Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TRUYỀN TÍN HIỆU TẾ BÀO - 063708
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TRUYỀN TÍN HIỆU TẾ BÀO - 063708
Các tín hiệu kích thích bên ngoài: các tín hiệu như tín hiệu điện hoặc tín hiệu Ca2+
có thể kích hoạt tiết hormone được lưu giữ
Vòng feedback
Sự suy thoái và biến đổi: hormone hoạt động có thể bị bất hoạt bởi sự trao đổi chất
hoặc tiền chất hormone ở dạng không hoạt động có thể chuyển đổi thành hoạt
động nhờ enzyme
Số lượng các thụ thể và hoạt hóa thụ thể hormone: thụ thể hormone chịu trách
nhiệm ghi nhớ tín hiệu và truyền tín hiệu đi xa hơn trong các con đường tín hiệu
nội bào số lượng, tính đặc hiệu cũng như hoạt động của các thụ thể là yếu tố
quyết định của các phản ứng sinh hóa nội bào được tạo ra sau cùng
1.1.5. Các hormone trong tín hiệu gian bào
Sự truyền tin Endocrine: chuyển hormone vào tế bào đích thông qua hệ tuần hoàn
(máu hoặc bạch huyết)
Sự truyền tin Paracrine: Hormone đến tế bào đích thông qua sự khuếch toán
Sự truyền tin Autocrine: tế bào sản xuất hormone và tế bào đích là cùng loại trong
đó tế bào truyền tin ảnh hưởng đến tế bào đích qua các thụ thể
Các chất tương tự hormone:
Hormone Antagonist là dẫn xuất của hormone có khả năng liên kết với thụ thể
nhưng lại chặn quá trình truyền tín hiệu trong tế bào
Hormone Agonist là chất tương tự như hormone có khả năng liên kết đặc hiệu
với thụ thể và bắt đầu truyền tín hiệu như hormone thật
Các chất tương tự hormone lại có ái lực với thụ thể cao hơn hormone thật
ứng dụng trong điều trị với ái lực cao thì chỉ cần liều lượng thấp
Ví dụ: tamoxifen – một loại estrogen tổng hợp có cả hai vai trò của antagotist
và agotist khi hiện diện ở các mô khác nhau
1.2. Tín hiệu nội bào (câu 2)
1.2.1. Tiếp nhận các tín hiệu bên ngoài: qua hai cách
Thông qua thụ thể màng (transmembrane receptors – TM)
Thông qua thụ thể trong tế bào chất hoặc trong nhân
1.2.2. Hoạt hóa và bất hoạt protein truyền tin
Cơ chế hoạt hóa các protein truyền tin (thành phần trong con đường tín hiệu nội bào)
3. NGUYÊN TẮC SỰ TRUYỀN TÍN HIỆU NHỜ THỤ THỂ NHÂN (câu 3)
3.1. Các ligand của các thụ thể nhân là các phân tử ưa lipid
Các hormone steroid: estradiol, progesteron, testosteron
Các dẫn xuất của amino acid: hormone T3
Các dẫn xuất acid retinoic: 9-cis-retinoid và all-trans-retinoic acid
Các Prostaglandin: prostaglandin J2
Các chất khác: các acid béo, cholesterol bị oxi hóa, các phospholipid và các farnesoid.
3.2. Các chức năng mới của các hormone steroid và các thụ thể nhân:
Sự hoạt hóa các loại thụ thể khác:
Sự gắn hormone steroid lên các thụ thể nhân làm hoạt hóa các con đường truyền tín
hiệu khác
Sự hoạt hóa các thụ thể nhân nhờ vào các con đường truyền tín hiệu khác.
3.3. Sự hoạt hóa các thụ thể nhân nhờ vào các con đường truyền tín hiệu khác: Sự
liên kết các con đường truyền tín hiệu trong tế bào chất
- Sự liên kết trực tiếp và gián tiếp của sự truyền tín hiệu estrogen đến các con đường
truyền tín hiệu trung tâm của tế bào xuất hiện liên quan đến hai cơ chế chính:
Sự tương tác trực tiếp của các ER với các protein kinase, các thụ thể TM và
các protein adaptor trung tâm.
Sự gắn estradiol với các thụ thể khác với các ER cổ điển
Các ER có thể nhận các tín hiệu từ các con đường truyền tín hiệu trung tâm
khác theo phương thức không phụ thuộc ligand
Các ER đã được hoạt hóa có thể truyền tín hiệu trực tiếp đến các con
đường truyền tín hiệu khác thông qua sự tương tác với: Các protein
adaptor, Các protein kinase, Các thụ thể TM
3.4. Cơ chế điều hòa phiên mã bởi các thụ thể nhân
- Hầu hết các chức năng của các thụ thể nhân có thể được biểu hiện trong giới
hạn của sự ức chế và sự hoạt hóa phiên mã.
- Hiệu quả của những hoạt động genomic của các thụ thể nhân được xác định
theo phương thức đặc biệt trong một loại tế bào nhờ một loạt các biến đổi:
Trình tự chính xác của RE;
Vùng lân cận của HRE;
Sự phối hợp với các chất hoạt hóa phiên mã khác;
Khả năng huy động của các thụ thể nhân khác để hình tành dạng heterodimer;
Khả năng huy động của các protein đồng điều hòa, các chất đồng hoạt há và đồng
ức chế chính; biến đổi chức năng dịch mã của các thụ thể; một sự phân phối động
của các thụ thể giữa nhân và tế bào chất.
- Các thụ thể nhân phải thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây trong suất quá
trình hoạt hóa phiên mã:
Lựa chọn các gen mục tiêu nhở liên kết đặc hiệu với HRE.
Tổ chức lại chromatin phá vỡ các cấu trúc ức chế và làm cho nó có khả năng chi
phối sự khởi đầu phiên mã.
Tham gia vào khởi sự phiên mã bằng sự cải biến một cách liên tiếp chromatin và
bằng sự ổn định của các phức hệ phiên mã.
3.4.1. Các chất đồng hoạt hóa của các thụ thể nhân
- Có 2 nhóm chủ yếu: SRC-1/p160 và TRAP.
- Ý nghĩa của sự thu hút chất đồng hoạt hóa trong y học: Khả năng tổng hợp các
agonist khác nhau để thu hút các nhóm chất đồng xúc tác đặc hiệu dẫn đến các đáp ứng
sinh lý khác biệt.
3.4.2. Các chất đồng ức chế của các thụ thể nhân
- Các chất đồng ức chế của các thụ thể nhân đóng một vai trò quan trọng trong
sự điều hòa âm sự biểu hiện gen phụ thuộc thụ thể.
- Các chất đồng ức chế thu hút các HDAC và các lysine methylase nhằm gây ra
trạng thái chromatin bất hoạt Ức chế phiên mã.
3.5. Điều hòa sự truyền tín hiệu nhờ vào các thụ thể nhân
- Sự điều hòa nồng độ ligand của các thụ thể nhân xảy ra thông qua
Sự tiết, sự vận chuyển, sự bảo quản
Sự biến đổi
Sự điều hòa ngược của quá trình sinh tổng hợp
- Điều hòa nhờ vào sự phosphoryl hóa
Sự phosphoryl hóa được sử dụng để điều chỉnh cả về chức năng genomic và
nongenomic của thụ thể và để liên kết với con đường truyền tín hiệu chéo.
Các vị trí phosphoryl hóa: vị trí Ser/Thr, Tyr được tìm thấy chủ yếu trong vùng
AF-1 của các thụ thể.
Mô hình tốt nhất đã được nghiên cứ là Erα và Erß. Vị trí phosphoryl hóa quan trọng
của ER là Ser 118.
Ngoải ra một số protein kinase liên quan (MAPK, CDK7) cũng ảnh hưởng đến sự
truyền tín hiệu của các thụ thể nhân.
Sự phosphoryl hóa ảnh hưởng đến sự truyền tín hiệu của các thụ thể nhân.
Các chất đồng ức chế và đồng hoạt hóa được điều hòa bằng sự phosphoryl hóa.
- Sự tương tác với các nhân tố hoạt hóa phiên mã khác
Các thụ thể nhân cũng điều khiển sự biểu hiện gen bằng cách can thiệp vào
phạm vi hoạt động của các nhân tố hoạt hóa phiên mã khác (AP-1, Sp1 và các
protein STAT).
Nhiều phức hợp promoter chứa các bản sao của các yếu tố thụ thể nhân cũng
như các yếu tố gắn với DNA của các nhân tố phiên mã khác.
Các thụ thể ER và các thụ thể hormone progesteron (PRs) có thể kích thích sự
biểu hiện gen mà không gắn với DNA bằng cách kết hợp với các nhân tố phiên mã
khác mà đã gắn với các promoter của các gen đáp ứng.
- Điều hòa nhờ vào sự hình thành Ubiqutin (Ub)
Sự truyền tín hiệu nhờ vào các thụ thể nhân được điều hòa bởi sự hình thành
Ub trong nhiều con đường khác nhau.
+ Con đường chủ yếu bao gồm sự phân giải protein phụ thuộc Ub của các tụ thể nhân
bằng sự cho phép đối với sự điều hòa ngược của các thụ thể dưới sự xử lý hormone trong
thời gian dài.
+ Theo một con đường khác, sự hình thành Ub của các thụ thể nhân là cần thiết để hoạt
hóa phiên mã.
Mặt khác, các chất đồng hoạt hóa và các chất đồng ức chế của các thụ thể
nhân cũng được xem là đối tượng để hình thành Ub.
Phân loại: Tuỳ theo tính chất đối kháng, người ta chia đối kháng thành một số loại
khác nhau: đối kháng cạnh tranh, đối kháng không cạnh tranh, đối kháng chức năng, đối
kháng hoá học.
- Đối kháng canh tranh (competiưe antagonism): là loại đối kháng khi chất đối
kháng gắn trên cùng chất chủ vận nhưng không có hoạt tính nội tại (không gây ra đáp
ứng). Ví dụ các chất phong toả a hoặc p adrenoceptor là các chất đối kháng cạnh tranh
với các chất kích thích a hoặc p adrenoceptor... Trong đối kháng cạnh tranh có loại cạnh
tranh cân bằng và cạnh tranh không cân bằng.
+ Cạnh tranh cân bằng: hay còn gọi là cạnh tranh thuận nghịch là trường hợp liên
kết giữa chất đối kháng với receptor không bền vững, dễ bị phá vỡ. Trong trường hợp này
khi tăng nồng độ chất đối kháng, mức độ đối kháng sẽ tăng lên. Ngược lại khi tảng nồng
độ chất chủ vận tính chất đối kháng giảm đi và có thể bị loại trừ. Ví dụ sự đối kháng giữa
naloxon với morphin V.V..
+ Canh tranh không cân bằng: Trong trường hợp chất cạnh tranh tạo liên kết bền
vững vối receptor (thường là liên kết đồng hoá trị) được gọi là cạnh tranh không cân bằng
hoặc cạnh tranh không thuận nghịch. Ví dụ phenoxybenzamin liên kết đồng hoá trị Vối a-
adrenoceptor, phong toả kéo dài (14 – 48 giò), cạnh tranh với noradrenalin gây hạ huyết
áp. Mối quan hệ giữa nồng độ và đáp ứng trong cạnh tranh không cân bằng và cạnh tranh
cân bằng có sự khác nhau về chất. Trong cạnh tranh không cân bằng khi tăng nồng độ
chất đối kháng, tác dụng tối đa của chất chủ vận sẽ giảm đi và không thể đạt được giá trị
tối đa như khi không có chất đối kháng; mặt khác nếu tăng nồng độ chất đổi khẳng đèn
mức độ nào đổ có thể chất chủ vận không gây được đáp ứng. Trong khi đó trong cạnh
tranh cân bằng nếu tăng nồng độ đến mức độ cần thiết chất chủ vận vẫn có thể đạt được
giá trị tác dụng tối đa như khi không có chất đối kháng.
- Đối kháng không canh tranh (noncompetitive antagonism): là trường hợp chất đối
kháng làm giảm tác dụng của chất chủ vận khi nó tương tác ngoài vị trí gắn của chất chủ
vận với receptor làm chất chủ vận bị giảm tác dụng có thể là do chất đối kháng làm thay
đổi hình dạng của receptor hoặc ảnh hưởng đến một trong những khâu sau tương tác của
chất chủ vận vối receptor, ở nồng độ cao chất đối kháng không cạnh tranh có thể làm mất
tác dụng của chất chủ vận ngay cả khi chất chủ vận đã “chiếm giữ” receptor. Ngược lại ở
nồng độ cao chất chủ vận không loại trừ được tác dụng của chất đối kháng không cạnh
tranh. Ví dụ papaverin làm giảm co thắt cơ trơn là chất đối kháng không cạnh tranh với
acetylcholin.
- Đối kháng chức năng (funtional antagonism): là trường hợp hai chất chủ vận khác
nhau tương tác trên hai loại receptor khác nhau và gây nên tác dụng đối lập nhau. Ví dụ
sự đối kháng giữa acetylcholin và adrenalin trên một sô’ chức năng của cơ thể:
acetylcholin gây chậm nhịp tim, co đồng tử, adrenalin gây tăng nhịp tim, giãn đồng tử
v.v…
- Đối kháng hoá học (chemical antagonism): là trường hợp tương tác hoá học trực
tiếp xảy ra giữa chất đối kháng và chất chủ vận dẫn đến làm mất tác dụng của chất chủ
vận. Trong lâm sàng người ta vận dụng đối kháng hoá học để giải độc trong một số
trường hợp quá liều hoặc ngộ độc thuốc. Ví dụ dùng protamin sulfat khi quá liều heparin,
dùng các chất gây chelat trong nhiễm độc kim loại nặng (dùng dimercaprol trong điều trị
ngộ độc asen, thuỷ ngân v.v…)