Tiểu Luận Cuối Kì Môn Triết Học Nhóm 14 - Sáng t6

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN


----------

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN: TRIẾT HỌC
LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ SỰ THỂ HIỆN NÓ TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

SVTH: NHÓM 14 – SÁNG THỨ 6


LỚP HỌC PHẦN: 212POL10508
GVHD: NGUYỄN HỮU VƯỢNG

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2022


1

MỤC LỤC
A. Phần mở đầu..............................................................................................................................2
B. Nội dung.....................................................................................................................................2
I. Giải thích.................................................................................................................................2
1. Khái niệm về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.......................................................2
a. Lực lượng sản xuất...............................................................................................................2
b. Quan hệ sản xuất..................................................................................................................3
c. Phương thức sản xuất...........................................................................................................3
2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.........................................................................................................................4
a. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất...........................................................................................................................................4
b. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất..........................................................................................................................4
3. Sự thể hiện của quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta................................................................................5
a. Sự vận dụng quy luật này ở VN hiện nay.............................................................................5
b. Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng quy luật này....................................................5
C. Kết luận......................................................................................................................................6
D. Link tham khảo.........................................................................................................................7

STT Tên MSSV Đánh giá %


1 Trần Lê Huy Hào 211A040158 100%
2 Trương Nguyễn Hoàng Yến 211A030899 100%
3 Lê Thị tuyết Ngân 211A140302 100%
4 Bùi Phạm Cẩm Hồng 211A030679 100%
2

5 Vũ Trẩn Đan Linh 211A030584 100%

BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN

LỜI CÁM ƠN
Nhóm em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy vì trong học kì vừa qua thầy đã tận tình, tận
tâm truyền đạt cho nhóm em nói riêng và cả lớp nói chung về những kiến thức về môn Triết học.
Qua những buổi học thì chúng em đã được thầy tạo điều kiện để tiếp xúc với những vấn đề cơ
bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề đem
lại sự kết nối với chân lý, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ, đồng thời rèn luyện
được những kỹ năng cần thiết cho việc học tập và công việc sau này.

Triết học là môn học vô cùng thú vị và bổ ích bằng chứng là thông qua những kiến thức thầy
chia sẻ và giảng dạy đã giúp chúng em được mở mang tâm trí và học hỏi được rất nhiều kiến
thức bổ ích. Để có một nền tảng kiến thức nhất định và để có thể hiểu được những vấn đề từ cơ
bản đến nâng cao và từ đó có cái nhìn khách quan hơn và đó là bước đệm để chúng em có thể
phát triển bản thân, việc học tập và tiếp thu những kiến thức thầy trao cho nhóm em cũng như
các bạn trong lớp đã giúp chúng em rất nhiều.

Một lần nữa nhóm em xin trân trọng cảm ơn Nhà trường đã tạo cơ hội cho chúng em được tiếp
cận môn học đã có xuất thân từ hàng ngàn năm trước với những vĩ nhân vô cùng vĩ đại trên thế
giới để bọn em có thể tiếp nhận kiến thức từ những góc nhìn đa chiều và khách quan nhất.

TRÂN TRỌNG.
3

A. Phần mở đầu
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức sản
xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Mà lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt
của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất- quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển của xã
hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử nhân loại.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Ngược lại, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương và tác
động trở lại của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo
so với trình đọp phát triển của lực lượng sản xuất sẽ lại kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Do đó, việc giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất không phải là việc đơn giản.
Trong nền kinh tế, kế hoach hóa tập trung trước đây chúng ta đã không có được sự nhận
thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa các quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất. Cơ chế quan lieu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa các quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất đã làm cho mâu thuẫn giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt
Nam phải ở trong tình trạng khủng hoảng, trì tuệ một thời gian dài.
Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại lẫn
nhau giữa các quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt
là trong quá trình xây dựng nền kinh tế, hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.

B. Nội dung

I. Giải thích

1. Khái niệm về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất

a. Lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở
các thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con người
với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người và năng lực thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức, phương pháp
sản xuất, kĩ năng, kĩ xảo và thói quen lao động của họ. Trong các yếu tố hợp thành lực
4

lượng sản xuất , người lao động là chủ thể và bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản,
quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì nội dung và khái niệm
lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất mới và làm cho năng xuất lao động tăng
lên gấp bội. Năng suất lao động được xem như là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là yếu tố quyết định sự
chiến thắng của một trật tự xã hội này đối với với một trật tự xã hội khác.
b. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội ( sản xuất và tái sản xuất xã hội ).
Trong quá trình sản, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên
mà còn có quan hệ với nhau và tác động lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ tác động
lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với con người trong 3 mặt chủ yếu sau:
+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong
việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con người trong việc
tổ chức quản lý xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau
+ Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người trong phân phối
và lưu thông sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau,
trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong xã hội có
giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó đó là giai cấp thống trị,
giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết định tính chất, hình thức phân
phối cũng như quy mô thu nhập. Ngược lại với giai cấp thống trị, tầng lớp nào không có tư
liệu sản xuất sẽ là giai cấp sản xuất – tầng lớp bị thống trị, bị bốc lột vì buộc phải làm thuê
và bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại
quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí, pháp lý
mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy luật kinh tế.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất.
c. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải vật chất (tư liệu sản
xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển của xã hội trong
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
5

Mỗi xã hội đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất
đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội, kinh tế chính trị, văn
hóa. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự
phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất ở
một trình độ nhất định mà quan hệ sản xuất tương ứng.

2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất

a. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (quy luật
cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội).
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất sao cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan
hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các
mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều
đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất
từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó
quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới sao cho phù hợp với trình độ phát
triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay
thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất
cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
b. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất không hoàn toàn
thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất có thể
tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái
độ của con người trong lao động sản xuất đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ…và do đó tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc
hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
6

làm kìm hãm đi sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản
xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử
nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy qua đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong
kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ
thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

3. Sự thể hiện của quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta
a. Sự vận dụng quy luật này ở VN hiện nay
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng nội tại của
phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hóa gắn chặt với hiện đại hóa, trước hết phải
được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực
lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với tiềm năng lao động
lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ của chúng ta
còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển
khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hóa – hiện đại hóa trước hết
trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế
hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử
thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước vì dân giàu nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản
trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước
ta.
b. Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng quy luật này
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể những năm qua đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong bối cảnh
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi
với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy
cơ tụt hậu xa về kinh tế đang càng là một yêu cầu cấp thiết.
7

Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục thống nhất nhận
thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Việt nam “có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong
huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng
sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định

hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để
định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế xã hội.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hoá dịch vụ chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về
khoa học và công nghệ, về kinh tế tri thức. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách
kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài,
nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực
thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương.

C. Kết luận

Đảng ta điều chỉnh sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất hiện tại và tương lai của nước ta.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản nước ta đã chỉ rõ: "Xây dựng
nước ta thành nước công nghiệp hùng mạnh, có nền tảng vật chất và công nghệ hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, vật chất và tinh thần phát triển cao, đời sống, quốc phòng, an ninh ổn định, dân giàu
thì nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
8

Như chúng ta đã biết, từ trước đến nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu thế tất yếu của
mọi quốc gia. Đối với nước ta, bắt đầu từ nền kinh tế tiểu nông, để thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu và nhanh chóng đạt trình độ các nước phát triển, phải đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá: "một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong các lĩnh vực đời
sống xã hội". Trước những năm đổi mới, chúng ta xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng về mặt nhận thức, chúng ta đặt
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở một vị trí gần như hoàn toàn đối lập với công nghiệp
hóa tư bản chủ nghĩa. Khi lựa chọn đường đi nước bước, trước đây chúng ta thường có xu
hướng phát triển công nghiệp nặng là con đường xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, chưa coi trọng phát triển nông nghiệp và công nghiệp. .Công nghiệp hóa
còn được hiểu đơn giản là quá trình thiết lập nền sản xuất khí hóa trong các lĩnh vực khác
nhau của nền kinh tế quốc dân.

Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, gắn sự tiến bộ có trật tự của nền công
nghiệp với việc đón đầu xu thế, đi tắt, đón đầu, tạo tiền đề cho sự phát triển dựa trên trình
độ tiên tiến của khoa học và công nghệ thế giới. Mặt khác, cần nỗ lực xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước và
thị trường. Đây là hai nhiệm vụ đồng thời luôn tác động hỗ trợ và phát triển lẫn nhau. Bởi
vì “nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo ra những lực lượng sản xuất cần thiết cho hệ
thống xã hội mới, thì phát triển nền kinh tế nhiều hàng hoá là xác lập một hệ thống quan
hệ sản xuất phù hợp”.

D. Link tham khảo

https://luatduonggia.vn/quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-voi-trinh-do-phat-trien-cua-
luc-luong-san-xuat/amp/

- ThS. Phạm Bá Thịnh – ThS. Nguyễn Thị Duyên, 04/08/2016, “Vận dụng quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”, đăng trên truongchinhtrithanhhoa.gov.vn ,truy cập từ
http://truongchinhtrithanhhoa.gov.vn/web/trang-chu/khoa-hoc-thong-tin-tu-lieu/bai-viet-
chuyen-de/van-dung-quy-luat-ve-su-phu-hop-cua-quan-he-san-xuat-voi-trinh-do-phat-
trien-cua-luc-luong-san-xuat-trong-cong-cuoc-doi-moi-o-nuoc-ta-hien-nay.html , ngày
truy cập 310/3/2022.

- Luật Sư Nguyễn Văn Dương, 19/02/2022, “ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất”, đăng trên luatduonggia.vn, truy cập từ
https://luatduonggia.vn/quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-voi-trinh-do-phat-trien-cua-
luc-luong-san-xuat/ , ngày truy cập 30/03/2022

BÀI KIỂM TRA CỦA LÊ THỊ TUYẾT NGÂN. MSSV 211A140302


9

Tại hầu khắp các trường đại học trên thế giới, triết học đều có mặt trong bảng phân loại các bộ
môn tri thức cần được giảng dạy, nghiên cứu. Theo tôi, Triết học hướng đến một cái nhìn toàn
vẹn về thế giới, về con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Khách thể khám phá của
triết học là thế giới. Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình và quan hệ của
thế giới, với mục đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự
vận động của thế giới, của con người và của tư duy. Tri thức triết học mang tính khái quát cao
dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Nói đến các
hình thái ý thức xã hội là nói đến loại hình tinh thần đương nhiên tồn tại trong đời sống xã hội, là
cái không thể thiếu khi con người sống thành xã hội. Hình thái ý thức xã hội đảm nhận chức
năng xã hội về nhận thức, về tư duy, về tình cảm và tâm lý… giúp cho đời sống con người diễn
ra một cách bình thường theo quy luật. Ý thức xã hội chắc chắn là phong phú và đa dạng hơn cả
tồn tại xã hội, do phản ánh tồn tại xã hội bằng các phương thức sáng tạo mà chỉ trong tư duy mới
có. Tư duy phản ánh hiện thực nhưng tư duy lại có khả năng đẻ ra tư duy. Sản phẩm sáng tạo của
tư duy, ý thức… Do vậy, vô cùng phong phú và từ đó giới tự nhiên thứ hai là văn hóa đã xuất
hiện. Triết học là một hình thái ý thức xã hội và giá trị của triết học là ở đó. Triết học không phải
là một khoa học ngang hàng với các khoa học xã hội khác, điều đó không có nghĩa rằng triết học
không luận giải một cách khoa học về thế giới. Hàm lượng khoa học của một học thuyết triết
học, ngoài việc nó sử dụng những thành tựu của các khoa học cụ thể còn biểu hiện ở sức mạnh
của thế giới quan và phương pháp luận mà nó sáng tạo ra để giải thích thế và giới định hướng
cho hoạt động của con người. Học thuyết khoa học nêu ra các quy luật chung nhất về sự phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; là học thuyết cách mạng vạch ra con đường, chiến lược và
sách lược đấu tranh để giai cấp công nhân lãnh đạo quần chúng cách mạng lật đổ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vận dụng quan điểm về sự
phát triển vào hoạt động thực tiễn góp phần thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn
có của nó đòi hỏi mỗi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà
giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Các cá nhân
trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, để từ đó có thể vận dụng
một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần phải phân biệt các mối liên hệ, phải chú ý
đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để
hiểu rõ về bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất trong sự phát triển của bản thân. Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần
lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Ngoài ra, cá
nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của
chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học
tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân,
nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Như vậy có thể thấy, tiếp tục nghiên cứu
và vận dụng sáng tạo quan điểm của V. I. Lê-nin có vai trò to lớn trong việc học tập và rèn luyện
của sinh viên. Ví dụ như lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào
lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận
thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện
và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất. Những
10

việc làm vĩ đại của con, bao giờ cũng tổng hợp những việc làm bình thường, vì vậy mỗi sinh viên
phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn luyện của mình cả đức và tài,
để trở thành một con người phát triển toàn diện, tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội mà không
chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Cũng như trong hoạt động của mình ông cha thường có câu:
“tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”.

BÀI KIỂM TRA CỦATRƯƠNG NGUYỄN HOÀNG YẾN. MSSV


211A030899
Qua học tập Triết học Mác-Lênin, em nhận ra được rằng việc lực lượng sản xuất nắm giữ những
vài trò khách quan, học thuyết Mác - Lênin là một hệ thống lý luận chặt chẽ, từ đó gây ra nhiều
cuộc cách mạng vô sản vang dội, đánh dấu các sự phát triển mới trong nhận thức tự nhiên. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng với trọng tâm là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, qua đó xác định
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và vấn đề khả năng nhận thức của con người. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng xác định vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý
thức và ý thức tác động trở lại vật chất, con người nhận thức được thế giới và khả năng nhận
thức của con người là vô hạn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp chúng ta xác định được trong
xã hội đâu là vật chất, đâu là đời sống tinh thần, đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần,
nên muốn cải tạo xã hội, phát triển đất nước ta đi từ cái gốc của nó tức là đời sống vật chất. Quan
hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại.
Không thấy điều đó sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận
thức và hành động. Nói tới vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người, bản thân của ý thức
nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Theo Mác thì lực lượng vật chất chỉ có
thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng
thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện được các quy luật khách quan thì
phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và có phương pháp để tổ
chức hành động. Phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong
thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tạo nên tính khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận
chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Với những nội dung
cơ bản là: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; Nguyên lý về sự phát triển; các cặp phạm trù: cái
chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả, nội
dung và hình thức, khả năng và hiện thực. Ba quy luật gồm Quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; Quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập; Quy luật phủ định của phủ định. Và lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
Hai nguyên lý, ba quy luật, sáu cặp phạm trù và lý luận nhận thức giúp chúng ta hình thành quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm về sự phát triển, giúp chúng ta thấy được
con đường, cách thức và khuynh hướng của sự phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
11

giúp chúng ta nhận ra được những mặt quyết định trong các mối quan hệ, giúp chúng ta hiệu quả
nhất. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và
quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm này vào quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải
thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến. Nếu
thiếu quan điểm khoa học như vậy thì rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói
chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó
khăn, trắc trở. Đồng thời qua triết học Mác - Lênin em đã học được thêm rất nhiều kĩ năng và
tiêu biểu nhất là kĩ năng kích thích khả năng đặt câu hỏi và tìm kiếm vấn đề, giải pháp mới, hình
thành tư duy đa chiều, toàn diện, nâng cao khả năng lập luận.

BÀI KIỂM TRA CỦA TRẦN LÊ HUY HÀO. MSSV 211A040158

Triết học là môn học nghiên cứu những vấn đề phổ biến và cơ bản của con người, thế giới quan
và vị trí của con người trong thế giới quan đó, những vấn đề liên quan đến chân lý, tồn tại, tri
thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ. Câu hỏi cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư
tưởng và hiện hữu, tư tưởng và vật chất, ý thức và vật chất. Đó là một vấn đề cơ bản bởi vì giải
pháp của nó sẽ xác định cơ sở cho giải pháp của các vấn đề khác trong triết học, như lịch sử lâu
dài và phức tạp của triết học đã chứng thực, và mặt khác, nó cũng là tiêu chuẩn cho các nhà triết
học và thế giới quan của họ. được thành lập. học thuyết. Ph.Ăngghen cũng đã trả lời câu hỏi
“Câu hỏi cơ bản của triết học là gì?” Theo ông: “Câu hỏi cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
triết học hiện đại, là câu hỏi về mối quan hệ giữa tư tưởng với bản thể và bản thể”.Vì việc giải
quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Câu hỏi
cơ bản của triết học gồm hai phần:
- Phương diện thứ nhất, giữa ý thức và vật chất có trước, có sau? Cái nào quyết định cái
nào?
- Thứ hai, con người có thể nhận thức được thế giới không? Giải quyết hai khía cạnh cơ
bản của triết học là điểm xuất phát của trường phái triết học.
Trả lời khía cạnh thứ nhất, vấn đề cơ bản của triết học nảy sinh khi người ta thừa nhận rằng chỉ
có một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) có trước và quyết định thực thể kia, tức là thế
giới chỉ có một nguồn gốc. Chủ nghĩa duy vật bao gồm cả chủ nghĩa duy tâm (triết học duy tâm)
và chủ nghĩa duy vật (triết học duy vật).
Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không, con người phải nhận
thức thế giới và nhận thức chính mình. Sự hiểu biết và niềm tin vào nó đã dần hình thành một thế
giới quan.
Thế giới quan là nhân tố định hướng quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan
giống như một “thấu kính” mà qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa của cuộc sống và
lựa chọn cách thức đạt được nó.
12

Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng để đo lường sự trưởng thành của mỗi
cá nhân, đồng thời nó cũng là tiêu chí quan trọng để đo lường sự lớn mạnh của một cộng đồng.
Triết học ra đời là cốt lõi lý luận của thế giới quan, cho phép thế giới quan phát triển như một
quá trình có ý thức dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và tổng kết tri thức do khoa học cung cấp.
Đây là chức năng thế giới quan của triết học.
+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan đối lập nhau về
cơ bản. Như vậy, chúng là cơ sở cho các thế giới quan tư tưởng đối lập nhau. Cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách
khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.
Do vậy:
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng
tạo trong hoạt động.
+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động.
+ Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.
Vai trò phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp: Là hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo
việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
- Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất:
+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế giới,
nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý
luận về phương pháp.
Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động sáng
tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung. Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát
triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph.
Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên
chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.
- Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy vật triết học
hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế
giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là
nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận:
+ Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa
duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự
thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để,
và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức
đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan đúng đắn mà
còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi
hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan
tuỳ tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.
13

- Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và các khoa học
cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự
phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương
pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc
biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học, sự hợp tác
chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học khác là hết sức cần
thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên đặc biệt quan
trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị
thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình
đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái
quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững
trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới
mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi cách giải quyết các vấn
đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp
đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa
học cụ thể cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi
con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại
hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai
lầm:
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể
nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo
trong công tác.
+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc
những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính đến tình hình cụ thể
trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ nghĩa
chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của
việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. Vì vậy, thông qua
quá trình học tập Triết học Mác – Lenin bản thân em đã được tiếp cận với những quan niệm triết
học mà nó vượt qua cả những định kiến, suy nghĩ máy móc để nhìn nhận vấn đề một cách chủ
động hơn trong việc tiếp nhận thông tin, tri thức. Triết học là những cuộc hội thoại giữa các tư
tưởng khác nhau trong xuyên suốt chiều dài lịch sử vì thế bản thân em có thể nhìn nhận sự việc
từ nhiều hướng khác nhau chứ không phải chỉ nhìn từ một hướng rập khuôn. Triết học giúp cho
bản thân em có nhiều bài học hơn về khả năng lập luận và chọn lọc thông tin. Được giáo dục bởi
hệ thống tri thức lý luận vững chắc, hình thành thế giới quan Mác - Lê-nin và phương pháp luận
khoa học, giúp nâng cao nhận thức lý luận và chính trị, nhạy bén hơn với thế giới và thực tiễn,
xử lý các tình huống nảy sinh trong thực tiễn và cuộc sống. Giúp cho bản thân em sống có lý
14

tưởng hơn và mơ ước được học tập và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà
nước góp phần xây dựng một xã hội bình đẳng và ngày càng tốt đẹp hơn cho đất nước.

BÀI KIỂM TRA CỦA BÙI PHẠM CẨM HỒNG. MSSV 211A030679
Sau khi học tập và nghiên cứu xong các nội dung cơ bản của Triết học Mac - lênin tôi đã có thêm
rất nhiều kĩ năng đó là kĩ năng kích thích, kĩ năng đặt câu hỏi và tìm kiếm vấn đề, giải pháp mới,
hình thành tư duy đa chiều, toàn diện, nâng cao khả năng lập luận. Đồng thời tôi cũng có những
nhận thức sau đây về triết học:
-Triết học Mac-Lenin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho con người
trong nhận thức và thực tiễn. Đối với bản thân, triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành phương pháp suy luận của những sự vật, hiện tượng, đời sống xung quanh. Hiểu được các
cách nghiên cứu và giải quyết các vấn đề thực tiễn, định hướng đúng hướng đi bản thân và tránh
khỏi những hướng đi sai lầm.
-Triết học Mac-Lenin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để
phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát
triển mãnh mẽ. Trên cơ sở của triết học Mac-Lenin, ta thấy được sự phát triển của khoa học công
nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời những mâu thuẫn trong xã hội và thế giới hiện nay.
Nền tảng của triết học Mac-Lenin chính là bước đệm để các phát minh khoa học ra đời, từ đó bản
thân sẽ có những định hướng vững chắc khi tham gia các nghiên cứu khoa học, có đầy đủ cơ sở
và lý luận để tạo ra những phát hiện mới. Đồng thời, để tồn tại trong những hoàn cảnh mẫu thuẫn
lợi ích và giai cấp, cần có lý luận cách mạch soi đường, thì chủ nghĩa Mac-Lenin chính là gốc rễ
để thực hiện mục đích đó.
-Triết học Mac-Lenin là cơ sở lý luận khoa học trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mac-
Lenin sẽ giúp ta hiểu con đường Đảng và nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang đi, hiểu
được vai trò của nhà nước và Đảng trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa để cùng
chung tay với Đảng và nhà nước thực hiện mục tiêu. Điều này còn giúp ta không bị những thế
lực thù địch dụ dỗ, hiểu sai về Đảng và nhà nước, từ đó để bảo vệ được bản thân và gia đình.
-Vai trò của triết học Mac-Lenin đã được chứng minh không chỉ qua yếu tố lịch sử, mà còn cho
thấy sự hình thành nhân cách và tư duy của một con người. Mong rằng, đối với bản thân nói
riêng và những công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thấy được những giá trị và
tầm quan trọng đó, từ đó tích cực tham gia học tập, rèn luyện, trở thành công dân có ích cho đất
nước.

BÀI KIỂM TRA CỦA VŨ TRẦN ĐAN LINH. MSSV 211A030584


15

Sau khi học môn triết đã giúp cho em có nhận thức, thực tiễn đóng vai trò quan trọng là động lực
và mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý. Triết học giải thích tất cả sự vật, hiện
tượng, quá trình và quan hệ của thế giới, với mục đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất. Tri
thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất
cuộc sống con người. Hình thái ý thức xã hội đảm nhận chức năng xã hội về nhận thức, về tư
duy, về tình cảm và tâm lý….giúp cho đời sống con người diễn ra một cách bình thường theo
quy luật. Học thuyết khoa học nêu ra những quy luật chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy là học thuyết cách mạng vạch ra con đường, chiến lược và sách lược đấu tranh để
giai cấp công nhân lãnh đạo quần chúng cách mạng lật đổ chế đô tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động
thực tiễn góp phần thúc đẩy các sự vận pháp triển theo quy luật vốn có của nó đòi hỏi mỗi chúng
ta phải tìm ra mâu thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải
thấy được sự phát triển là quá trình khó khan, phức tạp. Các cá nhân trong học tập phải biết nắm
chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, để từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý.
Triết học là cơ sở thế giới quan và phương pháp luật khoa học và cách mạng để phân tích xu
hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển mạnh
mẽ. Nền tảng cùa triết học chính là bước điệm để các phát minh khoa học ra đời, từ đó bản thân
có những định hướng vững chắc khi tham gia các nghiên cứu khoa học, có đầy đủ cơ sở và lý
luận để tạo ra những phát hiện mới. Đồng thời để tồn tại trong những hoàn cảnh mâu thuẫn lợi
ích và giai cấp, cần có những lý luận cách mạng soi đường, thì chủ nghĩa Mac-Lenin chính là
gốc rễ để thực hiện mục đích đó. Điều này có giúp ta không bị những thế lực thù địch dụ dỗ, hiểu
sai về Đảng và nhà nước, từ đó bảo vệ được bản thân và gia đình. Như vậy, để có thể giải quyết
một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống,
chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò
mẫm, tuỳ tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể, nhất thời, đi đến chỗ mất phương
hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công việc; hoặc là tuyệt đối
hoá vai trò của triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng áp dụng một cách máy móc những nguyên
lý, những quy luật, những tri thức triết học chung mà không tính đến tình hình cụ thể do không
nắm được tình hình cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó tránh khỏi bị thất
bại.
Kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức – tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri thức
khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết tình hình thực tiễn và trình
độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn) - đó là tiền đề cần thiết đảm bảo thành
công của chúng ta trong hoạt động cụ thể của mình.
Như vậy, cũng như trong quá khứ, trong kỷ nguyên toàn cầu hoá, triết học không mất chỗ đứng
của nó dù là trong phạm vi một dân tộc hay trên bình diện nhân loại. Triết học không chỉ giúp
con người có được cách nhìn nhận đúng đắn thế giới, mà còn giúp con người có được khả năng
đánh giá những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc
sống đặt ra liên quan đến từng cá nhân cũng như đến toàn xã hội và trong quan hệ với thiên
nhiên. Triết học vạch ra những nghịch lý mà con người đang phải đối diện trong bối cảnh toàn
16

cầu hoá, đồng thời cũng góp phần chỉ ra lối thoát khỏi những nghịch lý ấy. Nó vẫn vừa thực hiện
chức năng giải thích thế giới và vừa góp phần biến đổi thế giới hướng tới mục tiêu tất cả là vì
con người và hạnh phúc của con người trong kỷ nguyên toàn cầu hoá.

You might also like