Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị tức là tham gia vào các hoạt

động cách mạng, tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn
hóa tham gia kháng chiến tức là văn hóa không đứng ngoài mà ở trong cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành cuộc
kháng chiến có văn hóa.

Bản sắc vh dân tộc

Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc đồng thời cần triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc
địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc, tôn trọng phong tục tập quán, văn hoá
các dân tộc ít người.
Nói đến văn hoá dân tộc và để văn hoá dân tộc có điều kiện phát triển, Hồ Chí Minh
cho rằng: “Văn hoá Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương và Tây
phương chung đúc lại (...). Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta phải học lấy
để phải tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá
xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt
Nam để hợp với tinh thần dân chủ”(10).
Hồ Chí Minh là người am hiểu các trào lưu nghệ thuật Âu, Á. Người có thể thảo luận
một cách tinh tế về các tác phẩm, những nghệ sĩ đã mạnh dạn phơi trần sự thật xã hội
thực dân phong kiến, kêu gọi đấu tranh. Chính vì vậy mà Người từng phát biểu cần
phải học hỏi những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu, Mỹ. Người nói với một nhà văn
Liên Xô: “Có điều các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng, chúng tôi cần phải dứt bỏ văn hoá
nào đó, dù là văn hoá Pháp đi nữa. Ngược lại, tôi muốn nói điều khác. Nói đến việc
mở rộng kiến thức của mình về văn hoá thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hoá Xô
Viết - chúng tôi thiếu - nhưng đồng thời phải tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước...
Văn hoá của các dân tộc khác cần phải được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường
hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hoá của chính mình”(11).

(Tư tưởng về mặt trận văn hoá và chiến sĩ văn hoá ở Hồ Chí Minh được hình thành từ
những năm 20 của thế kỷ XX tiếp tục phát triển qua các giai đoạn cách mạng.
Trước hết, Hồ Chí Minh quan niệm rằng: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn
vấn đề cùng phải chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hoá”(13). Như vậy, văn hoá là một bộ phận hợp thành toàn bộ đời sống xã
hội; thiếu nó, cơ chế xã hội không thể phát triển hoàn thiện được.
Nhưng sự phát triển của văn hoá, với tính chất “là một kiến trúc thượng tầng”, không
phải “đơn thương độc mã”, mà “những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn
hoá mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”(14).
Mối quan hệ giữa văn hoá, văn nghệ với kinh tế và chính trị được Hồ Chí Minh xác
định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà
phải ở trong kinh tế và chính trị” (15). Ý nghĩa và bản chất của mặt trận văn hoá và
chiến sĩ văn hoá chính là ở chỗ đó. Nghĩa là: “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ
nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật còn có lập trường vững, tư tưởng đúng. Nói
tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết,
trước hết”(16).
Mặt trận văn hoá và chiến sĩ văn hoá còn mang nội dung “cái bút là vũ khí sắc bén,
bài báo là tờ hịch cách mạng”. Dưới chế độ thực dân Pháp có thứ “văn chương nịnh
Tây” và “văn chương cách mạng”. Theo Hồ Chí Minh, khi “dân tộc bị áp bức, thì văn
nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”. Trong thời
kỳ quá độ, “văn nghệ cần phải phê bình rất nghiêm khắc những thói xấu như tham ô,
lãng phí, lười biếng, quan liêu…. và cũng phải ca tụng chân thật những người mới,
việc mới để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay và giáo dục con cháu ta đời sau”.
Hồ Chí Minh tự nhận là “một người yêu chuộng văn nghệ chứ không phải là một nhà
văn nghệ”. Nhưng người nhận xét về vai trò của văn nghệ thật sâu sắc. Người đã phát
biểu cảm tưởng bằng thơ khi đọc tập thơ chọn lọc Đường, Tống của “nghìn nhà thơ”:
“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Ngày 3-2-1962 (tối 29 tết âm lịch), trong buổi chúc tết các nhà khoa học - kỹ thuật,
văn nghệ sĩ, Anh hùng lao động, Anh hùng quân đội, nhân sĩ..., Người “ra câu đối để
các cụ, các đồng chí đối lại:
Muốn cho xã hội đều xuân
Nhân sĩ phải là chiến sĩ”(17).
Đó chính là tinh thần của “kháng chiến văn hoá và văn hoá kháng chiến”. Tinh thần
này thật sự độc đáo và sâu sắc ở chỗ, nó có ý nghĩa đối với toàn thể nhân loại, sống
mãi với thời gian. Người quan niệm nhà văn, nhà báo của mọi dân tộc vừa “góp phần
quý báu trong việc trao đổi văn hoá giữa các dân tộc”... vừa “góp phần xứng đáng
trong phong trào chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, đoàn kết các dân tộc
để đấu tranh cho độc lập, hoà bình, dân chủ và hạnh phúc cho cả loài người trên thế
giới”(18).

Văn hoá phụng sự nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở là
một quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá.

Trước hết văn hoá phải trở về với sinh hoạt thực tại của con người; phải miêu tả cho
hay, cho thật, cho hùng hồn. Muốn vậy phải có cách viết hợp trình độ đại đa số đồng
bào. Khi cầm bút viết phải tự đặt ra: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài liệu đâu mà
viết? Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết rau muống mà ham dùng chữ... Nói cũng
vậy: “Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn, thì quần chúng thích hơn”.

1. Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Là thành viên của UNESCO, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia thập
kỷ văn hoá và phát triển (1989-1999) theo nội dung của UNESCO đã phát động: Độc
lập của mỗi dân tộc, dân chủ cho nhân dân và tự do cho mỗi con người. UNESCO lo
âu sâu sắc trước những biểu hiện đầu độc môi trường xã hội, gây nguy hại đến cuộc
sống bình thường của mọi người. Bởi vậy, tổ chức này đề nghị phải “tiếp thêm sức
mạnh cho nền văn hoá của xã hội đương thời, và nâng nó lên ngang tầm với sự phát
triển kinh tế và sự phồn vinh của xã hội; làm cho những nhà lãnh đạo thế giới lĩnh hội
được tầm cỡ phát triển của văn hoá”.
Chúng ta đang sống những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, một thiên niên kỷ mới, đánh
dấu bước tiến bộ của loài người. Nếu chúng ta “xa rời những giá trị truyền thống sẽ
làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người
khác, của dân tộc khác”(26). Mặt khác, người ta không thể sống một mình với cội rễ.
Thậm chí cội rễ đó cũng sẽ khô héo nếu nó không vươn ra dưới mặt trời và không khí
tự do. Chỉ khi đó cội rễ mới đem dinh dưỡng đến cho anh. Chỉ khi đó cuộc sống mới
đâm cành trổ hoa... Vấn đề ở đây là làm thế nào có được sự cân bằng” (Nêru).
Đảng ta xác định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là tầm cao chiều sâu về
trình độ phát triển của dân tộc, kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa
người với người, người với xã hội, với thiên nhiên. Văn hoá là động lực, mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng. Trong các tư tưởng chỉ đạo xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc thì độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chỉ đạo
hàng đầu.
Những nội dung lớn được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày trong quyển sách
Văn hoá và đổi mới,tức văn hoá là đổi mới, đổi mới là văn hoá. Ông cho rằng: “đổi
mới và văn hoá quan hệ mật thiết với tư tưởng Hồ Chí Minh như hình với bóng”.
Ngày nay nhân loại đang chú ý tới và đề cao văn hoá phương Đông. Trả lời một nhà
báo Pháp, ông Lý Quang Diệu cho rằng: “Chúng tôi (châu Á) không theo mô hình
phương Tây. Chúng tôi có mẫu số chung, một truyền thống văn hoá đặt lợi ích chung
lên trên lợi ích cá nhân”. Ông khẳng định: “Lợi ích cộng đồng luôn luôn đứng cao hơn
quyền lợi cá nhân đó là phương pháp Singapo”(27).
Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh cần nhận thức và hành động theo những nội dung cơ bản sau:
- Trước hết phải thấy vị trí và tầm quan trọng của văn hoá trong xã hội. UNESCO
nhắc nhở các nhà lãnh đạo thế giới cần quan tâm đến văn hoá. Bởi vì, “sự phát triển
của xã hội xét đến cùng là sự phát triển của văn hoá”; “sự thăng hoa của văn hoá là
đỉnh cao nhất của sự phát triển”.
Phát triển kinh tế phải có gia tài văn hoá như là “hệ điều tiết” xã hội. Cách mạng khoa
học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được thai nghén và
nuôi dưỡng trong môi trường văn hoá.
- Nghiên cứu thấu đáo, toàn diện văn hoá dân tộc và văn hoá phương Đông để thấy
rằng, sức mạnh văn hoá Việt Nam không những giúp chúng ta đánh thắng ngoại xâm
mà còn là vũ khí tinh thần giúp ta trong xây dựng đất nước.
- Xây dựng nền văn hoá mới phải toàn diện nhưng chú ý hai vấn đề quan trọng hàng
đầu: đó là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng
phải trở thành văn hoá, là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm của
dân tộc và thời đại.
- Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là giữ gìn
Tổ quốc ta mãi mãi là quốc gia văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hoá, nền văn
hoá nước ta không ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc và thời đại.

Phát triển nền văn hóa lên tầm cao mới

Quan điểm nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa là: Người đã khẳng
định văn hóa là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Người nêu rõ
yêu cầu văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi; đem văn hóa lãnh đạo quốc
dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ,... Văn hóa tạo sức mạnh vật chất,
tinh thần thắng ngoại xâm theo tinh thần văn minh thắng bạo tàn. Nếu kinh
tế nâng cao đời sống vật chất, thì văn hóa có tác dụng nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân.

Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển, nâng tầm văn hóa Việt
Nam còn thể hiện trong việc Người đưa ra quan điểm về xây dựng một nền
văn hóa mới với 5 điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân
tộc: “1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2- Xây dựng luân lý:
biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3- Xây dựng xã hội: mọi sự
nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4- Xây dựng
chính trị: dân quyền. 5- Xây dựng kinh tế”(7).
Để thay thế văn hóa nô dịch của chủ nghĩa thực dân, điều quan trọng nhất là
phải xây dựng một nền văn hóa mới cách mạng. Nền văn hóa mới đó phát
triển với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Xây dựng nền văn hóa
mới trên một số lĩnh vực cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một số yêu
cầu nổi bật sau:

Một là, về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”, việc xây dựng nền giáo dục mới phải được coi là nhiệm vụ cấp
bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài, có tác dụng “làm cho dân tộc
chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”(8). Do đó, điều quan trọng trước tiên
ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập là phải mở ngay chiến dịch
chống “giặc dốt”. Người xác định mục tiêu của giáo dục là thực hiện ba chức
năng của văn hóa bằng giáo dục: dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn
và tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và
phong cách tốt đẹp... Những quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục là định
hướng cho việc xây dựng nền giáo dục mới phát triển đúng đắn trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào quá trình đấu
tranh thống nhất nước nhà.

Hai là, về văn hóa - văn nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm
cơ bản định hướng cho việc xây dựng nền văn nghệ cách mạng: Văn hóa, văn
nghệ là một mặt trận, người hoạt động văn hóa, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt
trận ấy, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Nội
dung này là sự nhấn mạnh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khẳng
định vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt
trận văn hóa cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh
tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ những năm 20 thế kỷ XX và
tiếp tục được phát triển qua các giai đoạn cách mạng sau này. Ý nghĩa của
quan điểm về mặt trận văn hóa, chiến sĩ văn hóa là: “Văn hóa, nghệ thuật
cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh
tế và chính trị”(9). “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm
vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân... Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân
dân lên trên hết, trước hết”(10). Đối với mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và
tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn chỉ rõ: dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ
cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng...

Ba là, về đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định, để xây dựng đời sống mới, thì phải xây dựng đạo đức mới, xây dựng lối
sống văn minh, nếp sống mới. Trước hết cần “mở một chiến dịch giáo dục lại
tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH” (11) vì
“Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống
mới”(12). Để xây dựng lối sống mới, cần phải sửa đổi “cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại”. Xây dựng nếp sống mới - nếp sống văn minh là quá trình
làm cho lối sống mới dần dần trở thành thói quen; trong đó có sự kế thừa,
phát triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời cải tạo những phong tục,
tập quán cũ, lạc hậu và bổ sung những cái mới, tiến bộ,...

Trong xây dựng nền văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm
phải giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc; đồng thời, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong tác phẩm “Lịch sử nước ta” (năm 1942),
Người đặt ra vấn đề quan trọng hàng đầu là: Dân ta phải biết sử ta. Những
ngày đầu mới lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23-11-1945, về bảo tồn cổ tích
trên toàn cõi Việt Nam (bao gồm tất cả các di tích đình chùa, đền miếu, cung
điện, thành quách, lăng mộ, bia ký, đồ vật, văn bằng, sách vở,...). Theo
Người, việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc kiến thiết nước
Việt Nam.

Một năm sau ký Sắc lệnh số 65/SL, khi đến dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc
lần thứ nhất ở Hà Nội, ngày 24-11-1946, Người nói: “Văn hóa Việt Nam là
ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc
lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền
văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau
dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam, để hợp với tinh
thần dân chủ” và “Phát triển hết cái hay, cái đẹp của dân tộc, tức là ta cùng
đi tới chỗ nhân loại”(13).

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định việc kế thừa và phát huy
những giá trị tốt đẹp trong truyền thống dân tộc của văn hóa Việt Nam đồng
thời với việc không ngừng tự làm phong phú qua việc tiếp thu, tiếp biến có
chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Hai quá trình này cùng diễn ra, làm cho
nền văn hóa mới ở Việt Nam vừa mang những đặc trưng phản ánh cốt cách,
bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với trình độ
văn minh tiên tiến, hiện đại của nhân loại. Hơn nữa, cái hay, cái đẹp của văn
hóa dân tộc khi được phát triển, phát huy hết mức sẽ đạt đến tầm cao nhân
loại, trở thành giá trị chung của nhân loại.

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
(năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách
mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh vực văn hóa: “Phát triển những
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn
hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân
tộc, khoa học và đại chúng”(14). Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc có chọn lọc của Hồ Chí Minh.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày 19-9-1954, trên đường từ Việt
Bắc về Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Phong Châu kính viếng các
Vua Hùng, nói chuyện với đồng bào, chiến sĩ tại đền Giếng, Người căn dặn:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”. Câu nói bất hủ của Người khái quát hai phạm trù dựng nước và giữ
nước thành một cặp phạm trù tất yếu của lịch sử và văn hóa Việt Nam.

Phát huy, phát triển văn hóa dân tộc phải dựa trên cơ sở giữ gìn, bảo tồn các
giá trị văn hóa dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định quan điểm:
gốc của văn hóa là dân tộc; không có cái gốc ấy thì không thể tiếp thu được
tinh hoa của các nước mà cũng không đóng góp được gì cho văn hóa nhân
loại. Người yêu cầu “phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc ... và học tập văn
hóa tiên tiến của các nước” và Người cũng rất tâm đắc với quan điểm của V.I
Lê-nin: Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu thái được những
điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại(15). Người khuyên văn, nghệ sĩ
phải chú ý giữ gìn vốn cũ dân tộc, đồng thời phê phán những ai là người Việt
Nam nhưng không hiểu biết rõ về lịch sử, đất nước, con người Việt Nam.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
chú ý đến việc giữ gìn thuần phong mỹ tục vốn là truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.

Đối với vấn đề lễ hội ở các di tích, năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ý
kiến chỉ đạo có ý nghĩa phương pháp luận: “Nói là khôi phục vốn cũ, thì nên
khôi phục cái gì tốt, cái gì không tốt thì loại dần ra ... Cái gì tốt, thì ta nên
khôi phục và phát triển, còn cái xấu thì ta phải bỏ đi” (16). Quan điểm này của
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy thái độ khoa học, trân trọng tinh hoa thuần
phong mỹ tục đối với lễ hội, không phục cổ mà nâng lên cho phù hợp nếp
sống mới, văn hóa mới...

Cùng với những tư tưởng sâu sắc về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là
một tấm gương mẫu mực về học tập, bảo tồn vốn cổ, bảo vệ văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Người rất trân trọng, gìn giữ và làm trong sáng tiếng nói dân tộc
để nâng tầm văn hóa Việt Nam. Nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội
Nhà báo Việt Nam (ngày 8-9-1962), Người nhấn mạnh: “Tiếng nói là thứ
của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn
nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp” (17). Người cũng
yêu cầu các nhà văn phải chú ý trân trọng và giúp đỡ những sáng tác của
quần chúng, vì đó là những viên ngọc quý,...

Như vậy, phát triển nâng tầm văn hóa dân tộc Việt Nam lên ngang tầm thời
đại là một tư tưởng vô cùng đẹp đẽ, sâu sắc và cao rộng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh với vai trò là người đứng đầu của một quốc gia - dân tộc; hơn thế, là
đại diện về tư tưởng, trí tuệ, tinh thần, hồn cốt của quốc gia - dân tộc Việt
Nam. Những quan điểm, tư tưởng của Người về văn hóa, phát triển, nâng
tầm văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ cách
mạng dân tộc dân chủ, mà còn có giá trị sâu sắc trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng ấy chính là cơ sở, nền tảng cho Đảng xây
dựng đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trong giai đoạn hiện nay với các định hướng cơ bản, như xây dựng hệ
giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị
gia đình Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt
chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại; xây dựng môi
trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng
văn hóa của nhân dân; bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong
truyền thống văn hóa Việt Nam; gắn việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam với việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về
văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc
tế; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới;...(18)./.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa


mới đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong điều
kiện hiện nay
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng quý giá, toàn diện, sâu sắc về mọi mặt của
đời sống xã hội, được gọi chung là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, một trong những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự nghiệp
xây dựng văn hóa nước nhà, coi đó là một phần việc quan trọng của cách mạng. Người viết: “Trong
sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng”.
Người đánh giá cao vai trò dẫn dắt định hướng xã hội của văn hóa: Văn hóa soi đường cho quốc dân
đi. Vì vậy, ngay từ những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã liên tiếp viết hai tác phẩm
Đời sống mới và Sửa đổi lối làm việc để kêu gọi, động viên, hướng dẫn nhân dân, cán bộ học tập,
thực hiện. Người cũng luôn nhấn mạnh, trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú
ý đến, phải coi trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Tư tưởng đó của Người thể hiện
rất rõ tầm nhìn duy vật biện chứng về sự phát triển toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực của đời
sống.

Người thường nói, “phải làm cho văn hóa ăn sâu vào tâm lý quốc dân” với mong muốn làm sao cho
văn hóa bồi bổ, vun đắp những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu
chân - thiện - mỹ, yêu sự chân thật, ghét những thói hư tật xấu và coi đó là thứ giặc nội xâm rất nguy
hiểm. Khi nói “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” chính là Người muốn nhấn mạnh vai trò soi rọi,
mở mang tầm nhìn, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm cho con người, văn hóa giúp cho lý trí con người thêm
sáng suốt, tình cảm con người thêm cao đẹp.

Quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là văn hóa phải phụng sự nhân dân, lấy hạnh
phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở. Người nêu rõ: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy
hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở. Phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước
ngoài tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi được tham những, lười biếng,
phù hoa, xa xỉ, phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”.

Nền văn hóa mới theo Hồ Chủ tịch có nhiệm vụ xóa bỏ những tàn dư lạc hậu của chế độ cũ và xây
dựng nội dung mới của nền văn hóa cách mạng. Trong tác phẩm Đời sống mới, Người chi rõ: “Đời
sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải
bỏ... Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”. Nền văn hóa mới chỉ
có thể xác lập khi các tầng lớp nhân dân đều thấm nhuần tinh thần tự giác, tự chủ, tích cực tham gia.
Người nói: Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc nhất định sẽ phú cường.

Là một nhà văn hóa lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò của văn hóa trong việc nâng
cao dân trí. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, một trong ba nhiệm vụ cấp bách được Hồ Chủ tịch
đề ra là diệt giặc dốt, bởi theo Người "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Với tầm nhìn xa rộng đó,
công cuộc bình dân học vụ đã nhanh chóng được triển khai trong toàn quốc, đem lại những kết quả
kỳ diệu, đưa dân tộc Việt Nam từ chỗ 80% dân số mù chữ nhanh chóng nâng cao sức mạnh trí tuệ
để chiến đấu và kiến thiết đất nước.

Với quan niệm chức năng của nền văn hóa mới là bồi bổ tư tưởng, tình cảm tiến bộ cho quần chúng
nhân dân, Hồ Chủ tịch đặc biệt quan tâm đến vai trò của văn học nghệ thuật và đội ngũ văn nghệ sĩ.
Người cho rằng, trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận.
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy... cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”.

Về tính chất, nội dung và hình thức của nền văn hóa mới Việt Nam, với quan điểm dân tộc hiện đại,
Hồ Chí Minh nêu rõ: “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”6. Người nhấn mạnh, phải phát huy hết cốt cách dân tộc,
phải lột cho hết tinh thần dân tộc, “để cổ vũ đồng bào ta và để giáo dục con cháu ta”; và rằng: “Dân ta
phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”...

Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới, bên cạnh việc đề cao tính dân tộc, Người cũng luôn chú
trọng tới tính khoa học và đại chúng. Người thường nói: Cái văn hóa mới này cần phải có tính khoa
học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại. Nay nước ta đã được
độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả
nguyện vọng của nhân dân. Tính đại chúng ở đây chính là hàm nghĩa văn hóa phải của dân, do dân
và vì dân. Vì thế, Người thường căn dặn những người làm công tác văn hóa, văn nghệ phải đi sâu
vào thực tế cuộc sống, hiểu được tâm tư tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu... của nhân dân để từ đó
sáng tác phục vụ nhân dân một cách tốt nhất, đồng thời Người cũng luôn uốn nắn, phê bình lối nói,
lối viết và lối sáng tác xa rời quần chúng, không phù hợp với trình độ và thị hiếu thẩm mĩ của các tầng
lớp nhân dân.

Cùng với việc đề cao và phát huy cái gốc của văn hóa truyền thống, lấy văn hóa xưa để bồi đắp cho
văn hóa nay, khôi phục những gì tốt đẹp của quá khứ và loại bỏ dần những gì không tốt, không phù
hợp. Người cho rằng, chúng ta phải biết học tập cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới, tiếp thu những
gì tinh túy của văn hóa nhân loại. Người nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc xây dựng một nền
văn hóa “mở”, bắt nhịp với hơi thở của thời đại, phù hợp với trình độ khoa học và văn minh thế giới,
hòa cùng dòng chảy của văn hóa nhân loại.

Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa chứa đựng những nội dung phong phú, sâu sắc, có tầm
nhìn xa trông rộng liên quan đến những vấn đề căn cốt, quan trọng của đời sống quốc gia như ý thức
độc lập, tự cường, quyền làn chủ, bình đẳng, tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh... Đây là những quan điểm khoa học, hiện đại và đầy tính nhân văn, cho đến nay vẫn
giữ nguyên giá trị trong thời kỳ Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế hiện nay./.

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/824543/xay-
dung-nen-van-hoa-moi%2C-con-nguoi-moi-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-o-nuoc-
ta-hien-nay.aspx#

You might also like