Professional Documents
Culture Documents
Người Ai Cập cổ
Người Ai Cập cổ
Charlotte Booth
Trần Quang Nghĩa dịch
Giới Thiệu
Phần I: Giới Thiệu Người Ai Cập Cổ Đại
Phong cảnh và hệ sinh thái của Ai Cập là nền tảng trong việc hình thành nền văn minh và cốt lõi trong
việc hiểu được văn hóa, nhà nước, và ngay cả tôn giáo đã phát triển dọc theo sông Nile. Phần này nhìn
vào các nền tảng của văn hóa Ai Cập cổ đại, bao gồm làng mạc, nghề nghiệp, và sự phân bố xã hội
(hôn nhân, ly hôn, và những điều khác). Cấu trúc xã hội của nền văn minh Ai Cập đặc biệt quan trọng,
với vị vua đứng đầu và mọi người khác ở bên dưới ông ta, như phần này sẽ mô tả chi tiết.
Phần II: Quay Ngược Thời Gian
Phần này là câu chuyện có thật đằng sau các tất cả đài tưởng niệm. Nó đề cập đến những cá nhân đã
xây dựng chúng, chiến đấu vì chúng, và sau đó phá hủy chúng. Tôi đưa bạn vào cuộc du hành kéo dài
qua 3,000 năm lịch sử, bắt đầu ngay từ khởi thủy của nền văn minh Ai Cập trong thời kỳ tiền triều, và
theo dòng thời gian đến khi bị La mã xâm lăng tại thời điểm Cleopatra lìa đời vào 30 B. C. Lịch sử này
chằn chịt với những trận chiến, nhất là vào thời kỳ gọi là Tân Vương triều, khi Ai Cập đã tổ chức quân
đội chính quy đầu tiên của mình. Phần này tìm hiểu về cuộc sống của một binh sĩ, kể cả những kỹ thuật
tác chiến ghê rợn, những chiến thắng, và những lần thoát chết trong đường tơ kẻ tóc.
Phần này cũng xem xét vai trò của phụ nữ Ai Cập __ kể cả những bà hoàng tiếng tăm cũng như các bà
nội trợ tầng lớp lao động và các bà mẹ. Phần này kết thúc bằng sự sụp đổ của nền văn minh Ai Cập sau
một thời kỳ xâm lăng dai dẳng và quyền trị vì bị chia rẽ __ sự cáo chung buồn thảm của một nền văn
minh năng động.
Phần III: Cuộc Sống Viên Mãn: Văn Hóa và Tín Ngưỡng
Người Ai Cập yêu cuộc sống __ tiệc tùng, săn bắn, ăn uống, khiêu vũ, và tán gẫu với bạn bè. So sánh
sự phức tạp của cuộc sống xã hội của bạn với cuộc sống xã hội của người Ai Cập và bạn sẽ kinh ngạc
vì chúng khá giống nhau. Buồn thay một phần cuộc sống, lúc này hay lúc khác, có mặt của bệnh tật và
đau ốm, và người Ai Cập cũng chịu nhiều thứ bệnh như người hiện đại __ mặc dù tôi sẽ không khuyên
bạn chữa bệnh theo cách của họ đâu!
Khi không thể chữa lành, cái chết sẽ theo sau và liên quan đến nhiều tín ngưỡng và tập tục an táng.
Ngày nay, việc ướp xác đồng nghĩa với Ai Cập cổ đại, mặc dù người Ai Cập không phải là nên văn hóa
duy nhất thực hành việc ướp xác. Tập tục ướp xác phát triển chậm chạp, nhưng nhanh chóng trở thành
phần tinh túy của kiếp sống nơi cõi âm của người quá cố, bởi vì nếu không có xác thân, kiếp sống ở thế
giới bên kia sẽ rất buồn chán. Để giảm thiểu sự buồn chán, tất cả vật dụng của người quá cố được tống
vào mộ phần để họ sử dụng sau khi tái sinh.
Người Ai Cập yêu cuộc sống nhiều đến nổi họ muốn tiếp tục sống thọ như có thể. Tuy nhiên, ướp xác
và các nghi thức an táng không phải là những tín ngưỡng tôn giáo duy nhất được đề cập trong phần
này. Các đền thờ ở Ai Cập dựng gần nơi công cộng, vì thế người Ai Cập phát triển hai dạng tôn giáo __
một tôn giáo nhà nước phức tạp với vị vua là người giao tiếp trực tiếp với các thần linh, và một tôn
giáo dân gian cũng phong phú với một bộ phận thần linh hoàn toàn mới giúp họ về những lãnh vực đặc
thù của đời sống, như sức khỏe, thai sản, và sinh con.
Phần IV: Lý Giải Văn Hóa và Kiến Trúc Ai Cập
Phần IV bắt đầu với việc giải mã chữ tượng hình Ai Cập, một trong những khám phá nền tảng nhất của
Ai Cập học. Phần nghệ thuật cũng là phần cốt yếu của bất kỳ tài liệu nào (và của di tích kiến trúc nào),
và việc có thể ‘đọc’ được nghệ thuật cũng quan trọng không kém việc đọc văn bản. Phần này lý giải
những đặc tính nền tảng của nghệ thuật Ai Cập.
Phần này cũng đề cập đến công trình nghiên cứu các cấu trúc đài tưởng niệm của người Ai Cập, bao
gồm đền thờ, lăng mộ, và kim tự tháp. Người Ai Cập không làm điều gì một cách tùy hứng hoặc vì vẻ
đẹp (nhưng phải nói rằng mọi thứ họ làm đều đẹp). Thay vào đó, một ý thức hệ tôn giáo ảnh hưởng mọi
yếu tố kiến trúc của người Ai Cập cổ đại. Vì thế khi tôi trình bày những cấu trúc vô tiền khoáng hậu
này, tôi cũng giới thiệu với bạn niềm cảm hứng đã tạo nên chúng.
Phần V: Mười Điều Tâm Niệm
Phần này gởi đến bạn những thông tin hữu ích, bao gồm một danh sách mười nhà Ai Cập học cự phách
và mười phát hiện và cột mốc kỳ vĩ trong ngành Ai Cập học. Bạn cũng sẽ gặp mười nhân vật Ai Cập
góp phần phát triển nền văn hóa Ai Cập, cũng như các thành tựu đỉnh cao của nền văn hóa này. Tôi
cũng trình bày mười địa điểm du lịch tuyệt vời trên đất nước của kim tự tháp.
PHẦN 1
GIỚI THIỆU NGƯỜI Ai CẬP CỔ ĐẠI
Trong phần này . . .
Người Ai cập cổ đại được khắp thế giới biết đến qua kim tự tháp và vàng bạc châu báu của mình. Tuy
nhiên, đây chỉ là một phần của câu chuyện. Người Ai cập là một phần của một xã hội phức tạp, rộng
lớn, đứng đầu là một vị vua và những thợ không lành nghề đứng dưới đáy. Giống như một kim tự tháp
vậy.
May thay, người Ai cập để lại hàng đống thông tin liên quan đến cuộc sống thường nhật của họ. Phần
này sẽ khám phá các ngôi nhà họ nương náu, hệ thống giáo dục, và phân bố xã hội liên quan đến hôn
nhân, ly hôn, và người già cả.
Chương 1
Bối Cảnh: Địa Lý Và Lịch Sử Ai Cập Cổ Đại
Trong Chương Này
Khám phá phong cảnh Ai Cập
Thống nhất hai vùng đất
Khảo sát đẳng cấp của xã hội Ai Cập
Người Ai Cập cổ đại đã lôi kéo sự tưởng tượng trong hàng thế kỷ. Từ khi các nhà Ai Cập học giải mã
được chữ tượng hình vào đầu thế kỷ 19, nền văn minh phi thường này đã rộng mở đón nhận các nhà sử
học, khảo cổ, và những người bình dân hiếu kỳ.
Thông tin về người Ai Cập cổ đại bùng nổ, bao gồm các sự kiện đầy mê hoặc về hầu hết các lãnh vực
về cuộc sống của họ __ mọi thứ từ vai trò của phụ nữ, tình dục, và mỹ phẩm, cho đến việc đánh cá, săn
bắn, và tác chiến.
Cuộc sống các dân Ai Cập cổ đại có thể dễ dàng được phân loại. Như bất kỳ sử gia đúng mực nào, bạn
cần nhìn văn minh như một tổng thể, và điểm bắt đầu tốt nhất là nguồn gốc của dân tộc gây kinh ngạc
này.
Vậy ai là người Ai Cập cổ đại? Họ xuất thân từ đâu? Chương này sẽ trả lời cho bạn và bắt đầu vẽ nên
bức tranh về một nền văn hóa được tổ chức tinh vi đã phát triển, hưng thịnh, và cuối cùng sụp đổ dọc
theo bờ sông Nile.
Sông Nile: Nguồn Cội của Sự Sống
Văn minh cổ Ai Cập sẽ không bao giờ được phát triển nếu không có sông Nile. Sông Nile từng là __ và
còn là __ nguồn nước duy nhất trong miền đất bắc Phi này. Không có nó, không sự sống nào có thể bền
vững.
Cổ Ai Cập thường được gọi là thung lũng sông Nile. Thuật ngữ này nói đến vùng đất phì nhiêu nằm
dọc theo bờ sông, bao phủ một diện tích 34,000 cây số vuông. Toàn bộ phần đất này không thay đổi
nhiều trong 5,000 năm qua, mặc dù dòng sông ít nhiều thay đổi, và nhờ hệ thống tưới tiêu nhân tạo
vùng đất đã gia tăng độ phì nhiêu đôi chút.
Kích cỡ và tầm ảnh hưởng
Sông Nile là con sông dài nhất thế giới, chạy dài 6,741 km từ đông Phi đến biển Địa Trung Hải.
Sáu thác nước lớn do đá trồi lên từ lòng sông, ngăn chia phần phía nam của sông Nile giữa Aswan và
Khartoum. Thác đầu tiên ở Atwan tạo thành biên giới tự nhiên của Ai Cập cho đến Vương Triều Mới
(1550 B. C.), khi người cổ Ai Cập bắt đầu đi càng xa về phía nam để săn tìm vàng và các vùng lãnh thổ
để dựng lên đế chế của họ.
Bảng đồ Ai Cập dưới triều đại Pha-ra-ông
Sông Nile chạy từ nam đến bắc __ từ nội địa Phi châu cho đến biển Địa Trung Hải. Phần phía nam Ai
Cập gọi là Thượng Ai Cập vì nó gần nguồn sông Nile nhất, phần phía bắc gọi là Hạ Ai Cập.
Phần phía bắc Ai Cập xòe ra thành một chuỗi những kênh đào, tất cả đều dẫn đến Địa Trung Hải. Phần
phía bắc Ai Cập này được biết dưới tên Châu thổ và chủ yếu là đầm lầy. Vùng này đặc biệt phì nhiêu
__ cây papyrus (dùng làm giấy trên đó nhiều văn tự cổ Ai Cập còn lưu lại được viết) mọc xum xuê ở
đó.
Cơn lụt không đến
Trong thời trị vì của Djoser ở triều đại thứ ba, Ai Cập đã kinh qua bảy năm đói kém vì lụt hàng năm
thấp một cách bất thường. Vua chịu trách nhiệm trước tình hình vì ông là trung gian giữa người phàm
và các đấng thần linh, và tình trạng đói kém được coi là sự trừng phạt của thần linh dành cho vị vua
không làm tròn chức trách. Trên Đảo Sehei ở nam Ai Cập, Ptolemy V (204-181 B. C.) đã cho dựng
một bia kí ghi lại trận đói kém này và hành động của Djoser:
Ta ngồi rầu rĩ trên ngai vàng. Mọi người trong cung điện đều sầu não . . . vì Hapy [cơn lụt] không
đến đúng hẹn. Trong thời hạn bảy năm, lúa thóc khan hiếm, hạt giống nứt nẻ . . . Mọi người cướp bóc
lẫn nhau . . . Trẻ con kêu khóc . . . Người già quẫn bách . . . Đền thờ đóng cửa, Lăng mộ phủ bụi, Mọi
người đều u sầu . . . Ta tham vấn một quan chức, vị trưởng tế của Imhotep . . . Y chạy đi, rồi nhanh
chóng chạy về gặp ta.
Imhotep, công trình sư của kim tự tháp bậc thang (xem Chương 14), lần theo cội nguồn sông Nile đến
đảo Elephantine và hang động Khnum. Ông trấn an vua Djoser là sự thờ phụng trở lại thần Khnum sẽ
làm trận lũ trở về. Nghe lời, Djoser vâng lễ vật cúng tế đến đền thờ thần Khnum, cơn lũ mong đợi lần
nữa trở lại, dâng cao đến mức độ mong muốn, khiến Ai Cập hồi phục vị thế nông nghiệp vốn có, và
làm sống lại lòng tin của dân chúng vào vua Djoder.
Tuy nhiên, vì bia ký này được viết hơn 2,000 năm sau ngày xảy ra biến cố, các sử gia gặp khó khăn khi
đánh giá sự chính xác của nó như một chứng cứ lịch sử. Một số học giả tin rằng tấm bia ký này là một
bản sao của một kiểu mẫu thời Cựu Vương triều được Djoser dựng lên; một số khác tin rằng nó được
dựng trong thời đại Ptolemaic như một minh chứng cho việc trùng tu đền thờ Khnum. Sự thật có thể
không bao giờ được biết.
Charlotte Booth
Trần Quang Nghĩa dịch
Phần 2
Quay Ngược Thời Gian
Lịch sử của cổ Ai Cập biến hóa và đầy màu sắc, và phần này sẽ đưa bạn vào một hành trình biên niên
sử từ thời khởi đầu tiền triều của văn minh Ai Cập đến khi sụp đổ sau cái chết của nữ hoàng Cleopatra.
Trong phần này tôi đề cập các trận đánh của Thutmosis III khi binh sĩ đáng lẽ chiến đấu lại quay ra
cướp bóc, và việc dồn quân địch vào thế bí một cách ngoạn mục của Ramses II ở Kadesh mà ông chọn
ghi vào sử sách như một chiến tích vĩ đại.
Tất cả các ông vua ra trận này đều được một số lớn các bà, gồm vợ, mẹ, và con gái ủng hộ, một số
trong đó đã làm nên lịch sử khi nắm quyền bính như Hatshepsut và Cleopatra trị vì Ai Cập mà không
cần đàn ông trợ giúp.
Buồn thay, do cứ xâm lược liên tục, và các thảm họa sinh thái và kinh tế, nền văn minh Ai Cập từ từ
suy thoái cho đến khi cuối cùng bị La mã nuốt chững và sau đó biến mất vào thế kỷ thứ tư
Chương 3
Xây Dựng nền Văn Minh bằng Sức Mạnh Quân Sự
Vương quốc Cổ
Thời kỳ cuối
Thời kỳ Hy La
Các tiết mục sau đây đề cập đến lịch sử Ai Cập từ thời kỳ tiền triều qua thời kỳ trung gian thứ nhất.
Chương 4 tìm hiểu Tân Vương quốc, một trong những kỷ nguyên năng động nhất của cổ Ai Cập.
Thời kỳ tiền triều
Thời kỳ tiền triều từ khoảng 5500 B. C. đến 3100 B. C. và kết thúc bằng việc thống nhất Ai Cập.
Trong thời kỳ này, Ai Cập được phân chia thành hai nền văn hóa rất khác biệt: một ở Thượng Ai Cập
và một ở Hạ Ai Cập. Nói kiểu khảo cổ, các địa điểm nghĩa trang tọa lạc chủ yếu ở Thượng Ai Cập còn
địa điểm định cư thì ở Hạ Ai Cập.
So sánh sự khác biệt giữa Thượng và Hạ Ai Cập
Trong nhiều năm, các nhà khảo cổ cho rằng các nền văn hóa ở Thượng và Hạ Ai Cập đều hoàn toàn
khác biệt với văn hóa Ai Cập sau này. Flinders Petrie (xem Chương 19) còn cho rằng các văn hóa tiền
triều hoàn toàn là những nền văn hóa ngoại bang do sự xâm lăng của châu Á. Các nghiên cứu gần đây
giờ đây cho thấy sự tiến hóa chậm chạp từ các yếu tố văn hóa tương phản này đến nền văn minh Ai
Cập được biết đến nhiều hơn.
Văn hóa của cả hai miền đều rất khác với nền văn hóa có tính truyền thống hơn mà hầu hết nhà nghiên
cứu đều gán cho cổ Ai Cập. Tuy nhiên, có vài điểm chung tiếp tục tồn tại suốt thời kỳ Hy La vẫn thấy
xuất hiện trong nghệ thuật của các nền văn hóa Ai Cập sớm sủa nhất này, bao gồm:
Cảnh đánh đập, hoặc các hình ảnh trong đó vua được mô tả đang đập chết kẻ thù của mình. Ví
dụ được biết xưa nhất đến từ lăng mộ 100 tại Hierakonpolis có niên đại 3500-3200 B.C.
Các hình ảnh về sự sùng bái gia súc, mà sau này phát triển thành việc sùng bái nữ thần Hathor
(xem Chương 9).
Vương miện đỏ của Hạ Ai Cập, biểu tượng vương quyền trong vùng này. Hình ảnh sớm nhất
về vương miện đỏ của Hạ Ai Cập có niên đại khoảng 3500 B. C. từ một mảnh gốm hiện lưu giữ tại Bảo
Tàng Ashmolean, Oxford.
Thống nhất đất nước Ai Cập
Văn minh Ai Cập được biết ngày nay bắt đầu trong thời trị vì của Vua Narmer (triều đại 0) vào khoảng
3100 BC. Ngay từ lúc Vua Narmer bắt đầu trị vì, Ai Cập được phân chia thành những miền do địa
phương tự trị, nhưng tại một thời điểm nào đó Narmer có công thống nhất các miền này dưới sự cai trị
của một người duy nhất là chính ông.
Các sử gia không chắc về việc thống nhất này có phải là kết quả của một số trận đánh nhỏ hay chỉ do
một trận đánh lớn quyết định, mặc dù giả thiết trên có phần chắc hơn.
Sự thống nhất được ghi lại trên Bia Ký Narmer, một phiến đá tưởng niệm ở Hierakonpolis và hiện giờ
ở Bảo Tàng Cairo. Bia có khắc một cảnh đánh nhau xưa nhất từ cổ Ai Cập cũng như một số mô típ
hình ảnh vẫn tiếp tục được sử dụng trong 3,000 năm tiếp theo, như:
Nhà vua đập đầu một kẻ thù bại trận bằng chùy.
Bản ngà và gỗ (chắc chắn được kèm theo các vật dụng an táng trong mộ phần)
Bình sứ
Dấu niêm hình trụ bằng đất sét (dùng để niêm phong hộp, cửa, và có thể thư từ, tài liệu).
Vào cuối thời kỳ triều đại cổ, nhà nước được hình thành hoàn toàn, và các vì vua bắt đầu cho xây các
lăng mộ ngầm rộng lớn (xem Chương 13) với các vật dụng an táng đắt giá và tinh xảo để biểu lộ sự
giàu có mà họ đã tóm thu được.
Vương quốc Cổ
Vương quốc Cổ (2686-2333 BC) chủ yếu là thời gian mà hoàng gia giàu có lên, kinh tế phát triển và
kéo dài từ triều đại thứ ba đến thứ sáu. Đây là thời kỳ được biết nhiều nhất vì công trình xây dựng kim
tự tháp đã lên đến đỉnh cao.
Tòa tháp đá đầu tiên và kim tự tháp đầu tiên được xây dựng là Kim Tự Tháp Bậc Thang ở Saqqara vào
triều đại thứ ba (xem chi tiết ở Chương 3). Vua Djoser xây kiến trúc này như một hình thức kết nối
giữa lăng mộ truyền thống và đền tưởng niệm bậc thang. Sự tiến hóa của kim tự tháp tiếp tục trong suốt
thời Vương quốc Cổ cho đến đỉnh cao nhất là Đại Kim Tự Tháp của Vua Khufu ở Giza, xây dựng từ
2589 đến 2566.
Về cuối thời Vương quốc Cổ (triều đại thứ năm), Văn bản Kim Tự Tháp được soạn thảo. Những tài liệu
này cung cấp một số thông tin sớm sủa nhất về tín ngưỡng an táng của người Ai Cập cổ. Những văn
bản này, cùng với những văn bản tiểu sử tìm thấy trong lăng mộ, cung cấp cho sử gia những lô thông
tin về chế độ quan lại và tổ chức hành chính của Vương quốc Cổ.
Triều đại thứ sáu chứng kiến sự thay đổi kinh tế của Ai Cập, với tầng lớp quý tốc trở nên lớn mạnh và
sau đó giàu có hơn cả vua. Tài sản và quyền lực này được phản ảnh qua lăng mộ của các hoàng tộc và
quý tộc; lăng mộ của giới quý tộc sắc sảo hơn nhiều. Mỉa mai thay, sự di chuyển quyền lực này có lẽ là
do các cận thần được nhà vua sủng ái nên được miễn trừ thuế quá nhiều.
Sự sụp đổ của Vương quốc Cổ là do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất là một loạt các trận
lũ lụt khiến mùa màng thất bát, gây ra đói kém và sau đó là bệnh tật.
Thời kỳ trung gian thứ nhất
Thời kỳ trung gian thứ nhất (2180-2140 BC) là thời kỳ của những rối ren chính trị theo sau giai đoạn
kết thúc của Vương quốc Cổ.
Sau khi Vương quốc Cổ sụp đổ, tầng lớp nghèo, quẩn bách vì đói kém và bệnh tật, vùng lên chống lại
các nhà cai trị và giai cấp ăn trên ngồi trước. Những cuộc nổi loạn này được mô tả trong một văn bản
dài có tên là ‘Lời cảnh cáo của Ipuwer’:
Người giàu có đang than khóc. Người nghèo đói tràn ngập niềm vui. Mọi thành phố đều lên tiếng:
chúng ta hãy đập tan bọn quyền thế đè đầu chúng ta. Người gác cửa nói, ”Chúng ta hãy ra ngoài cướp
bóc.’ Một người đàn ông nhìn con trai mình như kẻ thù. Bọn càn quấy ở khắp mọi nơi . . . bọn cướp
bóc ở khắp mọi nơi. Tên ăn trộm thành người giàu có, người giàu có thành kẻ cướp bóc. Những người
bắt chim đứng dàn hàng chiến đấu và các nông dân ra ngoài cày bừa bằng chiếc khiên của mình.
Văn bản này vẽ lên một bầu không khí khủng khiếp, trong đó tình trạng vô chính phủ ngự trị và dân
chúng sống trong nổi sợ chết triền miên. Thời kỳ trung gian thứ nhất là minh chứng cho câu ngạn ngữ
‘nền văn minh chỉ cách tình trạng vô chính phủ đúng ba bữa ăn’.
Sự điều hành Ai Cập lại lần nữa phân chia, với triều đại thứ tám cai trị ở miền Memphite, mặc dù
quyền lực của nó bị giới hạn trong phạm vi cục bộ. Các thủ lĩnh cò con đua nhau nắm quyền kiểm soát
các thị trấn và tỉnh lỵ và cai trị phần còn lại của Ai Cập.
Khi triều đại thứ tám sụp đổ, triều đại thứ chín nắm quyền kiểm soát Herakleopolis. Triều đại này có
thể đã kiểm soát toàn bộ Ai Cập ít ra trong một thời gian ngắn. Triều đại thứ mười chứng kiến sự chia
cắt Ai Cập lần nữa, với triều đại cai trị từ miền Herakleopolis, và khuynh hướng này tiếp tục với triều
đại thứ 11 cai trị từ Thebes.
Trung Vương quốc
Cuối cùng triều đại 11 kiểm soát toàn bộ Ai Cập, thống nhất nó và bắt đầu thời kỳ gọi là Trung Vương
quốc. Sự thống nhất xảy ra trong thời trị vì của vì vua thứ tư, Mentuhotep (2125-2055 BC).
Trong triều đại 11, các tổng trấn gia tăng quyền lực, và mặc dù đất nước bây giờ chỉ do một ông vua
cai trị, nhưng ông vua này phụ thuộc vào các tổng trấn. Do đó nhà vua cần phải kêu gọi họ giúp đỡ việc
thành lập quân đội, với mỗi trấn tuyển mộ một số trai tráng cho chiến dịch quân sự, hộ tống việc viễn
thương, hoặc tuần tra biên giới.
Tuy nhiên, vào cuối thời trị vì của Senwosret III (triều đại 12), nhà vua đã lấy lại đủ quyền kiểm soát
để thành lập quân đội riêng mà không cần sự hổ trợ của các tổng trấn.
Các vì vua thời Trung Vương quốc coi trọng việc bành trướng đất nước Ai Cập, dần dần mở rộng về
Nubia. Mỗi lần tiến chiếm thành công, họ lại củng cố phần đất xâm chiếm bằng cách xây dựng đồn lũy.
Chẳng hạn:
Amanemhat I của triều đại 12 xây dựng một hàng đồn lũy ở vùng Châu thổ đông bắc để bảo vệ
biên giới khỏi những cuộc xâm lấn từ châu Á.
Giữa các đời vua Senwosret I và III, một chuỗi 17 đồn lũy ở Nubia __ mười cái gần thác nước
thứ hai của sông Nile vượt qua biên giới giữa Ai Cập và Nubia __ được dựng lên để ngăn cản sự thâm
nhập của người Nubia cũng như để kiểm soát việc buôn bán từ các mỏ vàng và mỏ đá trong vùng.
Đôi khi những đồn lũy này quá lớn, vừa là minh chứng cho thấy các vua Trung Vương quốc là các
triều đại ưa chinh chiến vừa để cho người Nubia biết rằng người Ai Cập muốn dừng lại ở đó.
Mười đồn lũy gần thác nước thứ hai có chung những đặc điểm kiến trúc như:
Các pháo đài (nhô ra từ các vách thành từ đó binh lính có thể bắn pháo vào kẻ thù.
Các bức tường thành bằng gạch bùn dựng trên nền đá lớn. Bức tường dày có lối đi bên trên để
binh lính có thể tuần tra chung quanh.
Hào bao chung quanh tường thành tạo ra trở ngại cho bất cứ ai muốn lọt vào bên trong thành
lũy. Hào được sơn trắng để bất kỳ ai băng qua đều có thể bị phát hiện từ tường thành.
Cầu thang có bao tường chạy đến sông Nile để lấy lương thảo chở đến và là nơi từ đó có thể
đột kích kẻ thù bằng đường thủy. Cầu thang là chốn an toàn nhất của thành lũy.
Những thành lũy khác củng cố thị trấn và đền thờ được xây dựng gần đó. Thành Buhen có những khe
bắn tên xây cao trên tường thành, cho thấy bắn cung là phương pháp phòng thủ chính.
Ngoài việc là biểu tượng của sức mạnh Ai Cập, những thành lũy này cũng cung cấp phần lớn thông tin
về cuộc sống các binh sĩ, gồm tiền lương, khí tài, áo giáp, và lương thảo (xem‘Thành lập quân đội:
Chìa khóa đến Tân Vương quốc’ ở mục sau của chương này).
Thời kỳ trung gian thứ hai
Trung Vương quốc sụp đổ khoảng 1782 BC theo cách tương tự như Vương quốc Cổ, có lẽ do lũ lụt và
nạn mất mùa liên tiếp. Nhiều sử gia quả quyết là những mô tả về điều kiện sống kinh khủng trong
‘Cảnh cáo của Ipuwer’ (xem lại ‘Thời kỳ trung gian thứ nhất’, ở phần trước của chương này) cũng áp
dụng được cho thời kỳ trung gian thứ hai.
Vì một lý do nào đó, vào cuối thời Trung Vương quốc, một làn sóng người từ vùng Palestine và Syria
(mà người Ai Cập gọi là người châu Á) tràn đến vùng này. Đây không phải là cuộc xâm lấn, mà là cuộc
di cư trên diện nhỏ. Một số sử gia tin rằng nhà nước Ai Cập có thể đã mời người Palestine vào vì
chuộng tay nghề đóng thuyền của họ. Sau đó những di dân này được cho cư trú trên vùng Châu thổ, nơi
có nhiều cảng lớn và những trung tâm thương mại. Sự di dân này không chắc là nguyên nhân gây ra sự
sụp đổ của Trung Vương quốc, nhưng di dân và những thay đổi họ mang lại thúc đẩy thời kỳ Hyksos
đến nhanh hơn.
Thời kỳ Hyksos
Vào cuối thời kỳ trung gian thứ hai (1663-1555 BC), Ai Cập trải qua một thời kỳ cai trị phân ly, với
triều đại 15 cai trị ở phương bắc từ vùng Châu thổ của Avaris còn triều đại 17 cai trị từ Thebes ở phía
nam:
Các ông vua của triều đại 15 được biết dưới tên Hyksos và vươn lên nắm quyền từ cộng đồng
dân Palestine-Syria sống ở vùng Châu thổ trong thời Trung Vương quốc.
Các ông vua của triều đại 17 có nguồn gốc Ai Cập, nhưng có thể đã là những ông vua chư hầu
của triều đại 15, điều này có nghĩa là họ chỉ được phép cai trị vì họ nghe lời và không gây rắc rối.
Các nhà cai trị Hyksos thường được cho là xâm lăng Ai Cập từ Palestine dùng chiến mã xa, lúc đó Ai
Cập chưa biết đến. Đúng ra các vua Hyksos đến từ cộng đồng Á châu bản địa trong vùng Châu thổ.
Những cộng đồng này đã sinh sống ở đó hơn 100 năm trước khi thời kỳ Hyksos bắt đầu.
Đánh đuổi người Hyksos
Gần cuối thời kỳ Hyksos (khoảng 1640 BC), vua Hyksos đã kiểm soát toàn bộ Ai Cập, hành xử như
những vì vua đương nhiên của Thượng và Hạ Ai Cập.
Tuy nhiên, các thành viên của triều đại 17 ở Thebes không chấp nhận việc các vua Hyksos xen vào
những vấn đề bản địa. Vì thế Seqenenre Tao II, một vị vua của triều đại 17, đem quân chống lại vua
Hyksos là Apophis.
Cuộc chiến không dễ dàng như Seqenenre nghĩ lúc đầu, và ông tử trận. Xác ướp của ông có nhiều vết
thương trên đầu, cho thấy đây là một trận đánh tàn khốc. Con trai ông Kamose mang bao tay sắt, tiếp
tục trận đánh. Kamose thành công hơn một chút và xoay xở lấy lại được gần hết Ai Cập, đẩy lùi
Apopis trở về kinh đô Avaris của người Hyksos.
Kamose chết trẻ, nhưng các sử gia không biết chắc vì lý do gì. Em của Kamose là Ahmose I thay anh
chỉ huy cuộc chiến và đạt được nhiều thành công hơn anh mình, đánh đuổi được người Hyksos ra khỏi
Ai Cập hoàn toàn. Ahmose tiếp tục truy đuổi người Hyksos đến tận Sa mạc Hegev giữa Rafah và Gaza,
cướp bóc làng mạc trên đường tiến quân.
Sau đó Ahmose thu quân về Ai Cập và củng cố biên giới phía đông bằng sự hiện diện của một đạo
quân hùng mạnh để bảo đảm bọn người Hyksos không dám bén mảng đến xứ sở ông một lần nữa. Vị
vua lẫy lừng này là vị vua đầu tiên của triều đại 18 và là vị vua mở đường vào Tân Vương quốc.
Xây Dựng Quân Đội: Chìa Khóa Mở vào Tân Vương quốc
Bắt đầu Tân Vương quốc (1555 BC) chứng kiến một số thay đổi trong quản lý và tổ chức chính quyền.
Nhưng thay đổi chính __ và thành công nhất __ là việc thành lập một quânđội chính quy thường trực.
Trước thời Tân Vương quốc, khi nhà vua cần quân đội, các tổng trấn địa phương được triệu tập để gọi
các thanh niên khỏe mạnh đăng lính trong địa phương mình. Ahmose, tuy nhiên, thấy được khuyết
điểm của thủ tục này, liền đưa vào thể chế quân đội chính quy toàn thời gian.
Như với hầu hết thứ bậc ở Ai Cập, các cấp bậc quân sự được cha truyền con nối. Tuy nhiên, dựa vào
các hồ sơ thăng chức trong quân ngũ, các thanh niên Ai Cập, cho dù không được học hành, có thể trở
thành những người lính và thăng tiến cấp bậc. Trước khi có quân đội chính qui, người Ai Cập có thể
nắm được quyền lực chính trị hoặc lên ngai vàng chỉ bằng con đường quan lại hoặc làm tu sĩ
Đăng lính
Luyện tập trong quân ngũ bắt đầu ngay từ tuổi lên 5, mặc dù làm chiến binh chuyên nghiệp chỉ bắt đầu
khi được 20. Những người được tuyển mộ lớn tuổi hơn có thể gia nhập quân đội theo lệnh động viên
cưỡng bách phục vụ trong quân ngũ ít nhất một năm trước khi được giải ngũ trở về làng. Tuy nhiên,
sau khi được huấn luyện họ có thể bị gọi vào lính bất cứ lúc nào.
Cũng giống như ngày nay, những người mới được tuyển mộ phải được cắt tóc. Hình ảnh minh chứng
cho việc này đã được phát hiện trong các lăng mộ. Việc cắt tóc tạo ra tính kỹ luật, hợp nhất của quân
đội.
Các văn bản còn sót lại cũng mô tả những ngày đầu của một người được tuyển mộ vào lính. Họ nhận
được ‘cú chào sân nhừ tử’ như một biện pháp khiến họ mất tinh thần, và trở nên riu ríu và biết vâng
lệnh. Chế độ huấn luyện rất khắc nghiệt, bao gồm:
Vật lộn
Đánh bốc
Cởi chiến mã xa
Thực tập bắn cung khi đứng trên chiến mã xa đang phi (xem Hình 3-1)
Những luyện tập này rõ ràng là nghiệt ngã đối với bất kỳ ai, nhưng thử tưởng tượng phải tập luyện dưới
cái nắng hơn 38 độ. Không lấy gì làm lạ khi quân đội Ai Cập đặc biệt tinh nhuệ khiến nhiều kẻ thù
khiếp sợ.
Hình 3-1: Thực tập bắn bia đồng trên chiến mã xa
Tổ chức quân đội
Quân đội gồm phần lớn là bộ binh được chia ra thành những sư đoàn gồm 5,000 người. Mỗi sư đoàn
được đặt tên theo tên một vị thần và sư đoàn trưởng là một người trong hoàng tộc. (Một số hoàng tử
giữ chức vị này chỉ là những đứa trẻ, cho thấy đây chỉ là tước vị vinh dự.) Các sư đoàn bao gồm một
nhóm các chiến mã xa, cung thủ, lính sử dụng giáo, và những binh lính đánh thuê nước ngoài.
Để dễ kiểm soát hơn, quân số được chia nhỏ hơn:
Tiểu đoàn gồm 500 người (ít nhất hai đại đội)
Đội quân nhạc: Kèn và trống được sử dụng để thúc giục binh sĩ hăng hái tiến quân kịp thời,
cũng như ra hiệu kệnh những thay đổi chiến thuật và điều động tác chiến.
Đội quân kỳ: Đội quân kỳ là một thành phần quan trọng của trận đánh, vì quan sát được vị trí
của quân ta trên chiến trường là điều sinh tử. Quân kỳ cũng là nguồn cổ vũ niềm kiêu hảnh cho đoàn
quân.
Thư ký chiến trường: Mọi sự kiện trong trận đánh cần được ghi chép, và thư ký chiến trường
đồng hành cùng đoàn quân ra bãi chiến trường. Họ có nhiệm vụ đếm những bộ phần cơ thể bị đứt lìa
sau trận đánh (một phương pháp đếm xác kẻ thù), cũng như ghi chép số lượng chiến lợi phẩm và số tù
binh bị bắt.
Đoàn hậu cần: Một số cá nhân khác đi theo làm vệ sinh các lều trại của sỉ quan, mang nước, và
nấu ăn. Những cá nhân này thường có cả các trẻ em, mà sau này sẽ được huấn luyện thành chiến binh.
Thi hành những trách vụ không tác chiến
Ngoài việc phải đánh nhau, các binh lính có trách vụ thi hành một số công việc buồn tẻ hoặc khó khăn
sau:
Một trong những công việc tẻ nhạt nhất là canh gác con đường giao thương qua sa mạc lên đến
20 ngày một lượt. Một số tranh tường tại những cứ điểm trên sa mạc cho thấy những người lính đang
làm nhiệm vụ buồn chán đến phát điên, đếm từng ngày để được về với thế giới văn minh.
Các binh lính cũng được sung vào đội quân vận chuyển những khối đá khủng để xây những quan
tài bằng đá hoặc các đài tưởng niệm. Công việc cần hàng trăm thanh niên cường tráng và binh sĩ là lực
lượng lý tưởng.
Vì có sức khỏe, binh lính cũng được sung vào lực lượng thu hoạch mùa màng để bảo đảm việc
gặt hái được nhanh và gọn. Ta không biết rõ hoặc họ phải đi về làng mạc của mình để phụ giúp các
nông dân hoặc được phân công đến những khu vực thiếu nhân lực nhất, nhưng các binh sĩ chắc chắn
được sử dụng vào công việc hàng năm quan trọng này.
Trên đường hành quân
Khi các binh lính được điều động trong một chiến dịch quân sự, họ chắc chắn mơ ước được phân công
làm nhiệm vụ canh gác nhàn hạ. Đường ra chiến trường thì thường xa xôi và gian khổ __ đôi khi cũng
nguy hiểm như lâm chiến.
Chẳng hạn, lộ trình từ Memphis đến Thebes, nếu đi dường sông ban ngày, sẽ mất từ 12 đến 20 ngày.
(Ngày nay chỉ mất 9 giờ nếu đi tàu hỏa hoặc khoảng 1 giờ nếu bằng máy bay.) Đường thủy đầy những
rủi ro, đụng các con tàu khác, mắc cạn, và gặp hà mã.
Các sử gia không biết được quân đội Ai Cập hành quân nhanh cỡ nào, nhưng các ghi chép từ quân đội
của Alexander Đại Đế (khoảng 336-323 BC) cho thấy quân đoàn của ông vượt trung bình 13 dặm một
ngày, được nghỉ ngơi sau năm đến sáu ngày trong những cuộc hành quân đường xa. Trong những chiến
dịch ngắn hơn, quân đoàn vượt được 15 dặm một ngày. Trước khi giáp chiến binh sĩ cũng được nghỉ
ngơi một thời gian sau khi đến nơi.
Ăn uống như binh lính:
Khẩu phần quân đội
Người lính thường phải mang theo khẩu phần ăn của mình, khiến quân trang càng nặng nề. Alexander
Đại Đế ghi chép rằng quân đoàn 10,000 người và 2,000 con ngựa của ông tiêu thụ mỗi ngày
18 tấn cỏ
Gậy và đá: Gậy rất tiện khi cận chiến. Đá để ném từ xa.
Chùy: Miếng đá cứng và bén này cắm vào một cán gỗ được sử dụng để búa vào đầu kẻ địch.
Vào thời Tân Vương quốc, nó lại được gắn thêm một lưỡi dao cong bằng đồng để vừa búa vừa chém
quân thù.
Ná: Gốc là sử dụng khi đi săn, giờ cải tiến để đánh giặc. Đá cuội để bắn thì lúc nào cũng có sẵn,
còn ná thì mang theo gọn nhẹ.
Gậy ném: Thường được sử dụng khi săn chim, nhưng cũng là vũ khí lợi hại.
Cung tên: Quân đội Ai Cập có một binh chủng bắn cung hùng hậu dùng để bảo vệ bộ binh tiến
đánh từ khoảng xa vì tên có thể bắn đến 200 mét đến 300 mét. Cung thủ dùng cả hai loại cung, cung
đơn làm bằng một miếng gỗ duy nhất hoặc cung ghép bằng một số miếng gỗ dán dính vào nhau.
Giáo: Nhiều bộ binh được trang bị bằng giáo dài đến 2 mét, lưỡi bằng kim loại. Giáo có thể
được phóng đi, nhưng nếu phóng thì không còn vũ khí chiến đấu, nên được sử dụng để đâm.
Rìu, dao găm, và kiếm: Những vũ khí này được sử dụng khi cận chiến và được làm bằng đồng,
sắt, hoặc đá (đối với rìu).
Kiếm Khepesh: Vũ khí này xuất hiện vào thời Tân Vương quốc thường được
hoàng tộc sử dụng có lưỡi kiếm cong.
Khiên: Khiên dùng để che chắn thân thể thay cho áo giáp. Chúng cao khoảng 1 đến 1.5 mét và
làm bằng gỗ. Thường làm bằng một khung gỗ bọc da bò. Ở mặt sau khiên có một tay cầm với dây
choàng để máng vào vai khi hành quân.
Sự vận chuyển có chọn lựa
Một khí tài quân sự có tính chất sống còn là chiến mã xa, được đưa vào trong thời Hyksos. Văn bản
giấy cói Anastasi I từ triều đại 19 mô tả cuộc phiêu lưu của một tay chiến mã xa ở Canaan, trong đó có
việc đến thăm một tiệm sửa chiến mã xa ở Joppa:
Bạn lách đi vào cửa tiệm, vũ khí, thợ rèn, thợ thuộc da quây quần quanh bạn. Họ làm tất cả việc bạn
muốn. Họ xem xét xe bạn, sửa chữa cho nó hoạt động trở lại. Trục xe được tạo dáng mới. Họ bọc da
chỗ ngồi. Họ sửa ách. Họ gắn kim loại và buộc dây vào roi bạn. Bạn sẽ sẵn sàng lên đường quyết đấu
trên chiến trường rộng mở, để hoàn thành chiến công của một chiến binh dũng cảm.
Chiến mã xa điển hình của Ai Cập có khung gỗ nhẹ hình bán nguyệt, phía sau hở và một trục xe có hai
bánh với bốn hoặc sáu căm nan. Những bánh xe được làm từ những mãnh gỗ ghép lại với nhau bằng
dây da ướt rồi để khô dây thun lại xiết cứng thành bánh xe. Một cột dài bắt vào trục xe làm ách cho hai
ngựa (xem hình).
Mỗi chiến mã xa có một người điều khiển và một người trang bị giáo, khiên, hoặc cung tên. Chiếc xe
nhỏ, nhanh cho phép truy kích quân địch một cách mau lẹ, đồng thời một trận mưa tên lao xuống đầu
giặc. Các nhà khảo cổ chỉ phát hiện được 11 chiến mã xa, bốn chiếc từ lăng mộ Tutankhamun, hai từ
lăng mộ của Yuya và Tuya (cha mẹ của Hoàng hậu Tiye), và một chiếc thuộc về Thutmose IV.
Trong suốt thời Tân Vương quốc, tất cả con trai của hoàng tộc đều được huấn luyện điều khiển chiến
mã xa và bắn tên khi xe đang phi nhanh. Những tranh khắc chạm về trận đánh thường thường minh họa
nhà vua một thân một mình trên chiến mã xa, kéo bởi bốn ngựa thay vì hai như thường lệ, để phô
trương tài điều khiển ngựa phi phàm của ông.
Ăn vận để giết
Trong thời Tân Vương quốc, vũ khí bằng đồng được đưa vào dẫn đến yêu cầu phải có áo giáp. Áo giáp
chắc chắn chỉ dành riêng cho các thành viên ưu tú của quân đội chứ không cho đám bộ binh, và bao
gồm:
Các vảy đồng hoặc da cứng. Chúng được cố định và chồng lắp lên một áo chẽn vải lanh hoặc
áo da.
Mũ sắt: Những nón này thường được các lính đánh thuê Sherden đội (đó là một nhóm người
nước ngoài tạo thành một phần của dân cư vùng biển. Mũ có sừng nhỏ quái dị và một đĩa tròn phía trên
chóp.
Người lính bình thường chắc chỉ có mái tóc để che chở đầu. Một số binh lính thời Trung Vương quốc
uốn tóc quăn và thoa dầu thật ướt để khi giáp chiến kẻ thù khó có thể túm tóc mình.
Vương miện đánh trận: Vương miện màu xanh của các vì vua thời Tân Vương quốc được coi
là một kiểu nón sắt đánh trận của hoàng tộc, chắc hẳn làm bằng da, với các đĩa bạc hoặc hợp kim gắn
chặt lên đó. Tuy nhiên, không có vương miện hoàng gia nào được phát hiện, vì thế không ai biết liệu
các vương miện đánh trận có được mang theo không.
Bao tay: Do khí hậu nóng bức thường chỉ có người đánh chiến mã xa cao cấp mới mang. Bao
tay làm bằng da hoặc vải lanh dày, ngăn cho dây cương không tuột khỏi bàn tay.
Váy: Hầu hết quân nhân đều mặc một miếng vải lanh hình tam giác gấp thành váy. Một số tranh
khắc chạm cho thấy mặt trước của váy có thể được làm cứng để che chở thêm cho phần dưới của cơ
thể. Một hình mẫu bằng gỗ, được phát hiện trong một nhà mồ, mô tả một đơn vị cung thủ Nubian, cho
thấy họ mặc một mảnh xanh hay đỏ ngang thắt lưng, có thể làm bằng da để che chắn thêm. Các binh sĩ
vận một miếng da vắt qua váy bằng vải lanh thường. Những miếng da này thường là nguyên một bộ da
linh dương được rạch nhiều đường cho nó mềm dẽo hơn. Một tấm da cứng vắt ngang mông để ngồi cho
êm.
Mặc dù những hình chạm nổi có tô màu chỉ cho thấy những bộ y phục cơ bản này, các binh lính chắc
hẳn phải mặc nhiều hơn, nhất là vào những đêm mùa đông. Các hình nổi trong nhà mồ thường cho thấy
người lính trong ‘quân phục chỉn chu’ hơn là mô tả một cách chân thật trong trang phục ở chiến trường.
Cũng vậy, trong lúc tác chiến, các binh sĩ có thể ăn mặc nhẹ như có thể; khí hậu nóng bức, và quần áo
rộng sẽ tạo cơ hội cho kẻ thù túm lấy. Bất kỳ vết thương nào trên một y phục dài rộng cũng dễ bị nhiễm
trùng do các sợi vải lấm lem chạm phải.
Sự hộ trì của thần linh
Ngoài những trang bị và vũ khí mà binh lính Ai Cập mang theo (giáo, khiên, dao găm, cung, tên), các
hình chạm về trận đánh và các ghi chép khảo cổ cho thấy binh sĩ không chỉ nhờ cậy vào khiên, áo giáp
mà còn vào những hình tượng tín ngưỡng để hộ trì.
Hình tượng nổi bật nhất là cặp cánh hộ trì mà nhà vua mặc. Cánh thuộc về thần Horus và được bọc
quanh ngực nhà vua cho thấy ông được thần linh che chở. Một cặp cánh này được phát hiện trong lăng
mộ Tutankhamun. (Thật ra, chúng làm bằng vải len, và do đó chỉ là che chở về mặt tôn giáo.)
Đồ châu báu vừa có chức năng trang trí vừa có chức năng che chắn. Một mảnh châu báu cũng được tìm
thấy trong mộ Tutankhamun, gồm một vòng cổ lớn đính với một miếng dày những vảy vàng che chắn
cho ngực của nhà vua. Vòng cổ được tạo hình cảnh nhà vua đập chết kẻ thù dưới sự hiện diện của thần
linh. Tuy nhiên, vàng mềm có che chắn được bao nhiêu trước mũi giáo làn tên, và nhà vua chắc hẳn chỉ
mang vòng cổ này trong cuộc duyệt binh trước hoặc sau trận đánh.
Các binh sĩ thường chắc không có những bảo hộ tôn giáo đắt tiền loại này và có thể chỉ trông cậy vào
sự hộ trì của bùa chú mang theo.
Các văn bản tự thuật của những quân nhân trong các nhà mồ
Những cảnh tượng thường cho thấy nhà vua túm tóc kẻ thù như chực đập họ bằng chùy. (Xem
bia đá Narmer năm 3100 BC nói ở Chương 1.) Dù cho nhà vua đang cởi chiến mã xa lao qua chiến
trường, hay ngồi trên ngai vàng, kẻ thù lúc nào cũng ngả chồng chất dưới chân ông, cho thấy quyền lực
của ông đang trấn áp họ.
Các thần linh thường được biểu thị đóng một vai trò chủ yếu trong các trận đánh của nhà vua.
Trong thời Tân Vương quốc, đặc biệt, nhà vua được thần Amun cố vấn cách đánh và trao cho thanh
gươm chiến thắng. Sau trận đánh, nhà vua thường được mô tả duyệt qua chiến lợi phẩm và đám tù binh
trước mặt thần Amun như đểtạ ơn sự hộ trì của thần trong trận đánh.
Chương 4
Xây Dựng Đế Chế: Những Vinh Quang của Tân Vương quốc
Trong Chương Này
⮚ Gặp gỡ các nhà xây dựng đế chế
⮚ Phòng thủ biên cương
⮚ Nhìn lại những nghi thức tôn giáo Ai Cập
⮚ Lấp kín những khe nứt
Việc đẩy lùi người Hyksos (xem Chương 3) chứng kiến sự cáo chung của thời kỳ trung gian thứ hai và
khởi đầu thời kỳ Tân Vương quốc. Thời kỳ này (1570-1070 BC) là một trong những thời kỳ nổi tiếng
nhất, với các triều đại 18-19 và tất cả những vì vua quen thuộc, như Tutankamun, Akhenaten, và
Ramses II.
Khởi đầu triều đại 18 chứng kiến sự ra đời của đội quân thường trực (xem Chương 3) cũng như sự thay
đổi trong bang giao quốc tế. Ý thức hệ quân vương cũng vượt khỏi biên giới của Ai Cập. Điều này có
nghĩa mỗi nhà vua mới đều nỗ lực chiếm cứ nhiều đất đai hơn vua cha, cho đến khi cuối cùng một
vùng rộng lớn của Viễn Đông nằm dưới sự kiểm soát của Ai Cập, với các vua chư hầu nguyện trung
thành với Ai Cập, được dựng lên trong những thị trấn ngoại quốc.
Tân Vương quốc là một thời điểm cách tân và xây dựng đế chế do một số các vì vua hùng mạnh nhất
thực hiện. Chương này tập trung vào dân tộc và những nhân vật làm nên thời đại vẻ vang này.
Gặp Gỡ Napoleon của Ai Cập: Thutmosis III
Người xây dựng đế chế thực sự đầu tiên của Tân Vương quốc là Thutmosis III (1504-1450) của triều
đại 18, chồng và con ghẻ của Hatshepsut (xem Chương 5).
Thutmosis III, con trai của Thutmosis II và người vợ thứ hai tên Isis, vẫn còn là một đứa trẻ khi lên
ngôi sau khi vua cha băng hà. Khi lên ngôi, ông kết hôn với vợ góa của Thutmosis II, cũng là mẹ ghẻ
và dì ông, Hatshepsut. Trong hơn 20 năm, Hapshepsut và Thutmosis III cai trị một cách chính thức như
các đồng nhiếp chính, mặc dù phần lớn thời kỳ này chính Hatshepsut mới cai trị Ai Cập như một pha-
ra-ông thực thụ, đẩy chàng trai trẻ Thutmosis III sang một bên.
Thutmosis III trải qua thời niên thiếu và thành niên rèn luyện trong trại lính cho đến khi Hatshepsut
mất sau khi cai trị được 22 năm. Lúc này ông tiếp nhận ngai vàng như một người đã trưởng thành và là
nhà chỉ huy quân đội và tiếp tục cai trị Ai Cập một mình trong hơn 20 năm nữa. Hình 4-1 cho thấy ông
đang ở đỉnh vinh quang.
Các nhà Ai Cập học thường ví Thutmosis III như là Napoleon của Ai Cập vì ông trải qua thời trưởng
thành trong chinh chiến và xâm chiếm đất đai về cho Ai Cập. Ông để lại một số ghi chép quân sự rất tỉ
mỉ trong Phòng Niên Giám tại đền Karnak, kể lại những kỳ công ở Syria đã làm nên tiếng tăm ông.
Trận đánh ở Megiddo
Cuộc chiến lừng lẫy nhất của Thutmosis III xảy ra tại Megiddo ở Syria, trong năm đầu trị vì một mình
của ông (khoảng 1476 BC). Vua vùng Kadesh ở Syria từ từ thu phục một số thành phố Palestine cùng
liên minh với ông mưu đồ tấn công qua biên giới của Ai Cập, vì ông ta không đủ sức đánh một mình.
Đội quân này đánh chiếm thị trấn quan trọng và kiên cố của Syria là Megiddo (ngày này là Israel), một
vị trí chiến lược cho việc buôn bán và phòng thủ.
Megiddo là địa điểm đã từng xảy ra nhiều cuộc chiến trong thời cổ. Chữ ‘Armageddon’ trong kinh
thánh thật ra có nghĩa là ‘núi vùng Megiddo’ trong tiếng Hebrew (thường sử dụng để chỉ một trận
quyết chiến giữa thiện và ác) và ám chỉ một trận đánh đặc biệt ở đây.
Thutmosis III và quân đoàn Ai Cập xuất binh từ vùng Châu thổ, qua Sinai, và đến Megiddo. Họ vây
hảm một số cứ điểm dọc theo đường tiến quân để bảo vệ và kiểm soát tuyến đường liên lạc (và có thể
bảo toàn lực lượng phòng khi rút quân về Ai Cập).
Có ba đường đi dẫn đến Megiddo, và Thutmosis phải quyết định chọn một. Hai đường dài hơn rất khó
phòng thủ, trong khi con đường ngắn hơn và trực tiếp hơn có nguy cơ bị kẻ thù đột kích vì nó hẹp buộc
đoàn quân phải đi hàng một.
Thutmosis được khuyên nên đi con đường dài hơn, nhưng ông quyết định chọn con đường ngắn nhất.
May cho ông ta, quân Ai Cập vượt qua mà không gặp khó khăn gì và chẳng bao lâu đã áp sát thị trấn
được phòng thủ vững chắc. Ông ra lệnh hạ trại đợi hậu quân đến đầy đủ.
Thời điểm tấn công
Sau khi quân đoàn Ai Cập bắt đầu tiến về Megiddo, quân địch đã bố trí việc phòng thủ kiên cố. Sáng
hôm sau, quân đoàn Ai Cập diễu binh để biểu dương lực lượng, nhằm làm kẻ thù mất tinh thần.
Thutmosis III dẫn đầu mũi tấn công trên chiếc chiến mã xa bằng vàng và bạc, với một phần ba quân
số. Các ghi chép chiến trường viết rằng quân đội Ai Cập bị áp đảo về quân số vì quân Syria có hơn 330
ông vua và ‘Hàng triệu người, và hàng trăm ngàn các tù trưởng của mọi vùng đất, uy nghi trên chiến
mã xa.’
Mặc dù bị áp đảo về quân số, Thutmosis III rất dũng cảm:
Nhà vua dần đầu đoàn quân, lao đi như ngọn lửa, dơ cao thanh gươm. Người xốc tới, không ai sánh
đặng, tàn sát kẻ thù mọi rợ, đập đánh bọn Retenu (dân Á châu), bắt sống các ông hoàng của họ, tịch
thu những chiến mã xa của chúng cẩn vàng ròng.
Lực lượng Ai Cập quá mạnh đối với đạo quân yếu ớt phòng thủ ngọn núi Megiddo. Đạo quân ở
Megiddo nhanh chóng tan rã, bỏ lại hết vũ khí, xe ngựa, và tài sản. Quân Ai Cập đuổi theo bén gót,
binh sĩ giữ cửa thành không dám mở cửa cho đoàn quân chạy về vì sợ quân Ai Cập thừa cơ xông vào
thành. Quân lính trong thành phải lấy vải màn thắt nút thả xuống và kéo những người giàu có và có vai
vế lên, đưa vào trong thành.
Cơ hội vuột mất
Sau khi quân Syria tháo chạy khỏi núi Megiddo, quân Ai Cập có một cơ hội tấn công ồ ạt trước khi bọn
Syria có thời gian thu thập tàn quân và chuẩn bị phản công từ trong thành lũy. Tuy nhiên, thay vì tấn
công ngay, các binh sĩ Ai Cập chóa mắt vì của cải mà bại binh Syria bỏ lại, nên quay sang tranh giành
chiến lợi phẩm. Họ mất cơ hội trước người Syria, nhưng bù lại túi đầy ắp của cải.
Thutmosis kiểm soát lại tình hình __ có vẻ như quá trễ __ và tổ chức đắp lũy đào hào quanh Megiddo
chuẩn bị một cuộc bao vây lâu dài. Đối với Ai Cập, chiếm lấy thị trấn là việc quan trọng để biểu dương
sức mạnh. Nhờ đó họ có thể phòng thủ làm khiếp sợ những bộ tộc khác nhau từ những thị trấn chung
quanh lúc nào cũng hăm he gây khó dễ cho người Ai Cập và làm suy yếu sự kiểm soát đế quốc của họ.
Cuộc bao vây kéo dài bảy tháng trước khi Megiddo cuối cùng rơi vào tay người Ai Cập.
Thay đổi Tôn Giáo: Akhenaten
Một vị vua triều đại 18 khác cũng lừng lẫy tiếng tăm trong hàng ngàn năm là ông vua ngoại giáo,
Akhenaten (1350-1333 BC). Ông bị tai tiếng vì đã thay đổi tôn giáo của cổ Ai Cập từ việc thờ phượng
hàng trăm thần linh sang chỉ thờ một vị thần duy nhất __ thần Aten hay đĩa mặt trời. Hình 4-2 là tượng
bán thân của Akhenaten.
Mặc dù Aten được nâng lên vị trí độc tôn, chỉ có Akhnaten và hoàng gia mới có thể thờ phượng thần
mặt trời. Akhenaten cũng tự mình nâng cấp thành một vị thần đầy đủ lông cánh, thiêng liêng hơn bất cứ
vị vua nào khác __ và mọi người khác đều phải tôn thờ Akhenaten! Vậy là trong hệ thống Akhenaten,
không có độc thần mà là nhị thần.
Meritaten
Meketaten
Ankhesenepaten
Neferneferuaten
Neferneferure
Setepenre
Mặc dù không có chứng cứ trực tiếp, có thể Tutankhamun cũng là con trai của Akhenaten và người vợ
thứ hai Kiya. Một số học giả cũng tin rằng Smenkhkare, vị vua bí mật lên ngôi sau Akhenaten trong
một thời gian ngắn, cũng là con trai của Akhenaten; người khác cho rằng ông ta là con của Amenhotep
III, còn một số học giả khác lại tin rằng Amenkhkare và Nefertiti là cùng một người. Nếu các học giả
tiếng tăm mà không còn nhứt trí thì chúng ta biết sao bây giờ?
Ca tụng thần mặt trời
Tiêu điểm chính trong thời trị vì của Akhenaten là cuộc cánh mạng tôn giáo của ông, xảy ra trong một
thời gian rất ngắn. Akhenaten chỉ trị vì 17 năm, và cuộc cách mạng hoàn tất vào năm thứ 9 trong triều
đại ông. Mặc dù cuộc cách mạng chỉ trải qua một thời gian ngắn, nhưng thời kỳ này được các nhà viết
sử hiện đại viết nhiều nhất trong lịch sử cổ Ai Cậpập.
Lạ hơn nữa, có 12 năm Akhenaten chắc hẳn đồng cai trị với vua cha của mình Amenhotep III, vua cha
cai trị từ Thebes và Akhenaten cai trị từ thành phố mới mở ở Amarna ngay giữa Ai Cập.
Thần Aten là một nhân tố cốt lõi trong thời vua Akhenaten trị vì. Aten không phải là một vị thần mới:
Ông ta luôn luôn là một phần của chu kỳ thái dương rộng lớn hơn và xuất hiện như hiện thân của ánh
sáng toả ra từ đĩa mặt trời. Ánh sáng này được miêu tả trong hình chạm khắc trên đây, vẽ bằng những
bàn tày tỏa ra từ đĩa mặt trời, mỗi tia sáng kết thúc với bàn tay nhỏ bé dâng biểu tượng ankh, biểu
tượng của cuộc sống vĩnh hằng, cho gia đình nhà vua (xem hình chạm khắc ở trên). Toàn bộ hình ảnh
nói lên vai trò của mặt trời là nuôi dưỡng cuộc sống. Tất cả điều Akhenaten làm là nâng vai trò này của
mặt trời lên thành vai trò là thần mặt trời duy nhất.
Sự ưu ái thần Aten lên trên những vị thần khác bắt đầu vào thời trị vì của Amenhotep III như một phần
trong chiến dịch nhằm giới hạn quyền lực của giới tu sĩ thờ thần Amun ở Karnak, mà vào thời điểm đó
hầu như có quyền lực ngang với nhà vua. Tuy nhiên, Akhenaten đi xa hơn và bắt đầu thay thế tất cả
những vị thần chính bằng thần Aten, mặc dù ông chỉ đóng cửa tất cả đền thờ khác vào năm trị vì thứ
chín, khi đó ông dồn hết thu nhập cho các đền mới thờ thần Aten.
Vào năm 12, Akhenaten bắt đầu một chiến dịch thù hằn chống lại dòng tu Amun. Ông cho đục bỏ tất cả
tên Amun ở mọi chỗ nó xuất hiện __ ngay cả trong tên của vua cha, Amenhotep. Việc này chưa từng có
tiền lệ ở Ai Cập. Các ông vua thường xóa bỏ tên những vị vua khác mà mình không ưa vì lý do cá
nhân, nhưng chưa từng có nhà vua xóa bỏ tên của thần linh. Hành động của Akhenaten chắc phải gây
hoang mang cho nhiều người.
Gặp một kết cục bất hạnh
Mặc dù có nhiều kẻ thù, Akhenaten hình như chưa từng bị mưu sát. Tuy nhiên, việc kết thúc trị vì của
ông mơ hồ và không được ghi chép lại, vì thế các sử gia chỉ có thể phỏng đoán qua những sự kiện thực
sự xảy ra.
Một chuỗi những tai họa trong cuộc đời ông xảy ra trước khi ông chết và sự sụp đổ của thời đại
Amarna:
Năm trị vì 13, Nefertiti biến mất trong các văn tự chạm khắc, như vậy có thể bà cũng đã mất,
mặc dù một số học giả cho rằng bà đã đổi tên và đồng cai trị với chồng.
Năm trị vì 14, con gái Meketaten của Amenhotep qua đời khi sinh nở.
Hình 4-3
Horemheb kế vị Ay và cai trị hơn 30 năm. Ông tiếp tục công việc phục hồi của Tutankhamun.
Hành động quan trọng nhất của Horemheb là chỉ định Pirameses, một vị tướng trong quân đội của ông
là người kế nhiệm ông. Horemheb có thể được coi là người thành lập triều đại thứ 19 vì chính ông là
người đã nhìn ra và đề bạt Pirameses (sau này khi lên ngôi lấy vương hiệu là Ramses I) trong số đám
võ biền bất trị của ông.
Tutankhamun, Ay, và Horemheb bắt đầu tái thiết biên giới Ai Cập, nhưng công cuộc này cần được nối
tiếp. Ramses I khi lên ngôi đã luống tuổi nên chỉ trị vì một thời gian ngắn (1293-1291 BC).
Đọc thêm: Những lá thư chết người và bi kịch hoàng gia
Khi Tutamkhamun mất, viên tể tướng già cả của ông, Ay, kế vị ngai vàng. Người vợ góa của
Tatankhamun Ankhesenamun, lúc ấy vẫn còn là một phụ nữ trẻ tuổi, có lẽ chỉ 21 tuổi, và rõ ràng không
muốn từ bỏ vị trí hoàng hậu của mình và quyền lực đi kèm. Bà không tha thiết lấy Ay, ứng viên tiềm
năng duy nhất cho hôn nhân.
Hoàng hậu háo hức muốn kết hôn với một hoàng tử xứ Hittite, gởi sứ giả đến vua xứ Hittite mang theo
một bức thư khác. Các ghi chép cho thấy sứ giả, Hani, đã nói dùm bà:
Tâu bệ hạ! Đây là nổi nhục quốc thể! Nếu hoàng đế thần có con trai nối dõi, thần làm gì lặn lội đến
đây cầu xin một quân vương cho xứ sở thần Nibhururiya, vua thần, vừa mất mà không có được một
con trai nối dõi. Hoàng hậu thần giờ đây gối chiếc. Thần dân chúng tôi mong có một hoàng tử của bệ
hạ đến làm vua xứ Ai cập, và cho hoàng hậu chúng thần một tấm chồng! Hơn nữa, chúng thần chỉ
đến đây cầu xin bệ hạ, mà không đi đến xứ nào khác! Thưa bệ hạ, hãy cho chúng thần một hoàng tử
của người.
Nhiều học giả tin rằng Akhesenamun đã viết một bức thư cho vua xứ Hittite
Suppiluliumas, thỉnh cầu ông ta gởi một người con trai cho bà, để bà có thể kết hôn với y và phong y
làm vua xứ Ai Cập. Trong một bức thư do Akhesenamun viết, bà nói rõ là bà không muốn ‘cưới một kẻ
dưới’, ý bà ám chỉ cuộc hôn nhân tiềm năng với lão già Ay.
Chồng tôi đã mất. Tôi không có con trai. Nhưng họ nói ngài thì có nhiều con trai. Nếu ngài gởi một
người con trai của ngài đến đây, anh ta sẽ là chồng tôi. Không bao giờ tôi chịu lấy một kẻ dưới mình
làm chồng . . . Tôi sợ.
Lời thỉnh cầu như thế từ một hoàng hậu Ai Cập là điều rất bất thường, và nhà vua xứ Hittite không tin
rằng đó là lời thỉnh cầu chân thật. Tuy nhiên, sau đó ông ta bị thuyết phục bởi lời lẽ của sứ giả và cuối
cùng gởi hoàng tử Zenmanza đến Ai Cập.
Rủi thay, hoàng tử bị mưu sát trước khi đến được biên giới Ai Cập __ có lẽ do lệnh của Ay, người
không bao lâu sau đã cưới Ankhesenamun.
Vua xứ Hittite dĩ nhiên đâm nghi và phái một sứ thần đến Ai Cập để tìm hiểu tình hình chính trị. Sứ
thần trở về và báo cáo lên vua xứ Hittite tình hình đúng như hoàng hậu đã giải bày.
Quyết chiến ở Kadesh, Phần I
Trong thời gian trị vì của con trai Sety của Ramses I (1291-1278 BC) xảy ra một số rối ren chính trị,
kéo dài suốt thời trị vì của Ramses II và Ramses III.
Khi vừa lên ngôi, Sety I cho mở một chuỗi chiến dịch nhằm tái thiết biên giới của đế quốc Ai Cập đã
vỡ vụn, đã bị bỏ phế trong thời cai trị của Akhenaten và Smenkhkare. Trong năm đầu tiên nắm quyền,
Sety mở một chiến dịch băng qua Syria tấn công kẻ thù Shasu theo lời khuyên của các quân sư.
Trong cuộc hành quân đến Palestine, các tộc trưởng đột kích Sety nhưng may thay quân đội Ai Cập
đẩy lui dễ dàng. Những trận đột kích này chỉ có tính quấy rối hơn là đe dọa nhà vua, nhưng chúng cũng
cần được dẹp tan để bảo vệ an toàn con đường giao thương mà Ai Cập đang cần đến.
Năm sau, Sety hành quân xa hơn về phương bắc đến Kadesh, một thị trấn thành lũy ở Syria bao quanh
bởi hai vòng hào dẫn nước từ sông Orontes, do người Hittite kiểm soát. Nhưng lúc ấy người Hittite
đang đóng quân tại biên giới Syria, buông lỏng Kadesh. Quân Ai Cập chiếm thị trấn không gặp nhiều
khó khăn, và Sety tuyên bố kẻ thù ‘thây chất thành gò’.
Dù chiến thắng, Sety không đủ tiềm năng quân sự để gây áp lực với người Hittite nhằm chiếm thế
thượng phong ở Syria. Người Ai Cập chỉ giữ Kadesh một thời gian ngắn rồi rút quân về, trả lại đất đai
cho người Hittite mà không có một động thái quân sự nào nữa.
Sau khi Sety trở về Ai Cập, người Hittite dần dần mở rộng vùng đất kiểm soát, tiến sát gần hơn đến Ai
Cập.
Một xong . . . còn bao nhiêu người nữa?
Sau khi giải quyết bài toán ở Kadesh, Sety I không ngủ yên trên chiến thắng. Các ghi chép chiến
trường tại đền Karnak cho thấy sau đó ông khuất phục người Lybia lăm le vượt qua biên giới vùng
Châu thổ và đập tan cuộc nổi dậy của người Nubia chống lại sự đô hộ của người Ai Cập.
Chữ Lybia người Ai Cập sử dụng để chỉ những bộ lạc Bedouin của Tây Sa Mạc hơn là dân cư của
Lybia ngày nay.
Sety và đạo quân của ông đánh đuổi người Lybia xâm lược, và tranh chạm khắc ở Karnak cho thấy
Sety chém tộc trưởng Lybia bằng một thanh mã tấu. Đó là cách bảo đảm hoàn hảo y sẽ không bao giờ
trở lại. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, người Lybia vẫn quay lại và trở thành cái gai trong mắt của
Ramses III.
Hình chạm khắc Sety ở Karnak cho thấy những thị trấn thành lũy của Syria thất thủ, và kẻ thù bôn tẩu
đến các thị trấn khác hoặc đến những chỗ cao hơn để thoát khỏi sự truy bức của quân đoàn Ai Cập.
Sety đương nhiên là dẫn đầu đại quân, và trong một cảnh ở Karnak, ông cặp cổ các tù trưởng bị bắt làm
tù binh, mỗi tù trưởng một tay, cho thấy sự can trường của ông trên chiến trường.
Chiến Đấu : Ramses II
Người kế vị Sety I là con trai ông Ramses II (1279-1212 BC). Ramses II có nhiều tên và chức vị được
người đời sau phong tặng qua nhiều thế kỷ, trong đó có
‘Ramses Vĩ Đại’ do các nhà khám phá của thế kỷ 18, 19 gọi.
Trở thành hoàng tộc
Ramses II là con của Sety I và Muttuya, ra đời 1304 BC. Ramses II không mang dòng máu hoàng tộc
vì ông nội ông, Ramses I, là do Horemheb chọn lên làm vua. Ramses có ít nhất hai em gái, Tia và
Hunetmire, và một em trai mà tên tuổi đã bị thất lạc.
Trong những năm sau, Ramses cưới ít nhất một trong hai người em gái làm vợ, Hunetmire. Vì
Hunetmire và Ramses không thuộc hoàng tộc khi ra đời, bổng nhiên việc họ lấy nhau chỉ vì vị thế gia
đình của họ thay đổi là điều kỳ lạ. May thay cho Hunetmire, bà không có con với Ramses; cuộc hôn
nhân của họ có thể chỉ là một cuôc hôn nhân vì thuận lợi hơn là một cuộc hôn nhân đúng nghĩa.
Hôn nhân và gia đình (và nhiều gia đình hơn)
Trong những năm trị vì về sau, Sety đã phong cho Ramses quyền đồng nhiếp chính và để đánh dấu sự
kiện này ông lập cho Ramses một hậu cung của riêng mình gồm toàn những phụ nữ xinh đẹp thuộc
hoàng tộc, những bông hoa đẹp nhất của cung điện; theo tôi nghĩ đó là một món quà tuy hấp dẫn nhưng
cũng đầy cám dỗ đối với một chàng trai còn độ tuổi thiếu niên.
Ramses duy trì hậu cung này trong suốt 67 năm trị vì, và không nghi ngờ gì hẳn ông lấy làm mãn
nguyện. Nhưng hai bà vợ mà ông ưng ý nhất là Nefertari, người ông cưới trước khi lên ngôi, và
Isetnofret, người ông cưới trong những năm đầu trị vì.
Mặc dù Nefertari và Isetnofret là những người vợ ưng ý, hậu cung của ông nổi tiếng vì chứa hơn 300
bà, sinh cho ông hơn 150 con trai và 70 con gái. Danh sách các con cái của Ramses được ghi chép ở
Karmak theo thứ tự ra đời __ mặc dù con số này có thể được phóng đại để cho thấy ông mắn con ra
sao.
Thực tế, Ramses II có tối đa 46 con trai và 55 con gái. Vâng, con số này thấp hơn con số ghi chép
chính thức, nhưng như vậy cũng là quá nhiều rồi! Ramses và Nefertari có nhiều con, ít nhất mười đứa
đã được ghi nhận, nhưng buồn thay tất cả đều chết trước Ramses. Các con của ông với Nefertari là:
Amenhirwenemef (con trưởng) ở trong quân đội và giữ chức tổng tư lệnh.
Prehirmenemef (con trai thứ ba) là cựu binh thanh thiếu niên của mặt trận
Kadesh lần hai và được tưởng thưởng tước vị ‘đệ nhất chiến mã binh của nhà
vua’ và ‘chiến binh đệ nhất hào kiệt’.
Meritamun (con gái thứ hai) là thứ phi của Ramses vào năm 24 và hành xử như người đại diện
cho mẹ đang lâm bệnh.
Baketmut (con gái thứ ba) được tin là chết trẻ, mặc dù lăng mộ của bà chưa
được phát hiện.
Nefertari II (con gái thứ tư) hiện diện trên mặt tiền của đền thờ Abu Simbel.
Nebettawi (con gái thứ năm) là thứ phi thay thế Meritamun sau khi bà này mất. Bà được an táng
trong lô QV60, sau đó được sử dụng là nhà nguyện trong thời Cơ đốc giáo.
Henoutawi (con gái thứ bảy) được miêu tả trong đền thờ Nefertari ở Abu Simbel, cho thấy bà là
con gái của Nefertari, mặc dù bà mất trước khi đền thờ được thờ cúng.
Isetnofret, vợ thứ hai của Ramses, có ít nhất sáu người con:
Ramses (con trai thứ hai) là một vị tướng trong quân đội và được phong thái tử sau cái chết của
ông anh cùng cha khác mẹ Amenhirkhepshef.
Merenptah (con trai thứ 13) kế vị Ramses II lên nối ngôi. Trong 12 năm trị vì cuối cùng,
Merenptah cai trị Ai Cập như một đồng nhiếp chính và sau đó lên ngôi sau khi vua cha qua đời.
Hai quân đoàn kỵ binh tổng cộng lên đến 18,000 đến 19,000 người
Quân số Ai Cập chỉ có 20,000 thua xa quân số kẻ thù là 26,000. Có lúc, các ghi chép cho biết quân số
Ai Cập chỉ bằng một phần ba quân số của người Hittite.
Cả hai bên đối địch đều dùng nhiều loại vũ khí giống nhau, nhưng chiến thuật tấn công thì khác nhau:
Người Hittite sử dụng vũ khí bằng sắt cứng trong khi người Ai Cập chủ yếu dùng vũ khí bằng
đồng.
Chiến mã xa Ai Cập chở theo hai người (một người điều khiển và một người chiến đấu), trong
khi chiến mã xa Hittite chở theo ba người (một người lái, một người ném giáo hay cung thủ, và một
người mang khiên che chắn hai người kia). Trong khi chiến mã xa Ai Cập nhẹ hơn và linh hoạt hơn, thì
chiến mã xa Hittite cho phép họ chở theo nhiều quân số hơn.
Quân đội Ai Cập cũng sử dụng bộ binh chạy theo để bao vây chiến mã xa địch khi họ xông vào
trung tâm quân địch giữa làn mưa tên Ai Cập. Sau đó bộ binh tấn công từ mặt đất trong khi kẻ thù vừa
hoàn hồn sau trận mưa tên tới tấp.
Trận chiến
Quân đoàn của Ramses II tiến đến Levant (ngày nay là Israel, Jordan, Lebanon, và tây Syria) và cứ
điểm Kadesh, qua dảy Gaza, với bốn sư đoàn lấy tên các thần Ptah, Ra, Seth, và Amun (Ramses II chỉ
huy sư đoàn Amun).
Quân đoàn Ai Cập lội qua sông Orontes cách Kadesh 20 km về phía thượng lưu, phong tỏa đường phía
bắc trước khi tiến vào một khu rừng gần đó. Quân đoàn dàn trận trên một khu vực rộng lớn, bốn sư
đoàn tách xa nhau. Các thám báo Ai Cập sau đó bắt được hai tên Hittite khai báo một số mật tin:
Rồi hai tên Shosu của bộ lạc Shosu tâu với nhà vua rằng, “Những người anh em của thần là tù
trưởng vốn có tư thù với Khatti [Thủ lĩnh Hittite] đã phái chúng thần đến để thưa với bệ hạ là chúng
tôi muốn sẵn sàng bỏ hàng ngũ của Khatti về làm tôi tớ cho bệ hạ.’ Nhà vua hỏi họ, ‘người anh em của
nhà ngươi hiện giờ ở đâu?’ và họ trả lời đức vua, ‘Họ hiện
đang ở cùng với Thủ lĩnh Khatti ở vùng Khaleb phía bắc Tunip, hắn sợ bệ hạ sẽ tiến về hướng nam khi
hắn nghe tin bệ hạ đã tiến về hướng bắc.’ Nhưng cả hai tên Shosu đều báo với đức vua những điều sai
sự thật.
Ramses tin rằng người Hittite đóng quân xa về hướng bắc hơn ông kỳ vọng. Quân Ai Cập tiếp tục tiến
về hướng bắc đến thành phố, với sư đoàn Amun hoàn toàn tin chắc sẽ hạ thành không mấy khó khăn,
nên tiến đến mục tiêu trước. Khi sư đoàn Amun đến gần thành phố, thêm hai thám báo của địch bị bắt
và họ khai là thật ra người Hittite hiện giờ ở ngay hướng bắc của Kadesh và chuẩn bị công kích.
Ramses gởi một tin báo khẩn cấp đến sư đoàn Ra ngay sau lưng ông, cách xa 8 km. Quân Hittite phái
2,500 chiến mã xa đến phía nam doanh trại Ai Cập, bên dưới những tán lá che giấu, rồi thình lình tấn
công họ từ phía sau. Nhưng thay vì đột kích quân Ai Cập một cách bất ngờ, quân Hittite đến đối mặt
với sư đoàn Ra, đang chầm chậm tiến gần mục tiêu từ phía nam. Cả hai bên đều rất bất ngờ, và khi các
chiến mã xa Hittite tháo chạy qua sông, làm sông tắt nghẽn, và những quân Hittite phía sau không có
nơi để rút trừ phải quay ra đối đầu với quân Ai Cập.
Quân Hittite xông thẳng qua sư đoàn Ra, binh lính Ai Cập tháo chạy (một số trở vào rừng, một số chạy
lên đồi, và một số về hướng sư đoàn Amun). Cả hai sư đoàn Ra và quân Hittite đều nhắm thẳng vào sư
đoàn Amun cùng một lúc. Sư đoàn Amun chưa sẵn sàng ứng phó chắc hẳn vì quá bất ngờ. Giống như
sư đoàn Ra, Amun bắt đầu phân tán và tháo chạy khi quân Hittite xông thẳng qua đội quân phòng vệ
thưa thớt của doanh trại tạm thời của quân Ai Cập.
Ramses hình như là người duy nhất còn bình tĩnh trong suốt cuộc chiến. Sau khi nhanh nhẩu khấn cầu
thần Amun, ông tập hợp các chiến mã xa và bộ binh gần nhất và tổ chức phản công cuộc đột kích của
quân Hittite. Các văn bản cho biết Ramses một mình chiến đấu với toàn quân Hittite, một sự kiện hình
như là không chắc chắn lắm __ nhưng thôi, vua Ai Cập là một vị thần mà.
Muộn còn hơn không
May mắn cho Ramses, sư đoàn thứ ba của Ai Cập, đang hành quân dọc theo bờ biển, đến vừa kịp lúc.
Mặc dù vẫn còn bị áp đảo về mặt quân số, nhưng quân Ai Cập tìm cách đẩy lùi bọn Hittite. (Tuy nhiên,
trong thực tế, người Hittite chỉ sử dụng một phần nhỏ trong quân số của họ và vì một lý do nào đó
không chịu triển khai đội quân còn lại. Nếu không thì trận đánh này chắc hẳn đã kết liễu đời của
Ramses Đại Đế.
Khi người Hittite biết chắc là tình thế đã bất lợi cho họ, họ tháo chạy vào trong thành lũy Kadesh.
Người Ai Cập thu gom những binh sĩ bị thương, cắt bàn tay những binh lính Hittite đã tử trận để làm sổ
sách chiến trường, và rút quân về tuyên bố mình đã thắng trận vẻ vang!
Đàm phán hòa bình
Mười sáu năm sau trận chiến Kadesh thứ hai, người Ai Cập và Hittite cuối cùng chấm dứt hận thù. Một
thỏa hiệp hòa bình được soạn thảo, và đây là tài liệu hoàn chỉnh duy nhất thuộc loại này được phát hiện
ở Ai Cập:
Sẽ không bao giờ còn hận thù giữa họ: Thủ Lĩnh Vĩ Đại của Kheta [Hittite] sẽ không bao giờ xâm
nhập đất đai Ai Cập, không chiếm đoạt bất cứ thứ gì từ đó. Ramses Meriamun [con cưng của thần
Amun] nhà cai trị Ai Cập sẽ không bao giờ vượt qua đất đai của Kheta và chiếm đoạt bất cứ thứ gì từ
đó.
Ngoài một phiên bản Ai Cập của thỏa hiệp hòa bình này, một bản sao Hittite cũng được phát hiện tại
thủ đô Hattushash của Hittite nay là Thổ Nhĩ Kỳ.
Dĩ nhiên, như bao thỏa hiệp hòa bình khác, thỏa hiệp này chỉ kéo dài khi hai người ký nó còn sống, có
nghĩa là rồi đây chiến tranh sẽ lặp lại lần nữa với những đời vua sau.
Tấn công ồ ạt biên cương: Merentah
Người lên kế vị ngai vàng của Ramses là con trai thứ 13 của ông: Merenptah (1212-1202 BC). Thời trị
vì của Merenptah chứng kiến trở lại vấn đề Lybia, vấn đề từng xảy ra dưới triều vua Sety I. Chiến tranh
với người Lybia được ghi chép trên một bản chạm khắc tại Karnak cũng như nhiều bia ký khác.
Trong năm trị vì thứ năm của Merenptah, người Lybia liên minh với nhiều bộ tộc khác nhau. Quân số
lên đến 25,000 người, lực lượng này thường được biết dưới tên Dân Miền Biển. Họ đủ mạnh để xâm
nhập những pháo đài dọc theo vùng Châu thổ phía tây và tràn ngập đội quân phòng thủ của Ai Cập.
Dân Miền Biển rõ ràng di chuyển đến Ai Cập với âm mưu xâm chiếm nó, vì nhiều người mang cả gia
quyến đi theo và tất cả đồ tế nhuyển được chất đống lên xe bò.
Merenptah hành quân đến vùng Châu thổ với một quân đội tuyển chọn, chủ yếu là cung thủ. Nhờ vậy
họ có thể tiến sát quân địch để bắn một trận mưa tên trước khi quân địch có thể tiến gần đánh cận chiến
tay đôi, vốn là điểm mạnh của quân Lybia.
Cuối cùng, chiến thắng thuộc về người Ai Cập. Ghi chép của họ cho thấy họ đã giết 6,000 quân Lybia,
bắt được 9,000 tù binh, kể cả vợ và con của thủ lĩnh.
Chiến thắng này giúp người Ai Cập sống trong hòa bình thêm một lần nữa. Các ghi chép xác nhận rằng
người Ai Cập bây giờ có thể ‘bước đi tự do trên đường’ và ‘ngồi xuống chuyện trò mà không lo sơ’.
Dĩ nhiên, buồn thay hòa bình không được lâu dài, khi con trai Ramses III của Merenptah chẳng mấy
chốc phát hiện ra điều đó.
Vợ vua
Mẹ vua
Con gái vua
Không có vua, người phụ nữ thuộc hoàng tộc không có vai vế hoặc vai trò gì trong cung cấm, và hiển
nhiên quyền lực gắn liền với mỗi vai trò tăng lên khi mối liên hệ với nhà vua trở nên gần gũi hơn. Mỗi
tước vị cho các phụ nữ những quyền lực và cơ hội khác nhau, mặc dù làm nhà vua hạnh phúc là việc
quan trọng nhất.
Đám cưới hoàng gia: Anh và em gái
Trong nhiều năm, các nhà Ai Cập học tin rằng việc truyền ngôi là qua các phụ nữ. Do đó nhà vua cần
cưới một người nữ thừa kế ngai vàng để hợp pháp hóa vương quyền của mình. Lý thuyết này phát triển
như một cách giải thích những cuộc hôn nhân giữa anh em trai-chị em gái (thường xảy ra trong hoàng
gia, mặc dù là điều cấm kỵ đối với dân thường). Tuy nhiên, nhiều ông vua không cưới những phụ nữ
thuộc hoàng tộc, lý thuyết này đã bị loại bỏ và rõ ràng là ngai vàng được truyền qua nam giới __ từ cha
đến con trai.
Mặc dù vương miện không được chuyển qua gia đình quý bà, các công chúa cũng phải lấy chồng. Dù
ngai vàng truyền theo đường nam giới, nhưng nếu người thừa kế nam không có thì sao? Trong trường
hợp này, chẳng may công chúa kết hôn với một người ngoài hoàng tộc, người này có đủ lý do lên nối
ngôi. Qua những cuộc hôn nhân loạn luân, mọi công nương đều nên kết hôn sớm như có thể để ngăn
cản những người ngoài hoàng tộc lên nối ngôi. Công chúa có thể kết hôn với anh trai, cha ruột, hay
thậm chí ông nội mình như một biện pháp đề phòng. Đôi khi gặp may mắn, họ được vua cha gả cho
một viên tướng được tin dùng __ nhưng chỉ khi nhà vua đã có một người con trai nối dõi. Tập quán này
phân biệt hoàng gia với dân thường; các hôn nhân loạn luân chỉ xảy ra trong hoàng gia và giới thần
linh, điều này chỉ ra rằng hoàng gia cũng là thần thánh.
Tuy nhiên, nếu được vua cho phép, Em Gái Vua (quận chúa) có thể cưới một người ngoài hoàng tộc
nếu người này được chấp nhận và thuộc dòng dõi quý tộc nhưng không thuộc hoàng tộc (chẳng hạn,
một quan văn hay quan võ của triều đình). Ramses II, chẳng hạn, cho phép em gái mình Tia cưới một
viên chức, cũng tên Tia, một cựu quân nhân và rất được tin dùng.
Để vấn đề thêm phần rắc rối, tước vị Em Gái Vua thường được phong cho một người vợ. Từ ‘em gái’
chưa hẳn là em gái ruột của nhà vua. Trong thời cổ Ai Cập, ‘em gái’ được sử dụng để chỉ sự trìu mến
đối với người ta yêu quý, cho dù người đó không có họ hàng máu mủ. Rắc rối chứ hả?
Vợ Chính của Vua và những người khác
Là Vợ Vua __ có khi là em gái ruột hoặc không __ không oách như ta tưởng. Vợ không có quyền, và
có khi hàng trăm bà được nhận tước vị này. Hoàng hậu có quyền duy nhất là Vợ Chính của Vua, tương
đương với ‘Đệ nhất Phu nhân’ bây giờ. (Mặc dù thường thì vua chỉ có một bà vợ chính, Ramses II có
đến hai: Nefertari và Isetnofret.)
Trong Vương quốc Cổ, Vợ Chính của Vua được quyền có kim tự tháp của riêng mình, và trong Tân
Vương quốc, tên bà được viết trong một cartouche như nhà vua (xem hình bên và Chương 11 về
cartouche).
Cho dù Vợ Chính của Vua có địa vị quan trọng, tước vị này cũng không phải là cố định. Nhà vua có
thể phong một bà vợ khác lên địa vị này nếu bà ta làm vừa lòng mình __ thường là sinh cho vua một
con trai nối dõi nếu Vợ Chính của Vua không có con trai hoặc qua đời.
Hơn nữa, Vợ Chính cũng chỉ có đồng hành với nhà vua cho có đôi, chứ không tham gia vào các lễ thờ
cúng hoặc nghi thức của hoàng gia mà nhà vua làm chủ. Về lý thuyết, các con trai của Vợ Chính có vai
vế hơn các con trai các bà vợ thứ, và người con trai cả sẽ là người thừa kế ngai vàng.
Mẹ Vua: Hoàng thái hậu
Mẹ Vua là một tước vị quan trọng đặc biệt. Một người đàn bà có thể giữ tước vị này cùng với những
tước vị đã có trước khi con trai mình lên ngôi. Trường hợp ly tưởng là Mẹ Vua (mẹ của vì vua đương
thời) cũng là Vợ Chính của Vua (vợ chính của vua cha đã băng hà, cũng là cha ruột của vì vua đương
thời), hoặc là Vợ của Thần Amun (xem mục sau ‘Kết hôn với Amun’). Nếu bà không có những tước vị
này trước khi con trai mình lên ngôi, người con trai thường phong tặng những tước vị đó cho bà như
những tước vị danh dự sau khi ông ta lên ngôi, để tỏ lòng tôn kính và củng cố tính thần thánh cũng như
vị thế của mình bằng cách chứng tỏ mình xuất thân từ dòng dõi vua chúa.
Như Vợ Chính của Vua, Mẹ Vua là một tước vị bán thần thánh và biểu thị của vương quyền trong lãnh
vực nữ giới. Cả hai tước vị Vợ Chính của Vua và Mẹ Vua đồng hành với nhà vua trong những lễ cúng
bái thần thánh, mặc dù họ không trực tiếp điều hành.
Con gái của cha: Con Gái Vua
Tước hiệu Con Gái Vua không bao giờ được phong như một tước hiệu danh dự, mặc dù nó được sử
dụng bởi con gái lẫn cháu nội của vua. Con Gái Vua đôi khi cũng là Vợ Vua do những cuộc hôn nhân
thực sự hoặc chính trị. Con Gái Vua không giữ quyền bính nào thực sự khác hơn là do gần gũi với nhà
vua.
Một số những cuộc hôn nhân giữa cha-con gái và ông nội-cháu nội cũng sinh ra con cái, cho thấy một
số dàn xếp tưởng là hình thức hóa ra cũng là những hôn nhân theo đúng nghĩa.
Các cuộc hôn nhân vì chính trị
Đối với những phụ nữ Ai Cập, kết hôn không hề đơn giản __ và chắc chắn không hề lãng mạn. Phụ nữ
có ít hoặc không có ý kiến về việc mình lấy ai và khi nào lấy, và đơn giản chỉ là những con cờ trên bàn
cờ chính trị. Các thử thách có nhiều, như những mục sau sẽ trình bày.
Hôn nhân như chính sách trong quan hệ quốc tế
Hầu hết những vì vua thời Tân Vương quốc có những cuộc hôn nhân ngoại giao để gắn kết những liên
minh giữa hai quốc gia. Những cuộc hôn nhân chính trị không có dính dáng gì với tình yêu và lãng
mạn. Một số bức thư đã được phát hiện mô tả hai loại hôn nhân ngoại giao:
Nếu vua nước ngoài ngang hàng với vua Ai Cập, hai bên sẽ coi nhau như anh em, và các cuộc
dàn xếp hôn nhân trên tinh thần bình đẳng.
Nếu nước ngoài là chư hầu, vua Ai Cập được thưa gởi là ‘bệ hạ’. Những nàng dâu này được coi
như chiến lợi phẩm.
Sau khi những cô dâu ngoại giao này đi vào Ai Cập với đoàn tùy tùng đôi khi đông hơn 300 người, họ
không còn được phép liên lạc với gia đình vì sợ sẽ báo tin mật về cho nước mình. Cụ thể, một lá thư từ
vua Hittite gởi vua Ramses II hỏi thăm tin tức con gái ông, sau khi được gả cho Ramses trong một cuộc
hôn nhân ngoại giao, cho thấy là cô dâu không hề có liên lạc gì với gia đình mình. (Hittite là một đế
quốc rộng lớn, có kinh đô nằm trong Thổ nhĩ kỳ.
Mặc dù các vua Ai Cập lấy các công chúa ngoại bang, các công chúa Ai Cập không hề lấy các vua
chúa ngoại quốc. Sự phân biệt này được làm rõ trong một bức thư ngoại giao mà Amenhotep III đáp lại
lời thỉnh cầu của vua xứ Babylon xin cưới một công chúa Ai Cập. Vua Babylon được trả lời như sau:
Từ xa xưa, con gái của vua Ai Cập chưa bao giờ được gả theo ý ai cả.
Phát biểu này chắc hẳn là điều sỉ nhục đối với vua Babylon, bởi vì em gái ông ta đã là một thành viên
của hậu cung Ai Cập.
Những bà vợ biến mất
Vấn đề biến mất của các bà vợ xảy ra rất thường trong thời Tân Vương quốc __ mặc dù nó không phải
do các nguyên nhân siêu nhiên hay tai ách gì. Các phụ nữ thường được đưa về hậu cung ở Faiyum
(xem mục sau), sau đó nhà vua hay gia đình họ không bao giờ được nghe tin tức gì về họ nữa.
Cưới thần Amun
Cũng như cưới vua, các bà thuộc hoàng tộc cũng có thể cưới thần Amun. Amun là vị thần tạo ra mặt
trời được tôn thờ chủ yếu ở Thebes tại đền thờ Karnak. Từ vương triều 18 trở đi, tước vị Vợ Thần
Amun rất quan trọng và chỉ do phụ nữ trong hoàng gia nắm giữ.
Đảm đương trách nhiệm
Ahmose I đưa vào tước vị Vợ Thần Amun như là một cách vinh danh mẹ Ahhotep của mình. Ông ta
phong vợ ông Ahmose-Nefertari tước vị Tiên Tri Thứ Hai của Amun, vốn là một tước vị thường dành
cho nam giới. Là Tiên Tri Thứ Hai của Amun, Nefertari hoạt động như một người đại diện của
Ahhotep, chứng tỏ rằng bà thừa hưởng vai trò đó.
Tước vị Vợ Thần Amun lúc đầu là mẹ truyền con gái nối, nhưng vào vương triều thứ 23 và thời trị vì
của Osorkon III, những công nương này bị buộc phải sống độc thân và phải nhận con gái nuôi để thừa
kế tước vị.
Vợ Thần Amun là một vị trí có nhiều quyền lực, đặc biệt trong đền thờ Karnak. Vào vương triều 19 và
20, tước vị này có đặc quyền sánh ngang với các Trưởng Tế.
Mặc dù ta biết được một số tên các Vợ Thần Amun, nhiệm vụ chính xác của họ vẫn không được rõ. Từ
vương triều 21 (khoảng 1080 BC), các sử gia biết rằng các Vợ Thần Amun đảm đương một số trách vụ
gắn liền mật thiết với vương quyền, phản ảnh quyền hạn của vai trò. Đặc biệt, họ
Có quyền nhận đế hiệu (một đặc quyền thường dành riêng cho nhà vua)
Được vẽ trong các nhà nguyện của họ cảnh họ được nữ thần Hathor cho bú, chứng tỏ họ thuộc
dòng dõi thần linh.
Pi-Ramess, thành phố thủ đô của Ramses II trong vùng châu Thổ
Từ vương triều 18, Thung lũng được dùng để chôn các con trai hoàng gia (hơn 60 phần mộ
đường hầm ở đây).
Từ đầu vương triều 19, các hoàng hậu được chôn ở đây, nổi tiếng nhất là Nefertiti, vợ vua
Ramses II, được ban tặng một lăng mộ đầy màu sắc.
Từ thời trị vì của Ramses III (triều đại 20), các hoàng tử lại lần nữa được chôn tại đây.
Từ thời trung gian thứ ba, địa điểm này dành để chôn những người không thuộc hoàng gia và
tiếp tục làm nghĩa trang cho đến thế kỷ thứ tư AD.
Các lăng mộ trong Thung lũng các Hoàng Hậu nhỏ hơn trong Thung lũng các Vì Vua và thiết kế ít
phức tạp hơn. Các lăng mộ hoàng hậu được đục trong đá kém chất lượng, và nhiều lăng mộ bị bỏ dỡ
giữa chừng trong thung lũng. Những lăng mộ hoàn tất được quét vôi và sơn chứ không được trang trí
bằng tranh chạm khắc.
Nhớ các nhà nữ quyền
Hơn 3,000 năm trong lịch sử Ai Cập, không có nhiều phụ nữ nổi lên như những nhân vật mạnh mẽ
hoặc đầy quyền lực, bởi vì họ lúc nào cũng bị cánh đàn ông như nhà vua lấn lướt.
Tuy nhiên, cũng có một ít phụ nữ đã nổi lên như một người không theo hệ thống một mình cầm quyền
cai trị, hay những người đảm đương tiếp sức cho công việc được hoàn thành, hoặc vì nhà vua bạc
nhược hoặc do tình hình chính trị.
Có lẽ ba người phụ nữ sau đây là sản phẩm của thời thế __ hoặc có lẽ họ thực sự là một số ít trong
những nhà nữ quyền đầu tiên của thế giới.
Ahotep: Hoàng hậu chiến binh
Hoàng hậu Ahhotep của vương triều 17 và 18 là người phụ nữ hoàng tộc có quyền lực đầu tiên của Tân
Vương quốc, mặc dù do thời thế nhiều hơn là tham vọng. Bà kết hôn với Seqenenre Tao II và có ít nhất
hai con trai __ Ahmose, người thành lập vương triều 18, và Kamose. Cả chồng và con trai Kamose của
bà đều mất trong trận chiến với người Hyksos (xem Chương 3), và bà sợ con trai út của mình, Ahmose,
cũng theo vết xe đổ.
Trong khi các người đàn ông của mình đều ra chiến trường, Hoàng hậu Ahhotep trị vì Ai Cập đâu ra
đấy từ kinh thành ở Thebes. Sau khi chồng mất và trong khi con trai Kamose còn quá nhỏ để trị vì, bà
hành động như một nhiếp chính cho con. Sau khi con đầu mất, bà lại trị vì lần nữa cho đứa con thứ hai,
Ahmose. Đây là vai trò không bình thường đối với một phụ nữ.
Trong thời khắc chính trị không mấy ổn định, Ahhotep đảm đương nhiều trách vụ, khôngbchỉ là việc
quản trị đất nước. Một bản khắc ở Karnak cho biết vai trò của bà khi là nhiếp chính cho Ahmose:
Bà là người thực hiện các nghi thức và chu toàn cho Ai Cập. Bà đã chu cấp và ổn định quân đội. Bà
kêu gọi những người bỏ trốn và tập kết những kẻ đào ngũ. Bà bình định Thượng Ai Cập và đánh đuổi
bọn phản nghịch.
Bản khắc này cho thấy Ahhotep có học hỏi về kỹ năng quân sự, điều có thể thực hiện được vì cung
điện nhan nhản các binh lính và tướng lãnh. Bà chắc chắn phải điều hành quân đội vì Kamose và
Ahmose còn quá nhỏ để cai trị một mình.
Hatshepsut: Nữ hoàng
Người phụ nữ hoàng gia tai tiếng nhất là Hatshepsut (hình dưới), hoàng hậu của vương triều 18, sau
này cai trị Ai Cập như một ông vua hơn là một hoàng hậu và làm đảo lộn mọi thứ trong nước.
Khi cha mình, Thutmosis I, mất, Hatshepsut cưới ông anh cùng cha khác mẹ của mình, Thutmosis II,
và họ có một con gái trước khi Thutmosis II mất. Khi ông này mất, bà cưới con trai mà chồng bà có với
một người vợ khác, và người này lên ngôi là Thutmosis III. Vua không tới ba tuổi vì thế Hatshepsut trị
vì thay ông cho tới khi ông đủ tuổi trị vì một mình.
Lúc đầu Hatshepsut sử dụng các tước vị truyền thống như Vợ Chính của Vua hay Vợ của Thần, nhưng
bảy năm sau bà hoàn toàn bỏ hẳn các tước vị dành cho hoàng hậu và nhận lấy các tước vị của một ông
vua. Trên các đài tưởng niệm bà được miêu tả trong dáng dấp nam tính của một ông vua (hình dưới).
Hatshepsut trị vì một mình với tư cách một vì vua trong 15 năm và sau đó hoàn toàn mất dấu trên các
văn bản khi Thutmosis III lấy lại vị trí của mình trên ngai vàng. Xác ướp của bà chưa được tìm thấy, do
đó các sử gia không rõ có phải bà chết vì tuổi già hay không (các ghi chép cuối cùng về bà là lúc bà 36
tuổi) hay bà bị mưu sát. Dù thế nào, bà cũng ghi một điểm son trong sử sách cho dù nếu các đời vua về
sau có cố tình xóa hết dấu vết về sự tồn tại của bà trong tư liệu, đài tưởng niệm, và bảng danh sách các
vì vua đi chăng nữa.
Chú thích: Có thể đọc Hatchepsut, Nữ Pha-ra-ông Ai Cập trong trang Nghiên Cứu Lịch Sử này.
Chương 6
Lần Theo Sự Suy Thoái và Sụp Đổ của Văn Minh Ai Cập
Thời kỳ Trung Gian Thứ Ba (1080-525 BC): Đặc điểm của thời kỳ này là có nhiều nhà cai trị
đồng thời từ những vùng khác nhau của Ai Cập.
Thời kỳ Cuối (525-332 BC): Đặc điểm của thời kỳ này là sự xâm lăng của ngoại bang và những
vương triều thay đổi liên tục.
Thời kỳ Hy lạp-La mã (332-30 BC): Bắt đầu với cuộc xâm lăng của Alexander Đại Đế và kết
quả là sự thay đổi văn hóa mạnh mẽ do sự xâm nhập của người Hy lạp vào Ai Cập.
Chia Hai Vùng Đất: Ramses XI và Trở Về Sau
Sự suy tàn của đế quốc Ai Cập bắt đầu vào những năm đầu của thời trị vì của Ramses XI (1098-1070
BC). Quyền lực nhà vua dần dần suy giảm phần lớn do những vấn đề về kinh tế. Các tăng lữ thần
Amun tích lũy của cải và quyền lực. (Mỉa may thay, chính nhà vua đã góp phần vào việc này qua quà
biếu, phẩm vật, và việc xây dựng các công trình ở đền thờ Karnak tại Luxor.) Cuối cùng các thầy tu
nắm được quyền lực không kém vua Ramses XI; chỉ trừ nhà vua có một lợi thế hơn là kiểm soát quân
đội.
Các vấn đề xảy ra khi Tổng trấn Nubia, Panehsy, xung đột với trưởng tế đền Amun, Amenhotep.
Panehsy nắm thế thượng phong trong chín tháng, ngăn thầy trưởng tế thực thi các trọng trách về tôn
giáo. Cuối cùng Amenhotep quay sang cầu cứu Ramses XI.
Là một ông vua sùng đạo, Ramses tiến đánh Panehsy, khiến ông này sau đó bị lưu đày đến Nubia, và
Amenhotep lấy lại vị thế trưởng tế và giữ vị trí đó một số năm trước khi Herihor kế nhiệm ông.
Herihor bổng thêm lông thêm cánh
Ramses XI vẫn giữ mối giao hảo với dòng tu Amun và phong tặng Herihor các tước vị quân sự mà
trước đây Panehsy từng nắm giữ. Đây quả là một sai lầm quá lớn, vì lần đầu tiên một người giữ cả hai
tước vị tôn giáo và quân sự, khiến quyền lực của Herihor vượt hơn cả nhà vua.
Herihor lợi dụng tối đa tình thế và đoạt lấy vai trò của vua trong khi Ramses XI tội nghiệp còn đang
sống sờ sờ. Ramses biết rõ là Herihor đang chờ đợi mình chết để hoàn tất ý đồ. Mặc dù Herihor chết
trước khi có thể trở thành hoàng đế thực sự, ông vẫn nhận một cartouche (xem Chương 11) và truyền
lại chức vị cao cấp này cho con rễ là Piankhy, cũng cai trị song song với Ramses. Khi Ramses XI mất,
vào năm 1070 BC, bốn năm sau khi Piankhy trị vì, Piankhy tiếp tục cai trị Thebes như một vì vua thực
thụ, mặc dù chỉ được vài tháng.
Mặc dù địa vị các thầy tu dòng Amun lên cao, quyền lực của họ không vượt ra ngoài Thebes __ chắc
hẳn vì họ không quan tâm.
Cai trị ở phía bắc: Các vua Tanis
Trong khi các thầy tu dòng Amun cai trị nam Ai Cập, phương bắc do Smendes (1069-1043 BC), một
người không rõ xuất thân, cai trị. Ông ta cai trị từ Tanis ở đông Châu thổ, được xây dựng từ các tàn tích
của thành phố của Ramse II ở Pi-Ramese. Smedes tự phong vương sau khi cưới được một con gái của
Ramses XI.
Smendes truyền ngôi cho Psusennes I (1039-991 BC), và ông này cho phép con gái mình lấy vị trưởng
tế dòng Amun, Menkhepere. Cuộc hôn nhân này cho thấy mối giao hảo giữa các nhà cai trị bắc nam.
Mối quan hệ nói chung tích cực này giữa hai miền nam bắc tiếp tục suốt thời trung gian thứ ba và đến
đầu thời kỳ cuối. Vương triều Tanis, được biết dưới tên triều đại 21, kéo dài xấp xỉ 350 năm, là thời kỳ
hưng thịnh, thương mại và kinh tế phát triển.
Nghĩa trang của các nhà vua Tanis được phát hiện vào năm 1939, bao gồm một phần mộ hoàng gia duy
nhất còn nguyên vẹn ở Ai Cập. (Ngay cả lăng mộ của Tutankhamun cũng bị trộm ở thời cổ ít nhất hai
lần.) Các đồ tạo tác trong lăng mộ này rất ấn tượng nhưng không được dư luận quan tâm vì lúc đó đang
bắt đầu Thế Chiến II. Những phát hiện lý thú bao gồm:
Đồ tùy táng của Psusennes I. Xác ướp của Psusennes đeo một mặt nạ thần chết bằng vàng và
một quan tài hình người bằng bạc ròng.
Quan tài của Sheshonq I. Quan tài rất đẹp và độc đáo hình chim ưng. Thật ra, bạc thì qu{ hơn
vàng vì Ai Cập không có bạc, phải nhập từ nước ngoài.
Thống nhất ngắn ngủi hai vùng đất: Sheshonq I
Vương triều Tanis 22 (945-745 BC), nối gót vương triều 21, cũng do các vua từ Tanis cai trị. Vị vua
đầu tiên của thời kỳ này là Sheshonq I (945-924 BC), tự phong vương sau khi lấy con gái của
Psusennes II, vị vua cuối cùng của vương triều 21.
Sheshonq hình như là một thủ lĩnh của bộ tộc du mục Meshwesh người Lybia. Mặc dù là người Lybia,
Sheshonq I thống nhất Ai Cập đang phân chia và cai trị cả Thượng và Hạ Ai Cập. Sở dĩ ông làm được
điều này vì con trai ông giữ chức trưởng tế dòng Amun.
Kết thúc thời hòa bình của Sheshonq
Mặc dù Sheshonq I nỗ lực cai trị một Ai Cập thống nhất và duy trì khả năng quân sự của quốc gia Ai
Cập, vào cuối vương triều 22 xứ sở lại lâm vào cảnh rối loạn và phân chia. Mặc dù giới tu sĩ dòng
Amun lúc đó nằm dưới sự kiểm soát của nhà vua phương bắc qua mối
ràng buộc gia đình, vào cuối triều đại trưởng tế mới lên kế vị không còn bị ràng buộc huyết thống, kết
quả là một cuộc nội chiến kéo dài hơn một thập niên.
Sau cuộc nội chiến là giai đoạn hòa bình ngắn ngủi, tiếp theo những cuộc nổi dậy và hận thù không
những gây chia rẻ nam-bắc mà còn đông-trung tâm trong vùng Châu thổ giữa các thủ lĩnh vùng
Leontopolis (vùng trung tâm) và Tanis (đông). Cuộc trị vì của Sheshonq I dần dần sụp đổ trong cảnh
hổn loạn.
Quá nhiều vua
Các vấn đề trong vùng Châu thổ cuối cùng chứng kiến một sự thay đổi vương quyền trong khi vị vua
thứ bảy của vương triều 22, Sheshonq III còn đang trị vì từ Tanis.
Có ba vị vua cai trị 100 năm sau cho đến cuối vương triều 22, nhưng lúc bấy giờ nhiều nhà cai trị khác
xuất hiện trên khắp vùng Châu thổ. Đáng kể nhất trong số này là Pedibast, một thủ lĩnh bản địa vùng
Leontopolis, chiếm quyền cai trị vùng trung tâm Châu thổ và tách Ai Cập thành ba phần. Các thành
viên trong gia đình Pedibast và Sheshonq (đông) đi về phương nam để gia nhập giới tu sĩ dòng Amun,
bảo đảm mối liên kết hoàng tộc tồn tại với nhân tố quyền lực này.
Về cuối vương triều 23, lại xuất hiện một vương triều khác khiến sự phân chia càng sâu sắc hơn:
Cambyses muốn một thê thiếp người Ai Cập nhưng được gởi đến một bà quý tộc hạng hai thay
vì lẽ ra một công chúa, vì thế ông xâm lược Ai Cập.
Cambyses có thể có giòng máu nửa Ai Cập, có thể là con ngoại hôn của con gái vua Saite
Apries.
Cambyses ngay từ nhỏ đã thề sẽ xâm lược Ai Cập để trả thù cho mẹ mình bị người Ai Cập sỉ
nhục.
Nếu Herodotus không chắc lý do Cambyses xâm lược Ai Cập, làm sao các sử gia hiện đại lại chắc chắn
được? Dù với bất cứ lý do nào, cuộc xâm lược của người Ba tư là hành động xấu xa, được người
Bedouin tiếp tay dẫn đường đến biên giới Ai Cập. Sau khi Bedouin và Ba tư đến, họ rất hung hản và
tàn bạo, lôi xác ướp của vua Saite là Ahmose ra khỏi lăng mộ và châm lửa đốt. Biết sao được, người Ai
Cập cũng đâu có kém gì.
Để trả thù cho sự phản bội của một viên tướng đánh thuê, người Ai Cập lôi hai con trai của y ra trước
mặt y và quân Ba tư và cắt cổ họ. Máu được hứng trong một chậu lớn, pha với nước và rượu, rồi chia
cho quân sĩ uống. Tuy nhiên, cũng giống như Herodotus không mấy chắc chắn về câu chuyện của
Cambyses, có lẽ chuyện này cũng là một giai thoại quá trớn. Không có ghi chép nào về việc người Ai
Cập uống máu người.
Vuong triều 28 (404-399 BC) chỉ gồm một vị vua ít tiếng tăm tên Amyrtaeus, người đã thành
công sau sáu năm dùng du kích chiến chống lại các nhà vua Ba tư để mang lại ngai vàng cho Ai Cập.
Ông chỉ nắm quyền kiểm soát toàn Ai Cập trong thời gian ngắn ngủi từ kinh đô ở Sais trong vùng Châu
thổ xuống đến tận biên giới Aswan.
Vương triều 29 (399-380 BC) dời kinh đô từ Sais đến Mendes xa hơn về nam, cho thấy vùng
kiểm soát của Ai Cập còn rộng. Mendes chắc chắn là nơi tốt hơn để điều hành đất nước. Hai vị vua của
vương triều này chắc hẳn cũng được an táng tại đây, mặc dù lăng mộ của họ chưa được tìm thấy.
Vương triều 30 (380-343 BC) hơi có thực chất hơn, với tổng cộng ba vua. Những ông vua này
bỏ phần lớn thời gian giám sát việc xây dựng theo truyền thống cổ để duy trì sự liên tục giữa triều đại
của họ với triều đại các tiên vương.
Triều đại này cũng tham gia một số trận đánh bảo vệ Ai Cập trước sự xâm lược của Ba tư.
Nectanebo II được nghỉ ngơi đôi chút khi Ba tư lại nổ ra tranh chấp nội bộ và xung đột với người Hy
lạp và người Levantine. Vào năm 343 BC, Nectanebo II, cùng với quân Ai Cập và 20,000 lính đánh
thuê người Hy lạp, canh giữ biên giới vùng Châu thổ chống lại cuộc tấn kích dữ dội của quân Ba tư do
Artaxerxes III cầm đầu. Chẳng bao lâu phòng tuyến biên giới bị chọc thủng, vùng Châu thổ và tiếp
theo Memphis thất thủ rơi vào tay quân xâm lược Ba tư. Nectanebo bôn tẩu xuống Nubia, nhưng không
lâu sau đó biệt tích; có thể đã chết.
Cái chết của Nectanebo II vào năm 343 là một đòn trí mạng cho Ai Cập vì một số lý do. Trước tiên,
người Ai Cập lần nữa nằm dưới ách đô hộ của các vua Ba tư. Thứ hai, Nectanebo là nhà cai trị cuối
cùng của Ai Cập cho đến khi Cộng hòa Ai Cập bầu được tổng thống đầu tiên của họ, Tướng
Muhammad Naguib, vào năm 1953 AD. Thật là một thời kỳ quá dài dưới ách đô hộ của ngoại bang.
Một chu kỳ nữa dưới ách đô hộ Ba tư
Kết thúc vương triều Nectanebo II chứng kiến sự khởi đầu của thời kỳ đô hộ thứ hai của Ba tư (343-
332 BC). Một lần nữa người Ba tư khá khắc nghiệt với xứ sở họ thôn tính. Các tư liệu Hy lạp mô tả
tình trạng quân Ba tư làm cỏ các thành phố, cướp bóc đền thờ, giết chóc các con vật thiêng, và đánh
thuế dân chúng cho đến khi họ sạch túi.
Thêm một lần nữa, các vua Ba tư cai trị qua một tổng trấn bù nhìn từ kinh đô của họ ở Ba tư. Vương
triều này (mà một số sử gia xem là thứ 31) chỉ kéo dài 10 năm, với hai vị vua đầu tiên, Artaxerxes III
và Arses, bị ám sát, và tên vua hèn nhát Darius III mở cửa biên giới của Ai Cập cho phép Alexander
Đại Đế tiến vào Ai Cập vào năm 332.
Người Macedonia xâm lược: Alexander Đại Đế
Việc vua Macedonia là Phillip II bị ám sát vào năm 336 BC chứng kiến sự khởi đầu màn tấn công của
Alexander vào đế quốc Ba tư. Alexander là con trai của Phillip, người tiếp nối xuất sắc tham vọng của
cha mình. Alexander đến Ai Cập năm 332, làm suy thoái thêm nền văn hóa cổ Ai Cập. Nếu người Ba
tư không chiếm đóng Ai Cập tại thời điểm này thì có thể Alexander sẽ để yên cho Ai Cập, và lịch sử sẽ
thay đổi.
Thành thần
Alexander muốn được văn hóa Ai Cập chấp nhận. Một trong những việc đầu tiên ông làm là đi tới
Siwa để xin sấm truyền thần Amun chỉ dạy hầu chứng tỏ mình là con của thần linh và do đó là vì vua
hợp pháp của Ai Cập.
Lể đăng quang của Alexander được tiến hành tại trung tâm truyền thống Memphis và đến một mức độ
nào đó ông cai trị theo đúng phong cách truyền thống Ai Cập. Ông chứng kiến việc trùng tu đền Luxor,
thêm vào hình ảnh tỉ mỉ vẽ ông dâng lễ vật cho Amun-Min.
Sau đó, Alexander rời Ai Cập để tiếp tục chinh phạt khắp miền Cận Đông. Trước khi qua đời vào năm
323 BC, Alexander đã mở rộng đế quốc Macedonia, bao gồm cả Ai Cập, suốt một mạch đến Thung
lũng Indus.
Biến Ai Cập thành nhà của mình
Khi Alexander Đại Đế không bận việc xâm lấn và chinh phạt, ông tập trung vào việc điều hành Ai Cập.
Đặc biệt, ông:
Đưa hệ thống tiền tệ vào Ai Cập, trước đây người Ai Cập chỉ quen buôn bán qua đổi chác.
Đồng tiền Ai Cập một mặt in hình Alexander, mặt kia là hình một vị thần Ai Cập, cho thấy ông muốn
ví mình là một vị thần.
Thành lập thành phố Alexandria, trở thành kinh đô của Ai Cập. Thành phố được xây dựng tại
một địa điểm trước đây là vùng định cư của người cổ Ai Cập tên là Raqote, nay chỉ còn là phế tích ít ỏi.
Alexander giao việc xây dựng cho kiến trúc sự của ông là Deinokrates và một viên chức tên
Kleomenes.
Alexandrie là một thành phố lớn __ vào thời điểm cực thịnh dân số lên đến hơn nửa triệu người bao
gồm một số lớn di dân Hy lạp và Do thái. Nó là nơi đô hội, tập trung nhiều công trình nổi tiếng, như
một thư viện và viện bảo tàng buồn thay đã bị tàn phá trong thời cổ. Thành phố có nhà tắm công cộng
kiểu La mã, một hí viện, và một vận động trường. Những dinh cơ bề thế trong khu định cư La mã có
trang trí kiểu hình khảm mosaic theo phong cách La mã, như Hình 6-1 cho thấy.
Thành phố Alexandria chỉ hoàn thành dưới triều vua Ptolemy II (285-246 BC).
Ptolemy I (305-282 BC) bắt đầu xây dựng tháp hải đăng Pharos ở Alexandria, là một trong Bảy kỳ
Quan của Thời Cổ và là ngọn hải đăng đầu tiên trên thế giới. Kiến trúc này đã biến mất từ lâu __ có thể
nằm dưới đáy biển.
Alexander Đại Đế mất năm 323 BC sau một cơn sốt, không để lại người thừa kế đế quốc. Cái chết của
ông dẫn đến sự sụp đổ dần dần đế quốc Macedonia, với nhiều vị tướng khác nhau cắt cứ những vùng
mình ưa thích.
Đế Quốc Cáo Chung: Vương Triều Ptolemy
Sau cái chết của Alexander Đại Đế và quyền kiểm soát đế quốc Ba tư sụp đổ, nhiều cuộc chiến và trận
đánh manh mún nổi lên do các tướng lãnh của Alexander. Ai cũng muốn giành một phần của đế quốc
rộng lớn. Cuối cùng Ptolemy trở lại Ai Cập như một tổng trấn dưới triều vua Phillip Arrhidaeus (323-
317 BC), người kế vị con trai Alexander IV (317-305 BC) của Alexander Đại Đế __ sinh ra
sau khi cha mất. Trong thời trị vì của Alexander IV, Ptolemy, bạn từ thời thơ ấu của ông, thực sự nắm
quyền cai trị, và khi Alexander IV mất Ptolemy lên ngôi vua chính thức. Năm 301 BC Ptolemy đã nắm
quyền kiểm soát Palestine và Hạ Syria, tự tạo một đế quốc nhỏ của riêng mình.
Người cai trị Ai Cập thiếu óc tưởng tượng, vì Ptolemy thành lập vương triều của mình với các nhà cai
trị đều lấy tên Ptolemy (lên đến Ptolemy XV), các nữ hoàng thì tên hoặc Cleopatra (bảy nữ hoàng)
hoặc Berenice (bốn nữ hoàng).
Vương triều Ptolemy là một hình mẩu của sự song hành hai nền văn hóa rất khác nhau __ cổ Ai Cập và
Hy lạp. Các nhà cai trị ủng hộ tôn giáo truyền thống của Ai Cập và xây dựng nhiều đền thờ, trong đó
có đền Demdera, Edfu, Philae, và Kom Ombo. Trên bức tường của các đền thờ này các vua được miêu
tả trong tư thế và y phục truyền thống Ai Cập, nhưng trên đồng tiền đúc họ được trình bày theo phong
cách Hy lạp truyền thống.
Berenice II bị đánh thuốc độc và ‘luộc’ đến chết bởi chính con trai mình Ptolemy IV.
Vợ của Ptolemy IV, Arsinoe, bị anh người vợ hai của Ptolemy đánh thuộc độc.
Memphites bị cha mình, Ptolemy VIII, mưu sát. Thi thể bị chặt hết tứ chi được gởi đến em
gái/vợ ông, Cleopatra II, như một món quà sinh nhật.
Cleopatra III có thể bị con trai nhỏ của mình, Ptolemy X, mưu sát (mặc dù, trước đây, con trai
lớn của bà, Ptolemy IX, đã từng bị kết án vì tội âm mưu ám sát bà).
Berenice, con gái của Ptolemy IX, bị ám sát trong vòng một tháng sau khi cưới Ptolemy XI. Ông
này không ưa gì bà và muốn ngai vàng là của mình.
Ptolemy XI bị xử giảo trước công chúng sau khi chỉ cai trị được 19 ngày vì Berenice được nhiều
người yêu mến.
Berenice (lại Benerice!), con gái của Ptolemy XII, bị người La mã ám sát vì bà nổi loạn chống
cha mình để chiếm lấy ngai vàng. Ptolemy XII cầu cứu sự giúp đỡ của Julius Caesar, nhà độc tài La
mã.
Ptolemy XIV, anh trai và chồng của Cleopatra VII (nổi tiếng vì có Mark Antony), chắc hẳn đã bị
hoàng hậu khử để bà có thể đem con trai mình Ptolemy XV lên ngôi, bảo vệ ông khỏi rơi vào tay người
La mã.
Đa số những cuộc ám sát này đều dính líu đến quyền lực và ngai vàng. Tuy nhiên, trong nhiều cuộc
tranh giành nội bộ này, người La mã thường được yêu cầu tiếp tay để giải quyết tranh chấp. Mặc dù sự
can thiệp của người La mã luôn bảo đảm có một phe thắng, được La mã ủng hộ và đứng sau lưng, La
mã không hề quên đòi món nợ giúp sức. Trong thời Cleopatra VII trị vì, các lãnh tụ La ma đến để đòi
nợ __ cuối cùng đưa đến sự sụp đổ của nền văn minh Ai Cập.
Chuyện tình lịch sử: Cleopatra và Mark Antony
Câu chuyện về Cleopatra và Mark Antony là một trong những chuyện tình bi thảm nổi tiếng nhất trên
thế giới. Vai chính là Cleopatra VII, sinh khoảng năm 70 BC __ con gái của Ptolemy XII và em gái
ông Cleopatra V. Nghĩ cũng lạ, mẹ của Cleopatra cũng là cô và cha mình cũng là cậu mình.
Ptolemy XII không được yêu mến ở Ai Cập vì thái độ nịnh hót của ông đối với La mã. Ông cũng là
một nhà cai trị bạo ngược và bạc nhược (rất hợp là thành viên của gia đình Ptolemy). Vào năm 60 BC,
sự chán ghét Ptolemy XII đã lên tột đỉnh khiến y phải chạy khỏi Ai Cập tìm sự an toàn ở La mã, trong
khi đó trưởng nữ của ông, Berenice, chiếm lấy ngai vàng. Sau vài năm, với sự ủng hộ của La mã,
Ptolemy quay về Ai Cập và chiếm lại ngôi vua.
Ông cai trị cho đến khi mất vào 52 BC, khi Cleopatra VII, ở tuổi 19, kết hôn với người em cùng cha
khác mẹ của mình là Ptolemy XIII mới lên 10, và lên ngôi.
Vì chồng mình quá trẻ, Cleopatra cai trị Ai Cập một mình và loại bỏ gương mặt của Ptolemy khỏi đồng
tiền mới đúc. Không giống cha, Cleopatra là một nhà cai trị rất được nhân dân Ai Cập yêu mến __
chắc hẳn bởi vì bà là nhà cai trị dòng Ptolemy rất chịu khó học nói tiếng Ai Cập.
Một đồng tiền thời Ptolemy có chạm nổi chân dung Cleopatra VII
Các hoàng đế tiếp sau Augustus lên ngôi báu Ai Cập đã thử trị vì theo phong cách Ai Cập truyền
thống, xây dựng đền thờ cho các thần linh Ai Cập, và có khi đóng vai như các vì vua Ai Cập khi thực
hiện các nghi thức truyền thống.
Mặc dù văn hóa Ai Cập không thể nhận ra được sau cuộc xâm chiếm của Alexander, nhiều dòng tu Ai
Cập vẫn được duy trì dưới thời La Mã trị vì. Vào 394 AD, đền thờ Philae còn được sử dụng và tại đây
còn lưu lại bảng khắc cuối cùng dùng chữ tượng hình ở Ai Cập.
Phải mất 1,400 năm sau nữa trước khi có người biết đọc được nó lần nữa. (xem Chương 11).
Cái chết của Cleopatra là đề tài cho nhiều bức họa thời trước, hình trên đây là một trong số đó
Hình 7-1
Người chơi thỏa thuận với ba, năm, hoặc bảy thẻ. Mục tiêu của trò chơi là làm người đầu tiên di
chuyển tất cả thẻ của bạn từ ô số một đến ô 30, dùng số mặt màu hiện lên để xác định số ô bạn đi được
mỗi lượt. Các hạn chế sau đây áp dụng:
Nếu người chơi 1 di chuyển đến một ô của người chơi thứ hai, các vị trí của họ hoán
chuyển cho nhau.
Hai người chơi đều phải bắt buộc ngừng ở ô số 26 trước khi ra khỏi bàn.
Bạn và người chơi có thể chế ra những luật lệ khác để trò chơi gay cấn hơn. Chẳng hạn, bạn có thể bắt
buộc người chơi phải ném đúng con số mặt màu để đến được ô 30 mới kể là hoàn tất một vòng đi trên
bàn cờ.
Chó Nhà và Chó Rừng
Một trò chơi phổ biến khác từ thời Tân Vương quốc là Chó Nhà và Chó Rừng __ trong đó một nhóm
thẻ tượng trưng cho đầu chó rừng và nhóm kia là chó nhà. Trò chơi cũng có tên là 58 lỗ.
Chó Nhà và Chó Rừng là trò chơi hai người. Để chơi, bạn cần:
Một bàn có hai hàng, mỗi hàng 30 lỗ. Bàn có thể là tấm ván có khoét lỗ. Những bàn 3-D
tinh xảo hơn cũng sử dụng được. (Bảo tàng Louvre còn lưu trữ một bàn có chạm khắc theo
hình con hà mã.)
Hình 7-2 cho thấy cách sắp xếp bàn cờ. Bạn có thể photo hình này rồi dán vào tấm ván dày 1.5 cm rồi
khoét lỗ theo vị trí trên hình.
Mười thẻ. Năm thẻ có hình chó rừng và năm thẻ có hình chó nhà. Bạn có thể sử dụng thẻ
với hai màu khác nhau để phân biệt.
Một bộ bốn gậy. Số ô vuông bạn di chuyển trên bàn được xác định bằng số gậy ném
xuống, tương tự như luật chơi Senet.
Mỗi người chơi bắt đầu với năm thẻ (hoặc chó nhà hay chó rừng). Mục tiêu của trò chơi là được cả
năm thẻ của mình rơi vào lỗ 30, theo lộ trình đi trên phần nửa bàn cờ của mình.
Mỗi thẻ cần đi chung quanh lộ trình hai lần mới thắng trận. Như trong luật trò chơi Rắn và Thang, nếu
người chơi rơi vào
Lỗ 6, người đó được nhảy trực tiếp đến ô 20
Lỗ 15 hay 25, y phải ném gậy lần nữa
Hình 7-2
Như trong trò Senet, bạn có thể thay đổi luật để trò chơi thêm gay cấn.
Sống Đời Thể Thao
Một số thành viên của tầng lớp ưu tú thích cuộc sống xã hội năng động hơn và tham giá một số trò chơi
thể thao, bao gồm đấu vật và nâng tạ (bằng bao cát). Mặc dù các trò này là một phần trong chương
trình huấn luyện quân sự, một số người có thể chơi đơn thuần vì muốn nâng cao thể lực.
Trong số các đồ chơi trẻ em ở thị trấn Kahun ở Faiyum, các nhà khảo cổ phát hiện một ít quả bóng tròn
làm bằng những mảnh da thú khâu vào nhau và độn với cỏ khô. Không biết liệu trò chơi của trẻ con
này người lớn có tham gia không, nhưng tôi dám chắc một số người thích cho rằng bóng đá không chỉ
là ‘một trò chơi đẹp’ mà còn là ‘một trò chơi cổ’.
Những mục sau đây bàn về những trò giải trí phổ biến cả tầng lớp ưu tú và quần chúng đều tham gia.
Điều khiển chiến mã xa
Chiến mã xa (xe ngựa đánh trận) chỉ được đưa vào Ai Cập vào cuối Thời Kỳ Trung Gian Thứ Hai. Các
vị vua và một số nhà quý tộc của Tân Vương quốc từ thời trẻ đã được huấn luyện điều khiển chiến mã
xa để chuẩn bị lâm trận. Xem Chương 4 để biết thêm về những thời kỳ lịch sử.
Chiến mã xa ở cổ Ai Cập nhỏ và nhẹ. Xe do hai ngựa kéo và hai người điều khiển __ một người cầm
cương và một người cầm giáo hoặc cung thủ. Vua và quý tộc đều phải học cách làm chủ cả hai vai trò
này.
Hầu hết các thiếu niên nam đều được huấn luyện các kỹ năng điều khiển chiến mã xa, nhưng ở
Amarna, các cô con gái nhỏ của Khanaten (xem Chương 4) được mô tả trên tường La Mã và đền thờ
đang điều khiển chiến mã xa của mình __ một hình ảnh độc đáo của thời kỳ này. Một phác họa nhỏ ở
Bảo Tàng Cairo cho thấy một hoàng hậu, có thể là Hatshepsut, lái chiến mã xa và bắn tên vào kẻ thù,
chứng tỏ có lẽ một số quý tộc nữ cũng có kỹ năng điều khiển chiến mã xa. Ở Amarna, hầu hết thành
viên ưu tú của xã hội đều sở hữu một chiến mã xa, vì nó là thời trang giao thông đang thịnh hành.
Sau khi người Ai Cập đã làm chủ việc điều khiển chiến mã xa, chứng cứ cho thấy họ đã tố chức thi
chạy. Không phải thi kiểu tầm cỡ như trong phim Benhur, nhưng dù sao cũng là thi đua. Ngay bên
ngoài Malkata, cung điện ở Thebes của Amenhotep III, là một nhà nghĩ tạm thời có tên là Kom el Abd,
nhìn qua một con đường thẳng rất dài. Con đường được dọn sạch dành cho các cuộc đua chiến mã xa
tốc độ cao, trong đó không nghi ngờ gì nữa có sự tham gia của Amenhotep. Những cuộc đua này chắc
chắn là những sự kiện bán-riêng tư chỉ có dân chúng sống quanh Malkata mới được chứng kiến.
Bắn bia
Sau khi các ông hoàng trẻ hoặc các chiến binh đã điều khiể được chiến mã xa, phát triển kỹ năng bắn
cung là bài tập tiếp theo. Không chỉ tài thiện xạ là cốt lõi trên chiến trường, mà nó còn hữu dụng khi
săn bắn.
Trước khi được phép đi săn trong sa mạc mà mục tiêu là những thú dữ nguy hiểm, các cung thủ thực
tập trong một môi trường an toàn. Mục tiêu điển hình là một tấm bia bằng đồng dựng cao ngang vai
dọc theo đường chạy. Người lái chiến mã xa lái xe với tốc độ cao và bắn vào bia với năm mũi tên, lực
bắn rất mạnh làm thủng bia đồng.
Săn bắn
Các hình vẽ trong lăng mộ của tầng lớp ưu tú mô tả các cuộc đi săn linh dương, bò rừng và sư tử của
người quá cố trong sa mạc cũng như săn cá và chim chóc ở đầm lầy. Trong khi những hình vẽ này
mang ý nghĩa tượng trưng cho nam tính và khả năng sinh sản, chúng cũng phản ảnh sự kiện là săn bắn
và đánh cá là những hoạt động phổ biến của người cổ Ai Cập.
Trong sa mạc
Ai Cập được bao quanh bởi đất đai trên cả hai bờ đông và tây của sông Nile và nuôi sống các loài sư
tử, linh dương, hưu nai, và bò rừng. Chứng cứ cho thấy nhiều loại vật này có thể đã bị bắt và nuôi nhốt
trong những bãi lớn được rào kín để cuộc săn được an toàn hơn cho nhà vua và tầng lớp ưu tú. Hơi
giống các công viên safari (vùng nuôi thú hoang dã để nghiên cứu và tham quan) nhưng không có mục
đích bảo tồn. Người đi săn di chuyển bằng chiến mã xa và thỉnh thoảng có mang theo đội chó săn để
thu mồi bắn được.
Hình ảnh nhà vua và tùy tùng đi săn thường mô tả nhà vua săn bắn bằng cung và tên, mặc dù họ có thể
sử dụng thêm giáo mác hoặc __ nếu họ muốn bắt sống con mồi thì phải dùng thòng lọng.
Một cảnh tượng phi thường được mô tả ở Medinet Habu __ đền thờ của Ramses III ở Thebes __ cho
thấy nhà vua ở giữa đoàn săn bò rừng hoang dã. Nhà vua đang cởi chiến mã xa với dây cương thắt
quanh eo, để hai tay được tư do bắn tên vào đàn thú. Ông ta hồ hởi đến nổi đã vắt chân lên bờ trước của
chiến mã xa để làm điểm tựa khi vung tay vươn cung. Một con bò rừng mà ông đã bắn trúng đổ sụp
trong đám sậy.
Phần lớn cuộc săn là để kiếm lương thực, cung cấp những món ngon cho nhà vua, các quý tộc và gia
đình của họ. Da sư tử thường được sử dụng làm vải bọc ghế, giường trong cung điện hoặc tư gia.
Chứng cớ cho thấy Ramses II và III thực sự nuôi sư tử làm thú cưng.
Trong đầm lầy
Săn trong đầm lầy cũng là hoạt động phổ biến trong giới ưu tú, đặc biệt trong những khu đầm lầy được
ưa chuộng ở Faiyum. Khu này trở nên quá quen thuộc đến nổi trong thời Tân Vương quốc một cung
điện hoàng gia được xây dựng tại đây để các tay săn có thể ở lại qua đêm trong chốn tiện nghi vương
giả.
Nhiều hình vẽ trong lăng mộ mô tả cảnh săn bắt nơi đầm lầy trong đó người chủ của lăng mộ đứng trên
một bè cói nhỏ hay thuyền dơ cao một que gỗ lên cao để ném. Để làm đàn chim bay lên, một con mèo
được huấn luyện hoặc một đầy tớ chạy vào bụi rậm xua đàn chim. Khi đàn chim bay lên, người chủ
lăng một ném que gỗ, làm rơi một lúc hai hay ba con. Sau đó mèo hay đầy tớ sẽ chạy đến thu nhặt mồi.
Bắt cá
Sông Nile và các kênh đào của nó thừa thải nhiều loại cá, vì thế bắt cá là một trò tiêu khiển phổ biến.
Phóng lao để bắt cá là môn thể thao ưa chuộng. ‘Ngư phủ’ đứng trên bè cói, đợi cá bơi ngang qua, và
tại một giây phút thuận tiện nhất phóng lao xuống nước. Trong các hình vẽ trong lăng mộ, người chủ
lăng mộ luôn được mô tả phóng lao một phát xuyên được hai con cá.
Ngoài rau củ, cá là thực phẩm chủ yếu của hầu hết người Ai Cập. Khi bắt cá làm lương thực, người Ai
Cập đánh lưới trên sông, một mẻ lưới thu được nhiều cá. Sau đó cá được mổ ruột rồi làm thức ăn, hoặc
ướp muối phơi khô dưới ánh nắng.
Tiệc Tùng Đàn Đúm
Người Ai Cập ưa thích tụ họp để tán chuyện, vui đùa và ăn uống cùng nhau. Không có nhiều thông tin
về những cuộc họp mặt này nơi tầng lớp thấp, nhưng những bữa tiệc tùng của giới thượng lưu thì được
ghi chép đầy đủ.
Nhiều hình ảnh trên mộ bia thời Tân Vương quốc cho thấy giới ưu tú thích tổ chức những buổi tiệc
tùng đình đám, có ca vũ nhạc. Mặc dù những hình ảnh này thường liên hệ đến các lễ tang, nhưng chắc
chắn chúng phản ảnh những loại tiệc tùng hay xảy ra trong tư gia của những người quyền quí, giàu có.
Những hình ảnh này cho ta một số chi tiết thú vị sau:
Khách khứa ngồi, thường thì các ông và các bà tách riêng ra. Điều này có vẽ kỳ cục đối
với một lễ tang.
Khách được đãi ăn và uống (bia và rượu vang) thừa mứa. Thật ra, trong một lăng mộ có
hình ảnh vui nhộn của một bà giải rượu trong một thùng nước sau một cơn chếnh choáng.
Từng đội tiếp viên phục vụ khách. Mọi việc ở buổi tiệc đều được tổ chức để khách khứa
cảm thấy mình được trọng vọng và khác biệt. Các tiếp viên được mô tả rót rượu vào ly,
phân phát thức ăn, và tô điểm cho khách vòng hoa và mũ thơm. Dầu xức được chế bằng
mở động vật trộn với dầu thơm. Mũ thơm được đội lên đầu khách và phát ra hương thơm
khi dầu chảy ra.
Chơi nhạc
Chủ nhân các buổi tiệc tùng cung cấp những trò giải trí, thường dưới dạng của một ban nhạc. Các nhạc
công thường họp thành nhóm nhỏ, thường có đàn ông lẫn phụ nữ. Ban nhạc chơi một số nhạc cụ gồm
sáo, đàn luýt, quả lắc (những que ngà buộc thành chùm vang lên tiếng lách cách đánh nhịp khi lắc), và
đàn hạc. Một cái trống tay nhỏ hoặc một nhóm các ông các bà vỗ tay đánh nhịp.
Không chứng cứ tồn tại cho thấy các quý tộc chơi nhạc cụ ở nơi công cộng; các nhạc công được thuê
phục vụ cho những buổi tiệc tùng đặc biệt. Tuy nhiên, có thể giới ưu tú học chơi nhạc để giết thì giờ.
Trong triều đại thứ sáu các nhà mộ mastaba (xem Chương 13) ở Saqqara, vợ của Mereruka, có lẽ một
công chúa, ngồi trên giường chơi đàn hạc cho người chồng ngồi kế bên thưởng thức.
Khiêu vũ
Người Ai Cập sẽ không nhảy tót lên mặt bàn và nhảy suốt đêm theo ban nhạc. Nhạc thường chơi cho
một nhóm vũ công biểu diễn, những người này cũng được thuê như các nhạc công.
Khiêu vũ là một hình thức giải trí rất gợi tình. Người biểu diễn thường là không ăn mặc gì ngoài một
vòng cổ sắc sảo và một đai nịt trang sức hoặc một khăn thêu quấn quanh eo. Một số vũ công được mô
tả mang mũ thơm trên đầu, chắc chắn để tỏa ra hương thơm cho thực khách khi họ lướt qua.
Xem xét thực đơn của buổi chiêu đãi
Thức ăn là phần chủ yếu của một buổi chiêu đãi, và may thay một số thông tìn về nó còn lưu lại.
Hình ảnh của những bàn cúng thần linh cho thấy người Ai Cập chọn món gì để dâng cho thần. Kết hợp
với thức ăn còn để lại trong nhà mồ và được mô tả trong danh sách lễ vật, ta có thể đưa ra một danh
sách thức ăn chi tiết có thể đã từng là thực đơn của những buổi tiệc sang trọng.
Mặc dù đối với phần còn lại của dân số thịt là món xa xỉ, nó là thành phần chủ yếu của một bữa ăn sang
trọng. Một số miếng thịt cắt ra có thể khó nuốt đối với thực khách ngày nay; nhưng người cổ Ai Cập
không bỏ phí bộ phận nào cả của con vật. Một số thịt phổ biến nhất là bò (kể cả đầu, lưỡi, và bộ đồ
lòng), ngổng, bồ câu, và cá. Thịt ăn kèm với
Rau củ, như dưa leo, củ hành, và cải bắp
Đậu lăng và hạt dẽ, bao gồm hạt dưa, và quả hạnh
Dược thảo, bao gồm cây rau mùi, và tỏi
Trái cây, bao gồm sung, nho, hạt nho, hạt cọ, chà là, và lựu
Bánh mì
Hầu hết các hình ảnh mô tả tiệc tùng đều cho thấy các gia chủ phục vụ những loại bánh mì và bánh
ngọt khác nhau cho thực khách, bao gồm bánh mật ong và bánh mì trái cây. Bánh mì là lương thực chủ
yếu trong khẩu phần người Ai Cập, và mọi người, nghèo hay giàu, đều tiêu thụ nhiều. Bánh mì cũng có
mặt trên mâm cúng các thần linh.
Những loại bánh mì khác nhau đến nay vẫn tồn tại, bao gồm bánh làm từ lúa mì và lúa mạch. Thậm chí
lăng mộ của Tutankhamun còn giữ lại những ổ bánh mì nhân dâu.
Người Ai Cập nướng những loại bánh mì khác nhau trong những hình thể khác nhau (hình tam giác và
hình ô van là thường nhất) để dễ nhận diện. Buồn thay, ý nghĩa chính xác của những hình thể này đến
nay vẫn chưa hiểu rõ.
Để xay bột thật nhuyển, người nướng bánh hoặc phụ nữ trong nhà có thể đã cho thêm bột đá (thạch anh
hay granit) hoặc cát vào cối xay, có tác dụng như chất ma sát, nhờ thế bột được xay nhuyển mau hơn
gấp hai. Rất có năng suất, nhưng chất phụ gia này trong bánh mì mau ăn mòn hàm răng của người Ai
Cập (xem chi tiết rùng rợn ở Chương 8).
Ủ bia
Không có bữa tiệc nào trọn vẹn nếu không có rượu, và người Ai Cập yêu các loại rượu của họ. Các bữa
tiệc phải cung cấp rượu vang và bia thừa mứa. Bia là khẩu phần chính trong thực đơn người Ai Cập và
được tính trong phần lương và khẩu phần do nhà nước trả.
Bia được làm tương tự như bánh mì. Nó phần nào nặng hơn bia ta uống ngày nay và có thể chứa một số
tạp chất. Bia Ai Cập được làm từ lúa mạch hoặc bánh mì thiu hoặc được nướng sơ. Chúng được sắp
trên một lưới bắc lên miệng bình. Sau đó nước được đổ lên bánh mì cho đến khi chúng tan rã và rơi
xuống bình, và được ủ lại để lên men. Sau đó, chất lỏng được chắt ra vào bình hai quay để trữ hoặc vận
chuyển.
Kết quả là một thứ bia không quá nặng nếu uống vừa phải, nhưng người cổ Ai Cập thì chè chén ít khi
vừa phải.
Đối với tay uống bia ‘trình độ’ hơn, các chất mùi thường được thêm vào, như chà là, gia vị, hoặc mật
ong. Đường có trong chà là và mật ong đẩy nhanh sự lên men. Khi Hội Khám Phá Ai Cập thử nấu
những mẻ bia sử dụng công thức từ thời cổ, họ tạo được một thứ bia rất ngọt nhưng không phải khó
chịu.
Thưởng thức rượu vang
Mặc dù bia là thức uống có cồn chủ yếu ở cổ Ai Cập, thời Tân Vương quốc, rượu vang rất phổ biến,
nhất là giữa giới thượng lưu. Rượu vang là thứ xa hoa dùng thay thế bia và được để dành cho những
dịp đặc biệt.
Một số vườn nho còn tồn tại trong vùng này, và nhiều trại chủ địa phương sản xuất rượu vang.
Athenaeus viết vào năm 200 AD rằng rượu vang Ai Cập ‘có màu tái, ngon, thơm, và hơi gắt, có chất
lượng như dầu’.
Như trong thế giới hiện đại, mỗi bình rượu đều được dán nhản ghi ngày làm, tên vườn nho, và nhà sản
xuất. Một số nhản khác từ các dinh cơ tại Malkata ở Thebes, quê hương của Amenhotep III, cũng ghi
thêm loại rượu chứa trong bình, như ‘rượu pha trộn’, ‘rượu cúng’, ‘rượu thuế’, ‘rượu mừng ngày về’,
‘rượu tiệc’. Tất cả điều này chỉ ra rằng người Ai Cập thật sự là những người sành rượu.
Tiến trình làm rượu rất giống với tiến trình xảy ra trong các vườn nho nhỏ ngày nay. Các bước cơ bản
gồm
Hái nho
Dẫm đạp nho trong những bồn bằng đất sét, gỗ, hay đá
Bỏ nho đã bị dẫm nát vào những tấm vải lanh rộng rồi vặn xoắn để vắt kiệt hết nước nho
Cho nước cốt nho lên men trong những bình đất
Chuyển nước nho đã lên men vào những vại đậy kín bằng nắp nêm có đục lỗ, cho phép
cac-bon mônô-xít thoát ra.
Thưởng thức rượu sau một thời gian ngắn lên men.
Một loại rượu vang hiếm dưới tên Shedeh được làm từ nho, nhưng được đun nóng. Loại rượu này được
phục vụ trong các buổi tiệc để gia chủ chứng tỏ cho khác mời biết mình là người giàu có và sành điệu.
Chương 8
Giữ Gìn Sức Khỏe: Bệnh Tật và Thuốc Men
Chương 9
Thờ Phượng như người Ai Cập: Tôn Giáo
Trong một xứ sở nóng như Ai Cập, mặt trời có một quyền lực đặc biệt trong cuộc sống người Ai Cập.
Bởi thế, giáo phái mặt trời đặc biệt nổi bật từ thời Vương quốc Cổ đến thời La Mã.
Tuy vậy, thay vì đơn giản hóa vấn đề, người Ai Cập đặt tên và thờ phụng nhiều hình thái khác nhau của
thần mặt trời, tùy theo giờ giấc trong ngày và khu vực nơi thần mặt trời được thờ phụng.
Thêm nữa, các thần mặt trời liên hệ sát với sự sáng thế __ mặt trời là vật đầu tiên xuất hiện trên đỉnh
sáng thế lúc khởi thủy của thời gian. Điều này có nghĩa những thần mặt trời cũng là những vị thần sáng
tạo. Và như những vị thần sáng tạo, họ liên hệ sát với nghi lễ an táng và sự tái sinh của người quá cố.
Nhiều vị thần khác cũng muốn đi vào vùng hoạt động của thái dương để gia tăng của cải và quyền lực
(mặc dù thực tế quyền lực chắc chắn chỉ có vua và các thầy tu thèm muốn chứ không phải chính các
thần!) Nhiều thần muốn thái dương hóa tên mình bằng cách thêm từ Ra vào tên (chẳng hạn Amun-Ra).
Ngay cả các vị vua cũng muốn kết hợp với thần mặt trời và gọi vương hiệu của mình là ‘con trai của
Ra’ để khoa trương dòng dõi thần linh của mình.
Dành chỗ cho các vị thần khác
Để tăng thêm kích cỡ cho nhóm các thần này, người Ai Cập khéo léo pha trộn và cặp đôi các vị thần
của họ để tạo ra các vị thần mới. Việc này phần nào giải thích tại sao người cổ Ai Cập có quá nhiều
thần.
Chẳng hạn, nhiều thần sở hữu nhiều hơn một đặc tính và do đó được biểu thị tốt nhất bởi hai vị thần
khác nhau:
Amun-Min là phối hợp của thần sáng tạo (Amun) và thần sinh sản (Min).
Amun-Ra là phối hợp của thần sáng tạo (Amun) và thần mặt trời (Ra).
Một số thần nước ngoài được đưa vào và phối hợp với thần Ai Cập để dân chúng Ai Cập dễ chấp nhận
họ hơn:
Seth (thần Ai Cập của sự hổn độn) phối hợp với Baal (thần sấm sét của vùng Canaan).
Hathor (nữ thần mẹ Ai Cập) phối hợp với Anat (nữ thần chiến tranh của người Syria).
Osiris (thần Ai Cập của người chết) phối hợp với Dionysus (thần sinh sản của người Hy
Lạp).
Isis (nữ thần mẹ của Ai Cập) phối hợp với Aphrodite (nữ thần tình yêu của người Hy
Lạp).
Imhotep (thần y khoa của Ai Cập) phối hợp với Asklepios (thần y khoa của người Hy
Lạp).
Đọc thêm: Lừa gạt, sát nhân __ và nghề rừng
Một thần thoại tôn giáo Ai Cập quan trọng là về thần Osiris và Seth. Nó là cơ bản cho nhiều tín ngưỡng
an táng của người cổ, cũng như giải thích tính thần quyền của nhà vua.
Cách đây rất lâu, Osiris cai trị Ai Cập. Ông được coi là nhà trị vì anh minh, dạy dỗ dân chúng cách
trồng trọt, thờ phụng các thần linh, và tuân thủ luật lệ. Seth, em trai của ông, ganh tỵ và muốn chiếm
đoạt ngai vàng về cho mình. Seth nghĩ ra một âm mưu loại bỏ Osiris và chiếm lấy ngai vàng. Trước
tiên, y thu nhặt tất cả thông tin về số đo thân thể của Osiris __ chiều cao, chiều ngang, kích cỡ tứ chi,
ngay cả chiều dài sợi tóc, chiều dài ngón chân và móng chân. Sau đó Seth đóng một chiếc tủ rất đẹp
vừa vặn với các số đo này.
Tại một buổi chiêu đãi Seth trưng ra chiếc tủ này và tuyên bố ai đứng vừa vặn trong chiếc tủ này có
quyền sở hữu nó. Giống như trong truyện Lọ Lem, mọi người khách đều lần lượt bước vào chiếc tủ
đứng hy vọng mình sẽ khớp với nó. Một số người quá mập, số người khác quá cao; số khác có tóc quá
dài hoặc quá dày. Orisis, dĩ nhiên, vừa khít hoàn toàn. Nhưng trước khi ông kịp vui mừng vì món quà
thì Seth đã đóng sầm cánh cửa tủ, khóa tủ lại và ném tủ xuống dòng sông Nile, nhận chìm nhà vua.
Khi vợ Osiris là Isis nghe tin, bà đi tìm chiếc tủ để chôn cất thi thể chồng tử tế. Cuộc săn tìm đưa bà
đến tận Byblos (tọa lạc đâu đó ở Lesbanon ngày nay), tại đó bà hay tin rằng chiếc tủ đã mọc thành một
thân cây và đã bị đốn ngã và chạm thành một thân cột dựng trong lâu đài của nhà vua. Sau một thời
gian tìm kiếm bà tìm được cách thuyết phục hoàng hậu cho bà mang cột trở về Ai Cập. Khi Isis về tới
Ai Cập, bà nằm ngủ một giấc ngắn. Trong khi bà ngủ, Seth đi ngang, nhận ra chiếc tủ, lấy thi thể của
Orisis ra chặt làm 14 mảnh, ném rải rác khắp Ai Cập. (Isis quả là một người say ngủ.)
Khi Isis tỉnh dậy, cùng với em mình là Nephthys, bà bắt đầu một cuộc tìm kiếm tất cả mảnh thi thể của
Osiris. Mảnh cuối cùng __ dương vật của Orisis __ không bao giờ được tìm thấy. Seth đã ném phần
này xuống sông Nile và một chú cá đã nhanh nhẹn đớp lấy nó.
Isis, tuy nhiên, chứng tỏ mình là một phụ nữ tháo vác. Sau khi gom góp những phần thi thể đã thu nhặt
được, bà dùng đất sét tạo ra phần thứ 14 còn thiếu và hoạt động được. Sau đó bà tự biến hình thành một
con diều bay qua thân thể của Orisis. Làn gió từ cánh diều phấp phới tạo ra hơi thở cuộc sống cho
chồng, làm ông sống lại __ vừa đủ thời gian cho Isis thụ thai Horus. Rồi Osiris chết và bị đày đi vào
thế giới bên kia. Isis còn lại một mình nuôi nấng Horus trong các đầm lầy Ai Cập để che chở cậu khỏi
tay Seth cho đến khi cậu đủ trưởng thành và chiếm lại ngai vàng của cha mình.
Gặp Gỡ các Vị Thần Quốc Giáo Ai Cập
Trong khi Ai Cập tôn thờ hơn 700 thần trong dòng lịch sử cổ đại, một số vị thần xuất hiện nổi bật nhất.
Phần này đề cập đến những gương mặt quan trọng trong quốc giáo __ chủ yếu của nhà vua. Dân
thường thờ phụng một nhóm các vị thần hoàn toàn khác trong nhà họ.
Nhận diện các đặc tính chủ yếu
Các vị thần dưới đây được tôn thờ khắp đất nước, trong cung điện cũng như trong nhà thứ dân.
Ba vị thần quan trọng nhất là
Orisis, thần của địa ngục. Khi nhà vua băng hà, ông biến thành Osiris để ông có thể tiếp
tục cai trị trong cõi địa ngục. Về nghệ thuật, Osiris được thể hiện dưới dạng xác ướp (quấn
chặt như xác ướp), tay cầm móc và néo để biểu lộ vai trò tiếp tục của mình như một vì
vua.
Horus (con trai của Osiris và Isis), thần của sự trật tự. Nhà vua được tin là hiện thân
của thần Horus trên mặt đất. Horus được thể hiện như thân người đầu diều hâu.
Seth (em trai của Osiris), thần của sự hổn độn. Seth được hầu hết người Ai Cập kính sợ
vì bản chất hổn độn của ông, mặc dù một số vua công nhận ông là vị thần của riêng mình
(như Sety I và II, Ramses II và III). Seth được thể hiện như mình người đầu quái dị với
mũi cong, tai vuông, dài, dựng đứng.
Ba nữ thần quan trọng nhất là
Isis (em gái và vợ của Osiris, mẹ của Horus), nữ thần mẹ phổ quát. Isis được biểu thị
như một phụ nữ xinh đẹp, đôi khi có cánh thay vì tay. Bà cũng được mô tả theo hình dáng
của con diều để biểu thị chức năng của bà là cung cấp hơi thở cho cuộc sống đến người
quá cố. Bà được mô tả mang trên đầu một biểu tượng ngai vàng.
Nephthys (em gái của Isis và Osiris), nữ thần liên kết với sự tái sinh. Nephthys giúp
Isis làm Osiris sống lại. Bà được mô tả là một phụ nữ với đôi cánh thay vì tay hoặc là một
con diều cho thấy đặc tính tương tự với Isis. Nephthys được dễ dàng nhận diện qua một
hình bán nguyệt bên trên một hình chữ nhật ở trên đầu, là chữ tượng hình của tên bà.
Hathor (con gái của thần mặt trời Ra), nữ thần mẹ, và thần của tình dục, tình yêu,
sắc đẹp, sinh sản, và cái chết. Hathor liên hệ mật thiết với cuộc sống bên kia và sự cúng
thực phẩm để nuôi dưỡng người quá cố. Bà được thể hiện là một phụ nữ với đầu bò, một
người có tai bò và sừng bò, hoặc đơn giản là một con bò.
Nghi lễ cân trái tim được thi hành trước mặt Osiris, và là người phán quyết cuối cùng ai được tái sinh ai
không. Thoth, thần đầu cò quắm, thần của giới thư lại, ghi chép kết quả của việc cân tim. May thay,
trong nhiều hình vẽ nghi lễ này, không ai là không thành công.
Các công nhân cúng tế thần khi bị thương tích lúc làm việc __ thông thường nhất là bị mù mắt do điều
kiện làm việc lâu ngày dưới hầm tối chen chúc, đầy bụi bặm. Nhiều hình khắc cầu thần Ptah chữa khỏi
tai nạn này, mà các công nhân tin rằng bị thần linh quở phạt, hơn là do môi trường đem lại.
Ptah được mô tả dưới dạng gói chặt như xác ướp, đầu đội mũ ôm sát như mũ các vận động viên bơi lội.
Trong tay cầm ba cây trượng, tượng trưng cho sự ổn định, quyền lực, và cuộc sống vĩnh hằng, tất cả
điều này ông đều ban bố cho người tôn thờ mình.
Đi kèm với những bức tường ngoài của một số đền thờ nhà nước, trong đó có đền Karnak, là một nhà
nguyện tai nghe có một số bia dâng cúng thần Ptah, trang trí bằng một số tai nghe. Dân chúng thì thầm
những lời cầu khẩn vào các tai này và lời khẩn cầu sẽ đi thẳng đến Ptah. Trong một số đền thờ, một lỗ
được bí mật khoét đằng sau các bia cho phép một thầy tu ngồi đấy và trả lời các lời cầu khẩn. Các tín
hữu Ochắc phải tin là tiếng nói vang vọng đến là tiếng nói của thần Ptah.
Tham dự lễ hội
Lễ hội là phần quan trọng trong việc thờ phụng quốc giáo cũng như dân giáo. Các ghi chép lịch sử cho
thấy nhiều lễ hội được tổ chức hàng tháng, trong đó lễ hội quan trọng nhất là
Lễ hội Thung Lũng ở Thebes. Các gia đình thăm viếng các họ hàng đã qua đời của họ
trong các nhà mồ để ăn lễ với họ. Bức tượng thần Amun được mang theo đám rước dài từ
Karnak đến mọi đền thờ an táng trên bờ tây sông Nile.
Lễ hội Sokar-Osiris. Lễ hội này được tổ chức ban đêm như một lễ hội tang. Người ta
choàng củ hành quanh cổ và mang lễ vật cúng thần và người quá cố.
Lễ hội Opet ở Thebes. Một bức tượng thần Amun được mang theo đám rước dọc đại lộ
nhân sư từ đền thờ Karnak đến đền Luxor. Bức tượng an vị trong đền Luxor một số ngày
trước khi trở về lại đền Karnak.
Lễ hội Uống Rượu ở Deir el Medina. Lễ hội này vinh danh Hathor và, như đúng tên gọi,
kéo dài năm ngày uống rượu.
Những lễ hội này và nhiều lễ hội khác là dịp để mọi người được nghỉ làm việc để tham dự hay ngắm
nhìn các đám rước diễu qua các đường phố __ cũng như thưởng thức thức ăn và từng suối bia tuôn
chảy.
Bảo hộ người sống
Mọi người Ai Cập , hoàng gia hay dân dã, đều tin vào quyền lực của bùa chú để bảo hộ và làm tăng sức
mạnh cho người đeo chúng, còn sống hay đã chết.
Lá bùa là một hình tạo bằng bất kỳ vật liệu gì được đính vào vòng cổ, vòng tay hoặc nhẩn. Hàng trăm
loại bùa khác nhau đã từng tồn tại. Nhiều hình ảnh liên quan đến thần linh; mỗi lá bùa được một vị thần
hay nữ thần đặc biệt nào đó bảo hộ. Bùa được mang trên vòng cổ và vòng tay, một mình hay đi kèm
với các bùa khác, giống như các đồ trang sức ngày nay.
Những bùa khác biểu thị những khía cạnh của thần thoại cũng như những dấu hiệu tượng hình, bao
gồm:
Chìa khóa chữ thập: Dấu hiệu của đời sống bất tử.
Bọ hung: Con vật này liên kết với thần mặt trời cho ta niềm hy vọng về cuộc sống mới và
sự tái sinh.
Mắt của Horus: Mắt phải liên hệ với mặt trời, mắt trái liên hệ với mặt trăng. Đối với
người sống, Mắt của Horus bảo hộ chống lại mọi lực lượng ma quỹ xấu xa. Cả hai mắt
thường được tìm thấy trên xác ướp vì chúng có quyền năng phục sinh.
Nhím: Được mang để cầu mắn đẻ và tái sinh __ do con vật này tỉnh dậy sau giấc ngủ
đông.
Một chân: Cái chân là một phần trong chữ viết tượng hình có nghĩa là ‘sức khỏe’ và sẽ
đem lại sức khỏe cho người mang nó.
Hai ngón tay: Điển hình là ngón trỏ và ngón giữa. Chỉ tìm thấy trên xác ướp. Biểu thị các
ngón tay của người ướp xác, bảo đảm tiến trình ướp xác đã hoàn tât cũng như đem đến sự
bảo hộ hoàn toàn cho những bộ phận dễ tổn thương của thi thể.
Ruồi: Mang lại sự mắn đẻ và bảo hộ khỏi côn trùng cắn phá. Con ruồi vàng là một huy
hiệu vinh dự do vua ban.
Cóc: Phần nhiều phụ nữ mang để hấp thu sự mắn đẻ của cóc.
Thước thợ và dây dọi. Những biểu tượng này đem đến cho người đeo chúng sự chính
trực và kiên định lâu bền.
Bùa do người sống đeo cũng là một phương tiện để khoe mẽ __vật liệu làm bùa càng quý, người đeo
nó càng giàu. Hầu hết làm bằng thủy tinh, một số làm bằng đá quý.
Sử dụng tà thuật
Người Ai Cập có vẻ như một dân tộc ưa chuộng hòa bình, nhưng thật ra một số tôn giáo sử dụng tà
thuật để trả thù.
Đặc biệt, họ tin vào mãnh lực của đất sét hay sáp ong sẽ mang chết chóc cho kẻ thù của họ __ hơi
giống tà thuật yếm.
Những hình mà người cổ Ai Cập sử dụng có hai loại:
Hình nhân căm ghét được sử dụng để hủy diệt kẻ thù chính trị của Ai Cập và do đó chỉ
được nhà vua sử dụng. Mỗi hình người biểu thị một tù nhân bị trói. Trên ngực của tù nhân
là danh sách những kẻ thù truyền kiếp của Ai Cập (Nubian, Á châu, Lybia, Syria). Những
hình nhân này bị đập nát rồi chôn xuống đất, biểu hiện sự hủy diệt của kẻ thù.
Hình nhân bị nguyền rủa được sử dụng để làm liệt một người mình không ưa. Một số
hành động gớm ghiếc điển hình được tiến hành đối với hình nhân __ đốt hoặc đâm đinh.
Để việc yếm có hiệu quả hơn, một lọn tóc hoặc một móng tay của kẻ bị nguyền rủa được
đính vào hình nhân. Hình yếm được làm bằng các vật liệu đơn giản như đất sét hoặc sáp.
Mặc dù những hình nhân này chủ yếu được sử dụng để xâm hại và hủy diệt kẻ thù, một số người còn
sáng tạo và sử dụng chúng vì những lý do đáng ngờ. Một hình nhân ở Bảo tàng Louvre ở Paris (có niên
đại 200-300 AD) mô tả một phụ nữ bị trói chặt hai tay sau lưng và những gậy sắt chọc vào mắt và vùng
kín. Hình nhân được chôn cùng với một bản chì có khắc một bùa yêu chỉ ra rằng hình nhân này được
tạo ra từ tình yêu. Tuy nhiên, theo bản khắc chì, nếu người phụ nữ bằng xương bằng thịt không bị bùa
yêu của người đàn ông tạo ra hình nhân làm cho mê hoặc, cô ta sẽ bị hủy diệt. Hy vọng là cô nàng rồi
sẽ phải lòng anh chàng đáng gờm này.
Cầu khẩn lời sấm truyền
Ngoài việc khẩn cầu nữ thần Maat, người Ai Cập còn tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề pháp lý và
tranh chấp dưới hình thức sấm truyền. Nghèo cũng như giàu đều sử dụng sấm truyền để giải quyết
những bất đồng, kể cả những bất đồng cá nhân.
Người ta hoặc cầu khẩn sấm truyền trong đền thờ hoặc khi tượng thần được rước ngang qua đường
phố. Người ta có hai cách cầu khấn sự giúp đỡ của thần linh. Họ có thể:
Đặt một thông điệp viết tay tại điện thờ trước bức tượng thần. Tờ sớ này sẽ được trao
đến tay thầy tu để ông ta đặt nó trước mặt thần linh. Thần sẽ hồi đáp lời yêu cầu bằng cách
sử dụng những bảng có/không (một số bảng đã được tìm thấy). Câu trả lời này sau đó sẽ
được các thầy tu giải thích.
Khẩn cầu tượng thần thông qua các thầy tu đang vác con thuyền thiêng (con thuyền
có chứa tượng thần) trong đám rước. Dân chúng hô vang câu hỏi của mình, và tương
thần sẽ trả lời bằng cách thay đổi áp lực trên vai của các thầy tu đang vác thuyền thiêng.
Cách thức mà các thầy tu quỳ gối hoặc cúi thấp xuống có ý nghĩa khác nhau đối với dân
chúng.
Tinh thần của nghi thức sấm truyền là nếu bạn không thích câu trả lời của một vị thần nào đó, bạn có
thể đi hỏi một vị thần khác. Không có giới hạn về số lần phán quyết của chư thần.
Mơ thấy thần linh
Mặc dù người Ai Cập cầu khẩn trực tiếp với thần linh qua sấm truyền, các vị thần cũng xuất hiện trước
dân chúng trong giấc mộng, và sau đó các thầy tu sẽ giải mộng ấy. Các thầy tu này sẽ chỉ bảo các cá
nhân điều gì họ cần làm để lời cầu khẩn của họ được hồi đáp. Việc đoán mộng thường kèm theo những
lễ vật phải dâng cúng cho đền thờ và đây là một dịch vụ hái ra tiền của các thầy tu.
Thờ Cúng Tổ Tiên
Một trong những hình thức nổi bật nhất của tín ngưỡng trong làng quê là thờ cúng tổ tiên, trong đó dân
làng tôn kính người quá cố của gia đình, cách hai hay ba thế hệ. Những người Ai Cập còn sống khấn
nguyện tổ tiên phù hộ trong những sinh hoạt thường ngày.
Người Ai Cập tin rằng sau khi cá nhân tái sinh vào thế giới bên kia, y sẽ trở thành một akh ikr en re có
nghĩa là ‘một linh hồn ưu tú của Re’ (xem Chương 10). Những cá nhân này được cho rằng có quyền
năng trên cuộc sống của người còn sống cũng như có ảnh hưởng đến các thần của thế giới bên kia.
Bằng cách giữ cho tổ tiên sung sướng __ qua việc dâng cúng thức ăn đồ uống mỗi ngày __ người Ai
Cập tin rằng họ sẽ được các tổ tiên quá cố phù hộ.
Người Ai Cập trân trọng tổ tiên mình và luôn nhớ đến họ trong cuộc sống thường nhật, thậm chí làm
những cửa giả trong phòng sinh hoạt để hương linh tổ tiên của mình có thể bước vào nhà và ăn uống
hay vui chơi với gia quyến. Điều không hề xảy ra với gia chủ ngày nay.
Tổ tiên bỏ túi
Các tổ tiên được tôn quý cũng tham dự các lễ hội tôn giáo và đám rước qua cách sử dụng các tượng
bán thân của tổ tiên. Những tượng này nhỏ (tối đa 30 cm) bằng đá hay gỗ dễ mang đi biểu thị hình ảnh
của tổ tiên. Tượng bán thân gồm đầu và vai và đôi khi đội tóc giả. Tượng hiếm khi có khắc chữ, nhưng
các sử gia tin rằng chúng biểu thị cho những thành viên nam của gia đình.
Người Ai Cập đặt những tượng bán thân này trên bàn thờ tại nhà để mong được tổ tiên phù hộ. Những
tấm bia nhỏ (tối đa 25 cm) được đặt bên những tượng bán thân trên bàn thờ. Những bia này được khắc
hình ảnh của tổ tiên cũng như hình ảnh người hiến tặng bia. Nhiều bia có chạm lời khấn nguyện ngắn
van vái tổ tiên phù trợ.
Trong dịp Lễ hội Thung lũng hàng năm, tượng Amun được mang từ Karnak trong đám rước đến nghĩa
trang trên bờ tây sông Nile. Nhiều cư dân Deir el Medina tham gia đám rước với các tượng bán thân
của tổ tiên họ. Đám rước này kết thúc tại nhà mồ của người quá cố, tại đó một bữa tiệc tưởng nhớ được
tổ chức trong đó người quá cố được tin là có tham dự.
Phong thần các người phàm
Các thần linh tại gia, liên quan đến sự mắn đẻ, sinh sản, và các vết cắn độc địa của loài bò sát, sâu bọ,
và nhện độc, vẫn không đủ đối với thường dân. Họ còn thờ cúng những người phàm, đã được nâng lên
làm thần linh. Việc này không giống như thờ cúng tổ tiên, vì những người được phong thần thường là
những người được tôn kính và nổi tiếng trong nước. Họ được tôn thờ phổ biến hơn tổ tiên, vốn chỉ thờ
cúng tại gia.
Một số người được phong thần được dân thường thờ cúng, một số khác do vua chúa. Các thần được
phong này cũng được khẩn cầu vì nhiều lý do, bao gồm sự cầu mong mùa màng bội thu và răn dạy đạo
lý.
Một số thần được phong nổi bật nhất được số đông thờ cúng ở những vùng khác nhau bao gồm
Imhotep, kiến trúc sư xây dựng kim tự tháp bậc thang ở Saqqara (xem Chương 13), được
phong là thần y khoa, cho dù trong đời ông chưa hề làm thầy thuốc.
Senworset III được thờ cúng tại thị trấn Kahun (xem Chương 2 để biết thêm chi tiết), vì
ông đã có công xây dựng thành phố cho những công nhân xây kim tự tháp ở el-Lahun.
Amenhotep I được người dân ở Deir el Medina tôn thờ như người thành lập làng thủ
công.
Amenhotep, con của Hapu, là tể tướng trong thời vua Amenhotep III trị vì và được tôn
thờ như một nhà hiền triết. Ông là thần bảo hộ của thầy thuốc và được tin là hổ trợ việc thụ
thai.
Horemheb được vua Ramses II tôn thờ. Ông cho dựng một điện thờ trong nhà mồ của
Horemheb ở Saqqara. Việc tôn thờ này là để tri ân Horemheb đã chọn ông nội mình lên
làm vua kế vi.
Dân chúng dâng lễ vật cho các tượng thần được phong, cũng như đọc kinh và chú cho họ.
Xác ướp của một thầy tu triều đại 22 từ đền thờ Khonsu ở Karnak, Nesperenub, là chủ đề của cuộc
trưng bày 3D của Bảo Tàng British năm 2004. Xác ướp được đặt trong một quan tài làm bằng các lớp
sợi bông hoặc cây cói phủ thạch cao. Trong nhiều năm, các tia X làm nổi lên một vật thể lạ đính phía
sau ót của Nesperenub. Sự bất thường này gây nhiều bối rối. Bằng cách sử dụng phép chụp cắt lớp, các
nhà nghiên cứu có thể nhìn bên trong cơ thể của Nesperenub theo một cách chưa từng có được trước
đây. Hình quét CT nhận diện được một vật thể hơi giống một cái chén đất sét, có in dấu tay của người
nặn. Hình như trong lúc thợ ướp xác đang dán lớp băng quấn đầu tiên cho đầu bằng nhưa thông, họ đặt
cái chén bên dưới đầu để hứng nhựa dư chảy xuống. Tuy nhiên, có lẽ lúc đó đã hết ca làm việc và họ đã
quên lấy chén ra; khi trở lại làm việc vào sáng hôm sau, nhựa thông đã đông cứng, dán chặt cái chén
vào ót xác ướp. Những dấu vết sau đầu cho thấy họ đã cố cạy chén ra nhưng không thành công. Thế là
họ quyết định để nguyên cái chén tại vị trí không mong muốn và quấn vải lên, dấu nhẹm. Có ai mà biết
được?
Trả lại cho người gởi
Sau khi cơ thể được quấn bọc, thợ ướp xác trả lại nó cho tang gia. Tuy nhiên, các xác ướp không phải
lúc nào cũng được chôn cất ngay vì nhà mồ của gia đình chỉ mở cửa vài ba năm một lần để hạn chế sự
cuớp bóc. Trong khi chờ đợi được chôn cất, xác ướp được cất giữ trong một gian phòng hoặc tại cơ sở
ướp xác đối với nhà giàu hoặc tại nhà ở đối với gia đình nghèo hơn.
Ăn mặc chỉnh tề: Quần áo gởi theo người chết
Ngoài việc quấn bọc, các quần áo bằng vải len cũng được đặt trên hay quanh thi thể.
Một phụ nữ triều đại thứ năm có chín áo chôn cùng với bà bên trong áo quan bằng gỗ. Hai
áo rõ ràng được thiết kế cho tang lễ vì chúng rất dài (142 cm) và rất chật, không thể mặc
khi còn sống.
Một xác ướp có niên đại 2362 BC từ Tarkhan, hiện giờ ở Bảo tàng Petrie, được chôn với
đầy đủ quần áo cho thấy nếp nhăn ở nách và trên khuỷu, chứng tỏ nó đã được mặc khi còn
sống và chắn hẳn là một bộ y phục được người chết yêu thích.
Những mẫu y phục khác được khám phá trong các phần mộ bị lộn mặt trái ra ngoài và gấp
lại, một thói quen mà các người giặt ủi Ai Cập thường sử dụng để chỉ rõ y phục đã được
giặt ủi. Các y phục lộn mặt trái ra ngoài cho thấy quần áo đem theo xuống mồ cũng đã
từng được mặc khi còn sống.
Dọn dẹp ngăn nắp
Sau khi thợ ướp xác hoàn tất thủ tục ướp xác và thi thể trả lại cho gia đình, thường tất cả vật liệu sử
dụng trong tiến trình ướp xác được chôn giấu trong một chỗ riêng biệt. Tiến trình này gợi ý là mỗi chỗ
chôn giấu dành riêng cho mỗi lần chôn cất; buồn thay điều này không phải là trường hợp trong các ghi
chép khảo cổ.
Một số chỗ chôn giấu của thợ ướp xác đã được phát hiện ở Thebes và Saqqara, kể cả của
Tutankhamun. Những chỗ chôn giấu này bao gồm tất cả vật liệu được sử dụng trong quá trình ướp xác.
Những hủ và lọ chứa bột màu để tô cho xác ướp.
Nhựa thông để trét, khử mùi, và vệ sinh xác ướp.
Vải lanh để độn và quấn bọc
Muối để sấy khô
Sáp để bao phủ cơ thể và một số lỗ trên cơ thể
Mạt cưa và trấu để độn các phần rỗng
Đèn và những phần sót lại của buỗi lễ cúng sau khi đám tang hoàn tất
Chổi để xóa bỏ các dấu chân của người cuối cùng bước ra khỏi nhà mồ
Một số chỗ chôn dấu cũng chứa bàn ướp xác, đó là chiếc bàn thấp vì phần lớn tiến trình ướp xác được
thực hiện trong tư thế ngồi xổm. Những chiếc bàn này đều lấm muối, dầu, và chất thải lỏng của cơ thể.
Trong thời gian viết quyển sách này, lăng mộ được phát hiện mới nhất trong Thung lũng các Vì Vua
(KV63) đang được khai quật. Tất cả bảy áo quan được mở ra đều chứa đầy những vật liệu của thợ ướp
xác giống như những thứ được dùng khi chôn cất Tutankhamun, bao gồm các vòng cổ hoa đeo lúc
chôn cất. Một số bình chứa lớn trong lăng mộ chứa đầy muối, vải quấn, và các bình khác nhau, cho
thấy lăng mộ có thể đã là cơ sở ướp xác hơn là nơi chôn cất. Lăng mộ mới có thể là chỗ cất dấu đồ ướp
xác cho một phần mộ chưa được phát hiện!
Đọc thêm: Nắm bắt trí tưởng tượng
Mặc dù nghi thức ướp xác giảm sút trong thời kỳ La Mã chiếm đóng, các tiến trình ướp xác vẫn tiếp
tục làm thế giới tò mò kể từ đấy.
Từ AD 50 đến thế kỷ 19, các ý tưởng liên quan đến xác ướp càng lúc càng kỳ quái. Vì các xác ướp có
tuổi thọ trong khoảng 2,000 đến 4,000 năm, nhiều người tin rằng chúng nắm giữ bí ẩn của cuộc sống
vĩnh hằng. Các xác ướp thường được nghiền thành bột, có tên là mumia, và được ăn như một thần
dược. Vua Ba Tư từng gởi cho Nữ hoàng Victoria một lọ nhỏ bột mumia (làm từ các xác ướp rất cổ) để
bồi bổ sức khỏe. Không biết có phải nhờ uống nó với trà mà bà đã sống rất thọ!
Vào cuối thế kỷ 19, các nhà giàu thường săn lùng các xác ướp để trưng bày trong nhà họ. Việc lột công
khai các băng vải quấn xác ướp là những biến cố dành cho giới thượng lưu, trong đó các mệnh phụ thì
ngất xỉu khi nhìn cảnh tượng gớm ghiếc còn các ông thì chiêm nghiệm đến khía cạnh khoa học. Vì nhu
cầu thưởng ngoạn việc bóc trần xác ướp chẳng bao lâu vượt quá số cung, người Ai Cập hám lợi tìm
cách làm những xác ướp giả, phơi khô chúng ngoài nắng cho chúng trông như rất cổ, rồi bán với giá
trên trời cho những du khách khờ khạo.
Dẫn Đường vào cõi Âm
Mặc dù những thợ ướp xác bảo quản thi thể, nhưng phải cần những biện pháp phòng ngừa xa hơn khi
chôn cất để bảo đảm người quá cố không gặp trở ngại trên đường được tái sinh và đến thế giới bên kia.
Những biện pháp này được ghi trong các ‘sách hướng dẫn’ đến kiếp sau. Những lời chỉ dẫn được viết
trên áo quan, tường, giấy cói, và lớp vải quấn, cung cấp cho người quá cố đầy đủ thông tin cần thiết để
vuợt qua thế giới bên kia và vào cõi vĩnh hằng. Các phần sau sẽ đề cập đến những chỉ dẫn thông
thường nhất cho người chết.
Văn bản Kim Tự Tháp
Văn bản này là những văn bản an táng có sớm nhất, và không có gì ngạc nhiên chúng được viết trong
các kim tự tháp từ thời vua Unas của triều đại thứ năm đến thời vua Ibi, một vị vua ít được biết đến vào
triều đại thứ tám.
Văn bản được khắc trong phòng an táng và phòng chờ của kim tự tháp (xem Chương 14 về cách xây
dựng kim tự tháp) và không kèm theo hình vẽ nào. Các chữ tượng hình được sơn màu xanh để biểu thị
sự sống lại.
Văn bản Kim Tự tháp lúc đầu được thiết kế cho các đám tang hoàng gia, nhưng vào cuối thời Vương
quốc Cổ một số chương của văn bản cũng được sử dụng cho lăng mộ không thuộc hoàng tộc. Những
bùa chú lúc đầu liên quan đến thế giới bên kia của nhà vua và trình bày những số phận khác nhau cho
ông ta __ tất cả đều quan trọng như nhau. Những số phận này là:
Nhà vua có thể bay lên trời để trở thành một tinh tú giữa các tổ tiên mình.
Lúc lâm chung, nhà vua có thể trở thành Osiris, thần của cõi âm.
Nhà vua có thể đi cùng thần mặt trời trên con thuyền ánh sáng và đồng hành cùng ông trên
chuyến du hành đêm.
Hiển nhiên cũng có những điều trái ngược trong hệ thống tín ngưỡng liên quan đến những gì thực sữ
xảy ra sau khi nhà vua băng hà. Ngay cả từ thời đầu này, người Ai Cập đã có nhiều ý tưởng về thế giới
bên kia đối trọng với thế giới hiện thực.
Các văn bản kim tự tháp được chia thành ba loại, gồm một số các bùa chú. Những phối hợp bùa chú
khác nhau được chọn ra để trang trí cho kim tự tháp. Ba loại này là:
Bùa chú, có bản chất hộ trì. Bùa chú được sử dụng để đuổi rắn rết và những mối nguy
khác mà vì vua quá cố có thể gặp phải trong thế giới bên kia, có thể ảnh hưởng đến việc tái
sinh của ông.
Bùa tang, liên kết với người quá cố qua sự hiện hình của Osiris. Những bùa này mô tả
chuyến đi của nhà vua vào thế giới bên kia và thường được khắc chạm trong phòng an
táng. Những lời này được con vua đọc lên ở phòng an táng trong vai trò như Horus, con
trai của Osiris. Những văn bản này mô tả các lễ vật và các nghi thức phục sinh, bao gồm
những lời lẽ trong nghi thức Mở Miệng.
Bùa cá nhân, mà người quá cố dùng trên đường đi đến thế giới bên kia. Những bùa này
được đặt ở phòng chờ và lối đi ra ngoài kim tự tháp, giúp cho Ka khi nó rời khỏi lăng mộ.
Những bùa này đề cập đến cảnh tượng của thế giới bên kia, kể cả hình ảnh bước qua dòng
nước và lên bậc thang bắc lên trời.
Văn bản Áo quan
Vào đầu Trung Vương quốc, các Văn bản Kim tự tháp tiến hóa thành các Văn bản Áo quan, bởi vì
chúng được khắc chủ yếu trên nắp quan tài (mặc dù chúng cũng được khắc trên tường nhà mồ, mặt nạ
xác ướp, và giấy cói).
Văn bản Áo quan giống như Văn bản Kim tự tháp, mặc dù những bùa chú mới được thêm vào. Chúng
được sử dụng cho cả hoàng gia lẫn người thường.
Văn bản Áo quan phát triển xa hơn một số ý tưởng có trong Văn bản Kim tự tháp, bao gồm:
Các chuyến đi lên trời của ba được thực hiện bằng thuyền ánh sáng và đi cạnh thần mặt
trời.
Ý tưởng cho rằng sự tồn tại ở thế giới bên kia tùy thuộc vào việc nuôi dưỡng cái ka. Việc
bảo quản các bộ phận của cơ thể là quan yếu để cho ka và ba có thể hợp nhất để được tái
sinh. Vì lẽ này, một hình vẽ tỉ mỉ tất cả vật dụng cúng cho người quá cố (thực phẩm, quần
áo, vũ khí, và trang sức) là một trong những yếu tố quan trọng nhất của Văn bản Áo quan.
Bùa cá nhân vẫn còn hiện diện, mặc dù chúng được kết hợp vào Hướng dẫn đến Cõi
sau, mà thông thường nhất là Quyển sách về Hai Con Đường. sách này là phần giới thiệu
vào Âm ty, kèm theo một bản đồ chỉ rõ cách thức tìm được đường đến đó cùng những mốc
chỉ đường quan trọng. Tất cả thứ mà người ra đi cần đến. Những bản đồ này, nổi bật là hai
lộ trình gồm đất và nước, thường được nhìn thấy ở bên dưới áo quan.
Sách của Người Chết (Tử Thư)
Tân Vương quốc là thời kỳ phục hưng các văn bản an táng, với nhiều phiên bản được soạn thảo, bao
gồm Tử Thư với hơn 200 bùa chú đã có trong Văn bản Kim Tự Tháp và Văn bản Áo quan, bổ sung
thêm một số mới được cải tiến.
Văn bản Tử Thư được viết trên các áo quan, vải lanh liệm xác ướp, giấy cói, các bức tường trong nhà
mồ, và vải quấn bọc thi thể, và thường được minh họa với những họa tiết liên hệ với văn bản. (Những
văn bản an táng trước đây chỉ có chủ yếu là chữ viết.)
Một số bổ sung nổi bật là:
Chú 125, liên quan đến sự phán xét người quá cố và công đức của y để được nhận
vào cõi vĩnh hằng.
Những chỉ dẫn đặc biệt mà một số chương cần được viết lên những vật thể đặc biệt
để đạt được kết quả tốt nhất. Chẳng hạn:
1. Chương 6 nên được viết lên các tượng shabti, những tượng người hầu nhỏ được đặt
trong nhà mồ để phục dịch cho người quá cố.
2. Các Chương 26, 27, 29b, và 30b, phải được viết lên những con bọ hung lớn đặt trên
trái tim. Những con bọ hung này được khẩn cầu không khai ra bất kỳ bí ẩn xấu xa nào
khi người quá cố đứng trước Osiris trong Phòng Phán Xét.
3. Chú 100 nên được viết trên một tờ giấy cói sạch, chưa dùng đến bằng một thứ bột
phẩm màu xanh lá trộn với nhựa thơm và nước. Tờ giấy phải được đặt lên ngực của
xác ướp nhưng không thực sự chạm đến thi thể. Nếu làm được như thế, người quá cố
có thể bước lên chiếc thuyền ánh sáng của Re và dong ruổi cùng với vị thần quyền
năng nhất! Một chú vô cùng quan trọng.
Những chỉ dẫn mà một số chú nào đó phải được đọc lớn lên bởi một những người
khác nhau, như thầy tu, thợ ướp xác, và chính người quá cố. Chú nên được người quá
cố đọc được đặt trong nhà mộ gần với thi thể như có thể trong phòng an táng, để cái ka có
thể truy cập thông tin này ngay khi nó lìa khỏi xác.
Với quá nhiều chỉ dẫn rõ ràng, không phải tất cả 200 chương của Tử Thư được viết ra hết trong cùng
một chỗ.
Hướng dẫn đến Cõi Sau
Không giống Tử Thư, sách Hướng dẫn đến Cõi Sau là tuyển tập các bùa chú không thay đổi thường
xuyên, và là bộ sách tôn giáo đầu tiên mà nội dung được ấn định, phát triển theo một chủ đề, và phải
xem theo một thứ tự đặc biệt. Sách này chỉ được nhà vua sử dụng và thường thì lăng mộ hoàng hậu
cũng không được phép. Sách này giờ vẫn còn thấy được trong các hầm mộ ở Thung Lũng các Vì Vua
(xem Chương 13).
Hướng dẫn đến Cõi Sau có nhiều hình minh họa hơn Tử Thư và theo sau chuyến đi ban đêm 12 giờ của
thần mặt trời, có người quá cố đồng hành.
Trong truyện, chuyến đi ban đêm bắt đầu lúc hoàng hôn đối với mặt trời và lúc an táng đối với người
quá cố. Mặt trời đem ánh sáng đến cõi âm và đi về phía đông để được tái sinh. Mỗi giờ trong chuyến đi
12 giờ được ngăn cách bởi những cánh cổng do các quỷ sứ và mãng xà canh giữ. Người quá cố phải
xướng tên các quỷ sứ và cánh cổng mới vượt qua được. Nhiều cổng giờ được trấn giữ bởi các ác quỷ
lăm le ám hại thần mặt trời và người quá cố đồng hành __ một kịch bản thiện chống ác có thể làm ra
những bộ phim bom tấn! Ở cuối giờ thứ 12, mặt trời tái sinh lên tầng trời, và người quá cố tái sinh vào
thế giới bên kia.
Không cần phải khắc chạm đủ 12 giờ trên bức tường nhà mồ, áo quan, hoặc giấy cói, thường chỉ cần sử
dụng một hay hai giờ tiêu biểu tùy theo không gian có được.
Mua chuộc cán cân phán xét
Sau khi người quá cố thương lượng để qua trót lọt tất cả cánh cổng của cõi âm, còn một nhiệm vụ nhỏ
nữa để hoàn thành trước khi người chết đi vào cõi vĩnh hằng. Đó là bước vào Phòng Phán Xét, để đúng
trước mặt Osiris, vị thần của cõi âm, và làm chứng cho công đức của mình.
Trái tim người quá cố sẽ được cân với chiếc lông của sự thật (Maat). Nếu tim nặng hơn, lập tức quái
vật (Amut) đang chực sẵn sẽ nuốt chững trái tim, và người quá cố mãi mãi không được tái sinh và bị
đày ải vào bóng tối vĩnh cữu.
Thay vì phó thác trái tim mình trên bàn cân cho may rủi, người quá cố đọc lời xưng tội phủ nhận từ Tử
Thư, kể cho 42 phán quan của cõi âm tất cả những việc mà người quá cố không từng làm. Thật ranh
mảnh, vì nếu bạn phạm phải việc gì, đừng đề cập đến nó và không ai biết được! Lời xưng tội phủ nhận
bao gồm những câu nói như:
Tôi chưa từng làm điều gì sai quấy.
Tôi chưa từng trộm cắp
Tôi chưa từng tham lam
Tôi chưa từng giết người
Lời xưng tội tiếp tục, kết hợp những lỗi nhỏ nhặt với những tội tày trời như thể chúng như nhau. Mặc
dù việc cân tim nghe có vẻ khủng khiếp, những minh họa của các cảnh tượng này cho thấy không có ai
bị trừng phạt. Như vậy việc đọc lời xưng tội phủ nhận quả có tác dụng.
Nuôi dưỡng cái ka
Sau khi người quá cố được tái sinh vào thế giới bên kia, điều quan trọng là giữ gìn việc thờ cúng ka để
bảo đảm y được sống vĩnh hằng. Đối với hoàng tộc, việc thờ cúng này được tiến hành trong đền thờ an
táng do nhiều thầy tu đảm trách. Đối với dân thường, nếu giàu xây được lăng mộ có nhà nguyện, các
thành viên trong gia đình sẽ thờ cúng hương hồn người quá cố tại đây, hoặc thuê thầy tu thay thế mình.
Đối với những cá nhân nghèo hơn, các thành viên trong gia đình sẽ thờ cúng tại nhà.
Vượt quá tầm hiểu biết của người Ai Cập
Mặc dù người Ai Cập nỗ lực bảo quản thân thể của họ vĩnh viễn, không ai chắc chắn thế giới bên kia
có tồn tại hay không.
Trong một số lăng mộ ở thời Tân Vương quốc, có những hình vẽ cho thấy những nhạc công mù đánh
đàn hạc đang tấu nhạc cho giới ưu tú thưởng thức tại các buổi chiêu đãi.
Phía trên một số nhạc công có ghi lời của bài hát sau:
Họ đã chịu những tai ương gì?
Họ hiện giờ ở đâu?
Tường nhà của họ đã sụp đỗ và nhà cửa không còn
Như thể họ chưa từng tồn tại
Không có ai trở về từ cõi chết
Để có thể kể lại tình cảnh của mình
Và những thứ họ cần;
Để làm trái tim ta yên ổn
Cho đến khi ta cũng đi đến nơi mà họ đã từng qua
Nào ta hãy vui chơi và đừng bao giờ nản chí
Vì có ai đem được tài sản của mình xuống đó đâu,
Có ai đi đến đó mà quay trở về được đâu.
Rõ ràng, người Ai Cập không chắc chắn về sự tồn tại của thế giới bên kia. Nhưng dĩ nhiên họ tiếp tục
ướp xác và chuẩn bị chu đáo lễ tang, chỉ cho chắc ăn.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất của việc thờ cúng hương hồn ka là việc dâng cúng lễ vật, được
bày ra trước tượng người quá cố mỗi ngày. Những lễ vật này gồm bánh mì, bia, thịt gà, thịt bò, và rau
củ quả. Các thân nhân thường chọn những thức ăn mà người quá cố ưa thích khi còn sinh tiền. Không
có điều gì tệ hơn phải sống trong cõi
vĩnh hằng bằng đầu cá hoặc cải bắp nếu bạn không ưa gì chúng!
Kèm theo các lễ vật này là những lời cầu nguyện hoặc bùa chú, chủ yếu bảo đảm tên người quá cố
được giữ như còn sống bằng việc nhắc đi nhắc lại.
Đối với hoàng tộc, những lời cầu nguyện và lễ vật được dâng lên mỗi ngày hai lần cho bức
tượng ka của nhà vua trong đền thờ an táng của ông. Đối với phần đông cộng đồng, mức độ báo hiếu
như thế rất mất thì giờ và quá sức, vì thế nghi thức chắc hẳn được tiến hành hàng tuần, hàng tháng, hay
hàng năm, tùy theo hoàn cảnh gia đình.
Người Ai Cập cổ đại- Phần 4
This entry was posted on Tháng Bảy 15, 2021, in Lịch sử thế giới phương Tây and tagged AI
CẬP, Trần Quang Nghĩa. Bookmark the permalink. Bạn nghĩ gì về bài viết này?
Charlotte Booth
Trần Quang Nghĩa dịch
Phần 4
Giải Thích Nghệ Thuật và Kiến Trúc Ai Cập
Trong phần này . . .
Các nhà Ai cập học may mắn vì có quá nhiều văn bản, lăng mộ, và đền thờ còn sống sót, cung cấp một
cái nhìn tròn vẹn về văn hóa cổ Ai cập. Đột phá chủ yếu trong môn Ai cập học là sự giải mã chữ tượng
hình vào đầu thế kỷ 19. Trước thời điểm này, các nhà khảo cổ chỉ có thể chiêm ngưỡng trầm trồ mà
không nhìn được thấu đáo văn hóa và tín ngưỡng của Ai cập.
Các đài tưởng niệm của cổ Ai cập liên hệ mật thiết vói tôn giáo, và tất cả thành phần kiến trúc của một
ngôi đền đều có một mục đích. Tuy nhiên, sự phát triển của các ngôi mộ từ những huyệt đào trong đất
đến kim tự tháp, và trở lại huyệt lần nữa là do tính an toàn nhiều hơn là tôn giáo. Khi các nhà mồ càng
bí mật hơn chúng càng trở nên tinh tế và sắc sảo hơn, như một bù trừ. Phần này sẽ đưa bạn đến đó.
Chương 11
Giải Mã Nghệ Thuật và Chữ Tượng Hình Ai Cập
Trong Chương Này
Gặp gỡ các nghệ sỹ
Thiết kế những tác phẩm lớn
Làm việc theo nhóm
Tìm hiểu các quy tắc nghệ thuật
Làm việc hai và ba kích thước
Đọc ngôn ngữ cổ
Nghệ thuật Ai Cập __ bao gồm chữ tượng hình, là những hình vẽ biểu thị mẫu tự, âm thanh, ý tưởng,
và vật thể __ là đặc biệt và trông khác lạ đối với mắt người thường. Tuy nhiên, sau khi bạn bắt đầu hiểu
các tiêu chuẩn đằng sau các hình vẽ ấy, những hình ảnh cổ xưa này bắt đầu nói lên và cung cấp cho bạn
hàng khối thông tin về nơi chốn, sự kiện, và con người được thể hiện, bao gồm tuổi tác, thứ bậc, nghề
nghiệp, và vai vế của họ.
Nghệ thuật Ai Cập sống còn được chủ yếu là sự làm đẹp các lăng mộ, đền thờ và các vật thể thẩm mỹ
và hữu dụng. Xem Chương 12 để biết nhiều hơn về việc trang hoàng đền thờ và Chương 13 về việc
trang hoàng lăng mộ.
Chương này sẽ chỉ cho bạn cách thức gỡ rối cẩn thận những tiêu chuẩn dựa vào hình vẽ và phát giác
các bí ẩn của nghệ thuật Ai Cập.
Nhận Diện các Nghệ Sỹ
Các nghệ sỹ Ai Cập được đào tạo bài bản, và phải được huấn luyện về các quy ước của nghệ thuật Ai
Cập, khiến cho các hình vẽ trên toàn xứ Ai Cập đều giống nhau.
Việc đào tạo này được tiến hành theo kiểu vừa học vừa làm, và như mọi nghề nghiệp Ai Cập, nó được
cha truyền con nối, bắt đầu ngay từ lúc còn nhỏ. Trước tiên người học việc thực tập vẽ và chạm khắc
trên ostraca __ những mảnh bình vỡ và đá vôi được sử dụng như giấy nháp. Thầy dạy sẽ chỉnh sửa
những bức vẽ phác này bằng mực màu khác. Nhiều mẫu còn sót lại cho thấy những lỗi trò phạm và nét
sửa của thầy.
Làm theo nhóm
Không giống như nghệ thuật của nhiều nền văn minh, nghệ thuật Ai Cập không thể được giao phó cho
một người đặc biệt, đó là quy ước nghệ thuật nghiêm nhặt vào thời ấy.
Nói vậy, nhưng các ghi chép khảo cổ đã cung cấp tên các nghệ sỹ đã sống ở Deir el Medina và làm
việc trong các lăng mộ hoàng gia. Buồn thay, mặc dù các sử gia biết được tên các nghệ sỹ và tên các
lăng mộ họ đang xây dựng, tất cả các công trình nghệ thuật được thực hiện bởi các nhóm thợ gắn bó
nhau, do đó các công trình đó không thể quy cho một cá nhân. Theo quan điểm ngày nay, những quy
ước nghiêm nhặt của sự nặc danh và văn hóa có thể gây thất vọng cho người nghệ sỹ vì họ không có
cách gì biểu lộ cá tính của mình.
Mỗi nhóm thợ gồn khoảng 30 người, bao gồm một số thợ thủ công khác nhau:
Thợ cả thiết kế bố cục gốc và kiểm tra và điều chỉnh việc thi công của thành viên trong
nhóm
Thợ trát vữa chuẩn bị tường mộ cho tranh vẽ.
Thợ đá chuẩn bị tường cho hình chạm khắc.
Thợ vẽ đường bao vẽ các đường bao cho tranh vẽ và hình chạm khắc.
Thợ điêu khắc chạm khắc các đường bao cho hình chạm khắc
Họa sỹ sơn vẽ các hình cho cả tranh màu và hình điêu khắc
Tất cả thợ trong một nhóm đều cùng làm việc một lúc trên một công đoạn của dây chuyền sản xuất.
Sau khi thợ trát vữa đã chuẩn bị xong một diện tích tường, thợ vẽ đường bao vẽ phác hoạ hình và thợ
trát vữa di chuyển đến một khu vực khác trên tường. Ngay sau khi thợ vẽ đường bao đã hoàn tất một
phần, thợ điêu khắc sẽ bắt đầu phần việc của họ và thợ vẽ đường bao sẽ di chuyển đến khu vực xa hơn.
Toàn bộ tiến trình được tính toán sao cho mỗi người làm được nhiều việc như có thể trong một thời
gian ngắn nhất. Tiến trình được thực hiện chủ yếu trên những bức vẽ lớn từ một mét vuông đến mười
mét vuông. Người thợ cả phải chuẩn bị toàn bộ công trình trước.
Theo đúng thiết kế gốc
Mặc dù các nghệ sỹ đều có tay nghề trong những đặc tính khác nhau của phong cách nghệ thuật Ai
Cập, một hệ thống mạng lưới được đưa vào nhằm bảo đảm các sản phẩm nghệ thuật phải theo đúng tỷ
lệ và kích cỡ trong toàn bộ lăng mộ hoặc đền thờ. Hệ thống mạng lưới này được sử dụng cho tranh vẽ
lẫn tranh chạm khắc.
Tất cả bố cục đều được phác họa trên giấy cói và được sao chép và phóng đại trên tường của lăng mộ
hoặc đền thờ. Các thợ vẽ sử dụng mạng lưới có trong các hình vẽ của thiết kế gốc để sao chép và phóng
to lên tường để vẽ lại.
Các thợ vẽ tạo ra mạng lưới lên tường bằng cách nhúng các sợi dây vào mực đỏ, kéo căng dây qua bề
mặt tường, rồi buông tay cho dây bắn vào mặt tường để tạo ra một đường thẳng đỏ. Việc này được lặp
lại nhiều lần, ta sẽ được những đường ngang và dọc, dệt thành mạng lưới. Những đường này sẽ biến
mất khi đá được chạm khắc hoặc được sơn vẽ lên.
Trang Bị cho Họa Sỹ
Những di vật sống động của nghệ thuật Ai Cập dưới hình thức lăng mộ, đền thờ, và các tượng chạm
nổi càng đáng nể hơn khi bạn xem xét số dụng cụ giới hạn được sử dụng vào thời đó.
Cọ sơn thì hoặc là một bó cành cây nhỏ, hoặc một bó lau sậy, được dập nát ở một đầu cho nó tưa ra
như đầu cọ vẽ.
Sơn thì được pha trộn bằng tay và một số phẩm màu được nhập cảng, khiến cho màu sơn rất đắt đỏ.
Ngạc nhiên thay, nhiều màu vẫn còn sống động một cách đáng kinh ngạc cho dù đã được sơn cách đây
hơn 3,000 năm.
Qua phân tích hóa học, các nhà nghiên cứu có thể nhận diện được các khoáng chất dùng để tạo ra sơn:
Đỏ được làm từ đất đỏ hoặc oxit sắt, cả hai đều là nguyên liệu của Ai Cập.
Xanh trời được làm từ azurit, một loại các-bo-nat đồng được tìm thấy ở Sinai và phía
đông sa mạc. Màu sắc cũng được chế tạo từ sự phối hợp giữa silica, đồng, và đá vôi.
Vàng được làm từ đất vàng, oxit sắt, hoặc sulfit ar-sơ-nic; tất cả đều có ở Ai Cập.
Xanh lá được làm từ malachit ở Sinai. Có khi nó được chế tạo bằng cách pha trộn giữa
thủy tinh xanh và vàng thổ, cả hai chất này đều có ở Ai Cập.
Đen được làm từ muội than, bồ hóng, than, hoặc cây đuôi cong, tất cả đều có sẵn ở Ai
Cập.
Trắng được chế tạo từ thạch cao, vôi, hoặc các-bô-nát calcium, tất cả đều xuất xứ ở Ai
Cập.
Nâu được tạo ra bằng cách sơn đỏ lên đen.
Đèn, dùng để chiếu sáng hầm mộ trong khi làm việc, cũng là yếu tố quan trọng. Những đĩa dầu được
gắn bấc bằng vải lanh là loại đèn thường dùng. Vì loại đèn này tỏa ra rất nhiều khói, một số lăng mộ
chưa hoàn tất cho thấy những muội khói đen bám trên trần __ lăng mộ có ám muội khói nổi tiếng nhất
là lăng mộ của Tutankhamun.
Hình Dung Nghệ Thuật Ai Cập
Nghệ thuật Ai Cập không phải là một ảnh chụp. Khi xem xét nghệ thuật Ai Cập, các khán giả ngày nay
phải nhớ rằng người Ai Cập hiếm khi ghi chép ‘sự thật’ __ một sự mô tả hiện thực của một vật thể hoặc
một người.
Mặc dù các hình ảnh không hề được xem như một ảnh chân dung hoặc một ảnh nghệ thuật, mỗi phần
tử của một bố cục được thiết kế để kể cho bạn một điều gì đó về con người, sự kiện, hoặc nghi lễ. Khái
niệm này giải thích sự thiếu xót về luật phối cảnh và tính 3-D của nghệ thuật Ai Cập, cũng như phong
cách biểu diễn hơi kỳ cục (ít nhất là với mắt chúng ta) về người, thú, và thần linh.
Mọi thứ trong nghệ thuật cổ Ai Cập được trình bày dưới góc nhìn dễ nhận dạng nhất, trong một nỗ lực
giản lược mọi thứ mơ hồ. Tuy vậy, các nhà Ai Cập học ngày nay không phải là những khán giả được
mong đợi cho những tác phẩm cổ này, vì thế một sự hiểu biết một số qui ước cơ bản là điều cần thiết để
bắt đầu giải mã hình ảnh.
Những phần sau đây khám phá một số qui ước cơ bản trong nghệ thuật Ai Cập.
Đùa nghịch với cái nhìn
Để hiểu rõ một vật thể, bạn thường phải ngắm nhìn nó dưới các góc nhìn khác nhau, kể cả góc nhìn của
chim (từ trên cao nhìn xuống), cách nhìn trực diện, và nhìn nghiêng. Dẫn dắt bởi qui ước, các nghệ sỹ
Ai Cập sử dụng một cách nhất quán một số cách nhìn về một vật thể nào đó trong nghệ thuật của mình
và đôi khi trình bày nhiều hơn một góc nhìn vật thể trong một hình vẽ duy nhất.
Chẳng hạn:
Một bình chứa thường được trình bày với phần chứa bên trong trên nắp, cho dù phần chứa
bên trong được niêm kín.
Ghế được vẽ nghiêng thấy được hai chân, và chỗ ngồi được vẽ từ góc nhìn từ trên xuống.
Nếu có ai đó ngồi trên ghế, nệm ghế được trải qua chỗ ngồi và vắt qua lưng ghế.
Giày và thạch bảng luôn được biểu thị từ góc nhìn của chim (từ trên xuống) để cho ta nhìn
thấy vật thể rõ nhất.
Trong cảnh sân vườn, một hồ cá được nhìn từ trên xuống, trong khi cây cối chung quanh
được nhìn trực diện, cho ta cảm giác chúng như nằm bẹp trên mặt đất. Các vật trong hồ,
như cá, thuyền, hoặc người được vẽ phía trên mặt nước và nước không có chiều sâu.
Tạo thành một hàng thứ tự
Người cổ Ai Cập là dân tộc rất có tổ chức, và tác phẩm nghệ thuật của họ phản ánh điều này.
Tất cả tác phẩm Ai Cập được chia thành một chuỗi các quãng và cuối cùng là những cảnh hoặc hình
người lớn hơn:
Mỗi quãng được ngăn cách bằng một đường đáy, mà đôi khi biểu thị mặt đất cho những
hình người vẽ trong quãng ấy (hình dưới).
Những hình người lớn hơn (thường là của chủ nhân lăng mộ hay các vì vua và thần linh)
thường chiếm đoạn cuối của tranh tường, bao phủ bốn hay năm quãng. Những hình người,
đến một mức độ nào đó, đang nhìn bao quát những cảnh tượng nhỏ hơn.
Mặc dù nhiều cảnh lăng mộ và đền thờ trông như một đoạn phim khô hài, những cảnh nối tiếp nhau
không cần thiết phải theo thứ tự thời gian. Bố cục được dàn dựng trước, nhưng những cảnh riêng rẻ thì
thường được di chuyển để lấp đầy không gian trống. Do đó một thợ cả có thể sắp đặt một cảnh ngắn
trên một bức tường ngắn để dành bức tường lớn hơn cho những cảnh lớn hơn, bất chấp thứ tự thời gian
của câu chuyện. (Việc thiếu tính liên tục này có thể thực gây bối rối đối với những cảnh mô tả chuyến
đi 12 giờ của thần mặt trời, chẳng hạn, vì giờ 1 không nhất thiết phải ngay sát cảnh giờ 2!)
Hơn nữa, các quãng không nhất thiết kết nối với cảnh lớn hơn trong bố cục, và thật ra các quãng và các
cảnh có thể hoàn toàn không có mối liên hệ gì hết trong không gian và thời gian. Tuy vậy, các quãng và
cảnh điển hình liên kết nhau bằng một chủ đề chung: cúng bái, săn bắn, chiến chinh, vân vân.
Những qui ước khác liên hệ đến quãng gồm:
Đi theo hàng. Bàn chân của mọi người Ai Cập điển hỉnh là nằm trên cùng một đường đáy
và hướng theo một chiều, cho dù khi vẽ nhiều người. Người Ai Cập biểu thị văn hóa trật
tự, có tổ chức của họ qua qui ước này.
Người nước ngoài lộn xộn. Bất cứ người nào ở ngoài biên giới Ai Cập đều được thể hiện
một cách lộn xộn, không có hàng lối nào hết.
Vùng miền hoang dã. Bất cứ vùng nào không ở trong xứ Ai Cập __ như một sa mạc hoặc
một xứ ngoại quốc __ được biểu thị qua cách sử dụng những đường đáy dợn sóng.
Biểu diễn gương mặt người
Người cổ Ai Cập mô tả guong mặt người theo một phạm trù hình vẽ riêng, mà con mắt thời nay cho là
kỳ cục.
Bạn chắc hẳn đã nhìn thấy hình vẽ ‘lối đi Ai Cập’ __ những hình người một tay trước đưa cao ngang
đầu và tay kia đánh ra sau ngang eo. Mặc dù trông khôi hài, hình ảnh này không thực sự tồn tại ở đâu
cả trong nghệ thuật Ai Cập; các họa sỹ ngày nay chỉ đơn giản phát triển nó qua hàng năm trời như một
cách thử nghiệm biểu thị phối cảnh bất thường về hình người của cổ Ai Cập.
Các họa sỹ cổ Ai Cập mô tả thân thể con người theo cùng kiểu như các vật khác (xem ‘Đùa nghịch với
cái nhìn’ ở phần trước chương này). Hình người là một tổ hợp của những bộ phận cơ thể ráp lại từ
những góc nhìn dễ nhận ra nhất của họ. Vì lý do đó, hình người được vẽ trên tường lăng mộ và những
tiết mục trang trí đứng ở vị trí không thể được đối với người thật __ nếu không làm trật nửa tá khớp
xương! (xem Hình 11-1.)
Hình 11-1
Điển hình, hình người trong nghệ thuật Ai Cập bao gồm:
Đầu nhìn nghiêng, nhưng mắt, chân mày thì nhìn trực diện.
Vai được biểu thị trực diện nhưng núm vú hoặc bộ ngực (nếu là phụ nữ) thì nhìn nghiêng.
Eo, khuỷu tay, chân, và bàn chân nhìn nghiêng; theo truyền thống phải vẽ cả hai bàn chân
từ bên trong với một ngón duy nhất, thường là ngón cái, mặc dù từ thời Tân Vương quốc
một số hình ảnh cho thấy cả năm ngón trên cả hai bàn chân.
Bàn tay thường thấy được toàn bộ, hoặc mở ra (từ đằng sau cho thấy móng tay) hoặc nắm
chẳ (từ đằng trước cho thấy lóng tay).
Mặc dù các hình phẳng vẽ người Ai Cập có thể trông hơi kỳ cục đối với chúng ta (với bàn tay trên
cánh tay sai và bàn chân trên cái chân sai), nhiều hình vẽ cho thấy hệ cơ bắp đàng hoàng, còn các
tượng phô diễn tài năng nghệ thuật đáng kinh ngạc của người Ai Cập.
Mặc dù các hình phẳng vẽ người Ai Cập có thể trông hơi kỳ cục đối với chúng ta (với bàn tay trên cánh
tay sai và bàn chân trên cái chân sai), nhiều hình vẽ cho thấy hệ cơ bắp đàng hoàng, còn các tượng phô
diễn tài năng nghệ thuật đáng kinh ngạc của người Ai Cập.
Mô tả tuổi thanh xuân vĩnh hằng
Hầu hết tranh vẽ cổ Ai Cập đều mô tả người ở tuổi sung sức nhất __ thanh xuân và cường tráng. Ngay
cả cho dù những cá nhân đó thực sự đã già khi được mô tả (như Ramses II đã hơn 90 tuổi khi băng hà)
cũng được vẽ như thanh niên 20 tuổi.
Việc mô tả con người của nghệ nhân cổ Ai Cập được thiết kế để mãi mãi trường tồn trên lăng mộ hay
đền thờ cùng với những vật thể trang trí khác. Ai muốn hình vẽ mình đầy mục và tàn nhang cơ chứ?
Con người muốn được nhớ lúc mình đang ở phong độ cao nhất, và người Ai Cậpập không khác.
Một số lăng mộ ở Deir el Medina cho thấy những người thân thích già nua, tóc muối tiêu hoặc bạc
trắng. Đồng ý, da và cơ thể của họ không cho thấy sự tàn phá của thời gian, nhưng tóc họ đã nói lên
tuối tác của mình.
Lứa tuổi duy nhất dễ dàng nhận diện trong nghệ thuật Ai Cập là lứa tuổi trước dậy thì. Trẻ Ai Cập dưới
tuổi này được mô tả với đầu cạo trọc hoàn toàn và một lọn tóc rũ xuống ở phía phải đầu. (Khi đến tuổi
dậy thì __ khoảng giữa 10 và 15 tuổi __ lọn tóc này được cạo sạch như một nghi thức bước qua tuổi
dậy thì.) Ngay cả trong các trẻ em trước tuổi dậy thì, bạn có thể phân chúng thành trẻ thơ (dưới 7 tuổi)
và trẻ em (trên 7 tuổi và chưa đến dậy thì). Trẻ nít thì được vẽ trần truồng, trong khi trẻ em thì được vẽ
có mặc quần áo.
Tô màu thế giới của họ
Khi mô tả con người, các nghệ nhân bám sát những qui ước về màu sắc khác nhau để nhận diện được
sắc tộc của một cá nhân.
Đàn ông Ai Cập có da nâu đỏ, trong phụ nữ Ai Cập thường có nước da vàng.
Người từ vùng Nubia (Sudan ngày nay), nằm dưới quyền kiểm soát của Ai Cập __ có
nước da nâu tối hoặc đen và tóc quăn, ngắn.
Người Cận Đông (từ những vùng hiện giờ là Israel, Lebanon, và Syria), có nước da vàng
và tóc hình nấm, ngang vai, và đen.
Người Lybia (các bộ lạc du mục từ sa mạc phía tây) đôi khi cho thấy nước da đẹp, mắt
xanh, và tóc đỏ, hoặc có lọn tóc chỉn chu rũ xuống một bên đầu.
Nếu một đám đông người có cùng chủng tộc đứng gần nhau, các nghệ nhân thay đổi sắc độ màu da từ
tối hơn đến sáng hơn để da của hai người đứng cạnh nhau không có cùng sắc độ.
Xem xét phong cách
Người Ai Cập cũng chỉ được mô tả mặc y phục trắng trừ các thầy tu chức cao thì mặc áo khoác da beo.
Ngoài sự khác nhau về màu vẽ, những ngoại nhân dễ dàng phân biệt với người Ai Cập bằng phong
cách ăn mặc của họ.
Người Nubia đeo bông tai vàng và khăn quấn hông làm bằng da bò, da hưu cao cổ, hay da
báo.
Người Syria có tóc ngang vai có khăn quấn quanh trán. Áo khoác dài của họ màu trắng có
viền đỏ.
Người Lybia có kiểu tóc kiểu cọ, dài ngang vai có bím trang trí lông chim. Chúng cũng
mặc những áo choàng len trang trí tỉ mỉ có viền dài.
Người Á châu (chỉ những dân tộc sống ở vùng Syria-Palestine) để râu, mặc áo choàng
trang trí tỉ mỉ.
Hầu hết nghệ thuật Ai Cập cho thấy những ngoại nhân luôn bị vua chúa Ai Cập đàn áp, bí đánh bại, bị
bắt phục dịch, hoặc triều cống cho vua hoặc quan lớn Ai Cập.
Kích cỡ là trên hết
Các nghệ nhân Ai Cập sử dụng kích cỡ như là phương pháp mô tả chức vị hay thứ bậc. Trong nghệ
thuật Ai Cập, hình vẽ càng lớn nhân vật đó càng quan trọng. Trong các nhà mộ, nhân vật lớn nhất bình
thường là chủ nhân của nhà mộ, trong các đền thờ những hình người lớn mô tả vua hoặc thần linh.
Trong những cảnh khi mọi người được trình bày cùng kích cỡ, bạn còn có thể nhận diện ai là nhân vật
quan trọng nhất. Cá nhân có thứ bậc cao hơn có bàn chân đặt ở bậc cao hơn qua thế ngồi hoặc đứng
trên một bệ hay bục.
Các Tuyệt Tác Điêu Khắc
Các nhà điêu khắc Ai Cập sáng tạo nghệ thuật trên bề mặt hai chiều __ bức tường, bia ký hoặc bảng sứ
__ cũng như các tác phẩm ba chiều. Nhiều công cụ điêu khắc đá đơn giản chỉ làm bằng loại đá cứng
hơn đá được khắc. Các công cụ khác gồm
Cưa tay bằng đồng được sử dụng từ thời Vương quốc Cổ.
Nêm kim loại được sử dụng để tách những khối đá.
Nêm gỗ được dùng để tách những khối đá. Nêm được chèn vào một khe hở trong đá rồi
làm ướt. Khi gỗ nở ra đó thấm nước, đá sẽ tách ra.
Đục cùn được làm từ các loại đá, đôi khi với một cán gỗ. Các đục được vỗ bằng một búa
đá có tay cầm gỗ.
Cái vùi có mũi kim loại được sử dụng từ thời Vương quốc Cổ.
Bức tượng sau khi đã hoàn thành được chà láng bằng cát giống như ta dùng giấy nháp hiện giờ. Tượng
sau đó được làm bóng bằng vải nếu tượng không dự tính sơn màu.
Tranh khắc chạm
Đối với các tranh khắc chạm , thợ điêu khắc sử dụng các cây đục bằng đồng theo một trong hai cách
sau:
Chạm nổi là kỹ thuật đục mất hậu cảnh chỉ để lại hình nổi bật lên. Kỹ thuật tốn công
hơn, phần lớn được dùng trong lăng mộ và đền thờ, vì các bóng đổ tạo ra bởi ánh sáng mờ
trông rất kịch tính.
Chạm chìm nhanh hơn, trong đó người thợ chỉ đục phần hình vẽ ra khỏi hậu cảnh. Kỹ
thuật này thường được sử dụng ở các bức tường ngoài và tạo ra những bóng đổ rất tối, làm
hình ảnh rất tương phản trong ánh sáng mặt trời.
Hình chạm khắc sau đó được sơn nhiều màu, mà đối với đôi mắt tầm thường của một số khán giả ngày
nay, sẽ cho là vụng về và lòe loẹt. Đối với người Ai Cập, đưa vào màu sắc là để phô trương sự giàu có
và địa vị xã hội.
Chạm khắc 3D
Hàng trăm pho tượng còn sống sót từ thời cổ Ai Cập của giới hoàng tộc và quan chức. Người Ai Cập
không thực sự làm tượng chỉ vì mục đích thẩm mỹ, do đó mọi pho tượng đều có một chức năng. Tượng
được đặt cả trong đền thờ lẫn trong lăng mộ và toàn là tượng ka. Dù tượng đặt ở đâu, người Ai Cập tin
rằng linh hồn người quá cố có thể tham dự vào các lễ cúng và vật cúng được bày ra.
Các pho tượng có kích cỡ khác nhau và làm bằng nhiều chất liệu, tùy thuộc mức độ giàu có của cá
nhân. Chúng thường được làm bằng đá, kim loại, hay gỗ; loại rẽ hơn thì dùng chất liệu có sẵn trong xứ,
loại đắt hơn thì dùng chất liệu ngoại nhập, như:
Đá vôi từ những mỏ đá ở Giza và Tell el Amarna
Đá granit đỏ từ Aswan
Đá thạch anh từ Gebel Ahmar (gần Cairo)
Thạch cao tuyết hoa từ Hatnub, đông nam Tell el Amarna
Gỗ tuyết tùng từ Lesbanon
Gỗ sung dâu từ Ai Cập
Đồng từ Sinai và Cyprus
Các pho tượng, cũng như các hình khắc chạm, tuân theo một số qui ước để chỉ thị thứ bậc và địa vị xã
hội. Chẳng hạn:
Hình người ngồi bắt chéo chân trên sàn nhà là một thư lại.
Hình người hói đầu mặc áo choàng da beo là một thầy tu cao cấp.
Hình người đội tóc giả mặc áo choàng da beo là pháp sư an táng.
Hình người hói đầu có váy dài buộc ở ngực là tể tướng.
Từng cuộn mở ngang qua bụng dưới biểu lộ sự giàu có, sung túc.
Đọc chữ Tượng Hình
Để nhận diện rõ hơn các cảnh vẽ trong lăng mộ và đền thờ, ta cần phải biết đọc một số cartouche __
bảng khắc có khung hình ô van trong đó là các chữ tượng hình chứa tên các vì vua và các thần (xem
hình dưới).
Chữ tượng hình __ một hình sử dụng để biểu thị các từ mặc dù không phải luôn luôn đơn giản như thế
__ cấu thành một ngôn ngữ đúng nghĩa với các thì, động từ, danh từ, và giới từ. Hơn 700 ký hiệu tượng
hình tồn tại trong thời Trung Vương quốc và số lượng tăng lên hơn 1,000 trong thời Ptolemy. (Khi
những từ nước ngoài được đưa vào, người Ai Cập cần những ký hiệu mới để có thể đánh vần chúng!)
Hình 11-2
Hình 11-3 cho thấy các ký hiệu được dùng để biểu diễn những tên thông dụng ở phương Tây.
Hình 11-3
Chữ viết tượng hình không chứa nhiều nguyên âm. Cũng vậy, ký hiệu ở cuối mỗi tên (ký hiệu xác
định) cho bạn biết người đó là nam hay nữ.
Đọc tên các vị thần
Hầu hết tên trong hoàng tộc và tên các vị thần đều dùng các ký hiệu kép hay bậc ba (có hai hay ba âm).
Tuy nhiên, một số ký hiệu này đều dùng chung cho hoàng gia và thần linh. Hình 11-4 cho thấy một số
thần nổi tiếng nhất, cũng như tên một số vì vua quen thuộc liên kết với tên thần; tất cả đều xuất hiện
bên trong một cartouche.
Hình 11-4
Những ký hiệu này giúp nhận diện thần và nữ thần trong hình vẽ và bảng khắc. Những ký hiệu này
xuất hiện trên đầu các nhân vật và để nhận diện các món quà đặc biệt mà các vị thần ban tặng cho nhà
vua.
Một số tên các vị thần này xuất hiện trong tên các vì vua thông thường nhất bên trong một cartouche,
như trong Hình 11-5.
Hình 11-5
Hình 12-3
Thêm những Nét Chấm Phá:
Cột Đá Tưởng Niệm và Trang Trí
Sau khi đền thờ được hoàn thành và pho tượng của thần đã được đặt trong điện thờ, đền thờ được xem
như là có đầy đủ chức năng để hoạt động. Nhưng điều này không có nghĩa là các nhà vua không được
bổ sung gì vào đền thờ nhằm cải thiện công trình của các vua đời trước, cũng như để chứng tỏ lòng tôn
kính của mình đối với thần linh.
Vật phẩm bổ sung thường là những trang trí bằng tranh vẽ hay chạm khắc, các pho tượng, cung đường
hành lễ, và cột tưởng niệm. Phần sau đây nói về các kiến trúc bổ sung này.
Hướng đến mặt trời: Cột tưởng niệm
Mọi đền thờ đều có ít nhất hai cột tưởng niệm __ những kiến trúc cao, chỉ thẳng lên trời đồng nghĩa với
cổ Ai Cập. Các cột tưởng niệm có dạng vuốt thon đặc trưng như cây kim. Trên đỉnh cột là một chóp
tháp được mạ vàng hoặc hợp kim, có hình dạng của một mô đất sáng thế. Một số cột tưởng niệm hoàn
toàn bao phủ bằng vàng nếu kinh tế Ai Cập cho phép.
Cột tưởng niệm được làm từ một khối đá duy nhất, thường là đá granit đỏ từ Aswan. Mỏ đá ở Aswan
còn lại một cột tưởng niệm chưa hoàn tất (dài hơn 41 m) cắm trong đá, cho thấy dáng vẻ (cột và chóp
tháp) được khắc tại chỗ rồi sau đó di chuyển khi hoàn tất.
Trong một đền thờ chuẩn thời Tân Vương quốc, các cột tưởng niệm thường được đặt phía trước cột
tháp ở cổng vào, án ngữ bên sườn của lối vào, hoặc dọc theo trục trung tâm.
Hình 12-4
Sau khi hình khắc được hoàn tất, chúng được sơn màu tinh tế. Màu sơn cũng bổ sung những chi tiết
nhỏ, như kiểu dạng y phục, các cánh chim, và cây cối.
Làm đẹp bên trong
Vì đền thờ miêu tả vũ trụ, trần nhà luôn được trang trí những hình ảnh liên quan đến bầu trời, trang trí
gần nền luôn liên hệ đến đầm lầy. Các cột chống thường miêu tả cây cối, tạo ra một vũ trụ đá ai cũng
nhận ra.
Các đền thờ cúng lẫn an táng đều thể hiện cùng những loại trang trí nghệ thuật, bao gồm những hình
ảnh mô tả
Các hoạt động nghi lễ, như nghi lễ thờ cúng, đám rước, và lễ vật.
Các hoạt động lịch sử, như trận chiến, diễu binh, lễ đăng quang, cảnh ra đời của vua
chúa, và các hiệp ước ngoại giao.
Các cảnh về môi trường, áp dụng cho một vài yếu tố của kiến trúc đền thờ và bao gồm
những miêu tả bầu trời, đầm lầy, hệ thực vật và động vật.
Lễ dâng cúng đến thần linh.
Những hình ảnh được xếp đặt một cách có tính toán trong đền thờ, và mặc dù các nghệ nhân có nhiều
quyền tự do chọn lựa nội dung của hình ảnh, vị trí của hình ảnh thường được xác định trước. Ví dụ:
Điện thờ phải có hình ảnh những lễ vật dâng cúng trên con thuyền thiêng.
Điện thờ phải có những hình ảnh lễ vật mà nhà vua dâng lên các vị thần khác nhau.
Bậc cửa sổ trang trí những hình ảnh tia nắng mặt trời.
Trần nhà được vẽ các vì sao hoặc chim chóc để miêu tả bầu trời.
Nhà kho được trang trí những hình ảnh bò vỗ béo sẵn sàng hiến tế.
Những lộ trình của đám rước cho thấy tiến trình của đám rước.
Các cột đỡ và tường ngoài được trang trí những cảnh dữ dội của trận chiến, mô tả cảnh
nhà vua đánh đập kẻ thù hoặc những tù binh bị trói diễu qua. Những hình ảnh này có tác
dụng răn đe những kẻ thù muốn xâm hại đền thờ, Ai Cập, và nhà vua.
Trong các gian phòng không có những chức năng gì đặc biệt, nhiều dạng hình ảnh được trình bày , bao
gồm những biến cố lịch sử như lễ đăng quang, hoặc diễu hành quân sự. Chẳng hạn, trong đền Edfu, các
bức tường được sử dụng ghi chép những tài liệu liên quan đến quá trình xây dựng đền thờ và lịch biểu
các ngày lễ hội.
Thờ Cúng trong Đền Thờ
Đền thờ là nơi nhộn nhịp và sôi động. Mặc dù các đền thờ bế môn đối với dân chúng, các nghi lễ bên
trong có tầm quan trọng đặc biệt.
Mọi hoạt động đền thờ đều xoay quanh pho tượng thiêng trong điện thờ ở phía sau đền. Pho tượng này
nhỏ __ có lẽ chỉ cao khoảng 30 cm __ và được chế tác bằng vàng hoặc gỗ mạ vàng. Buồn thay, không
còn pho tượng nào còn sống sót, nhưng điện thờ chứa các tượng này vẫn còn nguyên và cho phép ta
ước lượng được kích cỡ của pho tượng.
Nghi lễ quan trọng nhất là nghi lễ đầu tiên trong ngày. Ngay từ lúc bình minh, tất cả nhân viên đền thờ
đều thức dậy, thanh tẩy cơ thể, và chuẩn bị bữa ăn trang trọng cho pho tượng. Các trách vụ điển hình
bao gồm nướng bánh mì và bánh mật ong, giết mỗ gia súc, và bày biện trái cây và rau củ quả trên các
khay. Bữa ăn sau đó được dâng cúng lên thần linh.
Một nghi lễ tương tự được thực hiện vào hoàng hôn khi pho tương được đặt lên giường; xem lại
Chương 9 để biết thêm chi tiết.
Suốt ngày, từng giờ các thầy tu cầu nguyện với vị thần. Họ canh giờ bằng cách quan sát mặt trời và sử
dụng đồng hồ nước, thực chất là những chén nước có đục lỗ và thời gian được đo bằng lượng nước
chảy qua lỗ.
Thưởng thức lễ hội
Đền thờ cũng là nơi tổ chức những lễ hội và đám rước, là dịp để dân chúng, vốn ngày thường không
được phép bước vào đền, đến thăm đền, và tham gia việc cúng kiến. Ghi chép chỉ ra rằng mỗi tháng có
khi có đến mười đám rước, nhớ đó dân chúng có thể chiêm ngưỡng con thuyền thiêng và có lẽ nhận
được phép lành và lời giảng dạy của các thầy tu.
Trong những dịp lễ hội và đám rước, các nhân viên đền thờ thường phân phát khẩu phần thêm cho dân
chúng để họ có thể tiệc tùng và tham gia lễ hội.
Không chỉ làm lợi cho dân làng, các lễ hội còn làm lợi cho những ngôi đền nhỏ hơn. Các pho tượng
thần linh từ những đền lớn, như Karnak hoặc Luxor, được rước đến những đền thờ nhỏ hơn. Để đảm
bảo các thần được đón rước trọng thể, các đền thờ lớn yểm trợ các đền thờ nhỏ về mặt kinh tế, làm lợi
không nhỏ cho các thầy tu làm việc ở đây.
Trân Trọng Vai Trò của Nhà Vua và Thầy Tu Cao Cấp
Nhà vua chính thức là giáo chủ của mọi giáo phái trong mọi đền thờ ở Ai Cập và được mong đợi thực
thi tất cả nghi lễ cần thiết để giữ gìn trật tự vũ trụ, hoặc Maat.
Nếu nhà vua thất bại trong việc xoa dịu thần linh, đất đai sẽ sụp đỗ gây ra hỗn loạn, kết quả là đói kém,
lũ lụt, hoặc ngoại xâm. Để tránh bớt áp lực, nhà vua giao công việc thờ cúng cho các thầy tu cao cấp
trong đền thờ. Mọi việc ông ta làm là nhân danh nhà vua.
Bất kỳ khi nào nhà vua hiện diện tại đền, vị trưởng giáo tại đó nhường quyền hành lễ lại cho nhà vua.
Đặt nền móng
Vai trò của nhà vua trong đền thờ bắt đầu ngay khi địa điểm xây dựng đền được chọn (và thường chính
ông chọn địa điểm ấy). Sau khi địa điểm được chọn và được dọn sạch, nhà vua thi hành mười nghi thức
đặt nền móng sau:
1. Căng dây định vị. Đây là nghi thức quan trọng nhất, trong đó nhà vua cắm mốc tại
những điểm sau này là mỗi góc của đền thờ và rồi căng dây giữa các mốc này để tạo ra
một khuôn viên của đền thờ sẽ được xây dựng.
2. Thanh tẩy địa bàn xây dựng bằng cách rắc thạch cao.
3. Đào những hố móng đầu tiên. Hố được đào cho đến khi mạch nước ngầm hiện lên.
4. Đổ cát vào hố móng đầu tiên. Việc này biểu thị mô đất sáng thế nhô ra từ vùng nước
nguyên thủy dưới đáy hố móng.
5. Đúc những viên gạch xây đầu tiên.
6. Chôn lễ vật cúng nền móng tại góc của công trình. Lễ vật có nhiều loại như đồ gốm,
thức ăn mẫu, công cụ mẫu, bùa chú, có khi nữ trang, để cầu cho việc xây dựng được an
toàn.
7. Khởi công.
8. Thanh tẩy đền thờ đã hoàn thành.
9. Dâng đền thờ lên cho thần linh. Nhà vua đặt pho tượng của thần vào trong điện ở
cuối đền. Pho tượng là tâm điểm của đền thờ. Mặc dù đền thờ có thể cúng thờ cúng
nhiều vị thần, nhưng mỗi đền thờ có một vị thần chủ. (Chẳng hạn, mặc dù Amun, Mut,
Khonsu, Montu, Ptah, Opet, và Amum đều được thờ tại đền Karnak, vị thần chủ là
Amun. Pho tượng Amun do đó quan trọng nhất.
10. Dâng cúng lễ vật lên thần giờ đã cư ngụ tại đền.
Nuôi sống nhân dân: Những bổn phận khác của đền thờ
Ngoài việc là ngôi nhà của thần linh tại đó các thầy tu thờ cúng và tôn kính tượng thần, đền thờ cũng là
trung tâm kinh tế của thành phố.
Phần nhiều đền thờ hoạt động nhờ vào tài sản riêng, thường là đất đai của mình. Tài sản này được nhà
vua hoặc những thành viên giàu có của cộng đồng đóng góp cho đền thờ vì nhờ đền thờ mà thần linh
ban phước lành cho họ. Đất đai này đền cho nông dân thuê lại, bù lại nông dân phải trả cho đền thờ một
phần ba thu hoạch. Nhiều lợi tức này được phân bố lại dưới dạng khẩu phần (lương) cho quân đội, cho
viên chức nhà nước hoặc thầy tu, và cho chi phí xây dựng đền thờ hoặc lăng mộ của nhà vua.
Gặp gỡ các thầy tu __ những công bộc (không phải thần thánh)
Trước thời Tân Vương quốc, một hệ thống tăng lữ thường trực không tồn tại. Các thầy tu làm việc
trong các đền thờ trên cơ bản bán thời gian và sau đó trở về với công việc của mình trong xã hội bình
thường. Trong thời Tân Vương quốc, nhiều thầy tu chủ yếu là những viên chức hành chính lo việc
kiểm soát thuế và phân phối lương thực __ với chỉ một chút vai trò tôn giáo. Ngay cả trong thời kỳ này,
đại bộ phận các thầy tu phục vụ một tháng mỗi bốn tháng.
Một nhóm hạt nhân nhỏ các thầy tu thường trực sống trong các đền thờ, với thầy chủ tế ở vị trí cao
nhất. Hiển nhiên số nhân sự trong đền thờ thay đổi tùy theo kích cỡ của đền thờ. Karnak, chẳng hạn, có
hơn 2,000 nhân viên, trong khi phần lớn các đền thờ khác chỉ có khoảng từ 10 đến 80 người giúp việc.
Làm việc như một văn phòng tư liệu cổ
Trước khi đền thờ can dự nhiều vào nền kinh tế Ai Cập và nền hành chính liên hệ, chúng lưu giữ
những ghi chép bao quát về tôn giáo khu vực, hơn là phòng lưu trữ thị trấn. Những ghi chép này được
cất giữ trong Ngôi Nhà Cuộc Sống và bao gồm những chi tiết về
Vị trí các địa điểm thiêng liêng
Các cuộc hành hương, mà mọi người có thể tham gia
Trung tâm thờ cúng (trung tâm thờ cúng các vị thần đặc biệt) và tên các nhân sự
Các mùa màng địa phương
Các chuẩn và thần địa phương
Lịch các lễ hội chính
Những điều cấm kỵ liên quan đến các hoạt động hoặc thực phẩm
Các đoạn sông Nile chạy qua khu vực
Các cánh đồng canh tác và những vùng đất có đầm lầy
Các chuyến xuất hành, như đi yểm trợ các chiến dịch đến các vùng đất xa lạ, những công
sự xây dựng, và vận lương.
Các xứ ngoại bang và nguồn tài nguyên
Ghi chép ngày tháng
Những thầy tu này cũng có trách nhiệm soạn ra hệ thống lịch. Ba hệ thống được sử dụng cho những
mục đích khác nhau:
Lịch nông nghiệp: Được đa số dân chúng sử dụng mỗi ngày. Năm được chia thành ba
mùa, mỗi mùa ba tháng __ mùa lũ, mùa trồng trọt, và mùa gặt hái.
Lịch thiên văn: Sử dụng trong thờ cúng và dựa trên sự chuyển động của các vì sao.
Lịch trăng: Sử dụng cho việc thờ cúng thần mặt trăng. Các ghi chép tỉ mỉ về các chu kỳ
mặt trăng được lưu trữ và kết nối với các ngày lễ tôn giáo.
Cả ba hệ thống lịch đều có một số đặc điểm chung. Mỗi tháng gồm 30 ngày, tổng cộng 360 ngày một
năm. Năm lễ hội tôn giáo được bổ sung vào cuối năm là ngày sinh các thần Osiris, Horus, Seth, Isis, và
Nephthys. Dĩ nhiên, lịch 365 ngày này từ từ lệch khỏi năm thật. Mỗi bốn năm, lịch nông nghiệp kéo dài
thêm một ngày, có nghĩa là cuối cùng mùa màng không còn trùng hợp với lịch. Để giải quyết sự bất
cập này, ngày ngôi sao Sirius mọc luôn trùng với ngày bắt đầu của mùa lũ, được xem là Năm Mới.
Chương 13
Khai Quật Lăng Mộ: Các Ngôi Nhà của Sự Vĩnh Hằng
Khi các mastaba trở nên ấn tượng hơn, các ông vua cần khẳng định vị thế và sự giàu có của mình, nên
dẫn đến thiết kế và xây dựng các kim tự tháp bậc thang và cuối cùng là các kim tự tháp phẳng (xem
Chương 14).
Hãy bước lên: Vua Djoser
Kim tự tháp đầu tiên được xây dựng cho Vua Djoser của triều đại thứ ba (2686 BC). Kiến trúc bắt đầu
với một lăng mộ mastaba truyền thống ở Saqqara. Phòng an táng nằm 28 m dưới mặt đất ở cuối một
đường hầm và được lát bằng đá granit. Di tích này nằm bên dưới kim tự tháp bậc thang vẫn còn ở chỗ
cũ tận ngày nay.
Dẫn từ phòng an táng là bốn hành lang, đi đến một dãy phòng và nhà kho. Một số phòng này có ngói
men xanh trang trí bằng những biểu tượng djed (biểu tượng hình cột, biểu thị xương sống thần Osiris,
tương trưng cho sự vững chải). Đây là hình trang trí duy nhất ở đây. Di vật người duy nhất còn sót lại
tìm thấy trong kim tự tháp bậc thang này là một bàn chân được ướp, cho thấy việc an táng đã xảy ra ở
đây.
Phần kiến trúc bên trên mastaba được xây bằng cát đá sa mạc và đất sét, đóng trong những khung đá
vôi dày 3 mét. Phần kiến trúc bên trên ban đầu dài 63 mét và cao 8 mét, bản thân nó không phải là kỳ
công tầm thường.
Tại một số khâu trong viêc xây dựng mastaba, Djoser muốn làm điều gì đó ấn tượng hơn và quyết định
một số thay đổi:
Mastaba phải mở rộng hơn.
Làm thêm ba kiến trúc bên trên chồng lên nhau, tạo ra kim tự tháp có bốn bậc.
Nền được mở rộng, và hai bậc nữa được thêm vào, kết quả là một kim tự tháp sáu tầng,
dâng cao đến 60 mét trên mặt đất (xem hình).
Đây là kiến trúc đầu tiên trên thế giới được xây dựng hoàn toàn bằng đá. Lăng mộ này biểu tượng một
bậc thang mà nhà vua sẽ bước lên trời gặp gỡ các tiên đế, đã trở thành các vì sao sau khi chết.
Sau khi kim tự tháp bậc thang được xây dựng, tiến hóa tiếp theo trong việc phát triển kim tự tháp là lấp
đầy các bậc thang để tạo thành một kim tự tháp thực sự, bốn mặt đều phẳng. Một số các kim tự tháp ở
Saqqara và Abusir khởi đầu là kim tự tháp bậc thang và sau được biến đổi thành kim tự tháp thực sự
bằng cách lấp đầy các bậc thang.
Đẽo trong Đá
Trong thời Trung Vương quốc, mastaba bị bỏ rơi và các phần mộ an táng người không thuộc hoàng gia
được đẽo vào đá. Những lăng mộ này được đục thẳng vào mặt vách đá và bổ sung một mặt tiền tưởng
niệm, một sân trong thoai thoải và một hàng cột có chức năng như một phòng nguyện tại đó người thân
và bạn bè có thể để lại vật cúng cho người quá cố (xem hình dưới).
Hàng cột bao quanh một diện tích tụ tập rộng và một phòng tượng nhỏ ở phía sau. Một đường hầm cắt
ra từ nền phòng nguyện dẫn xuống phòng an táng bên dưới. Các bức tường của những lăng mộ này
được trang trí tỉ mỉ với những hình vẽ cảnh sinh hoạt đời thường, huấn luyện quân sự, chiến đấu, và săn
bắn.
Nếu nó không được đóng đinh . . .
Như các kim tự tháp thời Vương quốc Cổ, các lăng mộ tạc vào đá này của thời Trung Vương quốc có
nguy cơ bị đột nhập cao. Các phẩm vật và đồ cúng không được gìn giữ dễ dàng bị lấy đi và bán ra thị
trường.
Những gia đình sở hữu lăng mộ này cố gắng giảm thiểu nguy cơ bị trộm cắp bằng cách thăm viếng
thường xuyên. Họ cũng giới hạn số lần mở cửa vào lăng mộ để chôn cất thêm thân nhân quá cố. Vì thế
nên người quá cố được ướp xác vẫn giữ trong nhà cho đến kỳ hạn mở cửa lăng mộ hằng năm, hoặc
hằng hai hay năm năm. Lúc đó các gia đình mới an táng tập thể những thành viên đã chết trong thời kỳ
đó một lần.
Tập quán trì hoãn việc chôn cất thi thể tiếp tục suốt lịch sử pha-ra-ông. Dân chúng quan tâm đến việc
trộm cướp hơn là biện pháp vệ sinh khi trong hầm nhà có vài thi thể đang chờ đợi. Nếu ngày nay thì
bạn đã bị cảnh sát thẩm vấn hoặc có thể một nhà phân tâm học đến xem đầu óc bạn có bình thường
không.
Tiếp tục chiều hướng
Mối quan tâm đến sự an toàn, tuy lớn, nhưng không ngăn cản người Ai Cập tiếp tục đẽo đá làm lăng
mộ đến tận thời Tân Vương quốc.
Một số lăng mộ quý tộc ở Thebes __ ở Thung lũng các Nhà Quý tộc, Deir el Bahri, và Assasif __ có
những mặt tiền tạo tác công phu, nổi bật trong khung cảnh.
Một số các lăng mộ đẽo trong đá này cũng có một kim tự tháp nhỏ dựng bên trên, không có chức năng
nào khác hơn là để khoa trương vị thế __ và cũng để bọn trộm mộ dễ nhận ra!
Không có lăng mộ nào ở Thung lũng các Vì Vua được hoàn thành thực sự. Thật ra, không có lăng mộ
nào ở Ai Cập được hoàn thiện. Một số được khắc hoàn toàn từ đá và đang đợi để được trang trí, trong
khi một số khác đã vẽ phác họa, sẵn sàng để được chạm khắc. Một số lăng mộ trông có vẽ đã hoàn
thiện, nhưng thiếu các chữ khắc, hoặc các hình vẽ còn dang dở. Lý do chắc chắn nhất là vì cái chết đột
ngột của người chủ lăng mộ, bắt buộc thợ thầy phải ngừng công việc. Thêm nữa, hoàn thiện một lăng
mộ có nghĩa là công nhận nó hoàn hảo, và là nơi thích hợp cho thần linh trú ngụ. Kiến trúc sư nào dám
đường hoàng tuyên bố điều này?
Số các lăng mộ chưa hoàn tất, ở một mức độ nào đó, cũng hữu ích, vì nó cho phép các nhà khảo cổ ghi
chép phương pháp chạm khắc và trang trí lăng mộ.
Dạo một chuyến đến Thung lũng các Vì Vua
Thung lũng các Vì Vua là một trong những điểm du lịch được viếng thăm nhiều nhất ở Ai Cập, và gồm
63 lăng mộ được trang trí công phu. Tuy nhiên, danh hiệu Thung lũng các Vì Vua có phần nào khiến
du khách hiểu lầm, vì không phải tất cả 63 lăng mộ trong Thung lũng phía Đông đều thuộc hoàng tộc.
Thực ra chỉ có 23 trong số 63 lăng mộ là lăng mộ các vì vua __ tất cả ông vua trong Tân Vương quốc
từ Thutmosis I đến Ramses XI. 40 lăng mộ khác đều thuộc những hoàng tử có tên hoặc vô danh, các
viên chức, các thú cưng, và những cá nhân vô danh.
Các viên chức
Một số viên chức được trọng vọng cũng được an táng tại Thung lũng theo kiểu cắt vào đá hay đường
hầm. Được an táng trong Thung lũng là một vinh dự tột cùng cho bất kỳ viên chứa nào. Ít nhất bảy lăng
mộ được xây cất cho các viên chức:
KV13 thuộc về Đại pháp quan Bay dưới triều đại Sety II và Siptah.
KV36 thuộc về Maiherperi, một người hầu cầm-quạt tộc Nubia vào triều đại 18. Chức
danh người hầu cầm-quạt là một trong những người có vị thế trọng vì lúc nào y cũng thân
cận với nhà vua và biết được hết các bí ẩn của nhà vua.
KV45 nguyên gốc thuộc về một viên chức tên Userhet ở triều đại 18, sau đó được sử dụng
lại ở triều đại 22.
KV46 là lăng mộ còn nguyên vẹn của Yuya và Thuya, cha mẹ của Hoàng hậu Tiye, là vợ
của Amenhotep III và mẹ của Akhenaten.
KV48 thuộc về một viên chức có tên Amennemopet, thường được biết dưới tên Pairy, ở
triều đại của Amenhotep II.
KV60 thuộc về Sitre-in, vú nuôi của Hoàng hậu Hatshepsut, và chứa một thi thể nữ đã
được nhận diện là Sitre-in hoặc Hatshepsut.
Những người sẽ được phong vương
Thung lũng các Vì Vua cũng chứa các lăng mộ của một số hoàng hậu và hoàng tử __ một số nhà vua
muốn toàn bộ gia đình họ được chôn gần nhau.
KV3 là lăng mộ của một người con không rõ tên của Ramses III.
KV5 là lăng mộ lớn nhất trong Thung lũng các Vì Vua và được dự tính an táng các con
trai của Ramses II.
KV14 nguyên được Hoàng hậu Tawosret xây dựng cho bà và chồng bà Sety II, nhưng bị
Vua Setnakht chiếm đoạt, dời thi thể bà và mở rộng lăng mộ.
KV19 được xây dựng bởi Montuherkhnepshef, một thái tử sau này trở thành Ramses VIII.
KV42 được xây dựng cho Hatshepsut Merytre, một người vợ của Thutmosis III.
Dù những lăng mộ này dành cho hoàng gia, người ngoài được an táng tại Thung lũng các Vì Vua là
một đặc quyền, vì được chôn càng gần vua, địa vị của người ấy càng cao. Những cuộc an táng này cho
thấy vợ và các con được chồng và cha của họ hết sức coi trọng. Trong các triều đại 19 và 20, Thung
lũng các Hoàng hậu, phía nam Thung lũng các Vì Vua, được xây dựng như là một nơi chỉ dành cho các
thành viên của hoàng gia và chứa tất cả 75-80 lăng mộ.
Những ngôi nhà khác cho kiếp sau của hoàng gia
Ngoài Thung lũng các Vì Vua là địa điểm an táng nổi tiếng nhất, những vì vua của các thời kỳ khác
chọn những nghĩa trang khác nhau:
Các vì vua đầu thời Vương quốc Cổ chọn được an táng tại Abydos, nơi an táng theo thần
thoại của thần Osiris.
Các vì vua cuối thời Vương quốc Cổ chọn được an táng tại vùng Cairo (Saqqara,
Memphis, và Giza).
Các vua thời Trung Vương quốc chọn được an táng ở Faiyum (Hawara, Lahun, và
Dashur).
Các vì vua đầu thời Tân Vương quốc chọn được an táng tại Dra Abu el Naga trên bờ Tây ở
Thebes.
Akhenaten được chôn cất tại Amarna ở Trung Ai Cập.
Amenhotep III và Ay được chôn cất tại Thung lũng phía Tây của Thung lũng các Vì Vua,
và Akhena bắt đầu xây dựng một lăng mộ ở đây trước khi dời thủ đô về Amarna (xem
Chương 4).
Các vua trong triều đại Tanite (thứ 22) được chôn cất tại Tanis ở vùng Châu thổ.
Làm Đẹp Lăng Mộ: Trang Trí để Chết
Nhiều địa điểm chôn cất từ thời tiền triều trở đi chứa những tranh trang trí có một chức năng nào đó
trong kiếp sau và được nghĩ là sẽ khiến cho cuộc sống vĩnh hằng của người chủ lăng mộ dễ chịu hơn.
Lăng mộ được trang trí sớm nhất là lăng mộ 100 ở Hierakonpolis, được xây dựng khoảng 3685 BC, là
lăng mộ duy nhất được trang trí trong thời kỳ này. Có một khoảng gián đoạn chừng 1,000 năm trước
khi lăng mộ được trang trí thứ hai xuất hiện vào triều đại thứ ba trong các phần mộ mastaba không
thuộc hoàng tộc, và kim tự tháp triều đại thứ tư của Vua Unas, chứa các Văn bản Kim tự tháp.
Ngay cả trong thời đầu Vương quốc Cổ, là thời kỳ bắt đầu khuynh hướng trang trí phần mộ, các nghệ
nhân chỉ tập trung vào những chủ đề nào đó và những chủ đề này tiếp tục phổ biến trong suốt suốt thời
kỳ pha-ra-ông cho các lăng mộ của hoàng gia và không hoàng gia. Chỉ có cách miêu tả nghệ thuật của
những chủ đề này thay đổi.
Trang trí cho đám đông
Từ các mastaba thời Vương quốc Cổ đến các lăng mộ cắt trong đá thời Tân Vương quốc, những chủ đề
không hoàng gia trong tranh tập trung vào
Thực phẩm
Cuộc sống thường nhật
Tiệc tùng
Hậu sự
Những chủ đề này được sử dụng suốt hàng trăm năm, và không hề đánh mất ý nghĩa và tầm quan trọng
của chúng. Chỉ có phong cách nghệ thuật là thay đổi __ nhưng mục tiêu chủ yếu là nhất quán.
Thực phẩm
Những cảnh cho thấy hàng dài người phục vụ mang từng mâm thức ăn đến bàn dâng cúng cho người sở
hữu lăng mộ cung cấp thức ăn cho người quá cố sống ở kiếp sau. Những cảnh nông thôn cho thấy việc
sản xuất lương thực bao gồm việc chăn nuôi, gieo hạt, gặt hái, sàng gạo, làm dấm, đánh cá, và săn bắn.
Một số cảnh về đời sống nông thôn thời Tân Vương quốc cho thấy người chủ lăng mộ đã tham gia tích
cực vào việc canh nông, chỉ ra rằng người quá cố sẽ luôn luôn có thể tự cung tự cấp lương thực cho
mình.
Những cảnh khác cho thấy người quá cố cư trú trên Cánh đồng lau sậy, tương đương với thiên đường.
Cánh đồng lau sậy là bản sao chính xác của Ai Cập, nhưng là Ai Cập lúc đỉnh cao, với mùa màng bội
thu, nước nôi thừa thãi, hoa lá xinh tươi và muông thú bay nhảy làm cảnh vật sống động. người quá cố
thường được mô tả trong chiếc áo choàng đẹp nhất của họ, đang chăm sóc đất đai và thu hoạch mùa
màng.
Chương 14
Thăm Dò Kim Tự Tháp
Lấp Đầy Khoảng Trống: Hoàn tất Hình Dáng Kim Tự Tháp Thực Sự
Sau khi hoàn thành kim tự tháp bậc thang (xem Chương 13), bước tiếp theo, bước cần thiết để tạo ra
kim tự tháp thực sự dành cho người Ai Cập là lấp đầy các bậc thang bằng công trình nề. Tuy nhiên, xảy
ra một ít sai sót trong tiến trình, kết quả là ta được một số đài tưởng niệm trông khá thú vị.
Indiana Jones và đền thờ Meidum
Cố gắng đầu tiên đạt được một kim tự tháp thực sự là ở Meidum, ở nam Cairo. Bạn có thể đến thăm và
khám phá kim tự tháp này ngày nay (xem hình dưới). Kim tự tháp Meidum được Sneferu, vua đầu tiên
của vương triều thứ tư, xây dựng. Kim tự tháp nguyên gốc được xây dựng là một kim tự tháp bậc
thang gồm bảy bậc, nhưng trước khi bậc thứ nămđược hoàn tất, toàn bộ kiến trúc được mở rộng thành
tám bậc.
Tất cả cái ta nhìn thấy được hôm nay là ba bậc trên cùng, vì lớp đá bao bọc đã được dời đi. Lúc đầu nó
được tin rằng kim tự tháp này sụp đỗ trong lúc xây dựng, nhưng những khai quật gần đây không tìm ra
chứng cứ nào về thi thể, công cụ, hoặc dây thừng, tất cả điều này chứng tỏ kiến trúc đã thực sự hoàn
tất.
Phòng an táng của kim tự tháp này nằm ngang mặt nền sa mạc và đến được qua một lối đi ở tâm mặt
bắc, cách mặt đất gần 17 mét. Lối vào đi xuống dưới kim tự tháp, kết thúc bằng một hành lang nằm
ngang dẫn đến một đường hầm thẳng đứng, đi lên phòng an táng. Những cột gỗ tuyết tùng nhúng trong
tường dẫn đến phòng này có thể đã được sử dụng để kéo cỗ áo quan lên đến phòng an táng, mặc dù cỗ
áo quan không còn nằm ở đó nữa. Đường hầm này ngày nay được bắc lên bằng một cầu thang gỗ lung
lay.
Phòng an táng chưa được hoàn tất, và hình như việc hậu sự không xảy ra ở đây __ mặc dù những mảnh
vỡ áo quan bằng gỗ được phát hiện trong phòng an táng. Sneferu xây dựng hai kim tự tháp khác tại
Dahshur và có thể đã được an táng tại một trong hai nơi này.
Phải đến Dahshur
Hai kim tự tháp của Sneferu ở Dahshur được biết đến như Kim tự tháp Cong và Kim tự tháp Bắc (hay
Đỏ), chỉ thấp hơn Đại Kim Tự Tháp ở Giza. Bạn còn có thể đến thăm những kim tự tháp này ngày nay.
Bẻ cong
Kim tự tháp Cong được xây dựng trước Kim tự tháp Đỏ và mang tên này vì có nửa đoạn cong ở phần
trên, gây bởi một sự thay đổi trong thiết kế bị lệch lạc. Kiến trúc lúc đầu được xây dựng với một góc
60o (kim tự tháp thực sự có góc từ 72o đến 780). Trong khi các công nhân xây dựng kim tự tháp, có một
vấn đề sụt lún vì sức đè của đá. Để hóa giải sự cố này, một vòng đai được xây dựng quanh đáy kim tự
tháp, thay đổi độ dốc ở đáy đến 55o. Chóp kim tự tháp được hoàn tất với độ dốc 44o, tạo ra một đoạn
cong rõ rệt ở tâm, như bạn có thể thấy được trong Hình 14-1.
Hình 14-1
Kim tự tháp Cong cũng bất thường vì nó có hai lối vào, một ở mặt bắc và một ở mặt nam:
Lối vào phía bắc dẫn đến một phòng hẹp có mái đỡ. Phòng an táng, cũng có mái che, ở
ngay bên trên, chắc hẳn lên bằng một cầu thang.
Lối vào phía tây dẫn qua một chuỗi các hệ thống chặn bằng khung lưới sắt đến một phòng
an táng thứ hai.
Cả hai phòng an táng đều dành cho Sneferu là vua của Thượng và Hạ Ai Cập, với mỗi gian phòng ứng
với một vai trò. Vào một thời điểm về sau nầy, hai phòng được nối nhau bằng một đường đi cắt qua
phần đã được xây, rõ ràng do một người am tường vị trí của hai phòng __ có lẽ bởi những tên trộm rất
sáng dạ.
Kim tự tháp Cong bị bỏ rơi vì kiến trúc quá yếu ớt trên một nền móng sa mạc không thích hợp. Sneferu
không thối chí, và bắt đầu xây dựng Kim tự tháp Đỏ.
Màu đỏ
Kim tự tháp Đỏ là kim tự tháp thứ hai có kích cỡ chỉ sau Đại Kim Tự Tháp ở Giza và là kim tự tháp
thực sự đầu tiên được xây dựng thành công. Nó có tên này vì có màu đá granit đỏ lộ ra dưới lớp đá vôi
bao bọc kim tự tháp. Chóp là một kim tự tháp nhỏ miêu tả gò đống sáng thế từ đó tất cả tạo vật bắt đầu,
và được tạo bởi một khối đá vôi duy nhất, mà các nhà khảo cổ phát hiện tại địa điểm. Bạn có thể đến
thăm kim tự tháp này tại Dahshur.
Lối vào kim tự tháp là ở mặt bắc và dẫn đến hành lang đi xuống dài 63 m, kết thúc ở hai phòng chờ. Ở
phía trên tường của gian phòng thứ hai là một hành lang ngắn, nằm ngang, dẫn đến phòng an táng cao
15 mét. Phòng an táng này không phải phòng ngầm và hầu như ở ngay trung tâm của thượng tầng kiến
trúc. Một số di vật người được phát hiện trong phòng an táng, mặc dù không rõ phòng này có thuộc về
Sneferu hay không.
Các Vì Vua Trung Vương quốc ở Dahshur
Các vì vua thuộc Trung Vương quốc tiếp tục sử dụng Dahshur như chốn an táng hoàng gia. Senwosret
III và Amenemhat III của vương triều 12 xây dựng kim tự tháp của họ ở đây.
Kim tự tháp của Senwosret III được xây dựng ở phía đông bắc của Kim tự tháp Đỏ. Chất lượng công
trình đã xuống cấp trong thời kỳ này (1878-1841 BC), và kim tự tháp của Senwosret III được làm từ
những viên gạch bùn kích cỡ không đều trong quá trình bậc thang, sau đó được lấp đầy bằng đá vôi.
Lối vào kim tự tháp ngang mặt đất trên bờ tây của kim tự tháp và dẫn đến một lối đi dốc thoai thoải, kết
thúc tại phòng kho. Phòng chờ nằm ở góc 900 với nhà kho, sau đó dẫn đến phòng an táng làm bằng đá
granit. Trong phòng an táng có một cỗ áo quan bằng đá granit. Mặc dù phát hiện được một số di vật
trong kim tự tháp, các nhà nghiên cứu nghi ngờ không biết Senwosret có được an táng tại đây hay
không.
Như với tất cả kim tự tháp, kim tự tháp của Senwosret III là một phần của một phức hợp rộng lớn hơn
gồm có
Bảy kim tự tháp cho các phụ nữ thuộc hoàng tộc
Một đền thờ an táng và đường đắp cao
Một đền thờ xa hơn ở phía nam
Con trai và người kế nghiệp của Senwosret III, Amenemhat III, đi theo bước chân vua cha và cho xây
dựng kim tự tháp của mình tại cùng địa điểm. Ông cũng xây dựng kim tự tháp của mình bằng gạch bùn
với khối đá vôi bao bọc, tất cả vật liệu này đã được dời đi để tái sử dụng. Kim tự tháp của người con
trai cao 75 mét. Có hai lối vào kim tự tháp này ở mặt đông và tây, và đi qua các cầu thang chớ không
dùng các đoạn đường dốc. Những cầu thang này dẫn đến một tổ hợp các hành lang và phòng ốc, một
cách bố trí phức tạp hơn các kim tự tháp khác. Phức hợp này bao gồm
Ba phòng an táng bên trong kim tự tháp, một phòng chứa mái che của một hoàng hậu tên
Aat, cho biết bà được chôn cất tại đây.
Phòng an táng tọa lạc ở phía đông của trục trung tâm chứa cỗ áo quan, mặc dù Amenehat III chắc hẳn
không được an táng tại đây.
Vài phòng ngầm gần đó dùng làm phòng nguyện và điện thờ.
Kiến trúc này được bỏ phế trước khi hoàn thành vì các nền móng bằng đất sét không vững và sự không
ổn định bên trong cấu trúc kim tự tháp gây ra do có quá nhiều phòng bên trong.
Đại Kim Tự Tháp: Hoàn tất đến chi tiết
Sau khi kim tự tháp thực sự được Sneferu hoàn thành ở Dahshur, giai đoạn sau là mở rộng kiến trúc, đó
là điều mà Khufu đã thực hiện tại vùng đất mới ở Giza. Ba kim tự tháp chính ở Giza thuộc về Khufu,
Khafra, và Menkaura, tất cả đều thuộc vương triều thứ tư (2613-2494 BC).
Đại Kim Tự Tháp Khufu (xem Hình 14-2) __ Khufu là con trai của Sneferu __ cao 146 mét và nguyên
gốc được bọc trong những khối đá vôi, mỗi khối nặng 16 tấn. Lối vào ở mặt bắc của kim tự tháp và tiến
vào một lối đi xuống, dẫn đến một phòng ngầm. Gần nơi bắt đầu của lối đi xuống là một lối đi khác lên
cao đến hành lang lớn, dẫn đến phòng an táng.
Phòng an táng được xây bằng đá granit đỏ và có năm phòng giảm áp lực ở phía trên nó, chịu đựng sức
nặng của kim tự tháp. Đặt chính xác bên trên trục trung tâm của kim tự tháp là một cỗ áo quan bằng đá
granit đỏ, được mang vào phòng trước khi nó hoàn tất vì cửa quá hẹp không vừa một khối đá quá lớn.
Phòng an táng được niêm phong bằng một dãy đá khối đan lưới và đá chận phong tỏa lối vào hành lang
lớn.
Hình 14-2
Ở dưới nền của hành lang lớn là một lối đi nằm ngang dẫn đến phòng hoàng hậu và có thể là
một serdab (một phòng có một lỗ trong tường để pho tượng có thể nhìn ra ngoài) được thiết kế để giữ
gìn tượng linh hồn (ka) của nhà vua (xem Chương 10). Việc chôn cất thi thể của các hoàng hậu của
Khufu tiến hành trong ba kim tự tháp vệ tinh ở phía đông kim tự tháp Khufu.
Phức hợp kim tự tháp được bao quanh bởi một bức tường đá vôi cao 8 mét, bao bọc một khoảng sân
chỉ có thể đến được qua đền thờ thung lũng, đường đắp cao, và đền thờ an táng __ tất cả các thành phần
tiêu chuẩn của kim tự tháp phức hợp.
Đi theo một trong số những cái vĩ đại: Kim tự tháp của Khafra
Đại Kim Tự Tháp là một trong bảy ký quan của thế giới __ thật ra, nó là kỳ quan duy nhất còn đứng
vững.
Khafra, con trai của Khufu, có một quyết tâm khó thực hiện, là theo bước vua cha xây dựng kim tự
tháp của mình kế bên. Vì không thể vượt qua công trình hoành tráng của cha mình, Khafra cho xây kim
tự tháp của mình trên một vùng đất cao hơn nền đất ở Giza, khiến kim tự tháp của ông trông có vẻ lớn
hơn, mặc dù sự thật nó nhỏ hơn.
Có hai lối vào kim tự tháp, một ở ngang mặt đất, và một cách mặt đất 11.5 m trên mặt bắc của kim tự
tháp. Lối đi thấp hơn đi xuống một phòng nhỏ (chắc hẳn có vai trò của một serdab) và một lối đi nằm
ngang, rồi dần dần lên dốc để gặp lối đi xuống của lối vào cao hơn. Lối đi nằm ngang này sau đó dẫn
đến phòng an táng.
Cỗ áo quan trong phòng an táng được làm bằng đá granit đen, trong đó chứa xương, mà sau này được
nhận diện là xương bò. Bộ xương được cho là vật hiến tế cho ka của nhà vua tại một thời điểm sau
này, sau khi thi thể nhà vua đã bị bọn đào mộ cướp đi.
Saqqara, Cairo
Saqqara là địa điểm của công trình đá cổ nhất thế giới __ kim tự tháp bậc thang. Địa điểm này cũng có
một số kim tự tháp khác, bao gồm kim tự tháp Unas, chỉ còn là một đống gạch vụn.
Bảo tàng Imhotep cũng đã mở cửa trưng bày các đồ tạo tác tìm thấy trong vùng Saqqara.
Bảo tàng viện Cổ vật Ai Cập
Bảo tàng viện Cổ vật Ai Cập (hay Bảo tàng Cairo) chuẩn bị thay thế bằng Đại Bảo Tàng Ai Cập và tọa
lạc gần Giza từ năm 2010. Bảo tàng rất ngoạn mục và đầy ắp các cổ vật từ 3,000 năm lịch sử Ai Cập.
Các cổ vật bất thường được đặt trong mỗi góc phòng, từ áo quan của Akhenaten (trong khu vườn ở bên
trái bảo tàng) đến quan tài bằng gỗ xinh xắn của Ramses (nhìn người đi lại trên tầng 1). Cạnh đó là vải
liệm hình người duy nhất ở Ai Cập.
Kinh ngạc trước sức nặng của món trang sức bằng vàng mà nhà vua thưởng cho các quan chức được
sủng ái và nhìn chằm chằm vào mắt các xác ướp động vật. Hãy nhớ ghé thăm phòng trưng bày
Tutankhamun và ngắm nhìn gương mặt của vị vua trẻ tuổi. Nếu muốn biết nhiều hơn, hãy vào trang
web www.egyptianmuseum.gov.eg
Tell el Amarna, Al Minya
Tell el Amarna là thành phố Akhematen thành lập cho việc thờ cúng đĩa mặt trời Aten. Thành phố tọa
lạc tại Al Minya ở Trung tâm Ai Cập, gần như ỡ giữa khoảng đường từ Cairo đến Luxor. Thành phố
thực sự đã đổ nát nhiều nhưng các nhà khảo cổ Anh đã tái thiết một số công trình. Những kiến trúc này
bao gồm đền thờ nhỏ thờ thần Aten, cung điện phía bắc nơi Nefertiti và Tutankhamun sống, một ngôi
nhà điển hình trong khu vực, và chiếc cầu nối hai đền thờ bắc ngang cái gọi là Con đường của Vua, nơi
có thể các đám rước của Akhenaten, Nefertiti và các con cái họ đi qua mỗi ngày trên những mã xa rực
rỡ.
Mục đích chính khi đi thăm Armana là tham quan hai nhóm lăng mộ (phía bắc và phía nam) và lăng
mộ hoàng gia. Nhiều lăng mộ này mở cửa cho công chúng. Hầu hết lăng mộ đều chứa các hình vẽ
Akhenaten và Nefertiti cùng các con cỡi xe ngựa hoặc thờ cúng thần Aten.
Beni Hasan, Al Minya
Gần Al Minya là nơi an táng thời Trung Vương quốc có tên là Beni Hasan. Địa điểm này bao gồm 39
phần mộ đục trong đá do các tổng trấn vùng xây dựng.
Trong số 39 phần mộ, có 5 cái được mở cửa cho công chúng. Hình trang trí trong mộ miêu tả một số
hoạt động, như:
Các hoạt động huấn luyện quân sự, như đô vật, đánh côn, và nâng bao cát.
Chiến tranh vây hãm, bao gồm hình ảnh xưa nhất về bánh xe ở Ai Cập và hình ảnh các
phái đoàn ngoại giao đi đến Ai Cập để giao thương.
Những cảnh đánh cá săn bắn chim.
Karnak Temple, Luxor
Đền Karnak là ngôi đền lớn nhất từng được xây dựng. Vì mất hơn 2,000 năm xây dựng nên đền Karnak
bao gồm một số các điện thờ, đền thờ, tượng thần, và nhà nguyện khác nhau thờ cúng nhiều vị vua và
thần linh khác nhau. Đền rộng 247 mẩu và phải mất nhiều giờ đi bộ quanh các bia tưởng niệm.
Đền chính có 10 tháp môn (cột ở cổng vào), mỗi tháp môn trang trí bằng hình khắc và văn bản rất công
phu. Một hành lang rộng nhất có tất cả 134 cột, mỗi cột cao đến 26 mét, tạo thành một cảnh tượng vô
cùng hoành tráng.
Phức hợp Karnak cũng có hai hồ thiêng __ một hồ hình chữ nhật do Thutmosis III xây dựng và một hồ
hình móng ngựa do Amenhotep III xây dựng. Trong khuôn viên là một số đền nhỏ đáng xem, bao gồm
đền Ptah (với pho tượng đẹp của Sekhmet), đền Khonsu, và Nhà nguyện của các bà Vợ Thần Amun
Các nhà Ai cập học sẽ mãi mãi mang ơn Champollion như một nhà ngôn ngữ học đã thực hiện một đột
phá cuối cùng nhằm giải mã chữ tượng hình. Khám phá của ông đã làm thay đổi ngành Ai Cập học và
giúp thế giới cuối cùng đọc được ngôn ngữ Ai cập cổ xưa. Ông được mệnh danh là Người Làm Cho Đá
Biết Nói.
Champollion lúc nào cũng đam mê ngôn ngữ, và vào năm 1807 (khi ông 17 tuổi) ông đã công bố bài
viết đầu tiên của mình về ngôn ngữ của cổ Ai cập tại giảng đường đại học. Ông biết nói nhiều thứ
tiếng, bao gồm Hebrew, Coptic, Ả rập, Syria, và Chaldean, vào thời điểm ông tập trung vào việc giải
mã Bia đá Rosetta, một bia đá tìm được ở Rosetta trong vùng Châu thổ viết bằng ba thứ tiếng: tượng
hình, demonic, và cổ Hy lạp (xem Chương 11).
Champollion tư vấn với nhà vật lý người Anh là Thomas Young và đối chiếu các lời chú giải cho đến
khi Young mất vào 1817, sau đó Champollion tiếp tục công trình một mình. Vào năm 1822, ông đã tìm
ra chìa khóa hiểu được chữ tượng hình, mặc dù mãi đến năm 1832 sau khi hoàn thiện cuốn sách văn
phạm của mình ông mới có thể đọc được chữ tượng hình một cách tự tin.
Giữa những năm 1828 và 1829, Champollion và Ippolito Rosellini đi đến Ai cập để ghi chép và tra cứu
sâu hơn các đài tưởng niệm, và mang về các bản sao chi tiết để giải mã. Champollion mất sau một cơn
đột quỵ vào năm 1831; trước khi tác phẩm của ông là cuốn Văn Phạm Ai cập và sau đó Tự Điển Ai
Cập được xuất bản không lâu sau đó, vì thế ông không thể chứng kiến những gì mình đã làm được cho
Ai cập học.
Karl Lepsius (1819-84)
Karl Lepsius, một nhà Ai cập học người Đức, nhận bằng tiến sĩ vào năm 1833 và sau đó sử dụng cuốn
Văn Phạm Ai Cập của Champollion vừa xuất bản để học cách đọc chữ tượng hình. Ông thực hiện
chuyến đi đầu tiên đến Ai cập vào năm 1842 với mục đích ghi chép các bia tưởng niệm và sưu tập đồ
cổ, vốn là phong trào vào thời đó. Trong sự nghiệp của mình ông sưu tầm được hơn 15,000 đồ tạo tác,
hình thành phần căn bản cho Bảo tàng Ai cập ở Berlin.
Giữa những năm 1842 và 1845, Lepsius dẫn đầu một đoàn khảo cổ người Phổ đến Ai cập và Nubia và
ghi chép công trình này trong một bộ sách 12 cuốn nhan đề Denkmaeter aus Aegypten und
Aethiopien. Các tác phẩm này vẫn còn bổ ích đối với các nhà Ai cập học ngày nay vì nhiều bia tưởng
niệm được ghi chép giờ đã hư hỏng, và bộ sách này cung cấp những hình ảnh và các ghi chép về sự có
mặt của chúng cách nay hơn 150 năm.
Lepsius thành lập một chương trình học về ngành Ai cập tại Đại học Berlin và được chỉ định là người
quản lý bộ sưu tập Ai cập tại Bảo tàng Berlin, nơi cất giữ bộ sưu tập ngày càng phong phú dần sau
những chuyến khảo cổ của ông. Bảo tảng Berlin ngày này vẫn không ngừng phát triển và chứa một số
những cổ vật lừng danh nhất thế giới, trong đó có pho tượng bán thân có tô màu của Nefertiti.
Amelia Edwards (1831-92)
Amelia Edwards, một nhà khảo cổ, phóng viên, tiểu thuyết gia người Anh, đến Ai cập vào năm 1873
và ở luôn tại đó. Chuyến đi này tạo cảm hứng cho bà viết nên tác phẩm Một Ngàn Dặm Ngược Dòng
Sông Nile, ký sự du lịch của bà.
Tuy nhiên, viết không có gì mới mẻ đối với Edwards: Bài thơ đầu tay của bà được in khi bà vừa 7 tuổi,
truyện ngắn đầu tiên khi lên 12. Bà được giáo dục tại nhà và rõ ràng là một sinh viên đầy hứa hẹn. Bà
đã viết một số ký sự du lịch trước chuyến đi đến Ai cập.
Trong chuyến đi đầu tiên của mình đến Ai cập, bà bỏ ra sáu tuần khai quật tại Abu Simbel. Năm 1880,
bà thành lập một nhóm không chính thức để giải quyết những biệc pháp khai quật và bảo tồn ở Ai cập.
Năm 1882, tổ chức này được chính thức có tên Quỹ Thám Hiểm Ai cập (giờ là Hội Thám Hiểm Ai
Cập). Mục đích của hội, lúc đó và hiện giờ, là khai quật và ghi chép những đài tưởng niệm của Ai cập.
bạn có thể thăm địa chỉ trang web của hội này tại www.ees.ac.uk .
Trước khi qua đời, Edwards tặng lại một số đồ tạo tác, tác phẩm, hình ảnh, và những tư liệu khác liên
quan đến Ai cập cho University College, Luân đôn, dùng để làm tài liệu giảng dạy cho các sinh viên Ai
cập học. Là một người ủng hộ quyền đi bầu của phụ nữ, bà chọn University College vì đây là ngôi
trường đầu tiên nhận nữ sinh viên. Bà cũng hiến tặng một số tiền đủ để thành lập chức danh giáo sư
đầu tiên mang tên bà của Vương quốc Anh cho ngành khảo cổ và triết học Ai cập tại University
College, và người được phong đầu tiên là W.M. Flinders Petrie.
Là một nhà Ai cập học người Anh, Howard Carter sinh tại Kensington ở Luân đôn và gặt hái tiếng tăm
qua việc phát hiện lăng mộ của Tutankhamun vào năm 1922.
Tuy nhiên, Carter đã tạo được sự nghiệp trước việc phát hiện này. Ông bắt đầu vào đời như một nghệ
sỹ và được phái đến Ai cập để sao chép các trang trí trong lăng mộ ở Beni Hasan (xem Chương 18).
Sau đó ông ra sức góp phần vào việc khảo cổ bên cạnh Petrie ở Amarna, mặc dù Petrie không nghĩ
Carter là một nhà khảo cổ lớn. Chỉ đi để xem một phát hiện ấn tượng sẽ như thế nào.
Carter được chỉ định là tổng thanh tra của Thượng Ai cập vào năm 1899 và có trách nhiệm lắp đặt đèn
điện trong Thung lũng các Vì Vua. Ông từ chức vào năm 1903 sau một trận tranh cãi với một số khách
du lịch say xỉn vô trật tự người Pháp. Ông làm việc như một nhà vẽ đồ án và buôn đồ cổ cho đến khi
Ngài Carnarvon đầu tư tài chính vào công việc khai quật, thuê Carter làm giám đốc. Họ cùng làm việc
nhiều năm quanh quẩn Luxor và Thung Lũng các Vì Vua, thực hiện nhiều khám phá cho đến tình cờ
vào năm cuối cùng của hợp đồng khai quật họ phát hiện KV62, lăng mộ của Tutankhamun.
Phần đời còn lại của Carter dùng để ghi chép và phân tích các đồ tạo tác của Tutankhamun, cũng như
viết những báo cáo về khai quật và đi diễn thuyết vòng quanh thế giới.
Sir Alan Gardiner là một nhà ngôn ngữ tuyệt vời và tạo ra nhiều tiến bộ lớn lao liên quan đến ngôn ngữ
của người cổ Ai cập. Ông là chuyên gia về hieratic, một dạng viết tháu của chữ tượng hình mà người
Ai cập sử dụng để viết mỗi ngày. Các sinh viên Ai cập học trên thế giới đều quen thuộc với cuốn Văn
Phạm Ai Cập của Gardiner, một sách hướng dẫn tổng hợp cho chữ tượng hình với một tự điển ngày
nay còn được sử dụng đều đặn. Trong sự nghiệp của mình, Gardiner đi lại Paris và Turin để sao chép
những bản thảo bằng tiếng hieratic; nhiều bản dịch được sử dụng ngày nay là kết quả của công trình
này.
Gardiner sinh tại Eltham và quan tâm đến Ai cập ngay từ khi còn trẻ, và được gởi đến học ở Gaston
Maspero ở Paris một năm. Sau đó ông trở về The Queen’s College, Oxford. Xuất thân từ một gia đình
giàu có, ông không phải làm việc để kiếm sống, nên dành hết thời gian tự học mọi thứ về Ai cập và Ai
cập học và theo đuổi những ước mơ của mình. Từ 1912 đến 1914 ông giữ chức phó giáo sự tại Đại học
Manchester, sau đó ông tiếp tục làm việc về ngành ngôn ngữ học của mình.
Jac Janssen (sinh năm 1922)
Giáo sự Jac Janssen, một nhà Ai cập học người Hà lan giờ đã hơn tám mươi, từng là nòng cốt trong
công trình ở Deir el Medina. Ông đã giữ chức giáo sư danh dự ngành Ai cập học, Đại học Leiden, Hà
lan, trong nhiều năm và giờ hiện sống ở Vương quốc Anh nơi đó ông vẫn nghiên cứu nhằm đào sâu
thêm kiến thức cho các sinh viên và sử gia về ngôi làng của công nhân ở Deir el Median.
Là một chuyên gia về tiếng hieratic ở Vương quốc Anh, Janssen đã nghiên cứu nhiều bia ký ở Deir el
medina, cung cấp nhiều thông tin liên quan đến cuộc sống thường nhật của người Ai cập bình thường.
Janssen nghiên cứu chủ yếu mặt kinh tế của lịch sử, cho xuất bản nhiều tác phẩm quan trọng như Giá
Sinh Hoạt thời Ramses: Một Khảo Cứu về Kinh tế ở Làng Công Nhân Necropolis tại Thebes. Năm
2006, ông xuất bản một quyển sách về cách sử dụng kinh tế của lừa tại Deir el Medina trong
cuốn Những Con Lừa tại Deir el Medina.
Tiến sỹ Kent Weeks, một nhà Ai cập học người Mỹ, được biết đến nhiều nhất qua công việc hiện thời
của ông về Dự Án Vẽ Bản Đồ Thebes trong Thung Lũng các Vì Vua, kết quả là việc phát hiện lại KV5,
lăng mộ các con trai của Ramses II. Phát hiện của KV5 là một thành tựu chủ yếu. Dự Án Vẽ Bản Đồ
Thebes bắt đầu vào năm 1978 có mục đích ghi chép các vị trí của lăng mộ, đền thờ, và những địa điểm
cùng những công trình khảo cổ khác trên bờ tây Thebes. Đây là một công trình đồ sộ phải mất nhiều
năm nữa mới hoàn tất.
Weeks làm việc trong ngành Ai cập học từ thập niên 1960, và từ 1972 dạy tại American University ở
Cairo. Giữa những năm 1977 và 1988 ông trở lại Mỹ làm trợ giàng rồi phó giáo sư trong môn Khảo cổ
Ai cập tại Đại học California, Berkeley, trước khi trở về American University ở Cairo với chức danh
giáo sự ngành Ai cập học cho đến hiện giờ.
Rosalie David (sinh năm 1947)
Giáo sư Rosalie David giữ nhiều chức vị, trong đó có Giám đốc Dự án Xác Ướp Manchester, nghiên
cứu 24 xác ướp người và 34 xác ướp thú trong bộ sưu tập của Bảo tàng Manschester.
Manchester cũng là nơi có ngân hàng mô, bao gồm một bộ sưu tập các mô trong xác ướp Ai cập lấy từ
các xác ướp được lưu trữ trong các bảo tàng quốc tế khác nhau. Ngân hàng mô là một tài nguyên hiện
đại chứa DNA của người Ai cập cổ xưa giúp ta biết được thông tin về họ, và đây quả là một dư án tiên
phong thực sự.
Giáo sư David là nữ giáo sư Ai cập học đầu tiên trong Liên hiệp Anh và đã giảng dạy môn này hơn 25
năm. Bà nhận được huy chương cao quý nhất của Nữ hoàng ghi nhận sự đóng góp lớn lao của mình
cho Ai cập học nhân dịp Năm Mới 2003.
(Hết)