Professional Documents
Culture Documents
ktế ctrị
ktế ctrị
ĐỀ TÀI:
Trình bày nguyên nhân hình thành và những đặc điểm kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước. Ý nghĩa thực tiễn.
Lớp : KNC05
Ở Việt Nam, từ sau đại hội VI năm 1986 của Đảng, chúng ta đã thực hiện chính sách mở
cửa, mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin phát triển
như vũ bão, kinh tế công nghiệp đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng, chúng ta đã vận dụng rất linh hoạt, thành công những lí luận về chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần.
Để hiểu rõ hơn về Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền và Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền
Nhà Nước, nhóm em quyết định chọn đề tài: “Trình bày nguyên nhân hình thành và
những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước.
Ý nghĩa thực tiễn.” để làm đề tài nghiên cứu. Thông qua đó làm rõ được sự hình thành
của Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền và tầm quan trọng của Nhà nước trong việc điều
hành kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Bài tiểu luận đã hoàn thành, tuy nhiên do tầm hiểu biết còn hạn chế nên những tìm hiểu,
phân tích của chúng em không tránh khỏi có nhiều thiếu sót, chúng em rất mong nhận
được sự bổ sung, đóng góp ý kiến của thầy để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
1. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN.
1.1. Khái niệm.
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá, có khả năng định ra giá cả độc quyền,
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn
lớn để ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh mà từng doanh
nghiệp khó đáp ứng được. Vì vậy, các doanh nghiệp phải đẩy nhanh quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất, hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn.
Cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò
luyện kim mới, động cơ diezen, máy phát điện, xe hơi, đường sắt,... là những ngành
đòi hỏi vốn đầu tư lớn đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Cùng với sự tác động của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị thặng dư,
quy luật tích lũy, tích tụ, tập trung sản xuất… làm biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
tập trung sản xuất quy mô lớn.
Hai là do cạnh tranh thúc đẩy quá trình thôn tính, sáp nhập và tập trung
tư bản dẫn đến hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Cạnh tranh làm suy yếu, phá sản các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn các doanh
nghiệp lớn tổn tại được cũng đã bị suy yếu. Để tiếp tục phát triển, phải liên kết với
nhau, sáp nhập thành các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn.
Lenin khẳng định: "... tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung
sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền.”
Ba là do tác động của khủng hoảng kinh tế (1873) đã làm phá sản hàng
loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chỉ các doanh nghiệp lớn mới có khả năng tồn tại qua khủng hoảng dẫn tới hình
thành các doanh nghiệp độc quyền
Sự phát triển của hệ thống tín dụng đã trở thành đòn bẩy mạnh mẽ cho quá trình
tập trung sản xuất.
1.3. Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản.
\\\\ 1
1.3.1. Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn.
Tích tụ và tập trung sản xuất cao đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức
độc quyền. Bên cạnh thôn tính, sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp lớn
còn thỏa hiệp với nhau để nắm lấy địa vị độc quyền do các doanh nghiệp có quy mô
lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau. Các
doanh nghiệp lớn này liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh, kiểm soát thị
trường và thu lợi nhuận cao.
Lúc đầu các tổ chức độc quyền hình thành theo phương thức liên kết ngang
(liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành), nhưng về sau theo mối liên hệ dây
chuyển, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc mở rộng ra nhiều ngành
khác nhau (liên kết giữa các doanh nghiệp có mối liên hệ về kỹ thuật, quy trình sản
xuất), liên kết tài chính (liên kết giữa các doanh nghiệp về vốn đầu tư).
Những hình thức độc quyền cơ bản là: Cartel, Syndicate, Trust, Consortium,
Concern, Conglomerate.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa các nhà tư bản tập trung vào trong tay
phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu
được lợi nhuận độc quyền cao.
Lợi nhuận độc quyền là lợi nhuận thu được cao hơn lợi nhuận bình quân, do sự
thống trị của các tổ chức độc quyền đem lại.
Giá cả độc quyền là giá cả do các tổ chức độc quyền áp đặt trong mua và bán
hàng hóa.
Giá cả độc quyền = Chi phí sản xuất + lợi nhuận độc quyền.
Tổ chức độc quyền áp đặt giá cả độc quyền cao (khi bán) và giá cả độc quyền
thấp (khi mua).
1.3.2. Sức mạnh của các tổ chức đôc quyền do tư bản tài chính và hệ thống
tài phiệt chi phối.
Quá trình xuất hiện của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng cũng như trong
công nghiệp.
Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và ngân hàng có quan hệ chặt chẽ
với nhau làm nảy sinh một loại tư bản mới - tư bản tài chính.
Quá trình cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền dẫn đến việc hình thành nhu
cầu xâm nhập lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền trong lĩnh vực công nghiệp với
các tổ chức độc quyền trong lĩnh vực ngân hàng nhằm gia tăng quyền lực của các tổ
chức độc quyền. Quá trình này dẫn đến sự hình thành một loại tư bản mới - tư bản tài
chính.
\\\\ 2
Tư bản tài chính là tư bản hợp nhất giữa tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản
độc quyền công nghiệp.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến hình thành một nhóm nhỏ những nhà
tư bản kếch xù gọi là tài phiệt (hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính).
Các tài phiệt thông qua “chế độ tham dự" thiết lập sự thống trị đối với các
ngành kinh tế trọng yếu và qua đó chi phối toàn bộ đời sống kinh tế. Liên minh của
các trùm tài chính còn chi phối cả đời sống chính trị thông qua việc tác động đến
chính sách đối nội và đối ngoại, luật pháp của nhà nước.
1.3.4. Cạnh tranh để phân chia lại thị trường thế giới giữa các tập đoàn tư
bản độc quyền.
Sự phân chia thế giới về kinh tế là sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ
chức độc quyền (thị trường tiêu thụ, vùng nguyên liệu, lĩnh vực đầu tư có lợi,...). Quá
trình này là tất yếu khi tích tụ và tập trung tư bản, xuất khẩu tư bản phát triển đến một
mức độ nhất định.
Sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền với sự hậu thuẫn của các
nhà nước trên thế giới đã thúc đẩy sự liên minh hình thành các tổ chức độc quyền
quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia.
1.3.5. Lôi kéo, thúc đẩy chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ
ảnh hướng để bảo vệ lợi ích của độc quyền.
Để hỗ trợ cho các tổ chức độc quyền chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, nguồn tài
nguyên, nguồn nhân công rẻ mạt trên thế giới, nhà nước các nước tư bản đã can thiệp
bằng con đường chiếm thuộc địa.
Thông qua đó, thị trường thế giới được phân chia bằng con đường bạo lực,
chiến tranh để tranh giành thuộc địa giữa các nước tư bản.
\\\\ 3
Sự phân chia thuộc địa không đồng đều giữa các cường quốc tư bản cùng với sự
thay đổi về sức mạnh kinh tế của các nước tư bản đầu thế kỷ XX là nguyên nhân sâu
xa của hai cuộc Thế chiến I, II nhằm phân chia lại thuộc địa giữa các nước tư bản.
Quyền kiểm soát thị trường và sự thiếu cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ.
Các công ty công nghệ đa quốc gia này thường có quyền kiểm soát lớn trên thị
trường, gây ra lo ngại về việc kiềm chế sự cạnh tranh và độc quyền quá mức trong
các ngành công nghiệp.
=> Ví dụ trên giúp chúng ta nhìn thấy một số ưu điểm và nhược điểm của chủ
nghĩa tư bản độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh. Việc hiểu và cân nhắc những ảnh
hưởng này có thể giúp định hình chính sách kinh tế và đảm bảo một sự cân bằng hợp
lý giữa quyền sở hữu tư nhân và lợi ích chung của xã hội.
\\\\ 4
nào đó mà họ có thể toàn quyền kiểm soát giá cả sản phẩm, dịch vụ nhằm tạo ra lợi
nhuận tối đa và ngăn các đối thủ khác xâm nhập thị trường.
Nhưng vì nhiều nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp đòi hỏi một sự điều
tiết từ trung tâm khiến cho nhà nước phải tham gia vào thị trường độc quyền và từ đó
chúng ta chúng ta xuất hiện một khái niệm mới - độc quyền nhà nước
\\\\ 5
phát triển các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh
các ngành khác có lợi hơn.
2.2.3. Sự thống trị của độc quyền tư nhân
Sự thống trị của độc quyền tư nhân đã làm gia tăng sự phân hóa giàu – nghèo
cùng với hậu quả của hai cuộc thế chiến đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động.Trong điều kiện như vậy đòi hỏi nhà
nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những mâu thuẫn đó, như: các
chính sách trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã
hội.... để duy trì sự ổn định chế độ chính trị và trật tự xã hội.
2.2.4. Xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa kinh tế
Sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào
quốc gia, dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới cũng thúc
đẩy nhà nước tư sản tham gia vào điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại cũng đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế.
2.3. Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản
Sự thống trị và bành trướng sức mạnh của độc quyền tư nhân trong nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, một mặt thúc đẩy nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển,
mặt khác, kìm hãm và đe dọa sự ổn định của chế độ chính trị. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất, trong tình hình đó, thúc đẩy trình độ độc quyền lên trạng thái cao hơn
- độc quyền nhà nước. Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản có các đặc trưng
kinh tế chủ yếu sau:
2.3.1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền nhà nước
V.1. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với
công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng và công
nghiệp với chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay
là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng". Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện
thông qua các đảng phái. Chính các đảng phái này đã tạo cho tư bản độc quyền một
cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ
máy nhà nước.
Đứng đằng sau các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu,
đó chính là các hội chủ xí nghiệp độc quyền, như: Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ,
Tổng Liên đoàn công nghiệp Italia. Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản,..
Chính các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là
chỗ dựa cho nhà nước tư sản. Các hội chủ xí nghiệp hoạt động thông qua các đảng
phái của giai cấp tư sản, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự
và đường lối chính trị, kinh tế của các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà
\\\\ 6
nước ở các cấp. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là
“những chính phủ đằng sau chính phủ”, “một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực”
của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc
quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các
quan chức và nhân viên chính phủ được "cài cắm" vào ban quản trị của các tổ chức
độc quyền, nắm giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự hoặc trở thành
những người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi
là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc
quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
\\\\ 7
với nhà nước giúp cho các tổ chức độc quyền tư nhân vừa tiêu thụ được hàng hóa vừa
đảm bảo lợi nhuận ổn định, vừa khắc phục được tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên
liệu chiến lược. Sự tiêu thụ của nhà nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng của
nhà nước với độc quyền tư nhân, quan trọng hơn cả là các đơn đặt hàng quân sự do
ngân sách chi mỗi ngày một tăng. Các hợp đồng này đảm bảo cho các độc quyền tư
nhân kiếm được một khối lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của
việc sản xuất các loại hàng hóa đó cao hơn hẳn tỷ suất lợi nhuận thông thường
Từ đó ta có thể thấy rằng, nhà nước thường đầu tư và nhận lĩnh vực quan trọng
của nền kinh tế mà tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư. Nhà nước cũng có
thể dùng ngân sách đầu tư nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thoát khỏi phá sản trong các
cuộc khủng hoảng kinh tế nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua cuộc khủng hoảng.
2.3.3. Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền
kinh tế
Để điều tiết nền kinh tế nhà nước tư sản sử dụng nhiều công cụ, trong đó có
công cụ độc quyền nhà nước. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một
tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản
lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân và quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà
nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những
lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi
và trừng phạt: bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế
hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm
xã hội…; và bằng cả các giải pháp ngắn hạn.
Nhà nước tư sản điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế thông qua
các công cụ chủ yếu như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp
nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành chính,
pháp lý.
Bộ máy điều tiết kinh tế gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt
nhân sự có sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư bản độc quyền lớn và các
quan chức nhà nước. Bên cạnh bộ máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ
chức dưới những hình thức khác nhau, thực hiện “tư vấn” nhằm “lái” đường lối phát
triển kinh tế theo mục tiêu riêng của các tổ chức độc quyền.
Cơ chế điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế: thị
trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
\\\\ 8
Hiểu được chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự điều chỉnh về quan hệ
sản xuất của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện những mâu thuẫn ngày càng trở nên
gay gắt. Về mặt bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư
bản, vẫn chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư.
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là một tất yếu, cho phép
hạn chế bớt tính tự phát của thị trường, giảm bớt những tổn thất do nền kinh tế thị
trường tự do gây ra, tạo môi trường phát triển thuận lợi hơn cho chủ nghĩa tư bản.
Cơ chế kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được điều tiết bởi các
yếu tố: cơ chế thị trường - tức sự điều tiết của các quy luật của thị trường, các tổ chức
độc quyền và nhà nước tư sản. Trong đó nhà nước không thay thế thị trường mà giữ
vai trò hỗ trợ cho sự vận hành của thị trường.
2.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việt Nam lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việt Nam phải kiên định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam để đảm bảo mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Song song đó phải tôn trọng sự điều tiết của cơ chế thị trường.
2.4.3. Ví dụ
Quản lý và khai thác tài nguyên tự nhiên quan trọng của một quốc gia (dầu
mỏ, khoáng sản)
Khi nhà nước giữ độc quyền quản lý và khai thác tài nguyên này, nó có thể đảm
bảo rằng lợi ích chung của quốc gia được bảo vệ và tận dụng một cách tối đa. Nhà
nước có thể áp dụng các chính sách và quy định để đảm bảo rằng các công ty tư nhân
và đối tác nước ngoài tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và góp phần vào phát triển
bền vững.
Nhà nước có thể áp dụng một chính sách quản lý trong việc phân phối quyền
khai thác tài nguyên giữa các công ty, đảm bảo sự công bằng và sự cân nhắc về lợi
ích chung. Điều này giúp ngăn chặn sự khai thác quá mức và đảm bảo tài nguyên tự
nhiên được sử dụng bền vững.
Ngoài ra, độc quyền nhà nước cũng có thể được sử dụng để đảm bảo một nguồn
thuận lợi và ổn định nguồn cung của tài nguyên cho quốc gia. Nhà nước có thể tham
gia đàm phán và đặt ra các điều kiện về giá cả, thuế và khích lệ đầu tư nước ngoài để
tối đa hóa lợi ích gia tăng cho quốc gia.
Tuy nhiên, độc quyền nhà nước cũng cần được kiểm soát và giám sát để đảm
bảo rằng nó không dẫn đến sự lạm quyền hoặc tham nhũng. Điều quan trọng là cần
có sự cân nhắc và kiểm soát tốt để đảm bảo rằng lợi ích chung của quốc gia được
đảm bảo và phát triển bền vững.
\\\\ 9
3. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Trường
Đại học Kinh tế TP. HCM, Khoa Lý luận chính trị – Lưu hành nội bộ, năm 2019.
2. Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Kinh tế chính trị Mác - Lênin; Khoa
Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế TP HCM; năm 2020
3. : Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc đại học – không
chuyên lý luận chính trị) Bộ Giáo dục và Đào tạo
\\\\ 10