Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

Họ và tên : Cao Minh Đạt ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KỲ MÔN

Mã lớp HP: 22D1POL51002448 KTCT


STT : 10 Thời gian: 90 phút

Câu hỏi 1:
- Tại sao nói học thuyết giá trị - lao động là hòn đá thử vàng còn học thuyết
giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong hệ thống lý luận kinh tế của C. Mác?
TRẢ LỜI
Thứ nhất, học thuyết giá trị - lao động là hòn đá thử vàng.
Học thuyết kinh tế cho rằng hàng hóa giá trị là do lao động sản xuất ra hàng
hóa quyết định. Người đặt nền móng đầu tiên cho học thuyết này là Pety (W. Petty)
và Boaghinbe (P. Boisguilbert), rồi đến Xmit (A. Smith) và Ricacđô (V. Ricardo),
là những người đóng góp lớn vào học thuyết lao động. Tuy nhiên, phải qua nhiều
thế kỷ trao đổi hàng hóa, con người mới dần dần hiểu ra có thể thực hiện được giá
trị và nhận thức được quy luật. C. Mác chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các
loại hàng hoá là muôn hình vạn trạng, không thể dùng số lượng để đo lường chúng
là bao nhiêu. Ông nói: “Nếu bóc tách riêng giá trị sử dụng của hàng hoá ra, hàng
hoá chỉ còn lại một thuộc tính, đó là thuộc tính sản phẩm lao động". Tức là, giá trị
của hàng hoá chính là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Cho nên,
chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra giá trị.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt
buộc phải tìm trên thị trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có
một thuộc tính đặc biệt làm nguồn gốc cho giá trị, quá trình sử dụng nó đồng thời
là quá trình tạo ra giá trị. Loại hàng hóa đặc thù đó chính là sức lao động của con
người. Điều cần lưu ý "lao động" và "sức lao động"là hai khái niệm không giống
nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao động của con người. Sử dụng sức lao
động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá trị. Giá trị của bản thân sức lao
động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt buộc (tức giá trị chi phí trang trải
sinh hoạt mà công nhân và người nhà của họ cần đến) trong xã hội có nhu cầu về
sức lao động sản xuất. Nhà tư bản mua lại sức lao động theo giá trị sức lao động
trên thị trường, nghĩa là có quyền sử dụng sức lao động đó trong sản xuất, và
cưỡng bức người lao động phải làm việc cả ngày. sự phát triển của khoa học - kỹ
thuật hiện đại cùng những ngành nghề sản xuất dựa trên nó, quá trình tự động hoá
trong sản xuất tạo ra hiện tượng vai trò của lao động trực tiếp của người lao động
ngày càng mờ nhạt. Vì thế, có học giả phương Tây đã đưa ra kết luận rằng, lý luận
về giá trị lao động và học thuyết thặng dư của C.Mác nhằm vạch trần thực chất nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và mất tác dụng. Nhà triết học nổi tiếng
người Ðức - Habermas cũng tuyên bố. "Khi sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật biến
thành một thứ nguồn giá trị thặng dư độc lập, mà lại dựa vào nền tảng giá trị sức
lao động giản đơn để tính toán tổng mức đầu tư tư bản trên phương diện nghiên
cứu và phát triển, là việc làm không mấy ý nghĩa, hơn nữa, nếu đem so với nguồn
giá trị thặng dư độc lập ấy, thì nguồn giá trị thặng dư mà C.Mác rút ra qua khảo
sát, tức sức lao động của người sản xuất trực tiếp, càng ngày càng trở nên không
quan trọng nữa". "Bản thân giá trị sử dụng (của sức lao động) đã có thuộc tính đặc
thù để trở thành nguồn gốc của giá trị. Do đó, việc sử dụng nó thực tế chính là quá
trình vật hoá lao động, từ đó sáng tạo nên giá trị". Xét xem bao nhiêu thời gian lao
động của những người khác ẩn giấu trong cái mà mới thoạt nhìn chỉ là sự chi phí
thời gian lao động của bản thân. Dù cho đó là một công cụ sản xuất do bằng tay sử
dụng, hay đó là bàn tay, hay là cả đầu óc nữa, tức là những cái mà nếu không có
thời gian lao động của những người khác thì không thể có một thuộc tính đặc biệt
và năng lực lao động đặc biệt, - đối với giá trị chặt chẽ của lý luận thì điều đó hoàn
toàn không quan trọng.
Một hàng hoá có thể là sản phẩm của một lao động phức tạp nhất, nhưng giá
trị của hàng hoá đó làm cho ngang với sản phẩm của một lao động giản đơn, và do
đó bản thân nó chỉ là một số lượng nào đó của lao động giản đơn. Những tỷ lệ khác
nhau, theo đó các loại lao động khác nhau được quy thành lao động giản đơn với tư
cách đơn vị đo lường chúng, được một quá trình xã hội xác lập ở đằng sau lưng
những người sản xuất và vì vậy mà đối với họ, chúng dường như là do tập quán
quy định ra. Chỉ có lao động mới đem lại cho các sản phẩm tìm thấy trong thiên
nhiên một giá trị theo nghĩa kinh tế. Bản thân giá trị chẳng qua chỉ là biểu hiện của
lao động xã hội cần thiết của con người, được vật hoá trong một vật. Vậy lao động
không thể có một giá trị nào cả. Nói đến giá trị của lao động và muốn quy định giá
trị đó, thì cũng như nói đến giá trị của giá trị, hay muốn quy định trọng lượng của
bản thân trọng lượng chứ không phải của một vật nặng.
Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ hệ thống lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, là cơ sở kinh tế để xác lập quan hệ giữa vật với vật, người với người
thông qua quan hệ lao động, các thực thể, yếu tố cấu thành hàng hóa.Thuyết giá trị
được coi là hòn đá thử vàng, tiêu chuẩn xem xét và đánh giá tính đúng đắn của các
học thuyết kinh tế khác.
Thứ hai, học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá nền tảng trong hệ thống lý luận
của kinh tế. Bởi đây là học thuyết duy nhất nghiên cứu đầy đủ, chính xác và chi tiết
về giá trị thặng dư một cách khoa học nhất, hệ thống nhất. Chỉ có C.Mác người
nghiên cứu đầy đủ thông tin về nguồn gốc, bản chất và các hình thức biểu hiện của
giá trị thặng dư. C. Mác không phải là người đầu tiên phát hiện ra lao động thặng
dư; nhiều nhà kinh tế trước Ông đã bàn luận khá nhiều về nó (phái trọng nông). C.
Mác đã kế thừa quan điểm của phái này, không những phát hiện ra giá trị thặng dư
(lao động thặng dư kết tinh dưới hình thái giá trị) mà còn vạch rõ mối quan hệ giữa
năng suất lao động, lao động thặng dư và giá trị thặng dư.
Trước C. Mác, ngay cả những nhà kinh tế học lỗi lạc, như A.Đ.Smith (1723
- 1770) và Đ.V.Ricardo (1772 - 1823) đã không giải thích nổi vì sao trao đổi hàng
hóa đúng giá trị mà các nhà tư bản vẫn thu được giá trị thặng dư.
Có thể hiểu rằng: “Giá trị thặng dư chính là giá trị do công nhân làm thuê lao
động sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm
đoạt hết. Đối với hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào tư liệu sản xuất và
mua sức lao động. Mục đích khi chi tiền là nhằm thu được một số tiền dôi ra ngoài
số tiền mà họ đã chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dôi ra chính là giá trị thặng
dư”.
Nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động của công nhân làm thuê,
chỉ có lao động sống (sức lao động đang hoạt động) mới tạo ra giá trị, trong đó có
giá trị thặng dư. Nguồn gốc của giá trị thặng dư là sự tiêu dùng sức lao động kéo
dài ngoài thời gian tái sản xuất ra giá trị của nó. Như vậy, C. Mác đã chứng minh
rằng, trong tổng số giá trị do một quá trình sản xuất nhất định tạo ra, thì máy móc
(tức lao động quá khứ) không tạo ra giá trị mới, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá
trị mới: [v (tiền công) + m (giá trị thặng dư)].
Nếu giả định xã hội chỉ có hai giai cấp, là giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân, thì giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mang bản
chất kinh tế-xã hội là quan hệ giai cấp. Trong đó, giai cấp các nhà tư bản làm giàu
dựa trên cơ sở thuê mướn lao động của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa tư bản đương đại, mặc dù có những bước phát triển mới, có sự
điều chỉnh ở mức độ nào đó về chế độ sở hữu, quản lý và phân phối, về kiến trúc
thượng tầng, nhất là về hệ thống pháp luật và sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư
sản độc quyền,… để tồn tại và thích nghi với bối cảnh mới, nhưng học thuyết giá
trị thặng dư của C. Mác vẫn còn nguyên giá trị, bởi bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản vẫn hiện hữu, không hề thay đổi.
Sức sống của Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác được thể hiện ở những
dự báo khoa học có ý nghĩa thời đại của Ông. Đó là dự báo về xu hướng toàn cầu
hóa kinh tế; về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và về kinh tế tri
thức. Những dự báo đó phù hợp với diễn biến hiện nay của các nước trên thế giới.
Nhưng không vì thế mà làm thay đổi bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ
nghĩa tư bản.
=> Chính vì vậy, học thuyết giá trị - lao động là hòn đá thử vàng còn học thuyết
giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong hệ thống lý luận kinh tế của C. Mác.
- Hãy cho biết giá trị thặng dư siêu ngạch có xu hướng di chuyển như thế nào
giữa các doanh nghiệp trong cạnh tranh (từ đâu tới đâu)?
TRẢ LỜI
Theo Triết học Mác – LêNin thì giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị
thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của
hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Giá trị thặng dư siêu ngạch = Giá trị xã hội của hàng hóa – Giá trị cá biệt của
hàng hóa.
Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời,
nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xót toàn bộ xã hội
tư bản thân giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo
đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh
nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Tăng năng suất
lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
Trong thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, giai cấp các
nhà tư bản đã thực hiện những cuộc cách mạng lớn về sản xuất đề không ngừng
nâng cao năng suất lao động.Đó là cách mạng về tổ chức, quản lý lao động thông
qua thực hiện hiệp tác giản đơn, cách mạng về sức lao động thông qua thực hiện
hiệp tác có phân công và cách mạng về tư liệu lao động thông qua sự hình thành
phát triển của nền đại công nghiệp.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra
sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng là đó của từng nhà
tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị
thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư
siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.. Giá trị thặng dư
tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.
Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ xuất hiện nhanh chóng và cũng nhanh chóng mất bị
hay nói cụ thể hơn là thay thế. Bởi thị trường kinh tế hiện nay là cạnh tranh, nếu
như doanh nghiệp của bản áp dụng dây chuyền sản xuất như vậy đem lại lợi nhuận
cao thì ngay sau đó các doanh nghiệp khác cũng sẽ áp dụng cho mình để tạo ra giá
trị riêng cho hàng hóa của mình.
=> Giá trị thặng dư siêu ngạch có xu hướng di chuyển từ nhà tư bản này sang nhà
tư bản khác.
Câu hỏi 2:
Đầu tư sinh lợi:
Có 3 phương án đầu tư:
- Gửi tiền vào ngân hàng để thu lợi tức;
- Mua cổ phiếu công ty để thu cổ tức;
- Và mua ruộng đất để thu tô.
Theo em nên đầu tư vào phương án nào để đảm bảo an toàn vốn và sinh lợi
cao nhất?
TRẢ LỜI
- Phương án gửi tiền vào ngân hàng để thu lợi tức: độ an toàn cao nhưng sinh
lợi thấp
+ Gửi tiền tiết kiệm - hình thức "ăn chắc mặc bền" và được nhiều người tin tưởng
lựa chọn. Nhiều người đã lựa chọn hình thức gửi tiền tiết kiệm, mặc dù lãi suất
không cao so với những hình thức đầu tư khác nhưng mức độ an toàn luôn được
đặt lên hàng đầu và không đem đến rủi ro cho nhà đầu tư. Đặc biệt, những người
trung tuổi họ thường chọn hình thức này để đảm bảo sự an toàn và tránh những rủi
ro có thể xảy ra.
+ Do lãi suất từ gửi tiền vào ngân hàng không cao nên đòi hỏi người đầu tư dài hạn
phải có nguồn vốn lớn vì lĩnh vực này cần rất nhiều thời gian và chi phí để sinh lời
tốt; đòi hỏi người đầu tư dài hạn cần có một kỹ năng phân tích thị trường nhạy bén,
chính xác ở mức độ cao; đòi hỏi bạn phải có tính kiên trì cao, thận trọng trong từng
bước đi dù là nhỏ nhất.
- Phương án mua cổ phiếu công ty để thu cổ tức: lợi nhuận cao nhưng độ an
toàn không cao
+ Đầu tư cổ phiếu hay đầu tư chứng khoán là hình thức mà người tham gia sử dụng
nguồn vốn của bản thân để mua bán cổ phiếu, đặc biệt là cổ phiếu niêm yết trên
sàn chứng khoán. Lợi nhuận từ việc đầu tư này đến từ chênh lệch giá mua vào và
bán ra.
+ Do chịu tác động của nhiều yếu tố như tình hình kinh tế - chính trị, lạm phát,
phát triển ngành nghề, khả năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bên cạnh
các yếu tố mang tính kỹ thuật như cung cầu thị trường, tâm lý hay thị yếu của các
nhà đầu tư, đầu tư cổ phiếu luôn tiềm ẩn rủi ro. Những rủi ro đó có thể phân loại
dưới các rủi ro sau: Rủi ro kinh tế, xã hội (nền kinh tế ổn định mới giúp lượng
cung tiền vào cổ phiếu được gia tăng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng về mặt giá trị);
Rủi ro ngành ( Bất kỳ ngành nghề nào cũng có điểm mạnh và yếu, rủi ro ngành
nghề luôn hiện hữu theo chu kỳ nền kinh tế thị trường) ; Rủi ro hoạt động doanh
nghiệp (mỗi doanh nghiệp tương ứng với mỗi cổ phiếu của doanh nghiệp đó
thường có xu hướng đi theo đà phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh) ;
Rủi ro thị trường ( yếu tố thị trường bao gồm nhiều rủi ro như rủi ro pháp lý, rủi ro
thanh khoản, rủi ro về yếu tố tâm lý của nhà đầu tư ảnh hưởng lớn đến cổ phiếu
=> Thị trường chứng khoán đáp ứng yêu cầu huy động vốn đầu tư dài hạn, tạo nên
môi trường đầu tư rất linh hoạt. Tuy nhiên, thị trường này rất dễ biến động, chứa
đựng rất nhiều rủi ro
- Phương án mua ruộng đất để thu tô : đảm bảo độ an toàn và sinh lợi khá cao
Nguồn lợi lớn từ chính sách phát triển đô thị, quy hoạch hạ tầng
Được hưởng nguồn lợi lớn từ các chính sách phát triển đô thị, quy hoạch hạ tầng
của nhà nước, điều mà các loại hình khác không có. Ví dụ điển hình như Chính
phủ hay các công ty đầu tư chi một khoản tiền khá lớn cho cơ sở hạ tầng giao
thông như đường bộ (đường cao tốc, hầm chui, cầu vượt,…), đường sắt, sân bay…
hay đầu tư vào xây dựng phát triển các dịch vụ tiện ích để phục vụ người dân như:
trường học, bệnh viện, các khu nhà máy, khu trung tâm mua sắm,…Nhờ những
quy hoạch hạ tầng và tiện ích công cộng này mà giá trị bất động sản có nhiều cơ
hội để phát triển hơn.
Đa dạng loại hình đầu tư với lợi nhuận cao
So với các hình thức đầu tư khác như vàng, gửi tiết kiệm ngân hàng, chứng
khoán… thì bất động sản có đa dạng loại hình đầu tư hơn, chẳng hạn như các loại
hình căn hộ chung cư, đất nền, shophouse,nhà phố thương mại, biệt thự nghỉ
dưỡng, nhà xưởng,…Với một kênh có nhiều loại hình đầu tư, nhà đầu tư sẽ dễ
dàng lựa chọn cho mình loại hình phù hợp nhất với nhu cầu cũng như khả năng tài
chính của mình.
Giá cả không niêm yết, đôi bên có thể thương lượng
Không như với vàng hay chứng khoán giá thường được niêm yết sẵn trên thị
trường thì với đầu tư bất động sản, các nhà đầu tư có thể thương lượng giá để mang
về các khoản lợi nhuận tốt. Cụ thể là khi một người đầu tư vào kênh chứng khoán
hay vàng, họ thường phải mua cổ phiếu hoặc vàng với giá thị trường ở thời điểm
đó mà không bao giờ được sử dụng hai từ “thương lượng”.
Trong khi đối với thị trường bất động sản, giá cả giao dịch đều được thương
lượng, nhà đầu tư có cơ hội sở hữu một bất động sản với mức giá tốt nếu như hiểu
hoặc nắm bắt được các lợi thế giao dịch như thời điểm lên xuống của bất động sản,
người bán vì lý do nào đó cần bán gấp, bất động sản có khuyết điểm,…miễn là
“thuận mua vừa bán”.
Giá bán có xu hướng tăng theo thời gian
Dựa trên thực tế những năm gần đây, bất động sản có xu hướng tăng theo
thời gian, còn các loại hình khác như vàng, chứng khoán thì giá cả lên xuống rất
thất thường, thiếu ổn định. Với giá bán tăng theo thời gian như vậy, đầu tư bất
động sản giúp nhà đầu tư xoay sở linh hoạt trong từng thời điểm thị trường, họ có
thể tìm được cho mình những chiến lược đầu tư phù hợp với các mục tiêu tài chính
khác nhau.
Bất động sản có một xu hưởng không đổi dù “nổ bong bóng”, đó là giá trị
bất động sản luôn tăng theo thời gian. Đây là điểm mấu chốt cho các nhà đầu tư dài
hạn, không sợ mất giá, điều họ cần làm là kiên nhẫn chờ thị trường và chọn thời
điểm giao dịch sao cho phù hợp. Còn nếu bạn cần tiền ngay thì có thể chọn hình
thức đầu tư cho thuê để có lãi hằng tháng. Ngoài ra để tăng thêm giá trị cho bất
động sản, điều cần làm là cải tạo hoặc chia nhỏ bất động sản đó. Ví dụ như khi sở
hữu một bất động sản có tiềm näng, nhà đầu tư có thể cải tạo lại bằng cách trau
chuốt về nội – ngoại thất cho bất động sản.
=> Vì vậy, theo em, mua ruộng đất để thu tô là phương án đầu tư đảm bảo vốn và
sinh lợi cao nhất.

You might also like