Professional Documents
Culture Documents
Sáng Kien Dia Ly Lop 4
Sáng Kien Dia Ly Lop 4
Sáng Kien Dia Ly Lop 4
PhầnI.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môn Địa lí lớp 4 là môn học mới đối với học sinh. Vì ở lớp 3 các em chưa
được làm quen với môn học này. Bên cạnh đó, học sinh và phụ huynh học sinh chưa
dành nhiều thời gian cho môn học cho môn học. mà chủ yếu đầu tư nhiều thời gian
cho mônToán và môn Tiếng Việt, xem môn
Địa lí là môn học phụ. Sau khi được phân công dạy môn Địa lí chúng tôi thật
sự băn khoăn làm thế nào để học sinh yêu thích, hứng thú môn Địa lí và nhận thấy
được tầm quan trọng của môn học đó là cơ sở học tập ở các lớp trên . Đặc biệt là
những em yêu thích khối C..Vậy xuất phát từ thực tế và yêu cầu cần thiết của xã hội
hiện nay, đểgóp phần nâng cao chất lượng giáo dục, sự yêu thích môn học, đáp ứng
được mục của tiêu Giáo dục & Đào tạo, tạo ra con người mới, phục vụ cho bản thân,
giađình và xã hội. Với những lý do nêu trên, bản sáng kiến này chúng tôi xin
nêu:“Một số kinh nghiệm để dạy tốt môn Địa lí lớp 4”.
Là một giáo viên, mỗi chúng ta cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc dạy
học, trách nhiệm của chúng ta đối với các em HS ở trường hôm nay những người sẽ
là chủ nhân tương lai của đất nước. Chắc rằng các đồng chí cũng nhận thấy thế giới
đang thay đổi, các nhu cầu và phương pháp giáo dục đang được phát triển nhằm đáp
ứng sự thay đổi nhanh chóng đó.
Về giáo viên: vẫn còn GV lúng túng trong khâu vận dụng phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học, quá lệ thuộc vào SGK,SGV mà chưa tìm hiểu và nhiều khi có
những vấn đề vượt qua sự hiểu biết nên thụ động, áp đặt trong việc học môn này. Với
lại đồ dung dạy học phục vụ cho tiết dạy
Về học sinh thì xem nhẹ, chưa chú trọng quan tâm đến môn này như toán,
Tiếng Việt và một số môn khác vì thế mà các em không thích học phân môn này. Học
sinh trường tôi dạy đa số là con các gia đình nông dân có hoàn cảnh kinh tế còn khó
khăn, cách tiếp cận với các hoạt động vui chơi, tham quan du lịch cũng như học tập
còn hạn chế, sự nhút nhát, rụt rè thụ động ở lứa tuổi các em ở vùng nông thôn còn
mang nặng hơn các vùng thành thị.
Về phía phụ huynh học sinh nhiều khi chỉ chú trọng hai môn Toán, tiếng Việt
nên ở nhà học chỉ nhắc và kèm con học 2 môn này, hơn nữa lượng kiến thức về lĩnh
vực này của một số phụ huynh có hạn.
- Học sinh chưa hứng thú khi học phân môn Địa lí do hoạt động trong tiết dạy
không sôi nổi, thiếu sự chuẩn bị, chưa tạo được hứng thú và phát huy được tính tích
cực của học sinh tham gia các hoạt động lĩnh hội kiến thức dẫn đến các em không
thấy được cái hay, sự thú vị của phân môn này.
- Các em thiếu sự quan tâm của gia đình về việc mở rộng nâng cao kiến thức do
điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, một số gia đình đã quan tâm chăm lo cho
con em nhưng chỉ đầu tư cho môn Toán và môn Tiếng Việt, coi môn Địa lí là môn
học phụ.
- Chất lượng học sinh không đồng đều, một số em nhận thức chưa cao nên tiếp
thu bài còn chậm. Một số học sinh ít được tiếp xúc về thế giới bên ngoài nên các em
phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng, thậm chí có học sinh
chưa biết chỉ đúng bản đồ, lược đồ ..
- Học sinh lớp 4 lần đầu tiên được tiếp thu kiến thúc mới đối với môn Địa lí và
được làm việc nhiều với bản đồ, lược đồ, tranh ảnh để tìm hiểu nội dung của bài.
- Việc quan sát các sự vật, hiện tượng địa lí, tìm tòi tư liệu, cách trình bày kết quả
bằng lời nói, cách diễn đạt còn hạn chế. Việc quan sát, phân tích số liệu trên bản đồ,
lược đồ, kỉ năng chỉ bản đồ còn rất lúng túng .
- Sự hiểu biết, cập nhật các thông tin về dân số, kinh tế, chính trị xã hội cũng là
một vấn đề mà mỗi giáo viên giảng dạy Địa lí cần phải quan tâm.
- Một số giáo viên chưa thật sự mặn mà và yêu thích môn học, việc đổi mới các
phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh còn hạn chế và chưa mạnh
dạn, chưa tuyên truyền sâu rộng đến tận các bậc phụ huynh và các em học sinh nên
chưa làm cho các em thật sự yêu thích môn Địa lí.
a. Thuận lợi: Lãnh đạo trường, chuyên môn và thư viện tạo điều kiện tốt cho tôi
nghiên cứu như: thời gian, mượn tài liệu, phòng máy để truy cập tham khảo thêm.
Bản than đã dạy nhiều năm khối lớp 4 nên hiểu được tâm lí của các em. Giáo viên
trong khối tạo điều kiện để tôi gặp trao đổi trò chuyện, học sinh lắng nghe và tích cực
chủ động trả lời các câu hỏi.
b. Khó khăn: Thời gian còn hạn chế cho việc đầu tư để viết chuyên đề.
a. Thành công: Qua thời gian áp dụng thử nghiệm, tôi thấy chuyên đề đã phần làm
thay đổi quan niệm coi phân môn Địa lí là môn phụ trong giáo viên, phụ huynh và
học sinh. Nhiều giáo viên đã áp dụng chuyên đề và bước đầu thu được thành công.
Học sinh đã tự giác tìm, lựa chọn sách phù hợp yêu cầu của nội dung và đã mượn sách
thư viện về cũng như truy cập trên mạng để tham khảo.
b. Hạn chế là sách, đồ dung trực quan, tranh ảnh phục vụ cho từng bài học còn ít.
Việc học sinh sưu tầm tranh ảnh còn hạn chế nhiều.
a. Mặt mạnh: Nếu chuyên đề được áp dụng rộng giáo viên dạy soạn giáo án điện tử
chuẩn bị nhiều tranh ảnh để dạy sẽ đem lại nhiều kết quả trong công tác dạy và học.
Chất lượng sẽ được nâng lên đáng kể. Vì đây là phương pháp dễ gây hứng thú, lôi cuốn
học sinh học tập.
b. Mặt yếu: Để áp dụng các phương pháp và hình thức dạy học một cách hiệu quả
thì người giáo viên phải có kiến thức, có sự sáng tạo, nhiệt tình, có sức thuyết phục để
phụ huynh quan tâm đến phân môn và đầu tư cho học sinh.
Định hướng chung của đổi mới PPDH ở tiểu học nói chung và trong dạy Địa lí
lớp 4 nói riêng là: Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Có thể tóm tắt việc giải thích, cụ thể hóa định hướng chung nêu trên bằng sỏ đồ về
vị trí và mối quan hệ tương tác giữa giáo viên, học sinh, môi trường và các điều kiện
tối thiểu cần có để đổi mới PPDH Địa lí như sơ đồ sau:
GIÁO VIÊN HỌC SINH
- Tích cực
- Trách nhiệm
- Chiếm lĩnh
- Ảnh hưởng
- Thích nghi
- Hỗ trợ
Sơ đồ : Vị trí và mối quan hệ giữa giáo viên, học sinh và môi trường, điều kiện
dạy học
- Bình diện vĩ mô là quan điểm về PPDH. Ví dụ: Dạy học hướng vào người
học, dạy học phát huy tính tích cực của học sinh…
Quan điểm dạy học là những định hướng tổng thể cho các hành động phương
pháp, trong đó có sự kết hợp giữa các nguyên tắc dạy học, những cơ sở lí thuyết của lí
luận dạy học, những điều kiện dạy học và tổ chức cũng như những định hướng về vai
trò của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Quan điểm dạy học là những
định hướng mang tính chiến lược, cương lĩnh, là mô hình lí thuyết của PPDH.
Bình diện trung gian là PPDH cụ thể. Ví dụ: Phương pháp đóng vai, thảo luận,
nghiên cứu trường hợp điển hình, xử lí tình huống, trò chơi, dạy học theo nhóm, giải
quyết vấn đề, dạy học theo dự án (PPdự án),…
Ở bình diện này khái niệm PPDH được hiểu với nghĩa hẹp, là những hình thức,
cách thức hành động của GV và HS nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học xác định,
phù hợp với những nội dung và điều kiện dạy học cụ thể.
PPDH cụ thể quy định những mô hình hành động của GV và HS. Dựa vào mối
quan hệ thầy – trò, cách hoạt động của thầy và trò, theo cách này ta có các phương
pháp dạy học theo quan điểm truyền thống cà các phương pháp dạy học theo quan
điểm tích cực. Sau đây tôi xin giới thiệu một số phương pháp dạy học tích cực.
Trong thực tế cho thấy có PPDH có ưu thế trong việc phát huy tính tích cực học
tập của HS có thể sử dụng để giáo dục trong quá trình dạy học các môn học và tổ chức
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp như:
* Song trong phân môn Địa lí thì phương pháp thường được vận dụng là:
- Phương pháp quan sát, vấn đáp – tìm tòi thì miêu tả, phân tích;
Phương pháp quan sát là phương pháp sử dụng các giác quan để tri giác trực
tiếp, có mục đích các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và trong cuộc sống mà
không có sự can thiệp vào quá trình diễn biến của các sự vật hoặc hiện tượng đó. Tùy
từng nội dung cụ thể mà giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bằng cách sử dụng
một hay nhiều giác quan khác nhau.
Tùy theo bài học cụ thể mà giáo viên có thể tổ chức cho học sinh quan sát ở
trong lớp hay ngoài lớp theo quy trình sau:
Học sinh cần xác định mục tiêu của quan sát trước khi tiến hành.
Đối tượng quan sát là quan sát trực tiếp đối tượng tại thực địa hoặc qua các
tranh, ảnh, lược đồ, bản đồ, địa cầu, băng hình,… Khi chọn đối tượng quan sát, giáo
viên cần ưu tiên chọn cách quan sát trực tiếp đối tượng tại thực địa.
- Tổ chức: tùy theo mục tiêu và nội dung bài học sinh, số đồ dung dạy học
hoặc hiện trường mà có thể tổ chức cho học sinh quan sát cá nhân, theo nhóm hay cả
lớp. Giáo viên dành đủ thời gian cho học sinh quan sát, tránh tổ chức cho học sinh
quan sát một cách hình thức.
+ Quan sát để thu thập thông tin: Tùy đối tượng để học sinh quan sát, giáo
viên hướng dẫn cho các em sử dụng một hay nhiều giác quan để cảm nhận và phán
đoán sự vật, hiện tượng.
+ Xử lí thông tin đã thu thập được ( đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp,
nhận xét, khái quát hóa,…) để rút ra kết luận. Tránh tình trạng, học sinh không rõ
mình phải quan sát cái gì và kết qảu quan sát đó có lien hệ gì đến kiến thức Địa lí ở
bài học.
Tổ chức cho học sinh trình bày kết quả quan sát theo nhóm hoặc cá nhân. Dựa
trên thực tế những khó khăn học sinh mắc phải mà giáo viên quan tâm tháo gỡ. Giáo
viên có thể nêu câu hỏi để cùng học sinh trao đổi nhằm khẳng định và hoàn thiện kết
quả quan sát.
Trò chơi học tập là trò chơi có nội dung gắn với hoạt động học tập của HS.
Trò chơi học tập giúp cho giờ học trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, giúp HS nhanh
nhẹn, tiếp thu tự giác và tích cực. Qua đó, HS được củng cố, hệ thống hóa kiến thức.
- Giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và phổ biến luật
chơi.
- Nhận xét kết quả của trò chơi ( có thể thưởng hoặc phạt sau trò chơi).
- Nhận xét thái độ của người ( đội) tham gia và rút kinh nghiệm.
- Kết thúc: GV hỏi HS qua trò chơi HS rút ra bài học gì hoặc giáo viên tổng
kết lại những gì cần học được qua trò chơi đó.
Việc tổ chức cho HS học tập theo nhóm là rất quan trọng, trước hết nó cho phép
HS có nhiều cơ hội hơn để diễn đạt và khám phá ý tưởng, mở rộng suy nghĩ, hiểu biết
và rèn luyện kĩ năng nói, nó cũng cho phép học sinh có cơ hội để học hỏi từ bạn, phát
huy vai trò trách nhiệm, điều đó làm phát triển kỹ năng xã hội và tính cách của HS,
đặc biệt kỹ năng phối hợp và hợp tác với các bạn khác.
Để dạy học hợp tác theo nhóm có hiệu quả giáo viên cần:
Biết cách chia nhóm: Theo sở thích hoặc theo trình độ,…
Chỉ dẫn cho HS biết vai trò, công việc của từng em trong nhóm một cách rõ rang
từ nhóm trưởng đến các thành viện có như vậy các nhóm mới hoạt động tốt.
- Chuẩn bị:
* Trong chuyên đề này chúng tôi xin gợi ý một số cách hình thành biểu tượng,
khái niệm địa lí cũng như hình thành và rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng bản đồ,
kĩ năng phân tích bảng số liệu vận dụng phương pháp quan sát và dạy học theo nhóm.
a. Biểu tượng địa lí là hình ảnh về sự vật hoặc hiện tượng địa lí được tri
giác, phản ánh vào trong ý thức của học sinh, được giữ lại trong trí nhớ và có khả
năng tái tạo theo ý muốn. Nói một cách dễ hiểu hơn cho giáo viên thì biểu tượng là
hình ảnh cụ thể và bao giờ cũng có tính riêng lẻ.
Hiện nay, người ta phân các biểu tượng địa lí ra làm hai loại:
+ Biểu tượng kí ức ( còn gọi là biểu tượng tái tạo ) là sự phản ánh đối tượng đã
được trực tiếp tri giác trong quá khứ.
+ Biểu tượng tưởng tượng ( còn gọi là biểu tượng sáng tạo ) là sự phản ánh
những đối tượng tuy không tri giác trực tiếp, nhưng được tư duy tạo ra trên cơ sở
những đối tượng có liên quan đã tri giác được.
- Phương pháp hình thành biểu tượng địa lí tốt nhất đối với học sinh TH là cho các
em quan sát trực tiếp đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình,…
Bước 1. Lựa chọn đối tượng quan sát: Tùy theo nội dung học tập, GV sẽ lựa chọn
đối tượng quan sát phù hợp với trình độ HS và điều kiện địa phương.
Bước 2. Xác định mục đích quan sát: Trong quá trình quan sát, không phải luca
nào HS cũng đều rút ra được những đặc điểm của đối tượng. Vì vậy với mỗi đối tượng
địa lí, GV cần xác định mục đích của việc quan sát ( ví dụ: Khi hình thành biểu tượng
về một con sông, nếu đối tượng quan sát là tranh ảnh, thì đặc điểm
“ động ” của nó như hiện tượng nước chảy không nên là mục đích quan sát của HS.
Tuy nhiên, HS lại có thể quan sát được nó, nếu các em được tiếp xúc với một con
sông thực, hoặc xem nó trong băng hình…).
Bước 3. Tổ chức, hướng dẫn cho HS quan sát đối tượng thông qua hệ thống câu
hỏi, bài tập. Hệ thống câu hỏi, bài tập này được xây dựng dưa trên mục đích quan sát
và trình độ hiểu biết của HS nhằm:
+ Điều khiển tri giác và hướng dẫn tư duy của HS theo hướng quan sát cần
thiết ( quan sát từ tổng thể đến chi tiết; từ bên ngoài vào bên trong…).
+ Giúp HS tổng kết và khái quát những điều đã quan sát, liên hệ với các đối
tượng cùng loại mà các em đã nhìn thấy, rồi rút ra những kết luận khách quan, khoa
học.
Bước 4. Tổ chức cho HS báo cáo kết quả qaun sát được về đối tượng. Sau đó, GV
cùng HS trao đổi, tháo luận, xá định và hoàn thiện kết quả, nhằm giúp các em
Ví dụ minh hoạ : Việc hình thành biểu tượng rừng rụng lá trong mùa khô ( rừng
khộp ) cho HS thông qua tranh ảnh ( hình 7 bài 8, SGK Lịch sử và Địa lí lớp 4 ( phần
Địa lí ). Ngoài tranh trong SGK nếu có điều kiện chuẩn bị có thể cho HS quan sát qua
băng hình, qua tranh ảnh do GV và HS sưu tầm.
Rừng khộp vào mùa khô
- Những đặc điểm của rừng rụng lá màu khô ( rừng khộp ) mà HS có thể quan
sát từ tranh ảnh là:
+ Rừng thưa.
- Hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn HS quan sát và phân tích tranh như sau:
Câu 1: Em hãy đọc nhan đề của bức tranh và nhắc lại mục đích làm việc với
tranh ( Hình 7 ). ( Nhan đề của bức tranh: “ Rừng khộp vào mùa khô ”. Mục đích làm
việc với tranh: nhận xét đặc điểm rừng khộp vào mùa khô).
+ rừng rậm
Câu 3: a) Các cây trong rừng khộp có các kích thước gần như nhau hay rất
khác nhau ? ( gần như nhau ).
b) Các cây ở rừng khộp vào mùa khô trông xanh tốt hay xơ xác? Vì
sao? ( xơ xác vì rụng lá gần hết ).
Câu 4: Cảnh rừng khộp giống hoặc khác với cảnh rừng rậm nhiệt đới ở những
điểm nào ?
Hình thành biểu tượng là một trong những mục đích của việc dạy Địa lí ở
trường TH. Tuy nhiên, việc dạy Địa lí không chỉ dừng lại ở đó; mà bước đầu cũng đã
hình thành cho HS một số khái niệm đơn giản. Ở đây, cần lưu ý rằng : giữa việc hình
thành biểu tượng và khái niệm không có danh giới rõ rệt. Khi hình thành biểu tượng, thì
mặc nhiên đã có mầm mống của sự hình thành khái niệm. Trong thực tế khi hình thành,
HS đã phải nắm được phần lớn các dấu hiệu mà các em quan sát được ( cả dấu hiệu bản
chất và dấu hiệu không bản chất ). Khi hình thành khái niệm địa lí, HS phải loại bỏ
những dấu hiệu không bản chất, mà giữ lại dấu hiệu bản chất của nó. Ở TH ta, dấu hiệu
bản chất được hiểu là dấu hiệu đặc thù cố định để phân biệt đối tượng địa lí đang nói
với các đối tượng địa lí khác. Khái niệm địa lí là sự phản ánh trong tư duy những sự
vật và hiện tượng địa lí đã được trìu tượng hóa, dựa vào các dấu hiệu bản chất, sau khi
đã tiến hành những thao tác tư duy ( so sánh, phân tích, tổng hợp,v v …). Như vậy, khái
niệm địa lí khác với biểu tượng địa lí ở chỗ : trong khái niệm có sự tham gia tích cực
của tư duy.
2.2 Các loại khái niệm địa lí: Dựa trên những tiêu chí khác nhau mà người ta có
những cách phân loại khái niệm khác nhau. Theo quan điểm nhận thức về mặt khoa
học thì trong địa lí có 3 loại khái niệm chính:
- Khái niệm địa lí chung: là những khái niệm được hình thành để chỉ không
những sự vật và hiện tượng địa lí cùng loại, có những thuộc tính giống nhau.
- Khái niệm địa lí riê ng: là những khái niệm chỉ những sự vật và hiện tượng địa
lí riêng biệt,cụ thể. Mỗi khái niệm địa lí riêng chỉ liên quan đến một đối tượng và
phản ánh đặc điểm riêng của nó.
- Khái niệm địa lí tập hợp: là khái niệm trung gian giữa khái niệm địa lí chung và
địa lí riêng.
Việc hình thành khái niệm chung có thể tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Hình thành những biểu tượng đúng bằng cách cho HS quan sát ( trực tiếp
hoặc gián tiếp ) các đối tượng định hình thành khái niệm, đồng thời khai thác những
hiểu biết sẵn có của HS về các đối tượng quan sát.
Bước 2: Đặt câu hỏi hoặc nêu tình huống có vấn đề để HS tìm ra những dấu hiệu
chung, bản chất của các đối tượng.
Bước 3: Cho HS đối chiếu, so sánh các đối tượng cùng loại để lĩnh hội được đầy
đủ và vững chắc các dấu hiệu chung, bản chất của khái niệm.
Bước 4 : Tổ chức cho HS báo cáo kết quả, sau đó, GV cùng HS trao đổi, thảo
luận, xác nhận và hoàn thiện các dấu hiệu chung của đối tượng, nhằm đưa ra khái
niệm đúng về đối tượng.
- Ngoài tranh trong SGK thì GV cho HS quan sát một hòn đảo ( trực tiếp hoặc
bằng tranh ảnh, băng hình )
- GV khai thác kinh nghiệm sống của các em bằng cách đặt một số câu hỏi; ví dụ:
+ Trong lớp ta, em nào đã nhìn thấy đảo ? Các em nhìn thấy khi nào ? Ở đâu ?
- Sau khi khai thác kinh nghiệm sống của các em, GV đạt tiếp câu hỏi để các
em phát hiện các dấu hiệu chung và bản chất của đảo: đất nổi, có nước bao bọc xung
quanh.
- Nêu khái niệm: đảo là bộ phận đất nổi xung quanh có nước biển và đại dương
bao bọc.
2.4. Hình thành khái niệm địa lí riêng: ( dựa trên cơ sở khái niệm chung). Việc
hình thành khái niệm riêng có thể được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: GV cần:
+ Hình dung trước những dấu hiệu riêng của đối tượng.
+ Lựa chọn nguồn tri thức có liên quan tới đối tượng.
Trên cơ sở đó, xác định những dấu hiệu nào của đối tượng có thể tổ chức cho HS
tìm tòi, phát hiện, những dấu hiệu nào GV phải cung cấp sẵn cho các em.
Bước 2: Tùy theo trình độ nhận thức của HS, GV soạn một hệ thống câu hỏi, bài
tập nhằm hướng dẫn HS làm việc với các nguồn tri thức đã lựa chọn, để phát hiện ra
dấu hiệu riêng của đối tượng.
Bước 3: Tổ chức cho làm việc với các nguồn tri thức theo hệ thống câu hỏi, bài
tập đã chuẩn bị trước ( theo hình thức cá nhân, nhóm, cả lớp tùy thuộc vào nội dung,
điều kiện trang thiết bị vật chất của địa phương, trường ) để phát hiện ra dấu hiệu riêng
của đối tượng.
Bước 4: Tổ chức cho HS báo cáo kết quả phát hiện dấu hiệu riêng của đối tượng,
thông qua các nguồn tri thức. Trên cơ sở đó, GV bổ sung những dấu hiệu mà HS không
tự tìm ra được bằng lời mô tả sinh động của mình nhằm hoàn thiện khái niệm cho HS
và yêu cầu HS nêu khái niệm riêng.
Ví dụ minh hoạ : Hình thành khái niệm dãy núi hoàng Liên Sơn ( Bài 1; Dãy
núi Hoàng Liên Sơn )
Dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ
Đỉnh Phan-xi-păng
Đỉnh núi Phan-xi-păng
Vì HS đã hiểu sơ lược thế nào là dãy núi ở lớp 3, nên khái niệm về dãy núi
Hoàng Liên Sơn có thể được hình thành bằng cách bổ sung thêm những đặc điểm
riêng như sau:
Hướng dẫn của giáo viên Kết quả tự phát hiện tri thức
- GV yêu cầu HS làm việc cá nhân với lược đồ - Dãy núi Hoàng Liên Sơn nằm
( Hình 4 trang 9 SGK ) để tìm vị trí dãy Hoàng giữa sông Hồng và sông Đà.
Liên Sơn.
- GV yêu cầu HS làm việc theo nhóm với bản - Dãy núi Hoàng Liên Sơn cao
đồ đồ tự nhiên Việt Nam để nhận xét về chiều dài, sộ, có đỉnh Phan-xi-păng là
Độ cao của dãy núi, tìm vị trí và nêu tên đỉnh núi
- GV yêu cầu HS quan sát tranh ảnh ( cả lớp, - Hoàng Liên Sơn là một dãy
theo nhóm, cá nhân tùy thuộc vào số lượng tranh núi có:
ảnh ) để nêu đặc điểm của đỉnh, sườn, thung + Đỉnh núi nhọn như răng cưa
lũng. + Sườn rất dốc
* Từ kết quả tìm tòi trên, HS có thể nêu khái niệm về dãy núi Hoàng Liên Sơn
như sau: dãy núi Hoàng Liên Sơn là dãy núi nằm giữa sông Hồng và sông Đà; cao, đồ
sộ, có nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng hẹp và sâu. Ở đây có đỉnh Phan-xi-păng
cao nhất nước ta ( 3143 m ).
Theo định hướng đổi mới PP dạy học, bản đồ và bảng số liệu được sử dụng như
là một nguồn cung cấp kiến thức giúp HS tự tìm tòi, phát hiện những kiến thức và
hình thành, rèn luyện kĩ năng bộ môn chứ không để chỉ minh họa cho lời giảng của
GV. Như vậy bản đồ, bảng số liệu là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực ( đến mức
tối đa ) khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV.
3. Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ bản đồ ( lược đồ )
3.1. – Bản đồ địa lí là hình vẽ thu nhỏ bề mặt Trái đất hoặc một bộ phận của bề
mặt Trái đất trên mặt phẳng dựa trên những phương pháp toán học, phương pháp biểu
hiện để thể hiện các thông tin về địa lí.
- Lược đồ là những bản đồ, nhưng thiếu yếu tổ toán học ( tỉ lệ bản đồ, hệ thống
kinh vĩ tuyến…) nên không sử dụng để đo, tính khoảng cách mà chỉ dùng để nhận biết
vị trí tương đối của một số đối tượng địa lí với một vài đặc điểm của chúng.
3.2. một số điều kiện để hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ bản đồ(lược đồ ).
+ Xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm qua lược đồ sao cho phù
hợp để học sinh có thể sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học, tự phát hiện ra kiến thức
mới.
+ Soạn một hệ thống câu hỏi dựa trên lược đồ trong SGK và trình độ HS để dẫn
dắt HS tự khám phá kiến thức. Các câu hỏi nên thể hiện dưới nhiều hình thức: tự luận,
trắc nghiệm ( câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn, câu điền … ).
+ HS phải được trang bị một số kiến thức tối thiểu, cần thiết để biết cách làm
việc với bản đồ như: xác định phương hướng trên bản đồ, nắm được kí hiệu trong
bảng chú giải và có biểu tượng về những sự vật và đối tượng địa lý trên bản đồ, nghĩa
là đọc và hiểu được các kí hiệu trên bản đồ…
3.3. GV hướng dẫn học sinh để các em thực hiện các bước sau đối với bản đồ
( lược đồ )
Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bản đồ.
Bước 2: Xem bảng chú giải để có biểu tượng địa lý cần tìm trên bản đồ.
Bước 3: Tìm vị trí địa lý của đối tượng trên bản đồ dựa vào lí hiệu.
Bước 4: Quan sát đối tượng trên bản đồ, nhận xét và nêu đặc điểm đơn giản của
đối tượng.
Bước 5: Xác lập mối liên hệ địa lý đơn giản giữa các yếu tố và các thành phần
như địa hình và khí hậu, địa hình, khí hậu, sông ngòi; thiên nhiên và hoạt động sản
xuất của con người … trên cơ sở HS biết kết hợp những kiến thức bản đồ và kiến
thức địa lý để so sánh và phân tích…
Những kiến thức trong bài HS cần khai thác qua bản đồ:
+ Nhận biết vị trí của Tây Nguyên.
Hệ thống câu hỏi để dẫn dắt HS làm việc với bản đồ.
Tây Nguyên nằm ở phía nào của dãy trường Sơn Nam ?
Câu 2: Điền tên các cao nguyên vào bảng sau theo hướng từ Bắc xuống Nam
4. Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ bảng số liệu
4.1. các số liệu được tập hợp thành bảng gọi là bảng số liệu.
4.2. Một số điều cần hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bảng số liệu
- Về phía GV cần:
+ Xác định kiến thức trong bài mà HS cần nắm qua bảng số liệu.
+ Soạn một hệ thống các câu hỏi dựa vào bảng số liệu và trình độ của HS đẻ
gợi ý cho HS tự khám phá ra kiến thức mới. Các câu hỏi được thể hiện dưới nhiều hình
thức: tự luận, trắc nghiệm.
4.3. GV hướng dẫn HS làm việc với bảng số liệu để các em thực hiện được các
bước sau:
Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bảng số liệu.
Bước 3: Xem tên cột, nắm được ý nghĩa đơn vị và thời điểm đi kèm với các số liệu ở
từng cột.
Bước 4: Đối chiếu các số liệu theo hàng dọc, hàng ngang của bảng số liệu để rút ra
nhận xét.
- Kiến thức trong bài HS cần nắm được qua bảng số liệu
+ Nhận biết được diện tích và dân số của Tp. Hồ Chí Minh
+ So sánh về diện tích và dân số của Tp. HCM với các thành phố khác như Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng
- Hệ thống câu hỏi gợi ý học sinh làm việc với bảng số liệu:
Câu 2: Các số liệu trong bảng được ghi vào thời gian nào ? và được biểu thị theo
đơn vị nào ?
Câu 3: Năm 2003, thành phố Hồ Chí Minh có diện tích và dân số là bao nhiêu ?
Câu 4: Diện tích và dân số thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ mấy trong trong các
thành phố có trong bảng ?
III. LẬP KẾ HOẠCH BÀI DẠY
* Khi lập kế hoạch bài học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh cần:
Xuất phát từ mong muốn giúp HS nắm được những kiến thức, kĩ năng, thái độ
cần thiết sau mỗi bài học, khi viết mục tiêu, GV phải sử dụng các động từ sao cho có
thể lượng hóa, kiểm tra, đánh giá được những kiến thức mà HS thu nhận được.
Dưới đây là một số động từ có thể tham khảo khi viết các loại mục tiêu:
- Về kiến thức: liệt kê, mô tả, kể tên, nêu đặc điểm, xác định,…
- Về kĩ năng: quan sát, so sánh, đối chiếu, phân tích, sắp xếp, phân loại, báo
cáo …
- Về thái độ: có ý thức, tôn trọng, bảo vệ …
2. Chuẩn bị đồ dùng dạy học
- Để đạt được mục tiêu của bài học , GV cần suy nghĩ xem phải sử dụng những
đồ dùng, thiết bị dạy học nào trong tiết học.
- GV cần xem lại các danh mục về đồ dùng, thiết bị dạy học của nhà trường
( hoặc của bản thân đã tích lũy được từ trước ) để xác định những đồ dùng dạy học
cần thiết cho bài học đã có sẵn hay phải tự làm, hoặc phải dành thời gian cho việc thu
thập chúng. GV cần xác định rõ trong số những đồ dùng dạy học đó, HS cần phải
chuẩn bị gì, GV sẽ phải chuẩn bị gì để liệt kê trong kế hoạch bài học và nhớ chuẩn bị
chúng.
GV cần thay đổi cách nghĩ trước đây là mình phải dạy như thế nào thành cách
nghĩ là HS phải làm gì để tiếp thu được kiến thức này ?
- Xuất phát từ phương pháp học của trò mà chọn phương pháp dạy của cô.
- Đặt câu hỏi để kiểm tra kiến thức, kỷ năng của tiết học trước.
4.3. Bài mới : ( GV chia cột dọc, hoạt động của GV, hoạt động của HS).
+ Qua tranh ảnh, bài hát, thơ, bản đồ để giới thiệu hoặc giới thiệu trực tiếp,
- Tổ chức các hoạt động ( tùy từng bài GV bố trí thời gian sao cho phù hợp).
- Các hoạt động diễn ra thường theo hoạt động cá nhân, theo cặp, theo nhóm 4, 6 HS
)
+ Làm việc với SGK: quan sát kết hình, kết chữ, đọc tranh, ảnh tư liệu để thảo luận,
TL câu hỏi sách giáo khoa,
+ Làm việc với bản đồ: quan sát bản đồ để xác định vị trí,
+ Làm việc với phiếu học tập: GV tự chọn hay sử dụng ở vở học tập Địa lý,
* Hoạt động trò chơi ( tùy vào bài GV lựa chọn, tổ chức, bố trí thời gian cho phù
hợp)
- Trò chơi: Làm hướng dẫn việc du lịch, chia đội cử ban giám khảo, tiết giới thiệu 1
vài em nói tốt, giới thiệu hay của các đội lên thực hiện. Ban giám khảo đánh giá nhận
xét,
- Trò chơi ô chữ kì diệu ( kèm theo các câu hỏi gợi ý về nội dung bài học)
- Trò chơi hái hoa dân chủ (tiết ôn tập) chia lớp thành nhiều đội, cử HS dẫn chương
trình, làm ban giám khảo. Đại diện nhóm bốc thăm và trả lời câu hỏi. Ban giám khảo
nhận xét, đánh giá xếp hạng.
- GV nêu câu hỏi để HS hệ thống nội dung chính của bài, thiết lập sơ đồ và
thuyết minh về nội dung ghi trong đó,
- Liên hệ……….
VI. THỰC HÀNH MỘT TIẾT DẠY ( CÓ BÀI SOẠN KÈM THEO )
ĐỊA LÝ-GAĐT
TIẾT 28 HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CỦA NGƯỜI DÂN Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
I.MỤC TIÊU:
- Nêu được một số hoạt động sản xuất chủ yếu của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ :
+ Trồng nhiều ngô, khoai, cây ăn quả, rau xứ lạnh, nuôi nhiều lợn và gia cầm .
- Nhận xét nhiệt độ của Hà Nội : tháng lạnh, tháng 1 ,2 ,3 nhiệt độ dưới 200C, từ đó
biết đồng bằng Bắc Bộ có mùa đông lạnh .
* HS khá , giỏi : + Giải thích vì sao lúa gạo được trồng nhiều ở đồng bằng Bắc Bộ
( vựa lúa lớn thứ hai của cả nước ) : đất phù sa màu mỡ, nguồn nước dồi dào, người
dân có kinh nghiệm trồng lúa .
+ Nêu thứ tự các công việc cần phải làm trong quá trình sản xuất lúa gạo .
* GDBVMT: Sự cải tạo môi trường của con người ở miền đồng bằng .
II CHUẨN BỊ:
Tranh ảnh về trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công, chợ phiên ở đồng bằng Bắc Bộ.
thái sinh thái của cây lúa nước, về một số nhiều nghiệm về trồng trọt lúa
công việc trong quá trình sản xuất ra lúa nước.
gạo, để HS hiểu rõ về nguyên nhân giúp
cho đồng bằng Bắc Bộ trồng được nhiều - Làm đất, gieo mạ, nhổ mạ, cấy
lúa gạo, sự công phu, vất vả của những lúa, chăm sóc lúa, gặt lúa, tuốt
người nông dân trong việc sản xuất ra lúa lúa, phơi lúa.
gạo.
Hoạt động 2: Hoạt động nhóm -HS theo dõi
-Mùa đông của đồng bằng Bắc Bộ dài
bao nhiêu tháng? Khi đó nhiệt độ có đặc
điểm gì?
2 phút
3 phút
-Lắng nghe
T-G HOẠT ĐỘNG CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS
1 phút
* Về chất lượng:
* Về chất lượng: Từ đầu năm học tháng 9 đến thời điểm viết chuyên đề tháng
12/2013.
Qua kiểm tra miêng, kiểm tra 5 phút từng tháng dạy phân môn Lịch sử & Địa
lí tôi đã thấy các em có sự tiến bộ rõ rệt; cụ thể điểm hàng tháng như sau :
9 0 2 16 4
10 2 5 12 3
11 3 6 11 2
12 6 9 7 0
Nay các em đã thấy được tầm quan trọng của môn học từ đó các em đã yêu
thích, hứng thú học Địa lí hơn.
* TÓM LẠI:
Qua chuyên đề trên chúng ta thấy việc sử dụng các phương pháp dạy học cho
HS đối với phân môn địa lí cũng quan trọng không kém các môn học khác. Giáo viên
phải hình thành cụ thể, rõ ràng, có lôgic, không được đưa các em vào thế áp đặt, phải
để các em làm chủ bài học, làm chủ kiến thức của mình, để từ đó các em chiếm lĩnh
kiến thức và vận dụng một cách hiệu quả nhất. Đây là cơ hội để tiếp tục phát triển
năng lực, kĩ năng quan sát, sử dụng, nhận xét, so sánh, phân tích, tiếp tục phát triển
khả năng diễn đạt và tập suy luận theo mục tiêu của môn địa lí. Từ đó bồi dưỡng cho
các em tình yêu thiên nhiên, đất nước, yêu con người và có ý thức bảo vệ môi trường.
Qua thực hiện giảng dạy theo chương trình sách giáo khoa, phân môn Địa lí thì hầu
hết GV đã tiếp cận được phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của HS, phối
hợp linh hoạt các phương pháp dạy học, tổ chức giờ học nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu
quả. HS đã lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, các kĩ năng được hình
thành. Chất lượng dạy học được khẳng định ngày càng vững chấc, ổn định.
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ giáo viên; chúng tôi đã rút ra được một số
a) Thuận lợi:
- HS tự chủ động chiếm lĩnh kiến thức, tự tìm tòi để phát hiện kiến thức mới.
Từ đó các em dễ dàng rút ra khái niệm, nội dung chính của bài học giúp các em hiểu,
nhớ và vận dụng tốt hơn.
b) Khó khăn:
- Có giáo viên thiếu sự đầu tư về thiết bị, đồ dùng trực quan để phục vụ cho
việc dạy học cho HS.
- Một số GV đưa kiến thức một cách áp đạt dẫn đến HS tiếp thu một cách thụ
động, học vẹt không nắm vững trọng tâm để chủ động kiến thức.
- Do 1 số HS không chủ động nên chưa nắm vững kiến thức, chưa làm chủ kiến
thức dẫn đến mau quên và khó vận dụng .
- Một số HS chưa biết cách chuẩn bị đồ dùng để phục vụ cho việc học tập của
mình.
* Từ những bài học kinh nghiệm trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp, giải pháp sau:
Một là : Thay đổi tư duy dạy học. GV phải biết dạy học tích cực nhằm tạo cho HS
tham gia hứng thú và trách nhiệm. Nó gắn cho người dạy vai trò xây dựng kế hoạch,
hướng dẫn hoạt động và hợp tác, kèm cặp và giúp đỡ giúp HS tích cực, tự giác, năng
động khám phá nguồn tri thức với sự định hướng, giúp đỡ của GV.
Hai là : Nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn. Khi sử dụng các PP, giáo
viên cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức, và phối hợp nhịp nhàng các phương
pháp dạy - học để không chỉ giúp học sinh nắm được trí thức vào việc giải quyết các
nhiệm vụ khác nhau mà qua đó cũng hình thành ở học sinh tính linh hoạt, tính mềm
dẻo của tư duy. GV cần sử dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh. Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS. Để thực hiện phương pháp trên yêu cầu giáo viên xác định
kiến thức trong bài mà HS cần nắm. Phải có sự chuẩn bị bài dạy tốt, chuẩn bị đồ dùng
dạy học, hệ thống câu hỏi gợi ý phù hợp với các trình độ của học sinh lớp mình. Các
câu hỏi được thể hiện dưới nhiều hình thức: Tự luận, trắc nghiệm. Các tiết học GV
lồng ghép với các hoạt động ngoài giờ lên lớp gắn với một vấn đề này hay vấn đề
khác của chương trình địa lí, như: Thi đố, trò chơi, dạ hội , việc sinh hoạt có kế
hoạch, có nội dung, có phương pháp thích hợp sẽ đem lại kết quả lớn trong học tập,
góp phần làm cho tiết học trở nên sinh động, kích thích trí tượng tượng, trí nhớ …
của học sinh như vậy sẽ thu được thành công.
Ba là: Nắm vững nội dung chương trình địa lí 4. GV tổ chức hướng dẫn HS
huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân để tự học sinh chiếm lĩnh tri
thức mới rồi vận dụng tri thức mới đó trong học hành. Vì vậy GV là người tổ chức,
hướng dẫn, hợp tác như vậy đòi hỏi GV phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ để có thể đáp ứng kịp thời với mục tiêu, yêu cầu hiện nay của dạy
học. Nhờ cách dạy học như vậy mà GV nắm được khả năng của từng HS , từ đó có
thể giúp HS phát triển năng lực, sở trường của cá nhân song việc trình bày và giảng
dạy của GV phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ tránh tham lam.
Lời nói hấp dẫn, sinh động với những ngôn ngữ giàu hình ảnh, gần gũi với HS.
Bốn là: Để HS tự hình thành các kiến thức mới; kết thúc tiết học GV phải
hướng dẫn HS chuẩn bị sẵn các đồ dùng học tập như tranh ảnh, lược đồ, … không
những HS mà GV cần phải chuẩn bị kỹ các phương tiện dạy học, cùng với HS sưu
tầm tư liệu, tranh ảnh có thể, …
Năm là : Giáo viên sắp xếp thời gian phù hợp, đặt tình huống hợp lí để các em
tự suy nghĩ và tự giải quyết – tránh sự khuôn mẫu, giống nhau giữa các bài tập.
Sáu là : việc bao quát lớp, quan tâm đều đến các đối tượng học sinh, không
thiên về những em khá, giỏi mà phải coi trọng nhất những em yếu, kém, trung bình
về học lực. Cần gọi các em thường xuyên nêu ý kiến, nhận xét, phát biểu ý kiến tạo
cho các em sự tự tin. Tránh sự nóng nảy, chê bai khi các em làm sai mà phải hướng
dẫn một cách có hệ thống từ dễ đến khó cho đến khi các em liên hệ, hiểu được để tạo
cho các em biết bận rộn suy nghĩ tư duy để được giáo viên gọi.
Bảy là : tạo được sự thi đua học tập ở các em, nhất là đối với các em yếu kém
có động viên, khích lệ kịp thời.
Tám là: Kiểm tra sự hiểu bài và vận dụng của học sinh không nên yêu cầu học
sinh học thuộc lòng. Nên đa dạng hóa kiểm tra như: nói, viết, vẽ,... Các đề kiểm tra
nên kết hợp các dạng bài tập trắc nghiệm để kiểm tra được toàn diện khách quan.
* Một số đề xuất:
- Đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao hay thấp một phần phụ
thuộc vào cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cùng với chương trình kiên cố hóa trường
lớp học, địa phương ưu tiên kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy
học như : Sách tham khảo cho GV, sách đọc liên quan đến địa lí cho HS, các loại
băng hình nhất là máy để có thể dạy giáo án điện tử, tư liệu về địa lí, bản đồ, nam
châm, tranh ảnh vv… để làm cho giờ học nhẹ nhàng hơn, HS lĩnh hội kiến thức tích
cực hơn trong giờ dạy- học, mở mang kiến thức về địa lí cho các em.
- GV cần nâng cao nhận thức về phân môn địa lí nhằm giúp các em nhận
thức được một cách đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của môn học, nhằm nâng cao
hiệu quả.
- Ngoài việc giảng dạy và tổ chức của giáo viên chuyên môn thì tổng phụ
trách Đội cần thường xuyên phối kết hợp với địa phương, các đoàn thể, những người
có kiến thức về địa lí tổ chức sinh hoạt các buổi ngoại khóa, những buổi nói chuyện
về kiến thức địa lí để HS hiểu thêm về địa lí Việt Nam cũng như kiến thức địa lí địa
phương.
- Mối quan hệ tương tác giữa GV & HS, môi trường và các điều kiện tối
thiểu cần có để đổi mới phương pháp dạy học địa lí vì vậy nhà trường, chính quyền
địa phương, gia đình cần tạo điều kiện môi trường đủ nhằm phát triển toàn diện cho
HS. Ngoài giờ học chính khóa nên tổ chức những buổi ngoại khóa, tham quan dã
ngoại mang tính thực tế hơn .
* Từ cơ sở lí thuyết đến thực tiễn giảng dạy lớp 4 môn Lịch sử và Địa lí chung, phân
môn Địa lí nói riêng. Chúng tôi đã thu được kết quả nhất định. Do điều kiện biên soạn
và thử nghiệm của giáo viên còn hạn hẹp chuyên đề khó tránh khỏi một vài hạn chế về
nội dung, hình thức trình bày và diễn đạt. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của lãnh
đạo nhà trường và các bạn đồng nghiệp để chuyên đề có tính khả thi và đạt hiệu quả
cao khi dạy phân môn Địa lí góp phần phát triển toàn diện cho học sinh.
Lê Thị Huyền
phân 13
2. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ: