Chính vì thế giờ trả bài chỉ đơn
thuần là một giờ giáo viên thông báo điểm bài viết cho học sinh. Nên chăng cần
phải nhìn nhận sâu sắc hơn vai trò của giờ trả bài và tác dụng của giờ trả bài
trong việc rèn luyện kĩ năng viết văn nói chung và rèn kĩ năng lập luận bình luận
nói riêng.

44
Mục tiêu của giờ trả bài làm văn là để giúp học sinh “xem lại” bài làm của
mình, đồng thời củng cố lại cho học sinh những kiến thức và kĩ năng làm bài,
khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào trong bài viết. Hơn nữa, giờ trả
bài cũng tạo điều kiện về thời gian cho giáo viên giúp học sinh nhận ra được
những mặt ưu - khuyết điểm của bài làm và của bản thân học sinh trong quá
trình làm bài, từ đó rút ra được những kinh nghiệm quý giá phục vụ cho việc
làm văn ở những bài tiếp theo đạt được kết quả tốt nhất.
Với mục tiêu cơ bản như vậy thì việc rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận
hay bất cứ thao tác lập luận nào cũng đều rất hữu ích và hiệu quả. Tuy nhiện,
việc rèn kĩ năng lập luận bình luận trong giờ trả bài sẽ có điểm khác so với
những giờ lí thuyết và thực hành ở trên. Trước hết, vấn đề nghị luận đã có sẵn và
học sinh không hề cảm thấy xa lạ vì thể sẽ dễ gây cảm giác nhàm chán trong
luyện tập. Tiếp theo, khi tổ chức luyện tập thao tác lập luận bình luận trong giờ
trả bài thì hình thức tối ưu là thảo luận nhóm, phát biểu miệng, tranh luận trực
tiếp về vấn đề đặt ra trong chính bài làm của học sinh.
2.2.3.2. Nội dung
Giờ trả bài là một giờ luyện tập lí tưởng cho việc rèn luyện kĩ năng. Bởi
lẽ, mẫu bài tập thực hành đã được sử dụng trong giờ viết văn, đến giờ trả bài
giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu lại đề bài và kĩ năng thực hành tương
ứng. Nội dung luyện tập chủ yếu trong giờ trả bài là rèn luyện kĩ năng lập dàn ý
và tạo lập văn bản, đặc biệt là tạo lập đoạn văn bản.
2.2.3.3. Phương pháp
Đối với giờ trả bài thì thời gian dành cho việc luyện tập là không nhiều,
thông thường là 1/2 thời gian của tiết học (khoảng 20 phút). Chính vì vậy, để góp
phần giúp học sinh rèn luyện tốt kĩ năng lập luận bình luận, tôi cho rằng giáo viên
trong giờ trả bài làm văn nên tiến hành giờ dạy - học theo tiến trình sau:
+ Giáo viên chọn một số bài viết của học sinh có sử dụng thao tác lập luận
bình luận trong bài viết, yêu cầu học sinh đọc trước lớp.
+ Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu và nhận xét theo hình thức thảo
luận, phát biểu miệng: lập luận bình luận trong bài viết được sử dụng trong đoạn
văn nào? Có đảm bảo được tính chất đánh giá, bàn bạc của một bài bình luận hay
không? Bài viết có đưa ra được quan điểm của mình chưa (đứng hẳn về một phía,
ủng hộ phía mình cho là đúng và bác bỏ phía mình chắc chắn là sai; kết hợp những
phần đúng và loại bỏ phần còn hạn chế để đi đến đánh giá công bằng, hợp lí; đưa ra
cách đánh giá của riêng mình)? Lập luận có chặt chẽ, thuyết phục không?

45
+Giáo viên nhận xét chữa lỗi trong bài viết, đồng thời nhận xét và chữa
lỗi chung trong các bài viết của học sinh.
+ Để củng cố thêm về kĩ năng lập luận bình luận, giáo viên ra đề định
hướng cho học sinh làm bài.
Ví dụ: Viết đoạn văn có sử dụng thao tác lập luận bình luận thể hiện
quan điểm của mình về ý kiến “Một điều nhịn, chín điều lành là thể hiện cho
sự hèn nhát”.
Đối với đề bài trên, giáo viên tiến hành các bước luyện tập cơ bản để từ
đó củng cố và rèn luyện cho học sinh kĩ năng lập luận bình luận phù hợp.
+ Giáo viên cho học sinh tiến hành xác định nội dung cần bình luận chính
là ý kiến được nêu ra trong đề bài.
+ Hướng dẫn học sinh xác định cách thức bình luận phù hợp (ở đề bài trên
nên đưa ra quan điểm là bác bỏ ý kiến đó vì ý kiến đó chưa đúng).
+ Giáo viên cho học sinh tiến hành luyện tập theo hình thức thảo luận
nhóm. Hình thức thảo luận này sẽ tiết kiệm thời gian và quan trọng hơn là tất cả
học sinh đều được tham gia luyện tập.
+ Kiểm tra kết quả luyện tập (học sinh báo cáo kết quả luyện tập bằng văn bản).
+ Giáo viên nhận xét, định hướng học sinh qua những bài viết có chất
lượng tốt. Trước hết, cần phải khẳng định ý kiến trên là không phù hợp với thực
tế. “Một điều nhịn, chín điều lành”, ý cả câu khuyên con người ta nên bình tĩnh,
biết bình tĩnh, tránh nóng nảy để giữ hòa khí. Ở đây, ta cần hiểu nhịn không phải
là thua kém, hèn nhát mà nhường nhịn, im lặng, lùi một bước, nhịn khi người
khác không đủ bình tĩnh, tỉnh táo. Trong cuộc sống, chỉ có kẻ tiểu nhân mới
không biết nhường nhịn, hay so đo, chấp vặt. Nhưng nhịn không có nghĩa là nhu
nhược, hèn nhát. Lịch sử đất nước ta hàng ngàn năm Bắc thuộc, bị thực dân
Pháp, đế quốc Mĩ xâm chiếm, đô hộ, nếu chúng ta không nuốt nhục mà nhịn thì
làm sao có được ngày hôm nay?
Giờ trả bài là giờ học được xây dựng từ sự lao động trực tiếp và vốn liếng
nhiều mặt của học sinh. Điều cốt yếu là qua giờ trả bài, các em nhận ra mặt
mạnh, mặt yếu của mình, để có hướng phát huy hay khắc phục. Giáo viên có thể
dành thì giờ giải đáp thắc mắc của học sinh về dàn ý, các lỗi, kể cả số điểm
trong bài viết của mình. Có như thế mới phát huy được vai trò của một tiết thực
hành. Muốn đạt được điều đó thì quy trình chấm, trả bài là quy trình tỉ mỉ, công
phu, gắn liền với tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, tình thương yêu
của giáo viên đối với học sinh.

46
Tiểu kết
Trên đây chúng tôi đã giới thiệu cách thức tổ chức rèn luyện kĩ năng lập
luận bình luận và nêu một số nội dung liên quan đến việc triển khai hoạt động
luyện tập về thao tác này trong chương trình Ngữ văn 11. Cần phải tiến hành rèn
luyện kĩ năng lập luận bình luận cho học sinh ngay cả trong giờ học lí thuyết và
đặc biệt là trong giờ thực hành Làm văn. Học sinh nắm vững lí thuyết, làm thành
thạo các bài tập trong SGK và các bài tập thầy cô giao thêm là cách hình
thành kĩ năng bình luận tốt nhất cho các em. Bên cạch đó, giáo viên cũng cần
định hướng cho các em về thao tác lập luận bình luận trong các giờ học văn
bản, nhất là các văn bản có sử dụng thao tác lập luận bình luận. Và chương
trình thực nghiệm sau đây sẽ cố gắng triển khai những đề xuất thông qua bài
học cụ thể trong tiến trình dạy học Làm văn để kiểm tra khả năng và hiệu quả
của những đề xuất.

47
Chương 3
THỰC NGHIỆM

3.1. MÔ TẢ THỰC NGHIỆM


3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Một vấn đề nghiên cứu khoa học chỉ được xem là có giá trị khi nó nhằm
phục vụ cho thực tế cuộc sống, xã hội. Vì vậy khi đưa ra ý tưởng khoa học trong
luận văn này, chúng tôi xuất phát từ thực tiễn dạy học Làm văn với mong muốn
có những đóng góp vào việc dạy học trong nhà trường phổ thông nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc rèn luyện thao tác lập luận bình
luận trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung
nhằm hoàn thiện tiến trình hướng dẫn, tổ chức các hoạt động dạy, học.
Để kiểm nghiệm, chứng minh tính khả thi của khóa luận, kịp thời phát
hiện và điều chỉnh những vấn đề còn bất cập, quy trình thực nghiệm dười đây đã
dựa trên cơ sở về nội dung và hình thức dạy học phù hợp.
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm
Chất lượng ban đầu của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng là tương đương
nhau. Lớp thực nghiệm làm theo hướng dẫn của khóa luận này, lớp đối chứng
dạy bình thường theo các tài liệu hiện hành.
Giáo viên dạy thực nghiệm ở đây là những giáo viên trẻ, trình độ chuyên
môn trung bình khá chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy. Chúng tôi chọn giáo
viên thực nghiệm như vậy nhằm triệt để thực nghiệm theo phương pháp mới để
thu được kết quả thực nghiệm không bị sai lệch.
3.1.3. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
Để khảo sát cho luận văn này, chúng tôi chọn 2 lớp khối 11 ở trường
THPT A Thanh Liêm. Qua đó chúng tôi có điều kiện kiểm nghiệm, so sánh, đối
chiếu và rút ra kết quả cụ thể cho luận văn. Cụ thể, chúng tôi sẽ tiến hành thực
nghiệm các đối tượng sau:
+ Lớp 11A1
+ Lớp 11A7
- Số lượng: 87 HS
Về địa bàn thực nghiệm: chúng tôi tổ chức quá trình thực nghiệm ở tỉnh Hà
Nam. Đây là một tỉnh đồng bằng thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng. Địa bàn

48
chúng tôi thực nghiệm là một trường của huyện Thanh Liêm. Nơi đây cư dân
tương đối đồng đều nhưng mức độ nhận thức của học sinh vẫn có sự chênh lệch.
3.1.4. Về kế hoạch thực nghiệm
Thời gian thực nghiệm được tiến hành ngay trong năm học 2012 – 2013
theo phân phối chương trình (của Bộ giáo dục và đào tạo).
Chúng tôi tập trung đánh giá thực nghiệm cho đối tượng lớp 11 ở 2 tiết:
-Tiết 99: Thao tác lập luận bình luận
-Tiết 101: Luyện tập thao tác lập luận bình luận
Để đảm bảo quy chế chuyên môn và tiến độ chương trình, các giờ thực
nghiệm đúng nội dung và chương trình học do Bộ giáo dục và đào tạo quy định.
Chúng tôi quan sát, dự giờ và tổ chức thực nghiệm.
Trong quá trình tổ chức thực nghiệm, chúng tôi xác định những nội dung
cần hoàn thành trong quá trình thực nghiệm gồm:
- Bài thực nghiệm: 02
- Số tiết thực nghiệm: 02
- Số học sinh tham gia: 87
- Số bài kiểm tra: 01
- GV dạy thực nghiệm: 01
3.2. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Căn cứ vào nội dung của khóa luận, chúng tôi thiết kế bài thao tác lập
luận bình luận trong chương trình Ngữ văn lớp 11 gồm 2 tiết:
- Thao tác lập luận bình luận
- Luyện tập thao tác lập luận bình luận
Để phục vụ cho khóa luận và tuân theo hướng biên soạn của SGK, chúng
tôi đã thiết kế giáo án theo hướng tích cực nhằm rèn luyện kĩ năng lập luận bình
luận trong làm văn nghị luận cho học sinh.
3.3. CÁCH THỨC DẠY THỰC NGHIỆM
Trong khóa luận, chúng tôi có đề xuất việc rèn kĩ năng lập luận bình luận
trong làm văn nghị luận. Đây là một thao tác mới và khó đối với học sinh lớp 11
THPT, hơn nữa chúng tôi cũng có mục đích là rèn luyện trên cả kĩ năng nói và
kĩ năng viết. Vì vậy, chúng tôi đã tận dụng toàn bộ những bài học về lập luận
bình luận để rèn kĩ năng cho học sinh, trong đó có một bài về lí thuyết, một bài
thực hành.

49
Tuy nhiên, khi tiến hành bất kì một thực nghiệm nào cũng cần có nội
dung. Nội dung của chúng tôi chính là giáo án tổ chức các hoạt động dạy học và
bài tập cụ thể trong bài : Thao tác lập luận bình luận.
Sau khi giáo án đã hoàn thành, chúng tôi chuyển tới giáo viên dạy thực
nghiệm giúp GV nắm vững vấn đề, tiến trình giờ dạy và đảm bảo các yêu cầu
khi đánh giá. Mặt khác chúng tôi tiến hành gặp gỡ, trao đổi ý kiến với GV về
chính bài học được thực nghiệm đó hoặc chiều hướng ra các bài tập luyện tập
cho vừa dễ hiểu, vừa dễ làm với HS, vừa dễ hướng dẫn với GV nhưng vẫn rèn
luyện được kĩ năng lập luận bình luận trong văn nghị luận. Kèm theo giáo án
thực nghiệm là phiếu trắc nghiệm để đánh giá nhận thức của HS sau giờ học. Để
đánh giá được khách quan, chúng tôi đi dự giờ cùng một số GV nữa để đánh giá
nội dung bài dạy.
Ngoài các lớp thực nghiệm, chúng tôi còn chọn lớp đối chứng. Giáo viên
dạy lớp thực nghiệm và lớp đối chứng làm việc độc lập với nhau.
Sau giờ dạy, chúng tôi trao đổi ý kiến với GV, nghe đóng góp ý kiến,
đồng thời nắm tình hình để đánh giá kết quả thực nghiệm.
Đồng thời chúng tôi tiến hành ra đề, HS làm bài và GV chấm, thống kê,
phân tích kết quả.
3.4. KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Trong quá trình kiểm tra đánh giá kết quả thực nghiệm cần có sự khách
quan, nghiêm túc, chuẩn xác trong bài thực nghiệm, vì thế cho nên chúng tôi đã
xác định một số tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá thực nghiệm như sau:
3.4.1. Các tiêu chí đánh giá
Căn cứ vào tiêu chuẩn trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS và
các tiêu chuẩn định tính, định lượng của các thực nghiệm sư phạm, chúng tôi
xây dựng các tiêu chí đánh giá gồm:
3.4.1.1. Về định tính
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra khả năng nhận thức của HS về kĩ
năng lập luận bình luận trong văn nghị luận.
- Đánh giá trình độ nhận biết cách thực hiện kĩ năng đó trong các văn bản
cụ thể.
- Thông qua các tri thức đã học, đánh giá mức độ vận dụng những tri thức
đã học vào quá trình tạo lập văn bản.

50
3.4.1.2. Về định lượng
- Mức độ lí thuyết mà HS nắm được trong bài.
- Kĩ năng nhận biết và vận dụng các tri thức đã học vào thực hành.
Các tiêu chí được cụ thể hóa trên các phiếu trắc nghiệm, phiếu bài tập và
trong các bài kiểm tra của HS vì không trực tiếp kiểm tra, nên chúng tôi chỉ có
thể xem xét mức độ vận dụng tri thức về kĩ năng lập luận bình luận của HS
thông qua các bài kiểm tra. Việc xem xét này được căn cứ vào các mức:
+ Biết vận dụng kĩ năng lập luận bình luận vào viết đoạn văn, bài văn cụ thể.
+ Biết sử dụng phối hợp kĩ năng lập luận bình luận với các kĩ năng lập
luận khác vào làm bài văn.
-Từ những căn cứ trên, chúng tôi xác định mức độ nhận thức của HS như sau:
+ Nhận thức tốt: biết cách vận dụng tốt kĩ năng lập luận bình luận vào quá
trình tạo lập văn bản nghị luận.
+ Nhận thức khá: biết vận dụng tương đối tốt kĩ năng lập luận bình luận
vào quá trình tạo lập văn bản.
+ Nhận thức trung bình: biết sử dụng kĩ năng lập luận bình luận nhưng
còn một số chỗ chưa hợp lí trong quá trình triển khai nội dung nghị luận.
+ Nhận thức yếu: thực hiện được kĩ năng lập luận bình luận nhưng chưa tốt.
3.4.2. Kết quả đánh giá thực nghiệm
Quá trình thực nghiệm được tiến hành theo đúng yêu cầu và theo đúng nội
dung chương trình phần Ngữ văn 11. Do thời gian và nội dung không nhiều, lại
thực hiện nhanh nên chúng tôi thu được kết quả như sau:
3.4.2.1. Về giáo viên thực hiện
Giáo viên có trình độ chuyên môn khá và có kinh nghiệm giảng dạy nhiều
năm. Trong tiết dạy - học đều chủ động, tự tin thể hiện vai trò chủ đạo của
người tổ chức, hướng dẫn HS. Hầu hết GV thực hiện giờ dạy đạt yêu cầu, tạo
được không khí giờ học sôi nổi, khơi gợi được hứng thú học tập của HS. Trong
việc luyện tập thực hành, thời gian tổ chức đúng mức, mục đích luyện tập rõ
ràng. Giáo viên làm việc nghiêm túc, đúng tiến độ.
3.7.2.2. Về phía học sinh thực nghiệm
Nét nổi bật nhất ở học sinh là phần lớn các em đều nhận thức được nội
dung lý thuyết, có hứng thú với nội dung thực tập. Nhiều em hăng hái tham gia

51
các hoạt động học tập xây dựng bài và luyện tập thực hành, không khí tiết học
sôi nổi. Phần lớn học sinh đã vận dụng được các nội dung lý thuyết vào thực
hành với các yêu cầu cụ thể. Bài luyện tập thực hành được các em thảo luận tích
cực, nhiều em đã mạnh dạn nêu lên vấn đề mà bản thân chưa rõ để cùng thảo
luận tìm lời giải đáp ở các bạn và giáo viên. Có thể nói như vậy là học sinh đã
có hứng thú học tập, việc thực nghiệm đã mang lại hiệu quả.
Trong giờ thực hành, chúng tôi không chọn các bài tập ngoài SGK bởi
chúng tôi muốn đánh giá mức độ nhận thức và việc vận dụng tri thức đã học
của học sinh một cách tương xứng với nội dung lý thuyết đã dạy. Khi tổ chức
thảo luận nhóm, các em rất sôi nổi, hăng hái làm việc và đưa ra những ý kiến
của mình về bài tập mà giáo viên yêu cầu. Nhìn chung, dưới sự cố vấn, định
hướng của giáo viên học sinh đã xác định được khá cụ thể thông qua các bài tập,
nhiều học sinh cũng đã hệ thống và củng cố được các vấn đề lý thuyết. Việc vận
dụng kỹ năng lập luận bình luận trong những bài văn cụ thể đòi hỏi người viết
và phải xác định nội dung vừa phải xác định cách thức thực hiện nội dung đó
một cách phù hợp nhằm đạt hiệu quả nhất định. Sau khi tổ chức thực nghiệm,
chúng tôi sơ bộ đánh giá kết quả thực nghiệm như sau:
- Về định tính:
Không khí giờ học nghiêm túc học sinh có hứng thú trong việc chiếm lĩnh
kiến thức.
Nhìn chung, học sinh tiếp nhận tương đối đầy đủ về các vấn đề tri thức.Biết
vận dụng tri thức đó vào thực hành. Ngoài ra, trong các bài kiểm tra của học
sinh, các em biết vận dụng kỹ năng lập luận bình luận khi triển khai các nội
dung nghị luận. Trong các bài lý thuyết, nhiều học sinh cảm thấy hứng thú khi
giáo viên giảng dạy. Nhu vậy, phần nào khơi gợi được hứng thú cho học sinh,
lôi kéo sự chú ý của các em vào nội dung bài dạy.
Khi thực hành, hầu hết các em đã nhận diện được đặc điểm cơ bản của kỹ
năng lập luận bình luận trong ngữ liệu cụ thể. Chẳng hạn, khi tổ chức cho học
sinh thực hiện các yêu cầu thực hành trong bài tập, thì các em thực hiện rất
nhanh chóng và nêu được nội dung cụ thể của bài học. Để rồi giờ thực hành
diễn ra một cách sôi nổi, đầy hứng thú. Căn cứ vào thực hành chúng tôi nhận
thấy, việc tổ chức thực hành về thao tác lập luận bình luận trong Làm văn phần
nào đã tạo được sự lôi cuốn học sinh và đó cũng là cơ sở để việc dạy học Làm
văn ở trường phổ thông bớt đi sự khó khăn, nặng nề.
Bên cạnh các giờ thực nghiệm, chúng tôi còn tham dự một số giờ học ở
các lớp không thực nghiệm và nhận thấy rằng: mặc dù giáo viên đã rất cố gắng
52
trong việc truyền đạt kiến thức xong do nội dung giáo án chưa phù hợp nên
chưa phát huy được tính chủ động, tích cực của học sinh, giờ học trở nên kém
sôi nổi. Đến giờ thực hành thì các em trở nên lung túng, gặp khó khăn trong việc
giải quyết bài tập.
Về định lượng:
Đánh giá chung về đợt thực nghiệm chúng tôi thấy : đợt thực nghiệm diễn
ra đúng tiến độ, kế hoạch đề ra. Kết quả thực nghiệm cho thấy việc triển khai kỹ
năng lập luận bình luận trong văn nghị luận là quan điểm tiến bộ, điều đó được
thể hiện ngay trong quá trình dạy bài lý thuyết.
Có thể thông qua việc dạy học kỹ năng lập luận bình luận, học sinh được
rèn luyện về cách thức tổ chức nội dung bàn luận cũng như cách thức tổ chức
lập luận và đó cũng chính là động lực để học sinh tạo ra được những văn bản
hay, chuẩn xác và đầy sáng tạo. Đây cũng chính là mục đích cuối cùng của việc
dạy học Làm văn trong nhà trường phổ thông. Căn cứ vào giờ thực nghiệm,
chúng tôi thấy việc tổ chức dạy học Làm văn theo chương trình Ngữ văn hiện
nay đã phát huy được tính chủ động tích cực và sáng tạo ở học sinh. Điều này
cũng giúp chúng ta khắc phục những khó khăn trong quá trình dạy học Ngữ văn
ở trường phổ thông.
Trong quá trình kiểm tra thực nghiệm chúng tôi đã thu được kết qủa như sau:

Điểm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Đối tượng

Thực nghiệm
87HS 0 0 2 4 20 23 19 18 1 0

Đối chứng
83HS 0 0 6 4 30 22 13 8 0 0

53
Loại Yếu Trung bình Khá Giỏi
Đối
Số Số Số Số
tượng % % % %
Lượng Lượng Lượng Lượng

Thực nghiệm 6 6.9 43 49.4 37 42.5 1 1.2

Đối chứng 10 12.0 52 62.7 21 25.3 0 0

Nhìn vào bảng tổng hợp trên, chúng ta có thể thấy mức độ và chuyển biến
của học sinh lớp 11 trường THPT A Thanh Liêm trong việc rèn luyện kĩ năng
lập luận bình luận ở hai lớp thực nghiệm và đối chứng:
+ Tỉ lệ phần trăm trung bình các bài xếp loại trung bình, khá, giỏi ở lớp
TN là 93.1%, cao hơn 5.1% so với lớp ĐC.
+ Tỉ lệ phần trăm trung bình các bài xếp loại yếu ở lớp thực nghiệm là
6.9%, giảm 5.1% so với lớp ĐC.
Như vậy, có thể thấy bước đầu việc thực nghiệm đã thu được kết quả khả quan.
Tiểu kết
Có thể nói, thông qua việc tổ chức thực nghiệm, chúng tôi thấy việc đánh
giá đã đạt được những yêu cầu cơ bản của việc triển khai thực nghiệm. Mặc dù
phạm vi thực nghiệm không nhiều, thời gian thực nghiệm triển khai rất nhanh,
song qua thực nghiệm chúng tôi đã có cơ sở để hiểu thêm nhiều điều. cũng qua
thực nghiệm, chúng tôi đã tìm ra những kinh nghiệm thiết thực để phục vụ cho
việc giảng dạy Làm văn ở trường phổ thông.
Tóm lại, thông qua việc tổ chức thực nghiệm chúng tôi nhận thấy việc tổ
chức dạy học Làm văn ở nhà trường phổ thông có thể đạt hiệu quả nhất định nếu
giáo viên thật sự tâm huyết với nghề, có những đam mê, tìm tòi, sáng tạo khi tổ
chức nội dung dạy học. Đồng thời khơi gợi niềm đam mê, hứng thú học tập ở
học sinh.

54
KẾT LUẬN

Đại văn hào Nga M.Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”. Văn học
chính là người, theo đúng nghĩa của nó. Nhiều người khác lại cho rằng “chất
nhân văn” ngoài xã hội phụ thuộc phần lớn vào chất lượng dạy học văn trong
nhà trường phổ thông. Tất cả những điều đó cho dù cách diễn đạt có khác nhau
nhưng đều đề cao, coi trọng vấn đề dạy học văn.
Có thể nói rằng, trong vấn đề dạy học văn ở nhà trường phổ thông thì dạy
học Làm văn có một vị trí rất quan trọng. Nó được xem là phân môn có tính chất
công vụ và tính chất tổng hợp. Làm văn là môn học giúp hình thành và phát
triển khả năng tạo lập văn bản. Không chỉ trang bị, bỗi dưỡng, củng cố cho các
em những kiến thức cần thiết, rèn luyện cho các em kĩ năng cơ bản mà còn trang
bị cho các em những kĩ năng học tập, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn
cuộc sống. Và quan trọng hơn nữa là trau dồi tư tưởng, tình cảm, giáo dục, bỗi
dưỡng về tư tưởng đạo đức cũng như xây dựng cho các em lối sống lành mạnh
góp phần vào quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Ngoài
ra còn tăng cường phát triển toàn diện cho học sinh cả về thể chất và cảm xúc
thẩm mĩ, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, xây dựng cho học sinh một
bản lĩnh trong hiện tại và tương lai.
Thực hiện đề tài này, mặc dù chỉ là những suy nghĩ, tìm tòi bước đầu song
mục tiêu của khóa luận chúng tôi hướng đến không nằm ngoài những mục tiêu
trên. Trong khóa luận của chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu một phần chương trình
Làm văn 11 THPT, đó là giờ dạy nhằm rèn cho học sinh kĩ năng đánh giá, bàn
luận một cách linh hoạt, thuần thục và chính xác. Cũng giống như một giờ học
Ngữ văn chung nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, không
còn là cách người thầy truyền thụ giảng dạy theo phương pháp truyền thống, học
sinh tiếp thu nột cách thụ động thầy đọc trò chép, mà thay vào đó là hướng tới
hoạt động chủ động của học sinh. Giờ học mà chúng tôi hướng tới là một giờ
học tích cực trong đó người giáo viên đóng vai trò là người điều khiển, tổ chức,
học sinh vừa là đối tượng của hoạt động dạy vừa là chủ thể của hoạt động học.
Với mục tiêu rèn luyện cho học sinh phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự
học thì người giáo viên phải là người truyền lửa cho học sinh, khơi dậy niềm say
mê với môn học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi cá nhân học sinh. Giờ dạy
chúng tôi hướng đến theo phương pháp dạy học tích cực còn là việc giáo viên
phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học
sao cho phù hợp.

55
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc rèn kĩ năng lập luận bình luận
trong làm văn nghị luận cho học sinh lớp 11 THPT chúng tôi cũng đề cập đến
vấn đề sự phối hợp hài hòa giữa các thao tác của giáo viên và hoạt động của học
sinh nhằm đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy học. Để rèn luyện kĩ năng lập
luận bình luận trong làm văn nghị luận trước hết cần có sự nỗ lực tâm huyết
cũng như chuẩn bị chu đáo của người giáo viên như việc đổi mới tư duy dạy
học, kết hợp giữa giảng dạy lí thuyết và thực hành, chuẩn bị kĩ lưỡng các bước
kiểm tra, đánh giá.
Trong quá trình tổ chức rèn luyện kĩ năng lập luận bình luận trong làm
văn nghị luận cho học sinh chúng tôi tổ chức các giờ học cụ thể bao gồm: tổ
chức dạy học lí thuyết, tổ chức giờ luyện tập thực hành, tổ chức giờ trả bài phối
hợp lồng nghép các hoạt động giữa giáo viên và học sinh ứng với mỗi tiết học
trên cơ sở nghiên cứu nội dung chương trình SGK Ngữ văn 11 THPT phân môn
Làm văn. Chúng tôi tiến hành rèn luyện thao tác lập luận bình luận trong làm
văn nghị luận cho học sinh lớp 11 theo các bước sau:
Thứ nhất, trên cơ sở trang bị củng cố cũng như yêu cầu học sinh nắm thật
chắc những kiến thức về thao tác lập luận bình luận, chúng tôi tiến hành rèn
luyện cho học sinh kĩ năng lập luận bình luận thông qua việc rèn luyện cho học
sinh tạo lập đoạn văn bản nghị luận hoặc khả năng làm văn miệng.
Thứ hai, chúng tôi rèn luyện kĩ năng sử dụng lập luận bình luận vào trong
làm văn nghị luận, cả dạng nghị luận văn học và nghị luận xã hội, trong cả giờ lí
thuyết, thực hành và trả bài.
Chúng tôi tiến hành luyện tập để rèn kĩ năng lập luận bình luận cho học
sinh thông qua một số hình thức luyện tập đa dạng như rèn kĩ năng nói, rèn kĩ
năng viết qua việc đưa ra một số hệ thống đề tài nghị luận mở, khuyến khích học
sinh sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận đó.
Bên cạnh đó, chúng tôi đề xuất ba dạng bài tập tiêu biểu có hiệu quả trong
việc rèn kĩ năng lập luận bình luận trog làm văn nghị luận. Thứ nhất, chúng tôi
xây dựng hệ thống bài tập nhận diện nhằm kiểm tra những kiến thức lí thuyết về
thao tác lập luận bình luận. Thứ hai, chúng tôi xây dựng hệ thống bài tập luyện
tập vận dụng. Thứ ba, chúng tôi đề xuất dạng bài tập chữa lỗi trong bài tập bình
luận. Cuối cùng chúng tôi tiến hành thực nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn, khả
thi của hướng đi, đề xuất mới đề cập trong khóa luận và thu được những thành
quả nhất định tuy còn nhiều thiếu sót và hạn chế.
Từ việc rèn kĩ năng lập luận bình luận trong làm văn nghị luận cho học
sinh lớp 11 THPT, chúng tôi mong muốn giúp cho học sinh có được kĩ năng sử
56
dụng lập luận bình luận vào trong những bài viết của mình khiến những bài viết
ấy càng trở nên chặt chẽ, chính xác và thuyết phục hơn, từ đó phát triển tư duy
phê phán, năng lực nhận biết vấn đề, và kĩ năng bảo vệ những việc làm đúng
đắn, làm cho việc làm văn trở nên gần gũi với đời sống, với suy nghĩ của học
sinh hơn. Đó là những kĩ năng cần thiết giúp các em vững bước trên đường đời
của mình.
Như chúng ta đã biết, “dạy tốt” thì mới “học tốt”. Vì vậy, thực hiện theo
chương trình, sách giáo khoa đổi mới, thiết nghĩ, giáo viên cũng phải đổi mới
cách dạy, đó là dạy học theo hướng gợi mở, khuyến khích học sinh làm việc, suy
nghĩ và cuối cùng đi đến kết luận. Giáo viên chỉ nên định hướng, tuyệt nhiên
không nên làm thay công việc của học sinh, đó là việc học sinh tự khám phá mặt
ưu điểm của các thao tác lập luận và biết cách phối hợp các thao tác đó trong bài
văn nghị luận. Bàn lại vấn đề trên, sẽ là không mới đối với giáo viên dày dạn
kinh nghiệm trong nghề, nhưng chúng tôi hi vọng sẽ là có thể góp chút ý tưởng
đối với những giao viên mới vào nghề, giúp học sinh có thể học tốt phân môn
làm văn này.

57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A – Nguyễn Quang Ninh – Bùi Minh Toán, (2007), Phương pháp dạy học
Tiếng Việt, NXB Giáo dục.
2. Lê A – Nguyễn Trí, (2001), Làm văn, NXB Giáo dục.
3. Đình Cao – Lê A, (1989), Làm văn (tập 1), NXB Giáo dụ.
4. Đỗ Hữu Châu (chủ biên), (2007), Đại cương ngôn ngữ học, Ngữ dụng học
(tập 2), NXB Giáo dục.
5. Vương Tất Đạt, (1997), Lôgic học đại cương, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
6. Tạ Đức Hiền – Nguyễn Việt Nga – Phạm Minh Trí, (2004), Yêu văn và học
văn, (tập 2), NXB Hà Nội.
7. Trần Bà Hoành, (2007), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
SGK, NXB Đại học Sư phạm.
8. Phan Trọng Luận, (1996), Phương pháp dạy học văn, NXB Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
9. Phương Lựu, (chủ biên), (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
10. Nguyễn Đăng Mạnh – Đỗ Ngọc Thống – Lưu Đức Mạnh, Muốn viết được
bài văn hay, NXB Giáo dục.
11. Bảo Quyến, (2007), Rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận, NXB Giáo dục Hà Nội.
12. SGK Ngữ văn lớp 11, (tập 2), Bộ cơ bản, (2012), NXB Giáo dục.
13. SGV Ngữ văn lớp 11, (tập 2), Bộ cơ bản, (2012), NXB Giáo dục.
14. SGK Ngữ văn lớp 11, (tập 2), Bộ nâng cao, (2007), NXB Giáo dục.
15. SGV Ngữ văn lớp 11, (tập 2), Bộ nâng cao, (2007), NXB Giáo dục.
16. Nguyễn Quốc Siêu (2001), Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông, NXB Giáo dục.
17. Hoài Thanh, (1996), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học.
18. Đức Thành – Hải Yến, (2011), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin.
19. Lê Thường, (2007), Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong văn nghị luận,
NXB Giáo dục.
20. Nguyễn Quang Tuyên -Trần Phúc Tưởng (1987), Làm văn nghị luận như thế
nào (tập 1), NXB Nghệ Tĩnh.
21. Nguyễn Quang Uẩn, (chủ biên), Giáo trình Tâm lí học đại cương, NXB Đại học
sư phạm Hà Nội.

58
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Dưới đây là giáo án thực nghiệm của chúng tôi.
Tiết 99: THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN
I. Mục tiêu bài học
Qua giờ học nhằm giúp HS:
1. Kiến thức
- Hiểu được thế nào là thao tác lập luận bình luận, nắm được mục đích,
yêu cầu của thao tác lập luận bình luận.
- Nắm được những nguyên tắc, cách thức cơ bản của thao tác lập luận
bình luận.
2. Kĩ năng
- Biết vận dụng thao tác lập luận bình luận để viết văn nghị luận và ứng
xử trong cuộc sống.
3. Thái độ
- Giúp HS thấy được học bình luận không chỉ là học một thao tác lập luận
thông thường mà còn góp phần rèn luyện một phẩm chất mà con người hiện đại
rất cần phải có.
II. Phương tiện thực hiện
1. Đối với giao viên: SGK, SGV Ngữ văn 11, giáo án, các tài liệu tham khảo
khác.
2. Đối với học sinh: SGK Ngữ văn 11, bài soạn, vở ghi, bút…
III. Cách thức tiến hành
- Đọc hiểu, đàm thoại phát vấn, trao đổi, thuyết trình, thảo luận nhóm…
IV. Tiến trình giờ học
1.Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số.
2.Kiểm tra bài cũ.
Câu hỏi: Trong chương trình ngữ văn cấp 3 các em đã học bao nhiêu thao
tác lập luận? Đó là những thao tác nào?
Trả lời: Trong chương trình ngữ văn cấp 3 đã học 5 thao tác lập luận bình
luận. Đó là:Thao tác lập luận chứng minh, thao tác lập luận giải thích, thao tác
lập luận phân tích, thao tác lập luận bác bỏ, thao tác lập luận so sánh.
3. Dạy, học bài mới
Trong chương trình các em đã được làm quen với 5 thao tác lập luận bình
luận, hôm nay cô trò chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về một thao tác lập luận mới, đó
là thao tác lập luận bình luận.

`
Hoạt động của Thầy và Trò Yêu cầu cần đạt

Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu I.Mục đích, yêu cầu của thao tác lập
mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bình luận
luận bình luận. 1. Khái niệm
GV: đưa bức tranh -> đánh giá nhận a. Ngữ liệu
xét của em về bức tranh
HS phát biểu
GV: nhận xét của em về việc thực hiện
nội quy quy định trường lớp của HS
hiện nay
HS đưa ra lời nhận xét đánh giá

GV: những lời nhận xét đánh giá về 1 b. Khái niệm


đối tượng nào đó -> bình luận. Vậy e
- Bình luận: là đưa ra ý kiến bàn bạc,
hiểu thế nào là thao tác bình luận?
đánh giá, về một hiện tượng, vấn đề
HS trả lời, GV ghi bảng nào đó.
+ Đánh giá: chỉ ra vấn đề đúng/sai?
Hay/dở? Tốt/xấu?...
+ Bàn bạc: trao đổi ý kiến với người
đọc, người nghe...
-Thao tác lập luận bình luận: là cách
thức đưa những lí lẽ, dẫn chứng nhằm
thuyết phục người đọc người nghe
GV: So với phân tích thì bình luận đồng ý về vấn đề được nêu ra.
không nhằm tìm ra bản chất, cái hay,
cái đẹp của vấn đề mà đi sâu vào đánh
giá vấn đề.

2. Mục đích, yêu cầu của bình luận


GV cho học sinh trả lời câu hỏi phần
I.2 trang 71 SGK. a. Ngữ liệu: “Xin lập khoa luật”

HS trả lời câu hỏi - Vấn đề: sự cần thiết của luật pháp đối
với xã hội
- Đối tượng: triều đình nhà Nguyễn
- Mục đích: thuyết phục triều đình cho
mở khoa luật

`
- Nội dung:
+ khẳng định mọi người cần học luật,
nêu các lĩnh vực của pháp luật, giới
thiệu việc thực hành luật ở nước ta và
phương tây
+ đề xuất chủ trương tất cả mọi người
phải tôn trọng và tực hành pháp luật
+ bàn về mối quan hệ giữ pháp luật và
đạo đức
GV: Từ sự phân tích ngữ liệu ở trên,
em hãy cho biết mục đích của bình b. Kết luận
luận là gì? ‫٭‬Mục đích
HS trả lời câu hỏi. - Nhằm thuyết phục người đọc, người
nghe tán đồng với ý kiến của mình
- Khẳng định cái đúng, sai, tốt, xấu,
lợi, hại của vấn đề
- Khen ngợi cổ vũ cái tốt; phê phán cái
dở cái sai...
-> Làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp
GV: Để đạt được mục đích của bình hơn.
luận khi tiến hành bình luận cần chú ý
‫ ٭‬Yêu cầu
những yêu cầu gì?
- Trình bày rõ ràng, trung thực về vấn
HS trả lời GV chốt lại
đề được bình luận
- Đề xuất và chứng tỏ được ý kiến,
nhận định, đánh giá của mình là xác
đáng
- Bàn bạc, mở rộng xoay quanh vấn đề
1 cách sâu sắc
- Lập luận chắc chắn chặt chẽ để khẳng
định được ý kiến của mình.
Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh cách II. Cách bình luận
bình luận.
1.Ngữ liệu: văn bản bài luyện tập 2
HS thảo luận văn bản luyện tập bài 2 SGK trang 73
trong sách giáo khoa theo yêu cầu GV:
Nêu vấn đề: thần chết đồng hành cùng
- Nhóm 1: Đoạn trích nêu vấn đề gì? với những sát thủ trên đường phố
Nhận xét cách nêu?
→ cách nêu vấn đề trug thực rõ ràng,
khách quan
Bố cục: 3 phần:
- Nhóm 2: Bố cục của văn bản gồm

`
mấy phần? Nội dung từng phần? + nêu vấn đề: đầu...trên đường phố
+ giải quyết vấn đề: tiếp... xã hội: bàn
về nguyên nhân, hậu quả của tai nạn
giao thông
+ bàn luận: còn lại: giải pháp giải
quyết vấn đề
- Nhóm 3: Tác giả đã đánh giá về Nguyên nhân:
nguyên nhân và hậu quả tai nạn giao
thông như thế nào? + hạn chế khách quan
+ ý thức chủ quan (chủ yếu): dẫn
chứng
Hậu quả:
tổn thương cho lực lượng lao động của
đất nước (dẫn chứng, lí lẽ)
- nhóm 4: Kết thúc vấn đề, tác giả đã Bàn bạc mở rộng:
đưa ra lời bàn nào? Giải pháp nào để
giải quyết được vấn đề đã nêu ra? + an toàn giao thông là hạnh phúc, là
cơ hội thành công
+ hành động cần có:
• tự điều chỉnh mình, tự cứu mình và
cứu người.
• cần một chương trình truyền thông
hiệu quả
→ cách trình bày, xếp ý, trình bày vấn
đề: rõ ràng, mạch lạc, trung thực, thẳng
GV gợi dẫn HS trả lời câu hỏi trong thắn.
SGK và đưa ra kết luận. 2. Kết luận
Có nhiều cách bình luận, trong đó:
GV lấy ví dụ cho HS và nêu yêu cầu - Bước 1: Nêu hiện tượng (vấn đề) cần
bước 1 bình luận.
+ trung thực, khách quan
+ ngắn gọn, rõ ràng
+ thể hiện quan điểm bản thân

- Bước 2: Đánh giá hiện tượng (vấn đề)


cần bình luận.
Tùy theo từng vấn đề mà có cách bình
luận khác nhau, ví dụ:

`
+ Vấn đề “tình trạng hút thuốc lá trong
học sinh”: đứng hẳn về một phía, tìm
những lí lẽ và dẫn chứng để nhiệt tình
ủng hộ về phía đúng và phê phán phía
sai
+ Vấn đề “ lũ ở Đồng Tháp có phải là
tai họa”: kết hợp những phần đúng của
mỗi phía và loại bỏ phần còn hạn chế
để đi tới một sự đánh giá thực sự hợp
lí, công bằng
+ Vấn đề “ ưu tiên cho phát triển sản
xuất hay cho bảo vệ môi trường,nếu
việc phát triển sản xuất gây ô nhiễm
môi trường”: đưa ra cách đánh giá
phải-trái, hay-dở của riêng mình sau
khi đã phân tích các quan điểm, ý kiến
khác nhau về vấn đề bình luận.
 Có rất nhiều cách bình luận tuy
nhiêm có 3 cách bình luận chính:
+ Đứng hẳn về 1 phía (phản đối hoặc
đồng tình)
+ Kết hợp những phần đúng của mỗi
phía, loại bỏ phần còn hạn chế →đưa
ra quan điểm đúng đắn
+ Đưa ra cách đánh giá riêng
- Bước 3: Bàn về hiện tượng (vấn đề)
cần bình luận.
Có nhiều cách bàn về hiện tượng, vấn
đề. Ví dụ:
+ Bàn về thái độ, hành động, cách giải
quyết cần có trước hiện tượng vừa
được nhận xét đánh giá. Ví dụ: tình
trạng hút thuốc ở học sinh
+ Bàn về những điều có thể rút ra khi
liên hệ với thời đại, hoàn cảnh sống,
lứa tuổi của bản thân và những người
đang nghe mình bình luận. Ví dụ: gần
mực thì đen, gần đèn thì rạng
+ Bàn về những ý nghĩa rộng lớn hơn,
sâu sắc hơn mà hiện tượng (vấn đề)
bình luận có thể gợi mở ra. Ví dụ: Tổ

`
quốc là tiền, thanh niên với phát triển
đất nước.

GV gọi HS đọc phần ghi nhớ SGK ‫ ٭‬Ghi nhớ (SGK/73)

Hoạt động 3: hướng dẫn HS luyện tập III. Luyện tập


1. Bài 1.
GV: yêu cầu HS làm bài tập 1, GV Không đúng vì các thao tác này khác
chữa. nhau về mục đích, bản chất.
- Mục đích:
+Giải thích giúp người đọc hiểu về một
vấn đề nào đó chưa biết
+ Chứng minh giúp người đọc tin về
một vấn đề được nêu ra
+ Bình luận là bày tỏ quan điểm, thuyết
phục mọi người đồng ý trước ý kiến
của bản thân
- Bản chất: bình luận thuyết phục
người đọc người nghe đồng ý với ý
kiến của bản thân về vấn đề đã được
biết trước, người đọc đã có những
thông tin cơ bản về vấn đề và có ý
khiến riêng về vấn đề đó.

4. Củng cố
- GV củng cố cho HS khái niệm, mục đích, yêu cầu và cách làm của một
bài văn bình luận.
5. Dặn dò
- Làm bài tập và chuẩn bị tiết Luyện tập thao tác lập luận bình luận.

`
Tiết 101: LUYỆN TẬP THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN

I. Mục tiêu bài học:


1. Kiến thức:
Giúp cho hs:
- Củng cố những kiến thức về thao tác lập luận bình luận viết được một
vài đoạn văn bình luận về một chủ đề gần gũi với cuộc sống và suy nghĩ của học
sinh.
2. Kĩ năng:
- Biết vận dụng thao tác lập luận bình luận vào viết văn và ứng xử trong
cuộc sống.
3. Thái độ:
- Ý thức nhận xét, đánh giá, bàn bạc trước bất cứ một hiện tượng trong
cuộc sống nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của bản thân và xã hội..
II. Phương tiện thực hiện
1. Đối với giáp viên: SGK, sách chuẩn kiến thức Ngữ Văn 10, giáo án…
2. Đối với học sinh: SGK, vở ghi, bút, bài soạn ở nhà…
III. Cách thức tiến hành
- GV hướng dẫn, định hướng kết quả chung.
- HS trao đổi, thảo luận, trình bày trước lớp.
. Tiến trình giờ học
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ
3. Dạy bài mới
Ngày nay, nhiều vấn đề nóng hổi của xã hội luôn xuất hiện. Việc bình luận
về những vấn đề đó đòi hỏi phải nắm vững kĩ năng mới thuyết phục được người
đọc, người nghe. Luyện tập thao tác lập luận bình luận là để củng cố thêm sự
hiểu biết về kĩ năng bình luận.

Hoạt động của Gv và H Nội dung cần đạt

Hoạt động 1: Gv cho HS nhắc lại kiến


thức cũ về Thao tác lập luận bình luận:
? Thế nào là thao tác lập luận bình luận?
- Khái niệm thao tác lập luận bình luận:
Là thao tác lập luận của văn nghị luận
đưa ra ý kiến, đánh giá của mình về một

`
tình hình, một vấn đề nào đó.
? Nêu các bước bình luận?
- Các bước bình luận:
+ Bước 1: Nêu vấn đề cần bình luận (nêu
rõ được thái độ, đánh giá của người viết.
Trình bày rõ ràng, trung thực)
+ Bước 2: Đánh giá vấn đề cần bình luận
( theo 3 hướng: đứng hẳn về một phía
mình tin đúng; hoặc kết hợp phần đúng
và phần sai của mỗi phía để đi tới một sự
đánh giá hợp lý; hoặc đưa ra đánh giá
riêng).
+ Bước 3: Bàn về vấn đề cần bình luận
(theo 3 khía cạnh: bàn về thái độ, cách
giải quyết; hoặc bàn về những điều rút ra
khi liên hệ với bản thân, xã hội, thời
đại...; hoặc bàn về ý nghĩa sâu xa của vấn
đề).

Hoạt động 2: GV hướng dẫn HS làm bài * Bài tập 1: Anh chị viết 1 bài văn
tập 1 SGK/81 bình luận để tham gia diễn đàn do
Đoàn Thanh niên tổ chức với đề tài:
“Lời ăn tiếng nói của 1 học sinh văn
minh, thanh lịch”.
Giáo viên tổ chức cho học sinh phân tích
đề 1. Phân tích đề:

? Vì sao bài văn này nên là một bài văn a. Kiểu bài:
nghị luận? Bình luận (tham gia diễn đàn - phát
biểu ý kiến của riêng mình vào trong
diễn đàn)

? Chọn vấn đề cụ thể nào cho bài bình


luận của mình? b. Lựa chọn nội dung bình luận

- Toàn bộ các vấn đề của đề tài hoặc VD: Biết nói lời “Cảm ơn” và “xin
một khía cạnh của đề tài (chống nói tục; lỗi” của học sinh văn minh, thanh
“lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”; biết lịch..
nói lời “cảm ơn” và xin lỗi)

Hoạt động 2: GV hướng dẫn hS cách xác 2. Lập dàn ý:


định luận điểm chính để lập dàn ý. * Bước 1: xác định luận điểm chính

`
- Giới thiệu vấn đề bình luận như thế - Giới thiệu vấn đề bình luận nhu thế
nào? nào.
- Chỉ ra những tốt, xấu, phải, trái, đúng - Chỉ ra những tốt, xấu, phải, trái, đúng
sai hay dở của vấn đề. Quan điểm, đánh sai hay dở của vấn đề. Quan điểm,
giá, nhận xét của bản thân. đánh giá, nhận xét của bản thân.
- Ý nghĩa sâu rộng mà vấn đề gợi ra. - Ý nghĩa sâu rộng mà vấn đề gợi ra.

=> xác định luận điểm cho bài bình luận => Luận điểm chính:
về khía cạnh biết nói lời “cảm ơn” và - Biểu hiện trong lời ăn, tiếng nói của
“xin lỗi” của học sinh văn minh, thanh học sinh văn minh, thanh lịch.
lịch.
- Những thói hư, tật xấu trong lời ăn,
tiếng nói của học sinh hiện nay.
- Bàn về hướng rèn luyện thói nói từ
“cảm ơn” và “xin lỗi” trong giao tiếp.
* Lập dàn ý:

GV đưa ra một dàn ý để học sinh tham


khảo, luyện viết đoạn văn bình luận.
* MB: nêu vấn đề cần bình luận
* TB:
- Biểu hiện trong lời ăn, tiếng nói của học
sinh văn minh, thanh lịch:
+ Nói năng, lịch sự, lễ phé, có đầu có
đuôi.
+ Biết nói lời cảm ơn khi nhận được sự
giúp đỡ.
+ Biết nói lời xin lỗi khi làm việc sai
trái
+ Không nói tục, chửi thề...
(dẫn chứng cụ thể)
-> Đó là những biểu hiện thể hiện nếp
sống có văn hóa, lịch sự trong giao tiếp;
tạo niềm vui và hạnh phúc trong cuộc
sống.
- Những thói hư, tật xấu trong lời ăn,
tiếng nói của học sinh hiện nay:

`
+ Nói tục, chửi thề
+ Nói không đầu, không đuôi, không
lễ phép.
+ Không biết nói lời xin lỗi, cảm ơn
+Nói nhưng không tôn trọng người
nghe...
(dẫn chứng cụ thể)
-> Phê phán, lên án những lời nói thiếu
văn hóa, thiếu văn minh, lịch sự.
- Bàn về hướng rèn luyện thói nói từ
“cảm ơn” và “xin lỗi” trong giao tiếp.
+ Ăn nói lịch sự, có văn hóa, biết tôn
trọng người nghe, biết lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau -> văn minh, thanh lịch
* KB: kết thúc vấn đề, liên hệ bản thân, ý
thức trách nhiệm.
GV: sau khi đã lập dàn ý cho bài viết,
chúng ta tiến hành lập luận cho từng luận
điểm theo 3 bước của cách lập luận.

Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh luyện


nói trên lớp. 2. Luyện nói

GV chia lớp thành 02 nhóm, mỗi nhóm * Nhóm 1: Luận điểm 1


trình bày miệng một đoạn văn bình luận * Nhóm 2: Luận điểm 2
về 1 luận điểm.
GV gọi đại diện từng nhóm trình bày
trước lớp
HS trình bày
GV nhận xét, đánh giá
GV yêu cầu học sinh viết đoạn văn bình
luận nhóm mình vừa trình bày theo bổ 3. Viết đoạn văn bình luận
sung của cô và các bạn.
GV dặn HS về làm bài tập số 2 - ý b Bài tập 2:
trong SGK/83.
Bàn về hiện tượng vệ sinh an toàn
thực phẩm.

`
4. Củng cố
- Hệ thống hóa bài học bằng cách nhắc lại những kiến thức cơ bản về thao tác
lập luận bình luận.
5. Dặn dò:
- Làm bài tập trong SGK và chuẩn bị bài tiếp theo.

`
PHỤ LỤC 2
ĐỀ KIỂM TRA
Đề bài:
Bình luận về tình trạng hút thuốc lá trong học sinh hiện nay.
Gợi ý làm bài:
Mục đích: bình luận về tình trạng hút thuốc lá của học sinh.
Thao tác lập luận: chủ yếu là thao tác bình luận.
Sau đây là cách triển khai cụ thể trên một dàn ý:
1. Nêu vấn đề
- HIện nay, tình trạng hút thuốc lá của học sinh là vấn đề đáng quan tâm
trong nhà trường.
2. Đánh giá vấn đề.
- Thực trạng hút thuốc lá của học sinh trong nhà trường.
+ Nhiều học sinh hút thuốc lá.
+ Công tác quản lí học sinh hút thuốc lá vẫn chưa chặt chẽ.
- Tác hại của thuốc lá đối với bản thân và mọi người xung quanh.
+ Là nguyên nhân gây nên các bệnh tim mạch, ung thư, hô hấp, bệnh răng
lợi và tăng nguy cơ loãng xương.
+ Đối với nam giới sẽ làm giảm số lượng và chất lượng tinh trùng, dễ dẫn
đến vô sinh.
+ Đối với phụ nữ và bào thai, làm tăng nguy cơ ung thư tử cung, rối loạn
kinh nguyệt, ung thư vú, dị dạng thai nhi.
+ Đối với trẻ em, dễ bị còi xương, trí tuệ chậm phát triển, suy dinh dưỡng
do bị giảm tiết sữa ở người mẹ.
- Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh hút thuốc lá.
+ Chủ quan: đua đòi, ăn chơi, sĩ diện…
+ Khách quan: bạn bè rủ rê, lôi kéo; nguồn cung cấp thuốc lá phong phú…
3. Bàn bạc vấn đề.
- Thái độ của chúng ta đối với tình trạng học sinh hút thuốc lá: lên án, phê phán.
- Giải pháp ngăn chặn tình trạng hút thuốc lá ở học sinh:
+ Đưa nội dung tuyên truyền phòng chống hút thuốc lá vào trường phổ
thông và xem đây là công tác trọng tâm.
+ Về phía gia đình thì thường xuyên quan tâm, quản lý chặt trong sinh
hoạt hàng ngày của con cái về thời gian và các mối quan hệ bạn bè.
-Nêu cao khẩu hiệu: Hãy bảo vệ chính các bạn và chúng tôi

You might also like