Professional Documents
Culture Documents
Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính
9.1. KHÁI NIỆM TOÀN CẦU HÓA, TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH VÀ KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH
9.1.1. Khái niệm và các khía cạnh của toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là sự hội nhập ngày càng tăng của các nền kinh tế trên thế giới, đặc
biệt là thông qua thương mại và các luồng tài chính. Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông
qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Trong số đó có luân chuyển quốc tế ngày càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ,
thông tin và văn hóa; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ
và cơ sở hạ tầng cho việc luân chuyển này.
Các xu hướng chính trong toàn cầu hóa bao gồm:
Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế
giới
Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ
như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại
Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá
phẩm như phim ảnh hay sách báo.
9.1.2. Tự do hóa tài chính
Một trong những nội dung quan trọng trong toàn cầu hóa là tự do hóa tài chính.
Tự do hóa tài chính là quá trình xóa bỏ những kìm hãm và ràng buộc về mặt tài chính,
hay nói cách khác tự do hóa tài chính là quá trình để cho các công cụ của chính sách
tiền tệ được vận hành theo cơ chế thị trường.1 Nếu Chính phủ các nước đánh thuế hoặc
bóp méo thị trường vốn bằng cách sử dụng các công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc cáo,
áp dụng mức trần lãi suất tiền gửi và cho vay v.v... thì nền kinh tế nước đó được xem là
1
McKinnon (1973), Edward Shaw (1973), Fry (1988) và Roland Clark (1996)
bị kìm hãm tài chính.2 Như vậy kìm hãm tài chính không làm tăng trưởng vốn đầu tư vì
khả năng huy động bị hạn chế, hệ thống tiền tệ trở nên bất ổn định, các tài sản tài chính
không có tính thanh khoản cao và làm cản trở sự phát triển của hệ thống tài chính theo
chiều sâu.
Quá trình tự do hóa tài chính và việc áp dụng lãi suất thực dương tạo điều kiện
phát triển chiều sâu tài chính. Chiều sâu tài chính là mức độ phát triển các trung gian
tài chính, bao gồm cả quá trình tự do hóa khu vực ngân hàng và phát triển năng động
của thị trường chứng khoán. Tự do hóa tài chính và lãi suất thực dương gia tăng tỷ số
M3/GNP, qua đó cho thấy dòng vốn thực sự của các quỹ có khả năng cho vay trong
nước để tài trợ cho các dự án đầu tư mới. Tóm lại, Tự do hóa tài chính là quá trình
tháo gỡ những kìm hãm tài chính nhằm làm gia tăng chiều sâu tài chính và phát
triển thị trường tài chính của một quốc gia.
Tự do hóa tài chính là một bước đi tất yếu của quá trình phát triển kinh tế. Nội
dung cơ bản của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất. Tự do hóa lãi suất là việc
Chính phủ không ấn định các mức lãi suất (lãi tiền gửi, tiết kiệm, cho vay,...) đồng thời
không khống chế lãi suất (lãi suất trần và lãi suất sàn) mà để cho lãi suất tự mình hình
thành theo cơ chế thị trường có sự tác động gián tiếp của NHTW. Lãi suất hình thành
theo cơ chế thị trường dựa trên cơ sở cung cầu về vốn, mức tiết kiệm, thu nhập, chi tiêu
của cá nhân và tổ chức và các nhân tố khác.
Ngoài tự do hóa lãi suất, tự do hóa tài chính còn bao gồm các nội dung sau:
Tự do hóa tỷ giá hối đoái. Tự do hóa tỷ giá hối đoái gắn liền với việc nới lỏng
và đi đến xóa bỏ các giới hạn về ngoại hối, các luồng vốn vào và luồng vốn ra qua biên
giới và các giao dịch vãng lai.
Tự do hóa tài khoản vốn. Tự do hóa tài khoản vốn gắn liền với việc chu chuyển
tự do của các dòng vốn đầu tư trực triếp và gián tiếp, vào và ra khỏi một quốc gia. Các
biện pháp kiểm soát vốn sẽ theo xu hướng dần được nới lỏng và sẽ tiến tới mở của hoàn
toàn tài khoản vốn khi đã hội đủ các điều kiện như hệ thống tài chính ngân hàng trong
nước thật mạnh và ổn định, dự trữ ngoại hối lớn và vững chắc.
Tự do hóa các dịch vụ tài chính. Tự do hóa các dịch vụ tài chính là việc mở cửa
thị trường hoặc bãi bỏ những rào cản trong việc thâm nhập thị trường đối với những
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và
quản lý quỹ.
9.1.3. Khủng hoảng tài chính
Tự do hóa tài chính làm tăng mức độ hội nhập của thị trường tài chính trong nước
thể hiện qua sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là dòng vốn
ngắn hạn, điều này dẫn đến những hậu quả:
Thứ nhất, làm tăng khối tiền tệ thông qua các khoản ký gửi của các định chế tài
chính. Điều này có thể dẫn đến việc cho vay không thận trọng và gây ra những mầm
2
McKinnon (1973)
mống cho một cuộc khủng hoảng trong tương lai.
Thứ hai, dòng vốn quốc tế có thể như con dao hai lưỡi, một mặt khuyếch đại lợi
ích của những chương trình cải tổ hợp lý nhưng cũng có thể làm gia tăng thiệt hại do
những chính sách và cơ chế kinh tế yếu kém. Dòng chảy vốn ào ạt càng làm tăng thêm
nguy cơ dễ bị tổn thương của nền kinh tế. Khi các nhà đầu tư thiếu niềm tin vào kinh tế
vĩ mô, sự đảo ngược dòng vốn là mối đe dọa lớn cho các nước trong giai đoạn hội nhập.
Thứ ba, đồng nội tệ bị định giá cao là một trong những nhân tố góp phần làm
tăng sự khác biệt giữa nền kinh tế tài chính và nền kinh tế thực.
Thứ tư, ở các nước đang phát triển, hệ thống thông tin bất hoàn hảo và mất cân
xứng cũng như sự yếu kém về thể chế tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính hơn
là ở những nước phát triển. Do đó, xu hướng bầy đàn của nhà đầu tư lớn hơn và những
nhà đầu tư trong nước có thể bị ảnh hưởng bởi những nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến
sự bất ổn càng lớn.
Tóm lại, một nền kinh tế đang trong quá trình tự do hóa tài chính sẽ đứng trước
một tình trạng mà các nhà kinh tế học gọi là “sự mong manh về tài chính”, tạo ra nguy
cơ dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Khủng hoảng tài chính, một cách tổng quát là sự xấu đi một cách rõ ràng và
nhanh chóng của tất cả hay hầu hết cá nhóm chỉ tiêu tài chính của một nền kinh tế như
lãi suất ngắn hạn, giá trị tài sản, tình trạng không trả được nợ và những thất bại của các
định chế tài chính.
Khủng hoảng tài chính là một trong hai loại biến cố:
Việc rút tiền hàng loạt dẫn tới việc chính phủ phải đóng cửa, sáp nhập hoặc thâu
tóm một hoặc nhiều định chế tài chính.
Nếu không có sự rút tiền, đóng cửa, sáp nhập, thâu tóm hay sự giúp đỡ quy mô
lớn của chính phủ đối với một định chế tài chính quan trọng thì sẽ bắt đầu tình
trạng căng thẳng đối với các định chế tài chính khác.
9.2. DẤU HIỆU CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Kể từ khi ngành tài chính hình thành thì khủng khoảng tài chính đã trở thành một
sản phẩm tất yếu của nó. Các ngân hàng, định chế tài chính, cũng như các thực thể tham
gia vào thị trường và mọi chính phủ đều thừa nhận khiếm khuyết này của hệ thống.
Cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính (về trình độ thị trường, quy mô và tầm
ảnh hưởng), khiếm khuyết này không giảm bớt mà ngày một lớn bởi các định chế tài
chính ngày một lớn và phức tạp, các sản phẩm tài chính ngày càng đa dạng và khó kiểm
soát rủi ro trong khi thế giới ngày một phẳng và không còn ranh giới…
Giai đoạn tiền khủng hoảng, giống như bầu trời trước bão, luôn có đầy đủ dấu
hiệu cảnh báo cần thiết. Theo một nghiên cứu của IMF dựa trên các cuộc khủng hoảng
đã xảy ra trong lịch sử về dấu hiệu, diễn biến và nguyên nhân, các dấu hiệu điển hình
cảnh báo khủng hoảng tài chính quy mô lớn bao gồm: (i) Tín dụng mở rộng quá mức/
giá tài sản tăng quá cao; (ii) Hệ thống tài chính khó khăn; (iii) Hỗ trợ của Chính phủ ở
quy mô lớn và (iv) sự xuất hiện của các bất cân đối lớn trên bảng cân đối tài khoản.
9.2.1. Tín dụng mở rộng quá mức và/hoặc giá tài sản tăng quá cao
Dấu hiệu này thường đi kèm với chính sách tiền tệ mở rộng, dòng vốn giá rẻ ồ
ạt đổ vào thị trường qua hệ thống tài chính. Khi dòng vốn rẻ được cung ứng ồ ạt dẫn
đến sự tăng nhanh bất thường của tăng trưởng tín dụng. Tăng trưởng tín dụng tăng
thường đi kèm với sự bùng nổ tăng trưởng kinh tế. Nhưng hệ lụy là dòng tiền không thể
hấp thụ hết vào khu vực sản xuất sẽ chảy vào những khu vực có tỷ suất sinh lời cao và
rủi ro cao như các thị trường tài sản (bất động sản, thị trường chứng khoán), nhiều trong
số đó mang tính đầu cơ ngắn hạn, tạo bong bóng tài sản. Khủng hoảng sẽ xảy ra khi
dòng vốn giá rẻ đột ngột đảo chiều, thị trường tài sản đổ vỡ (giảm giá mạnh, mất thanh
khoản).
Thực tế cho thấy, đây là dấu hiệu phổ biến và cơ bản nhất, xuất hiện trước, trong
và sau mọi cuộc khủng hoảng tài chính lớn. Ví dụ, tại cuộc khủng hoảng nợ của các
nước Mỹ La-tinh năm 1982, do dễ dàng vay nợ giá rẻ từ nước ngoài trong nhiều năm,
các NHTM tăng trưởng tín dụng nhanh với quy mô lớn, nhờ đó kinh tế tăng trưởng cao
trong những năm này. Tuy nhiên, khi kinh tế thế giới rơi vào suy thoái từ cuộc khủng
hoảng dầu mỏ thập kỷ 70, dòng vốn đảo chiều, lãi suất tăng vọt, chính phủ các nước
Mỹ la tinh mất khả năng trả nợ. Gần đây hơn, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997
và khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 cũng chứng kiến hiện tượng tương tự,
dòng vốn giá rẻ – qua hệ thống tài chính – cung quá mức vào thị trường, dẫn đến bong
bóng tài sản tại các nước Châu Á năm 1997, hay bong bóng giá nhà ở và nợ dưới chuẩn
của Mỹ năm 2007-2008.
Sau khủng hoảng 2007-2008, để khôi phục tăng trưởng trở lại, hầu hết các nền
kinh tế lớn đều áp dụng chính sách tài tiền tệ nới lỏng, lãi suất thấp ở mức kỷ lục gần
0% như Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED),
Ngân hàng Trung ương Anh (BOE),… thậm chí là mức lãi suất âm áp dụng bởi NHTW
Nhật Bản (BOJ). Các gói nới lỏng định lượng liên tiếp được Mỹ, ECB tung ra nhằm
tăng mức cung tiền cho hệ thống. Hệ lụy của chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức như
trên là tăng trưởng tín dụng và tiếp tục bùng nổ nợ toàn cầu.
Một báo cáo của IMF năm 2016 cho biết 8 năm sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008, thế giới đang gánh một núi nợ lên tới 152 nghìn tỷ USD – một con số
chưa từng có. Đáng lưu ý là tăng trưởng nợ ngày một lớn và không có dấu hiệu suy
giảm bất chấp các cuộc khủng hoảng nợ công ở một số quốc gia Châu Âu đã xuất
hiện. Nghiên cứu của IMF trên 113 quốc gia trong nửa đầu năm 2016 đã cho thấy mức
nợ hiện đang ở mốc kỷ lục 225% GDP toàn cầu, trong đó 2/3 số nợ thuộc về khu vực
tư nhân. Nợ phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các nước tiên tiến phương Tây và
một số các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc. Tình trạng tăng trưởng trì trệ xảy ra
tại hầu hết các nền kinh tế lớn như EU, Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ đã làm giảm khả
năng chi trả nợ của các quốc gia cũng như của các khu vực kinh tế.
9.2.2. Hệ thống tài chính khó khăn
Hệ thống tài chính khó khăn hoặc mất khả năng cung cấp nguồn lực tài chính
cho các khu vực khác của nền kinh tế. Tình trạng này xảy ra khi hệ thống tài chính mất
khả năng thanh khoản, khả năng thanh toán hoặc mất mát niềm tin khiến tín dụng không
thể cung ra thị trường. Dấu hiệu này thường rõ nét ngay trước khủng hoảng bùng nổ,
cũng như trong và sau khủng hoảng.
Mất khả năng thanh toán khiến nợ xấu trở thành vấn đề trong các NHTM của các
hệ thống tài chính. Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính tỷ lệ nợ xấu trên tổng các khoản
cho vay trong năm 2015 đã đạt 4,3%. Trước khi cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ toàn
cầu xảy ra, con số này chỉ là 4,2%.
Theo WB, tính tới năm 2015 có hơn 3.000 tỷ USD nợ xấu trên toàn cầu, lớn gấp
ba lần con số xấp xỉ 1.000 tỷ USD tín dụng thế chấp dưới chuẩn đã dẫn tới khủng hoảng
tài chính-tiền tệ toàn cầu năm 2008. Trong đó, các ngân hàng châu Âu đang “gánh”
1.300 tỷ USD nợ xấu, trong đó gần 400 tỷ USD nợ xấu thuộc về Italy. Tại Châu Á, Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính các khoản cho nợ xấu tại Ấn Độ là 150 tỷ USD, trong
khi các khoản tín dụng có rủi ro ở Trung Quốc lên tới 1.300 tỷ USD.
9.2.3. Hỗ trợ của chính phủ ở quy mô lớn
Các biện pháp hỗ trợ của chính phủ ở quy mô lớn có thể là hỗ trợ thanh khoản,
tái cấp vốn. Đặc trưng của các hệ thống tài chính là rủi ro lây nhiễm cao, niềm tin dễ
dàng bị xói mòn khi thông tin bất cân xứng, có thể tạo nên tình trạng “hoảng loạn tập
thể” gây đổ vỡ hệ thống. Bởi vậy, Chính phủ thường hỗ trợ thanh khoản, tái cấp vốn
cho các định chế tài chính lớn đang gặp khó khăn hoặc rủi ro nếu sự đổ vỡ của các định
chế đó ảnh hưởng xấu tới hệ thống. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, mặc dù Chính
phủ có hỗ trợ lớn nhưng đổ vỡ hệ thống vẫn diễn ra, tình trạng hỗn loạn vẫn trầm trọng
do rủi ro lây nhiễm đã lan quá rộng, ngoài năng lực hỗ trợ của chính phủ. Chúng ta có
thể thấy thực trạng này tại cuộc khủng hoảng gần đây nhất năm 2007-2008, Chính phủ
Mỹ và Chính phủ của một số nền kinh tế đều thực hiện cứu trợ quy mô lớn nhưng vẫn
không thể ngăn chặn đà tiến của cuộc khủng hoảng đó.
9.2.4. Các bất cân đối lớn trên bảng cân đối tài khoản
Các bất cân đối lớn trên bảng cân đối tài khoản, cụ thể là bất cân đối giữa NỢ và
TÀI SẢN (của Chính phủ, công ty, hộ gia đình, NHTM…). Ví dụ, các khoản nợ quá
lớn trên bảng cân đối tài sản của NHTM, nằm ngoài khả năng kiểm soát an toàn của họ;
hoặc các NHTM cho vay tập trung tín dụng vào những ngành đang có khó khăn, rủi ro
tín dụng lớn như BĐS, cho vay đầu tư chứng khoán….; hoặc vay nợ quá lớn trên bảng
cân đối của các công ty so với năng lực trả nợ và tiềm năng kinh doanh của họ; hay các
khoản nợ công ngày một lớn từ các Chính phủ trong khi nguồn thu để chi trả nợ công
không tương xứng hoặc thiếu bền vững.
Nhiều NHTM ở Mỹ, Canada, Vương quốc Anh và một số nước châu Âu khác,
châu Á, Australia và New Zealand lại tiếp tục lún sâu vào các thị trường bất động sản
vốn đang bị định giá quá mức. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cung cấp khá nhiều tín
dụng cho lĩnh vực khai thác tài nguyên, khoáng sản đang gặp không ít khó khăn. Chỉ
riêng các khoản tín dụng dành cho lĩnh vực năng lượng trên toàn cầu ước đã lên tới
khoảng 3.000 tỷ USD. Tuy nhiên, đây đều là những ngành đang rất khó khăn do giá cả
mặt hàng năng lượng (chủ yếu là dầu thô) và khai khoáng giảm trầm trọng.
Ngoài ra, còn có các dấu hiệu bất cân đối khác như sự phá giá tiền tệ mạnh và
đột ngột, suy giảm mạnh dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Trung ương (NHTW) trong
thời gian ngắn, thâm hụt cán cân thanh toán, cán cân thương mại nghiêm trọng và kéo
dài …
Khủng hoảng
Tài chính
Khủng Khủng
hoảng kép hoảng kép
loại 1 loại 2
Khủng hoảng tiền tệ còn được gọi là khủng hoảng tỷ giá hối đoái hay khủng
hoảng cán cân thanh toán nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn đến sự giảm giá một
cách đột ngột của đồng nội tệ hoặc trường hợp NHTW phải bảo vệ đồng tiền của nước
mình bằng cách nâng cao lãi suất hay chi ra một khối lượng lớn dự trữ ngoại hối.
Lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng cho rằng tính bất ổn (dễ đổ vỡ) của hệ
thống ngân hàng bắt nguồn từ tính bất cân xứng thông tin của thị trường, là tình trạng
một bên trong mối quan hệ kinh tế hay giao dịch có ít thông tin về phía bên kia. Theo
quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) định nghĩa thì: “Khủng hoảng ngân hàng là trạng thái các ngân
hàng lâm vào tình trạng rút tiền ồ ạt và bị phá sản. Các ngân hàng buộc phải dừng việc
thanh toán các cam kết của mình, hoặc để tránh tình trạng này, chính phủ buộc phải can
thiệp bằng các biện pháp hỗ trợ đặc biệt. Khủng hoảng ngân hàng có thể bùng phát tại
một ngân hàng và lan truyền ra toàn bộ hệ thống”.
Khủng hoảng nợ là tình trạng một quốc gia, thông thường là các nước đang phát
triển không có khả năng chi trả các khoản nợ vay đến hạn.
Khi khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng xảy ra đồng thời với nhau,
người ta gọi tình huống này là khủng hoảng kép loại một. Khủng hoảng nợ thường đi
kèm với khủng hoảng ngân hàng, tạo nên hiện tượng khủng hoảng kép và người ta gọi
là khủng kép loại hai.
Hệ thống tài chính nội địa: Dòng vốn nước ngoài Chính sách kinh tế vĩ mô:
-Tập trung vào ngân hàng chảy vào: Tỷ giá hối đoái cố định
-Giám sát yếu kém Nợ có mệnh giá bằng
-Tâm lý ỷ lại ngoại tệ và kỳ hạn ngắn
gia tăng
Tình hình kinh tế vĩ mô:
-Tỷ giá hối đoái thực bị
Phân bổ vốn sai lệch: nâng cao
-Đầu tư quá mức -Thâm hụt thương mại gia
-Bong bóng giá tài sản tăng
-Tham nhũng
KHỦNG HOẢNG
Tình hình tài chính: •Tấn công đầu cơ
-Tỷ lệ nợ khó đòi cao
•Vốn chảy ra ngoài
-Mất cân xứng về kỳ
•Ngân hàng và doanh
hạn giữa tài sản nợ và
nghiệp phá sản
tài sản có
THỊ TRƯỜNG
Đầu tư TÀI CHÍNH
Đầu tư
3
116.000 người USD
+ Xếp thứ 6 trong danh
sách Global 2000 (các
công ty lớn nhất thế
giới)
STT Tên Quy mô Thiệt hại Giải pháp
+Tổng tài sản: 211 tỷ +Thua lỗ (2007): 2,5 01/07/2008: Bán
USD tỷ USD cho ngân hàng
Countrywide Financial +Là tập đoàn chiếm 20% +Mất giá tài sản Mỹ với giá 4,1 tỷ
tổng thế chấp của Mỹ, (2007): 1 tỷ USD USD.
tương đương 3,5% GDP
4
+ Tổ chức tiết kiệm và
cho vay lớn thứ 3, đồng
thời là ngân hàng có tốc
độ phát triển nhanh nhất
trong lịch sử nước Mỹ
+Tổng tài sản: 350,4 tỷ +Thiệt hại quý 30/05/2008: Bán
USD IV/2007: 859 triệu cho JP Morgan
Bear Stearns
Los Angeles. Đồng thời cho bảo hiểm tiền gửi bang Mỹ FDIC
6
là tổ chức thế chấp lớn +Chi phí 541 triệu tiếp quản
thứ 7 ở Mỹ USD cho các khoản
tiền gửi vượt mức bảo
hiểm
+Tổng tài sản: 794,4 tỷ +Thua lỗ (2007): 4,6 07/09/2008: FED
USD tỷ USD ký hợp đồng bỏ ra
+Tổng vốn góp cổ phần: +Thua lỗ quý II/2008: 1 tỷ USD hỗ trợ
Freddie Mac
+ Tổng tài sản: 327,9 tỷ tới 81,6%, còn 1,84 Group với giá
11 USD USD /cổ phiếu 2,16 tỷ USD.
+Thua lỗ 9,7 tỷ USD
trong nửa đầu năm
2008
Nguồn: IRIC tổng hợp
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Có rất nhiều nguyên nhân cộng gộp tạo nên cuộc khủng hoảng tài chính 2007-
2008, trong đó phải kể đến các nguyên nhân cơ bản nhất đến từ việc bãi bỏ đạo luật
Glass – Steagall, bong bóng bất động sản tại Mỹ, giai đoạn khủng hoảng nợ/tín dụng
dưới chuẩn (Subprime Mortgage), tính phức tạp của các kỹ thuật chứng khoán hóa
(Securitization) và các sản phẩm chứng khoán phái sinh (Derivatives). Chính sự cho
vay dưới chuẩn này kéo theo sự đầu cơ về nhà đất tăng mạnh, đẩy giá đất tăng nhanh.
Trong giai đoạn 1990 – 2005 giá nhà của Mỹ liên tục tăng, được diễn tả như giai đoạn
‘Bong bóng bất động sản Mỹ (Real estate bubble).
a. Quá trình tự do hóa thị trường tài chính – tiền đề dẫn đến khủng hoảng tài
chính
Có hai lý do dẫn đến sự lột xác của ngành tài chính ngân hàng sau thập kỷ 1970.
Thứ nhất là những phát minh đột phá về lý thuyết quyền chọn và những công cụ
định lượng trong kinh tế học và tài chính học. Giới tài chính từ chỗ hầu như chỉ ra quyết
định đầu tư một cách định tính đã du nhập rất nhiều phương pháp định lượng vào quá
trình xây dựng danh mục đầu tư và phân tán rủi ro. Bên cạnh đó, sự phát triển của công
nghệ thông tin trong vài chục năm lại đây cũng giúp phổ biến những công cụ định lượng
trong ngành tài chính nhanh hơn và rộng hơn.
Thứ hai, trào lưu xóa bỏ những quy định hạn chế và giám sát hệ thống tài chính
từ thời Đại Suy thoái 1933 đã được nhân rộng trên toàn thế giới. Quan điểm cho rằng
thị trường tự do có thể tự điều chỉnh và đạt được hiệu quả tối ưu nếu nhà nước không
can thiệp không chỉ phổ biến trong ngành tài chính mà còn ở mọi lĩnh vực kinh tế khác,
không chỉ ở các nước phát triển mà còn được Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ
thế giới (IMF) nhân rộng ra các nước đang phát triển. Đỉnh điểm của quá trình xóa bỏ
can thiệp này (Deregulation) trong giới tài chính là việc chính phủ Clinton năm 1999,
với sự ủng hộ Quốc hội Mỹ và Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) của Alan Greenspan, đã
xóa bỏ một phần luật Glass-Steagall và là tiền đề dẫn đến khủng hoảng tài chính 2007
– 2008.
b. Hoạt động cho vay dưới chuẩn - Tiền đề ra đời MBS (Mortgage backed
securities – chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp)
Hoạt động cho vay thế chấp bất động sản ở Mỹ bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ
những năm cuối của thế kỷ trước. Trong những năm này, rất nhiều người cho rằng giá
bất động sản vẫn chưa phục hồi sau cuộc suy thoái kinh tế Mỹ những năm đầu 1990 và
dự báo rằng giá sẽ tiếp tục tăng lên nữa. Do vậy, thị trường bất động sản như một món
hời và là kênh đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận cao, thậm chí là rất cao.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Mỹ dưới thời của cựu Tổng thống Bill
Clinton đã đưa ra những quy định, tạo sức ép lên các ngân hàng buộc họ phải tạo điều
kiện cho những người có thu nhập thấp vay tiền mua nhà. Và thế là dịch vụ kinh doanh
cho vay mua nhà thế chấp nở rộ và phát triển mạnh mẽ trong nước Mỹ và sau đó nhanh
chóng lan ra toàn cầu. Từ đó bắt đầu xuất hiện cụm từ “cho vay thế chấp dưới chuẩn”
(Sub-prime mortgage).
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là một loại hình cho vay mà bên vay vốn là những
người không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn cơ bản để vay vốn. Nợ dưới chuẩn được
hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi
vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã
hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng
này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong
việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên
chuẩn.
Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có
mức lãi suất cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản
phẩm cho vay thế chấp mua nhà (mortgage), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng...
Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập cư vào Mỹ. Tài sản thế chấp
cho các khoản vay này thường chính là các bất động sản mà người vay vốn mua.