Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

KẾT LUẬN:

Những thành tựu của những năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường
lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử
kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong đó việc vận dụng quan điểm toàn diện trong giai đoạn 2010 - 2020 có vai trò
đặt biệt quan trong trong thời kì cách mạng công nghiệp 4.0, với nền kinh tế hội nhập quốc
tế cùng nhau phát triển. Có thể thấy được sự phát triển của đất nước trong những năm đổi
mới nhất là đại hội VI (1986) về đổi mới toàn diện đánh dấu về sự cải cách toàn diện trên
mọi mặt của đời sống con người với việc lấy phát triển kinh tế - xã hội là trong tâm thì trong
những năm qua cho ta thấy được những thành công đáng kể.

Quan điểm toàn diện trong triết học Mác-Lênin:

Từ việc nghiên cứu quan điểm biện chứng về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng,
triết học Mác – Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức. Vì bất cứ sự vật, hiện
tượng nào trên thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối
liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có
quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên
hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của nó.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng, một mặt
chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Mặt khác, chúng ta phải xem xét nó trong
mối liên hệ với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Đề cập đến 2 nội dung này,
Lênin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của sự vật đó”.

Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải
biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ
tất nhiên…để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều
kiện nhất định.

Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta vừa
phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải chú ý tới những mối liên hệ giữa sự
vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương
tiện khác nhau để tác động vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.

Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật cần phải xem xét nó
trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại
và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số
lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối,
không đầy đủ trọn vẹn. Ý thức được điều này, chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hóa
những tri thức đã có về sự vật và tránh xem nó là những chân lí bất biến, tuyệt đối không thể
bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức được sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả các mối
liên hệ, cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm
và sự cứng nhắc.

Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là phiến diện
nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định khác nhau của sự vật
được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi
chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để
rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.

Vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong giai đoạn
2010-2020:

Bước vào thời kì đổi mới (từ đại hội VI năm 1986) Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận ra
được nhiều hạn chế trong các hoạt động nhận thức và chỉ đạo trước đó của mình. Nguyên
nhân là chưa biệt vận dụng, hoặc là vận dụng một cách giáo điều máy móc học thuyết Mác –
Lênin, tư tường Hồ Chí Minh và các quan điểm trên (quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử). Thay đổi đầu tiên diễn ra từ trong nhận thức, Đảng ta đã ý thức được sâu sắc rằng, cách
mạng là sáng tạo, chân lý cụ thể. Nguyên tắc “phân tích cụ thể trong một tình hình cụ thể”
như là bản chất là kinh hồn của chủ nghĩa Mác đã được tích cực vận dụng như một nguyên
tắc phương pháp luận khoa học trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Đảng. Đảng nhấn
mạnh hơn nhiều đến sự cần thiết phải nắm vững các nguyên tắc và phương pháp luận biện
chứng duy vật vào phân tích, đánh giá thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc toàn diện và
nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nghiên cứu, nhận định tính hình phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, công tác lý luận, khoa học, giáo dục, để vận dụng tốt hơn vào xây dựng đấy
nước.

Vận dụng nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể của trong phép biện chứng duy
vật đã giúp đất nước chúng ta đạt được những thành tựu trong quá trình đổi mới kinh tế - xã
hội. Vận dụng phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa duy vật về quan điểm toàn diện
và quan điểm lịch sử cụ thể Đảng đã đổi mới tư duy lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Bắt đầu từ đại hội VI (1986) Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới toàn
diện và dần hoàn thiện qua các kì đại hội đại hội đổi đường lối đẩy mạnh phát triển kinh tế
hàng hóa, nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển, chủ
ý đảm bảo hợp lý lợi ích cá nhân làm động lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ
cấu kinh tế vĩ mô, sắp xếp lại các lĩnh vực và khu vực sản xuất chính, có chính sách biến đổi
dịch vụ sản xuất kinh doanh và đời sống là đời sống thành một bộ phận quan trọng trong cơ
cấu kinh tế, do đất nước đã xây dựng được nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp
– dịch vụ tương đối hợp lý, gắn liền với trong nước và thị trường quốc tế.
Từ những yếu kém, không thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau của nền công
nghiệp hóa trước khi đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về tính tất yếu, mô hình, mục
tiêu, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa là sự chuyển đổi cản bản,
toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng công cụ lao động đơn giản là chính sang
dùng công nghệ lao động có công nghệ cao với phương tiện và phương pháp sản xuất tiên
tiến, hiện đại có khả năng vượt trội. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội nhằm cải biến xã hội nông nghiệp lạc hậu nước ta thành xã hội công nghiệp, hiện đại
hoá.
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay để xây dựng thành công chủ nghĩ xã hội, Đảng ta đã đề ra
đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bên vững; thực hiện tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội tăng cường quốc phòng an ninh; bảo vệ và xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh mối quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” là một trong tám
mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kì quá
độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một đất
nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh hạnh phúc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cũng nhấn mạnh vai trò của khoa học công
nghệ; Khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nên
kinh tế. Phát triển khoa học công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển
nền kinh tế thị trường trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta , trong cương
lĩnh này khẳng định; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thưc sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh, và hình thức tổ
chức phân phối; các thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế tập thể không ngững củng cố và phát triển.
Đại hội XII tiếp tục xác định “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thịtrường”.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đảng
đã từng bước áp dụng các nguyên tắc biện chứng duy vật cơ bản vào phân tích nguyên nhân
yếu kém trong công tác này, nêu một số vấn đề có tính phương pháp luận là: việc xây dựng
Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải gắn với củng cố chế độ kinh tế xã
hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ phù hợp với các điều kiện chuyển đổi nến kinh tế. Phải
luôn chăm lo phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mọi cấp chính
quyền, bởi vì Đảng là của giai cấp công nhân, đồng thời của nhân dân lao động và dân tộc
Việt Nam. Do vậy, vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng luôn được đặt lên vị trí
hàng đầu trong bất kì hoàn cảnh nào Đảng cũng phải kiên định những nguyên tắc lí luận
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích tình
hình, vận dụng sáng tạo để ra chủ trương, đường lối, chính sách sát hợp với hoàn cảnh cụ thể
của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể để giải quyết thoả đáng vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân và kết nạp người làm kinh tế tư nhân vào Đảng. Ở đây rõ ràng là phải có
cách tiếp cận toàn diện. Một mặt, Đảng kiên trì nguyên tắc đảng viên phải là người lao động,
không bóc lột, một khác, Đảng đã xem xét các điều kiện cụ thể, tính đến những vấn đề nảy
sinh từ thực tiễn để cho phép và hướng dẫn, tạo điều kiện cho đảng viên làm người làm kinh
tế tư nhân giỏi, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi ích cho xã hội, làm giàu
chính đáng cho bản thân, tuân thủ pháp luật, gia nhập Đảng Cộng sản.

Những thành quả và hạn chế đạt được trong những năm 2010-2020 đổi mới của Đảng
ta trên lĩnh vực kinh tế xã hội
Những thành quả đạt được:
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh: Trong suốt những năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ
tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng
trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã
tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn
2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề
của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước
tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như
năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập
đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Những nỗ
lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó
đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm
2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà
đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng
kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển
các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời
hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp...
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội. Trong suốt quá trình những
năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây
dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ
chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang
thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo
việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi
người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của
Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ
58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm
2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều) Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất
được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ
số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy
động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ
học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu
của khối ASEAN. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp
hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với
năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường
đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc
tế trong những năm gần đây. Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát
triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật
chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa
bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ
chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế
giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có
Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin
phòng Covid-19...Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở
rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao. Trong những năm đổi mới
cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực
xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo
cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế
thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Từ khi gia nhập WTO đến
nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2 FTA với các
đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần
60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên
G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế
lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA
sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng
góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng
đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan
trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản
Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc
(ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 – 2018. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3
trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN
và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt
hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Những hạn chế còn tồn đọng:


Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất
cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa
tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được
xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực
lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh
quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa công bằng,
chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội
có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là
nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành
quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo
đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá
nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.

You might also like