Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI:
Trình bày nguyên nhân hình thành và những đặc điểm kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước. Ý nghĩa thực tiễn.

Giảng viên : PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn

Sinh viên : Lưu Nguyễn Minh Hiếu

Nguyễn Hoàng Diễm Quỳnh

Phạm Hương Thảo

Lớp : KNC05

Mã số sinh viên : 31221023224

Mã lớp học phần : 23C1POL51002408

TP Hồ Chí Minh, ngày 7 tháng 9 năm 2023


MỤC LỤC

1. LỜI CẢM ƠN...................................................................................................


2. LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................
3. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN.........................................................1
3.1 Khái niệm ............................................................................................1
3.2 Nguyên nhân hình thành......................................................................2
3.3 Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản......................3
3.4 Ý nghĩa lý luận – thực tiễn...................................................................4
4. ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC..........................................................................5
2.1 Khái niệm.............................................................................................5
2.2 Nguyên nhân hình thành......................................................................6
2.3 Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản.....................7
2.4 Ý nghĩa lý luận – thực tiễn..................................................................8
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................9
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh đã đưa môn học Kinh tế chính trị Mác – Lênin vào chương trình giảng
dạy.
Đặc biệt, nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến giảng viên bộ môn - PGS.TS
Nguyễn Minh Tuấn, người đã dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức quý báu cho nhóm
em trong suốt thời gian vừa qua. Trong quá trình học tập thầy đã giảng rất nhiều kiến
thức bổ ích, giúp chúng em hiểu thêm được về các mối quan hệ kinh tế để tìm ra các quy
luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt động kinh tế của con
người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội. Thầy
đã giúp chúng em tích lũy thêm nhiều kiến thức và có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiên hơn
trong cuộc sống. Nhờ những kiến thức thầy truyền tải, nhóm chúng em đã có nền tảng
về môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin để vận dụng vào bài tiểu luận này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến thức, trong
bài tiểu luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự
nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía thầy để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Lời cuối cùng, nhóm em xin kính chúc thầy nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc.
Nhóm em xin chân thành cảm ơn!
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường là sự tồn tại khách quan trong lịch sử, là sản phẩm của văn minh
nhân loại. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao
đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường
và quy luật cạnh tranh là một trong số đó. Khi đã tham gia vào thị trường, các chủ thể
sản xuất kinh doanh bên cạnh sự hợp tác, luôn phải chấp nhận cạnh tranh. Kinh tế thị
trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên thường xuyên, quyết
liệt hơn. Nền kinh tế thị trường cho phép sự cạnh tranh tự do, mà theo V.I.Lênin đã
khẳng định:“tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi
phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”. Do đó, tiếp theo giai đoạn
cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao hơn là giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

Ở Việt Nam, từ sau đại hội VI năm 1986 của Đảng, chúng ta đã thực hiện chính sách mở
cửa, mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin phát triển
như vũ bão, kinh tế công nghiệp đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng, chúng ta đã vận dụng rất linh hoạt, thành công những lí luận về chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần.

Để hiểu rõ hơn về Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền và Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền
Nhà Nước, nhóm em quyết định chọn đề tài: “Trình bày nguyên nhân hình thành và
những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước.
Ý nghĩa thực tiễn.” để làm đề tài nghiên cứu. Thông qua đó làm rõ được sự hình thành
của Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền và tầm quan trọng của Nhà nước trong việc điều
hành kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Bài tiểu luận đã hoàn thành, tuy nhiên do tầm hiểu biết còn hạn chế nên những tìm hiểu,
phân tích của chúng em không tránh khỏi có nhiều thiếu sót, chúng em rất mong nhận
được sự bổ sung, đóng góp ý kiến của thầy để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
1. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN.
1.1. Khái niệm.
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá, có khả năng định ra giá cả độc quyền,
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

1.2. Nguyên nhân hình thành.


Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền do một số nguyên nhân sau:

 Một là do sự phát triển của lực lượng sản xuất

Tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn
lớn để ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh mà từng doanh
nghiệp khó đáp ứng được. Vì vậy, các doanh nghiệp phải đẩy nhanh quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất, hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn.

Cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò
luyện kim mới, động cơ diezen, máy phát điện, xe hơi, đường sắt,... là những ngành
đòi hỏi vốn đầu tư lớn đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

Cùng với sự tác động của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị thặng dư,
quy luật tích lũy, tích tụ, tập trung sản xuất… làm biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
tập trung sản xuất quy mô lớn.

 Hai là do cạnh tranh thúc đẩy quá trình thôn tính, sáp nhập và tập trung
tư bản dẫn đến hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn.

Cạnh tranh làm suy yếu, phá sản các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn các doanh
nghiệp lớn tổn tại được cũng đã bị suy yếu. Để tiếp tục phát triển, phải liên kết với
nhau, sáp nhập thành các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn.

Lenin khẳng định: "... tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung
sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền.”

 Ba là do tác động của khủng hoảng kinh tế (1873) đã làm phá sản hàng
loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Chỉ các doanh nghiệp lớn mới có khả năng tồn tại qua khủng hoảng dẫn tới hình
thành các doanh nghiệp độc quyền

Sự phát triển của hệ thống tín dụng đã trở thành đòn bẩy mạnh mẽ cho quá trình
tập trung sản xuất.
1.3. Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản.

\\\\ 1
1.3.1. Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn.
Tích tụ và tập trung sản xuất cao đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức
độc quyền. Bên cạnh thôn tính, sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp lớn
còn thỏa hiệp với nhau để nắm lấy địa vị độc quyền do các doanh nghiệp có quy mô
lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau. Các
doanh nghiệp lớn này liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh, kiểm soát thị
trường và thu lợi nhuận cao.
Lúc đầu các tổ chức độc quyền hình thành theo phương thức liên kết ngang
(liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành), nhưng về sau theo mối liên hệ dây
chuyển, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc mở rộng ra nhiều ngành
khác nhau (liên kết giữa các doanh nghiệp có mối liên hệ về kỹ thuật, quy trình sản
xuất), liên kết tài chính (liên kết giữa các doanh nghiệp về vốn đầu tư).
Những hình thức độc quyền cơ bản là: Cartel, Syndicate, Trust, Consortium,
Concern, Conglomerate.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa các nhà tư bản tập trung vào trong tay
phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu
được lợi nhuận độc quyền cao.
Lợi nhuận độc quyền là lợi nhuận thu được cao hơn lợi nhuận bình quân, do sự
thống trị của các tổ chức độc quyền đem lại.
Giá cả độc quyền là giá cả do các tổ chức độc quyền áp đặt trong mua và bán
hàng hóa.

Giá cả độc quyền = Chi phí sản xuất + lợi nhuận độc quyền.

Tổ chức độc quyền áp đặt giá cả độc quyền cao (khi bán) và giá cả độc quyền
thấp (khi mua).

1.3.2. Sức mạnh của các tổ chức đôc quyền do tư bản tài chính và hệ thống
tài phiệt chi phối.
Quá trình xuất hiện của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng cũng như trong
công nghiệp.
Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và ngân hàng có quan hệ chặt chẽ
với nhau làm nảy sinh một loại tư bản mới - tư bản tài chính.
Quá trình cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền dẫn đến việc hình thành nhu
cầu xâm nhập lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền trong lĩnh vực công nghiệp với
các tổ chức độc quyền trong lĩnh vực ngân hàng nhằm gia tăng quyền lực của các tổ
chức độc quyền. Quá trình này dẫn đến sự hình thành một loại tư bản mới - tư bản tài
chính.

\\\\ 2
Tư bản tài chính là tư bản hợp nhất giữa tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản
độc quyền công nghiệp.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến hình thành một nhóm nhỏ những nhà
tư bản kếch xù gọi là tài phiệt (hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính).
Các tài phiệt thông qua “chế độ tham dự" thiết lập sự thống trị đối với các
ngành kinh tế trọng yếu và qua đó chi phối toàn bộ đời sống kinh tế. Liên minh của
các trùm tài chính còn chi phối cả đời sống chính trị thông qua việc tác động đến
chính sách đối nội và đối ngoại, luật pháp của nhà nước.

1.3.3. Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến.


Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích thu được giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các
nước nhập khẩu tư bản. Hình thức này trở thành tất yếu từ cuối thế kỉ XIX do tình
trạng "thừa tư bản” ở các nước tư bản phát triển.
Xuất khẩu tư bản có hai hình thức chính là xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất
khẩu tư bản gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản thông qua xây dựng mới hoặc
mua lại những xí nghiệp đã hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh.
Đầu tư gián tiếp là hình thức thông qua việc cho vay để thu lợi tức mua chứng
khoán mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư
Xuất khẩu tư bản là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài
chính ra toàn thế giới.

1.3.4. Cạnh tranh để phân chia lại thị trường thế giới giữa các tập đoàn tư
bản độc quyền.
Sự phân chia thế giới về kinh tế là sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ
chức độc quyền (thị trường tiêu thụ, vùng nguyên liệu, lĩnh vực đầu tư có lợi,...). Quá
trình này là tất yếu khi tích tụ và tập trung tư bản, xuất khẩu tư bản phát triển đến một
mức độ nhất định.
Sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền với sự hậu thuẫn của các
nhà nước trên thế giới đã thúc đẩy sự liên minh hình thành các tổ chức độc quyền
quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia.

1.3.5. Lôi kéo, thúc đẩy chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ
ảnh hướng để bảo vệ lợi ích của độc quyền.
Để hỗ trợ cho các tổ chức độc quyền chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, nguồn tài
nguyên, nguồn nhân công rẻ mạt trên thế giới, nhà nước các nước tư bản đã can thiệp
bằng con đường chiếm thuộc địa.
Thông qua đó, thị trường thế giới được phân chia bằng con đường bạo lực,
chiến tranh để tranh giành thuộc địa giữa các nước tư bản.

\\\\ 3
Sự phân chia thuộc địa không đồng đều giữa các cường quốc tư bản cùng với sự
thay đổi về sức mạnh kinh tế của các nước tư bản đầu thế kỷ XX là nguyên nhân sâu
xa của hai cuộc Thế chiến I, II nhằm phân chia lại thuộc địa giữa các nước tư bản.

1.4. Ý nghĩa lý luận – thực tiễn


1.4.1. Ý nghĩa lý luận
Sự phát triển cạnh tranh và của lực lượng sản xuất tất yếu sẽ xuất hiện độc
quyền. Độc quyền xuất hiện gắn với sự thay đổi trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa: sự phát triển của doanh nghiệp quy mô lớn thay cho quy mô doanh nghiệp từ
vừa và nhỏ, sở hữu tư bản cá thể chuyển sang sở hữu tư bản tập thể, tính chất thị
trường chuyển từ cạnh tranh tự do sang độc quyền, tốc độ và quy mô của quá trình
toàn cầu hóa được đẩy mạnh.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa tư bản độc quyền của Lênin sẽ giúp cho việc đề ra
chính sách xử lý mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường. Những vấn đề lợi nhuận độc quyền cao và giá cả độc quyền có ý nghĩa thực
tiễn đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.4.3. Ví dụ
Sự tăng trưởng và phát triển của các công ty công nghệ đa quốc gia như
Google, Facebook và Amazon.
Các công ty này đã tận dụng lợi thế của chủ nghĩa tư bản độc quyền để tạo ra
các dịch vụ và sản phẩm độc đáo phục vụ hàng tỉ người dùng trên toàn cầu. Nhờ vào
quyền sở hữu và quản lý tài sản trí tuệ, như các thuật toán, dữ liệu và các công nghệ
hàng đầu, các công ty này đã xây dựng những hệ sinh thái kinh doanh vững mạnh,
đồng thời tạo ra hàng tỷ đô la của doanh thu và giá trị vốn hóa.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản độc quyền cũng mang đến một số vấn đề và tranh
cãi.

Quyền kiểm soát thị trường và sự thiếu cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ.
Các công ty công nghệ đa quốc gia này thường có quyền kiểm soát lớn trên thị
trường, gây ra lo ngại về việc kiềm chế sự cạnh tranh và độc quyền quá mức trong
các ngành công nghiệp.
=> Ví dụ trên giúp chúng ta nhìn thấy một số ưu điểm và nhược điểm của chủ
nghĩa tư bản độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh. Việc hiểu và cân nhắc những ảnh
hưởng này có thể giúp định hình chính sách kinh tế và đảm bảo một sự cân bằng hợp
lý giữa quyền sở hữu tư nhân và lợi ích chung của xã hội.

2. ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC


Độc quyền là hiện tượng chỉ có duy nhất một doanh nghiệp hoặc một nhóm
doanh nghiệp chiếm vị trí độc tôn trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ nhất định

\\\\ 4
nào đó mà họ có thể toàn quyền kiểm soát giá cả sản phẩm, dịch vụ nhằm tạo ra lợi
nhuận tối đa và ngăn các đối thủ khác xâm nhập thị trường.
Nhưng vì nhiều nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp đòi hỏi một sự điều
tiết từ trung tâm khiến cho nhà nước phải tham gia vào thị trường độc quyền và từ đó
chúng ta chúng ta xuất hiện một khái niệm mới - độc quyền nhà nước

2.1. Khái niệm


Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước nắm giữ vị thế độc
quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của chế độ chính
trị - xã hội ứng với điều kiện phát triển nhất định trong các thời kỳ lịch sử.
Độc quyền nhà nước mang tính phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Để duy trì
sức mạnh của mình, các quốc gia, ở các mức độ khác nhau luôn nắm giữ những vị
thế độc quyền theo phạm vi nhất định. Tùy theo trình độ phát triển có thể xuất hiện ở
những mức độ khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, độc quyền nhà nước được hình
thành trên cơ sở cộng sinh giữa độc quyền tư nhân, độc quyền nhóm và sức mạnh
kinh tế của nhà nước, sự chi phối của tầng lớp tư bản độc quyền (đặc biệt là của tư
bản tài chính) đối với bộ máy nhà nước.

2.2. Nguyên nhân hình thành


2.2.1. Tích tụ và tập trung vốn lớn
Tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao, sinh
ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi phải có sự điều tiết về sản xuất và phân phối từ
một trung tâm.
Sự phát triển của trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu
khách quan là nhà nước với tư cách đại biểu cho toàn bộ xã hội phải quản lý nền kinh
tế. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sản xuất càng phát triển thì lực
lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng cao, những quan hệ sản xuất lại dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, do đó tất yếu đòi hỏi phải có
một hình thức mới của quan hệ sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất có thể
tiếp tục phát triển. Hình thức mới của quan hệ sản xuất đó chính là độc quyền nhà
nước.

2.2.2. Sự phát triển của phân công lao động


Sự phát triển của phân công lao động xã hội lần xuất hiện một số ngành mới có
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng các tổ chức độc quyền tư
nhân không thể hoặc không muốn đầu tư, do vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít
lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận
tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản... Vì vậy, nhà nước phải đứng ra đảm nhận

\\\\ 5
phát triển các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh
các ngành khác có lợi hơn.
2.2.3. Sự thống trị của độc quyền tư nhân
Sự thống trị của độc quyền tư nhân đã làm gia tăng sự phân hóa giàu – nghèo
cùng với hậu quả của hai cuộc thế chiến đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động.Trong điều kiện như vậy đòi hỏi nhà
nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những mâu thuẫn đó, như: các
chính sách trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã
hội.... để duy trì sự ổn định chế độ chính trị và trật tự xã hội.
2.2.4. Xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa kinh tế
Sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào
quốc gia, dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới cũng thúc
đẩy nhà nước tư sản tham gia vào điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại cũng đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế.

2.3. Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản
Sự thống trị và bành trướng sức mạnh của độc quyền tư nhân trong nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, một mặt thúc đẩy nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển,
mặt khác, kìm hãm và đe dọa sự ổn định của chế độ chính trị. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất, trong tình hình đó, thúc đẩy trình độ độc quyền lên trạng thái cao hơn
- độc quyền nhà nước. Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản có các đặc trưng
kinh tế chủ yếu sau:
2.3.1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền nhà nước
V.1. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với
công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng và công
nghiệp với chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay
là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng". Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện
thông qua các đảng phái. Chính các đảng phái này đã tạo cho tư bản độc quyền một
cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ
máy nhà nước.
Đứng đằng sau các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu,
đó chính là các hội chủ xí nghiệp độc quyền, như: Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ,
Tổng Liên đoàn công nghiệp Italia. Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản,..
Chính các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là
chỗ dựa cho nhà nước tư sản. Các hội chủ xí nghiệp hoạt động thông qua các đảng
phái của giai cấp tư sản, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự
và đường lối chính trị, kinh tế của các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà

\\\\ 6
nước ở các cấp. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là
“những chính phủ đằng sau chính phủ”, “một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực”
của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc
quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các
quan chức và nhân viên chính phủ được "cài cắm" vào ban quản trị của các tổ chức
độc quyền, nắm giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự hoặc trở thành
những người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi
là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc
quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

2.3.2. Sự hình thành phát triển sở hữu nhà nước


Sở hữu trong độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản, của tư
bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm
duy trì sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở
hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và
sở hữu độc quyền tư nhân. Hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần
hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và
bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà còn gồm cả những doanh
nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội.... Sở hữu nhà nước được
hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng
vốn của ngân sách; quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà
nước mua cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân; mở rộng doanh nghiệp nhà nước
bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân...
Sở hữu nhà nước thực hiện được các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự
phát triển của độc quyền.
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc di chuyển tư bản của các tổ chức
độc quyền đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau, chuyển từ những
ngành ít lãi sang những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn một cách dễ dàng, thuận
lợi.
Thứ ba, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế của nhà nước theo những chương
trình nhất định.
Cùng với sự phát triển của sở hữu nhà nước, thị trường độc quyền cũng hình
thành và phát triển. Sự hình thành thị trường nhà nước thể hiện ở việc nhà nước chủ
động mở rộng thị trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm của các doanh
nghiệp độc quyền thông qua những hợp đồng được ký kết. Việc ký kết các hợp đồng
giữa nhà nước và các tổ chức độc quyền tư nhân đã giúp các tổ chức độc quyền tư
nhân khắc phục được một phần khó khăn trong thời kỳ khủng hoảng thừa, góp phần
bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được diễn ra bình thường. Các hợp đồng ký kết

\\\\ 7
với nhà nước giúp cho các tổ chức độc quyền tư nhân vừa tiêu thụ được hàng hóa vừa
đảm bảo lợi nhuận ổn định, vừa khắc phục được tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên
liệu chiến lược. Sự tiêu thụ của nhà nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng của
nhà nước với độc quyền tư nhân, quan trọng hơn cả là các đơn đặt hàng quân sự do
ngân sách chi mỗi ngày một tăng. Các hợp đồng này đảm bảo cho các độc quyền tư
nhân kiếm được một khối lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của
việc sản xuất các loại hàng hóa đó cao hơn hẳn tỷ suất lợi nhuận thông thường
Từ đó ta có thể thấy rằng, nhà nước thường đầu tư và nhận lĩnh vực quan trọng
của nền kinh tế mà tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư. Nhà nước cũng có
thể dùng ngân sách đầu tư nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thoát khỏi phá sản trong các
cuộc khủng hoảng kinh tế nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua cuộc khủng hoảng.

2.3.3. Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền
kinh tế
Để điều tiết nền kinh tế nhà nước tư sản sử dụng nhiều công cụ, trong đó có
công cụ độc quyền nhà nước. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một
tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản
lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân và quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà
nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những
lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi
và trừng phạt: bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế
hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm
xã hội…; và bằng cả các giải pháp ngắn hạn.
Nhà nước tư sản điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế thông qua
các công cụ chủ yếu như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp
nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành chính,
pháp lý.
Bộ máy điều tiết kinh tế gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt
nhân sự có sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư bản độc quyền lớn và các
quan chức nhà nước. Bên cạnh bộ máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ
chức dưới những hình thức khác nhau, thực hiện “tư vấn” nhằm “lái” đường lối phát
triển kinh tế theo mục tiêu riêng của các tổ chức độc quyền.
Cơ chế điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế: thị
trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

2.4. Ý nghĩa lý luận – thực tiễn


2.4.1. Ý nghĩa lý luận

\\\\ 8
Hiểu được chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự điều chỉnh về quan hệ
sản xuất của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện những mâu thuẫn ngày càng trở nên
gay gắt. Về mặt bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư
bản, vẫn chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư.
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là một tất yếu, cho phép
hạn chế bớt tính tự phát của thị trường, giảm bớt những tổn thất do nền kinh tế thị
trường tự do gây ra, tạo môi trường phát triển thuận lợi hơn cho chủ nghĩa tư bản.
Cơ chế kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được điều tiết bởi các
yếu tố: cơ chế thị trường - tức sự điều tiết của các quy luật của thị trường, các tổ chức
độc quyền và nhà nước tư sản. Trong đó nhà nước không thay thế thị trường mà giữ
vai trò hỗ trợ cho sự vận hành của thị trường.
2.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việt Nam lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việt Nam phải kiên định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam để đảm bảo mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Song song đó phải tôn trọng sự điều tiết của cơ chế thị trường.
2.4.3. Ví dụ
Quản lý và khai thác tài nguyên tự nhiên quan trọng của một quốc gia (dầu
mỏ, khoáng sản)
Khi nhà nước giữ độc quyền quản lý và khai thác tài nguyên này, nó có thể đảm
bảo rằng lợi ích chung của quốc gia được bảo vệ và tận dụng một cách tối đa. Nhà
nước có thể áp dụng các chính sách và quy định để đảm bảo rằng các công ty tư nhân
và đối tác nước ngoài tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và góp phần vào phát triển
bền vững.
Nhà nước có thể áp dụng một chính sách quản lý trong việc phân phối quyền
khai thác tài nguyên giữa các công ty, đảm bảo sự công bằng và sự cân nhắc về lợi
ích chung. Điều này giúp ngăn chặn sự khai thác quá mức và đảm bảo tài nguyên tự
nhiên được sử dụng bền vững.
Ngoài ra, độc quyền nhà nước cũng có thể được sử dụng để đảm bảo một nguồn
thuận lợi và ổn định nguồn cung của tài nguyên cho quốc gia. Nhà nước có thể tham
gia đàm phán và đặt ra các điều kiện về giá cả, thuế và khích lệ đầu tư nước ngoài để
tối đa hóa lợi ích gia tăng cho quốc gia.
Tuy nhiên, độc quyền nhà nước cũng cần được kiểm soát và giám sát để đảm
bảo rằng nó không dẫn đến sự lạm quyền hoặc tham nhũng. Điều quan trọng là cần
có sự cân nhắc và kiểm soát tốt để đảm bảo rằng lợi ích chung của quốc gia được
đảm bảo và phát triển bền vững.

\\\\ 9
3. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Trường
Đại học Kinh tế TP. HCM, Khoa Lý luận chính trị – Lưu hành nội bộ, năm 2019.
2. Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Kinh tế chính trị Mác - Lênin; Khoa
Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế TP HCM; năm 2020
3. : Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc đại học – không
chuyên lý luận chính trị) Bộ Giáo dục và Đào tạo

\\\\ 10

You might also like