Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 25

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Câu 1: Phân tích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh của Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI (2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam.
a. Khái niệm:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu khái
niệm: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
b. Phân tích:
* Thứ nhất, về cấu trúc: Khái niệm nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt
Nam”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung bàn đến các vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, bao gồm: xác định con đường của cách mạng Việt Nam;
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; lực lượng tiến hành; phương pháp tiến hành và giai
cấp lãnh đạo cách mạng.
Nhận thức như vậy để khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần tránh những
khuynh hướng sai lệch và xuyên tạc cho rằng:
Một là, không có tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng không có hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà chỉ gồm một vài phát biểu ngắn gọn của Người.
Hai là, cái gì cũng quy về tư tưởng Hồ Chí Minh, mà không hiểu tư tưởng
của Người chỉ gắn với những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, như vậy vô
tình hạ thấp chứ không phải đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Thứ hai, về nguồn gốc: Đảng ta đã chỉ rõ ba nguồn gốc lý luận hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Bao gồm:
o Chủ nghĩa Mác – Lênin,
o Các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
o Tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Đặc biệt, chủ nghĩa Mác - Lênin có vai trò quyết định nhất tới việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, bởi đã trang bị cho Người thế giới quan và phương pháp luận
Mác-xít. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng,chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu vẫn được
hình thành trên nền tảng triết lý phương Tây, mang dấu ấn đấu tranh giai cấp ở
phương Tây. Để hoàn thiện, Người đã bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin bằng dân tộc
học phương Đông, bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới.
* Thứ ba, về nội dung: Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung cơ bản:
Một là, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Hai là, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Ba là, tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân.
Bốn là, tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư.
Năm là, tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Sáu là, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
Bảy là, tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân.
Tám là, tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Chín là, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
* Thứ tư, về giá trị: Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi”. Đảng ta đã chỉ rõ: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đã đem lại
thắng lợi cho công cuộc đổi mới ở nước ta, sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con
đường xây dựng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam “Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc” và trong giai đoạn hiện nay là soi đường cho Đảng và nhân dân ta trên
con đường thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Câu 3: Hãy nêu những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. Luận điểm nào thể hiện rõ nhất sáng tạo lý luận của
Người. Vì sao?.
a. Các luận điểm cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc
o Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi, phải đi theo con đường cách
mạng vô sản;
o Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo;
o Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa vào lực lượng đại đoàn kết toàn dân,
lấy liên minh công - nông làm nền tảng;
o Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc;
o Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực cách mạng.
b. Luận điểm sáng tạo: Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng
tạo, có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
i. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
 Do Quốc tế cộng sản chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách
mạng thuộc địa, nên Quốc tế cộng sản đã xem nhẹ vai trò của cách mạng
thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa là “hậu bị quân”, phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc.
 Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan
hệ bình đẳng, ngang nhau chứ không phải là quan hệ phụ thuộc, quan hệ
chính - phụ. Từ năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh
khẳng định: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh
của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa”. Trong tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925), Người viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một
cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào
giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia
sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi
bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”.
ii. Cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh
của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết:
“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ
sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một
lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ
nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đây là một luận điểm sáng tạo,
có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; là một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí
Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là
hoàn toàn đúng đắn. Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở
sau:
o Thuộc địa có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế
quốc, là nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc, nhưng cũng là khâu yếu nhất
trong hệ thống các nước đế quốc. Người viết: “Tất cả sinh lực của chủ nghĩa
tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy
nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân
công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính
bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó”, “nọc độc và sức sống của
con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”.
o Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách
mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa
có khả năng cách mạng to lớn, đó là tinh thần cách mạng hết sức quyết liệt,
một lực lượng vô cùng to lớn khi được tập hợp, giác ngộ. Theo Hồ Chí
Minh, phải “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt
nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh
của cách mạng vô sản”. Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản
(1/7/1924), Hồ Chí Minh phê phán các đảng cộng sản ở Anh, Pháp, Hà Lan,
Bỉ và các đảng cộng sản ở các nước có thuộc địa chưa thi hành chính sách
tích cực trong vấn đề thuộc địa.
o Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản quan tâm đến
cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc giải phóng nhân
dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng. Vận
dụng công thức của Các Mác, Hồ Chí Minh rút ra luận điểm: “Công cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Tháng 8/1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Kháng chiến
trường kỳ gian khổ phải trông vào sức mình, không được trông chờ người
khác; đồng thời, phải tự lực cánh sinh vì “một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”.
Câu 4: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về một số đặc trưng cơ bản của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, cũng
trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin, nghĩa là trên những mặt về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu
trên những điểm sau đây:
a. Về chính trị: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có chế độ dân chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và làm
chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết dân tộc mà
nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân là
người quyết định vận mệnh, cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo
quyền lực. Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa
vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
b. Về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ
nghĩa tư bản, nên chủ nghĩa xã hội phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh
tế của chủ nghĩa tư bản. Đó là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa
xã hội biểu hiện ở công cụ lao động, phương tiện lao động trong quá trình sản xuất
“phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong
chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là “lấy nhà máy, ngân hàng, xe lửa… là của
chung; là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân”.
c. Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội
phát triển cao về văn hóa và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong
các quan hệ xã hội
Sự phát triển cao của văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở chỗ
chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người. Điều này được hiểu
rằng chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến độ chín muồi, không
còn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội được xây dựng
trên nguyên tắc công bằng, hợp lý. Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội
thì “mỗi người mới có điều kiện cải thiện đời sống riêng, phát huy được cái riêng
và sở trường riêng của mình”. Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là cơ sở, là tiền
đề đi tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác
ái, việc làm cho mọi người và vì mọi người, không còn gì có thể ngăn cản những
người lao động hiểu nhau và yêu thương nhau.
d. Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một công trình
tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trong chủ nghĩa xã hội - chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích cá
nhân gắn liền với lợi ích tập thể, lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là
chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa
xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định “cần có
sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm
toàn ý phục vụ nhân dân”. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thì mới thể đưa cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa
các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân
loại; là sự tổng hợp hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó
là độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái,
đoàn kết, hữu nghị... Một khi tất cả các giá trị đó đã đạt được, thì loài người sẽ
vươn tới lý tưởng cao nhất của chủ nghĩa xã hội, đó là “liên hợp tự do của những
người lao động”. Ở đó, cá tính của con người được phát triển đầy đủ, năng lực con
người được phát huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn diện. Nhưng
theo Hồ Chí Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài, dần
dần và không thể nôn nóng.
Câu 5: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
a. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự
thành công của cách mạng
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng,
trong thời đại mới, để đánh bại chủ nghĩa đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người thì phải tập hợp tất cả lực lượng, xây
dựng khối đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
đại đoàn kết dân tộc không phải là sách lược, hay thủ đoạn chính trị, mà là một
chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải có
chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Nhờ tư
tưởng nhất quán và chính sách Mặt trận đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xây dựng thành công khối đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng cách mạng
giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận
Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã
kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền
Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng
lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”.
Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm có
tính chân lý về vai trò của khối đoàn kết: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của
chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh,
đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công,
đại thành công”.
b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, là nhu
cầu khách quan của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là mạch
nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối,
chủ trương, chính sách đến hoạt động thực tiễn của Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định
mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự
Tổ quốc”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của của Đảng và của mọi giai đoạn
cách mạng. Cách mạng muốn thành công Đảng phải cụ thể hóa đường lối, chủ
trương thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng.
Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu
của dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì
quần chúng. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp quần chúng,
chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những
đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức
mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh
phúc cho con người.
Câu 7: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề nguyên tắc
trong hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
a. Một là, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động.
Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Chủ
nghĩa ấy là chủ nghĩa Mác - Lênin, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý
việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp
với từng đối tượng. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng
hoàn cảnh, tránh giáo điều. Trong quá trình hoạt động, Đảng phải tổng kết kinh
nghiệm những vấn đề lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý luận Mác -
Lênin. Đồng thời, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác -
Lênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin.
b. Hai là, tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” và “dân chủ”
có mối quan hệ khăng khít với nhau. Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ phải
đi đến tập trung. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, phải làm cho mọi đảng viên bày tỏ
hết ý kiến của mình ở trong Đảng, tức là khơi dậy tinh thần trách nhiệm và tính chủ
động của tất cả đảng viên. Đối với tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, Hồ Chí
Minh cho rằng phải tập thể lãnh đạo, vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, dù
nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều
mặt của một vấn đề, không thể trong thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn
đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, xem xét
rõ nhiều mặt hơn. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó
được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được
giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm. Đối với việc thực hiện nguyên tắc này, trong công
tác xây dựng Đảng, phải chú ý khắc phục tệ nạn độc đoán, chuyên quyền, đồng
thời phải chống lại cả tình trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không
dám chịu trách nhiệm.
c. Ba là, tự phê bình và phê bình
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần
đi, tức là vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính tất yếu
trong quá trình hoạt động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là một thực thể của xã hội,
Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội, đội ngũ của Đảng cũng không tránh khỏi những
khuyết điểm, không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều
có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang
thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình. Phương pháp tự phê bình và phê bình
được Hồ Chí Minh xác định là phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt
hàng ngày. Thái độ phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không
giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm; phải có tình thương yêu lẫn nhau.
d. Bốn là, kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức
tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi
tất cả mọi tổ chức Đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước điều lệ
Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời,
Đảng là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và
đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong
cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng
viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân
dân.
e. Năm là, đoàn kết thống nhất trong Đảng
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin; cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của
tổ chức đảng các cấp. Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng, phải thực
hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và
các biểu hiện tiêu cực khác, phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Có đoàn kết tốt
thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta
tuy đông người, nhưng khi tiến đánh như là một người”.
f. Sáu là, thường xuyên tự chỉnh đốn
Quyền lực của Đảng do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
giao phó. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải
tạo và xây dựng xã hội, nhưng cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm
quyền lực bị thoái hóa, ham muốn, tranh giành quyền lực. Trong khi đó, Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc. Vì vậy, Đảng
phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới để hạn chế, ngăn chặn, đẩy
lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh
đạo chính quyền nhà nước. Người chỉ rõ “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn
lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng
giao phó, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
g. Bảy là, liên hệ mật thiết với nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam “không phải trên trời rơi xuống. Nó ở trong xã hội
mà ra”, là một bộ phận của toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Quan hệ đó được hình thành từ đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp cách mạng. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt: Đảng vừa là người
lãnh đạo, cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân tự giác đồng
tình với sự lãnh đạo của Đảng, lại là chủ nhân của đất nước. Sức mạnh của Đảng là
ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Để xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, Hồ Chí Minh nhắc
nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên không được “vác mặt quan cách mạng”, không được
ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau; không phải cứ dán lên trán hai chữ “cộng sản” là
dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục, mà phải trong công tác hằng ngày, cố gắng
học dân, làm cho dân tin, tức là cọi trọng chữ tín.
h. Tám là, đoàn kết quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ giữ vai trò lãnh đạo chính quyền Nhà nước
và các tổ chức chính trị xã hội, mà còn giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc
tế trong sáng. Điều này xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân trong
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn từ quan điểm “cách mạng Việt Nam là một
bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới” của Hồ Chí Minh. Do đó, Người
mong Đảng “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn
kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc
tế vô sản, có lý có tình”.
Câu 8; Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
a) Nhà nước của dân
Nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ, dân làm chủ; dân là người
có địa vị cao nhất. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho
đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”.
Nhà nước của dân thì “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “tất cả mọi
quyền lực đều là của nhân dân”, nhân dân có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng nhất của đất nước. Hiến pháp năm 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”. Nhân dân thực thi quyền lực
của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, bãi miễn những đại biểu mà
họ đã bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ lập nên. Theo
Hồ Chí Minh, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra, đồng thời có
quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại
biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Dân là chủ thể của quyền lực thì người cầm quyền, cán bộ công chức nhà nước
chỉ là người được uỷ quyền, được nhân dân trao quyền để gánh vác, giải quyết
những công việc chung của đất nước. Hồ Chí Minh gọi người cầm quyền, cán bộ
công chức nhà nước là “đầy tớ”, “công bộc” của dân. Người cho rằng, làm công
bộc của dân là một trách nhiệm rất vẻ vang, nhưng rất khó khăn, nặng nề. Muốn
vậy, người cầm quyền phải gần dân, hiểu dân, thương dân, tin dân và biết sức
mạnh của dân. Tác phong của người cầm quyền phải là: “óc nghĩ, mắt thấy, tai
nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
b) Nhà nước do dân
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước; nhà nước phải
tin dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ nhà nước của dân rất rộng:
 Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ
phiếu kín, bầu ra các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà
nước...
 Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời có quyền thực hiên chế độ bãi
miễn theo ba mức độ từ thấp đến cao: bãi miễn đại biểu, bãi miễn các cơ
quan nhà nước, bãi miễn nội các chính phủ nếu các đại biểu, các cơ quan
nhà nước không còn phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích của nhân
dân. Người viết: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ”.
 Nhà nước do dân, nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ,
sức người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước.
 Nhà nước do dân còn bao hàm nội dung quan trọng là nhân dân có quyền
tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
c) Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân.
Điều này được Người giải thích rõ trên các phương diện:
 Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu cao nhất và duy nhất
là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với
phương châm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân phải hết sức tránh”. Cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân là cơ sở
hàng đầu đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực của
đội ngũ cán bộ công chức nhà nước.
 Nhà nước chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các
nhu cầu thiết yếu nhất: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân
có chỗ ở, làm cho dân được học hành, làm cho dân có điều kiện khám chữa
bệnh, chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước chăm lo cho dân không phải làm thay
dân mà hướng dẫn dân tự chăm lo đời sống của mình.
 Nhà nước biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai
cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn luôn được mọi người dân
ủng hộ, xây dựng. Đồng thời là người hướng dẫn dân, nhà nước phải còn
biết kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung ương
và địa phương, lợi ích của các ban, ngành, các chủ thể xã hội, làm sao để bất
kỳ ai cũng thấy được nhà nước là người đại diện cho lợi ích chân chính của
họ.
 Nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng,
đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết “các ông quan cách mạng” ra khỏi bộ máy
nhà nước.
Câu 9: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam
a. Văn hóa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa
nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
Văn hóa là mục tiêu thể hiện ở chỗ văn hóa là quyền sống, quyền sung sướng,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và thụ hưởng các giá trị văn hóa; là khát
vọng về các giá trị chân - thiện - mỹ của nhân dân; là một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh; một xã hội đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn được
quan tâm và không ngừng được nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn
diện.
b. Văn hóa là động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là động lực được Hồ Chí Minh lý giải rất cụ thể. Văn hóa là động lực
cho sự phát triển của đất nước, các thiết chế văn hóa góp phần xây dựng và phát
triển đất nước, con người Việt Nam. Trong đó, văn hóa chính trị soi đường cho
quốc dân đi, lãnh đạo toàn dân thực hiện độc lập, tự chủ, tự cường; văn hóa văn
nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng, sự lạc quan,
ý chí, quyết tâm và niềm tin thắng lợi của cách mạng; văn hóa giáo dục góp phần
nâng cao dân trí, mở rộng vốn hiểu biết cho nhân dân, thực hiện sứ mạng trồng
người, đào tạo con người mới, nguồn nhân lực cho cách mạng; văn hóa đạo đức
góp phần nâng cao phẩm giá con người Việt Nam; văn hóa pháp luật đảm bảo dân
chủ, trật tự kỷ cương, phép nước.
c. Văn hóa là một mặt trận chiến đấu
Văn hóa là một mặt trận được hiểu văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên
lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hóa rất phong phú, bao gồm các
lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý
luận.
Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh văn hóa, văn nghệ sĩ là những
chiến sĩ, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật là những vũ khí chiến đấu. Để làm tròn
nhiệm vụ, chiến sĩ trên mặt trận này phải có lập trường tư tưởng vững vàng, ngòi
bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”; phải bám sát cuộc sống
thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải, nghiêm khắc
phê bình những thói hư tật xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu…
d. Văn hóa phục vụ quần chúng
Thực tiễn đời sống nhân dân là nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ, là chất
liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Văn nghệ sĩ phải
xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của sinh
hoạt, nhân dân là người được hưởng thụ các giá trị tinh thần đó. Văn hoá văn nghệ
thực sự phục vụ quần chúng nhân dân phải:
 Mọi hoạt động văn hoá phải gắn liền với đời sống thực tại của nhân dân.
Muốn vậy, phải từ trong quần chúng mà đến với quần chúng.
 Mỗi một hoạt động văn hoá từ khẩu hiệu, phim ảnh, báo chí... phải thể hiện
tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng nhân dân. Muốn vậy thì trong hoạt
động văn hoá phải nêu ra và giải quyết một cách phù hợp 3 câu hỏi về: đối
tượng, mục đích và phương pháp.
Muốn văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân, phải đánh giá cho đúng quần
chúng nhân dân. Có 4 điểm để đánh giá quần chúng nhân dân như sau:
 Quần chúng nhân dân không chỉ là những người sáng tạo ra của cải, vật
chất, mà họ còn là người sáng tác rất hay “ca dao, tục ngữ, hò, vè” là “những
hòn ngọc quý” mà văn nghệ sĩ phải nghiên cứu, học tập trong sáng tác của
mình.
 Quần chúng nhân dân là người “nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng
những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ
quên anh ta”.
 Quần chúng nhân dân là người kiểm nghiệm, đánh giá sản phẩm văn hoá
một cách trung thực, chính xác nhất.
 Quần chúng nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời
đại của đất nước và của dân tộc; phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách
mạng của nhân dân. Tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại phải là những tác
phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Tác
phẩm đó phải phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân
yêu thích. Theo Hồ Chí Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là hạ thấp
nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ những sản phẩm “loại hai”, những món
ăn tinh thần được chế biến vội vàng, mà phải là những tác phẩm có tính nghệ thuật
cao, tinh tế, có giá trị nhân văn cao.
Câu 10: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách
mạng “Trung với nước, hiếu với dân”
Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân với
cộng đồng; là chuẩn mực đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi phối các phẩm
chất khác, là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách mạng.
Lòng trung, hiếu rộng lớn ấy thể hiện ở ý chí và quyết tâm phấn đấu cho nước nhà
được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Trong tư tưởng đạo đức truyền thống và đạo đức phương Đông, Trung và Hiếu
là những khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần cá
nhân, nó mang một ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, người con trong
mối quan hệ với dân tộc và gia đình. Theo quan niệm truyền thống (quan niệm cũ),
Trung là trung quân, là trung thành với vua mà trung thành với vua là trung thành
với nước. Ở đây vua với nước là một. Hiếu có nghĩa là con cái phải hiếu thảo với
cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình. Trong thời đại Hồ Chí Minh,
Người đã đưa thêm vào nội dung mới, cách mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn,
không phải trung với vua và chỉ có hiếu với cha mẹ mà “trung với nước, hiếu với
dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Từ “trung với vua, hiếu với
cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu với dân” là một sự đảo lộn mang tính
cách mạng trong quan niệm đạo đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã lật ngược lại
học thuyết của Nho giáo như Mác đã làm với học thuyết Hêghen. Người viết:
“Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân ngửng lên trời. Đạo đức mới
như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Như vậy, quan
niệm về nước và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước.
Điều này đã làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa so phía trước.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là người chủ của
nước. Vì vậy, "trung với nước, hiếu với dân" là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
 Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi
ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
 Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
 Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung chủ yếu của hiếu với dân là:
 Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
 Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân.
 Tổ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
 Hết lòng vì dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Câu 11: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách
mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Phẩm chất này là cốt lõi của đạo đức cách mạng; gắn liền và là biểu hiện cụ thể
của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Phẩm chất này lấy chính bản thân
mỗi người làm đối tượng điều chỉnh. Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”
năm 1949, Hồ Chí Minh giải thích về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như
sau:
 Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, khai
thác hết khả năng lao động; lao động có năng suất cao và hiệu quả thực tế,
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Người dạy: “Cần thì việc gì khó đến mấy
cũng làm được. Siêng học tập thì mau tiến bộ. Siêng nghĩ ngợi thì hay có
sáng kiến. Siêng làm nhất định thành công”. Chữ Cần không những có nghĩa
hẹp, nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải cần, cả nước đều phải cần.
“Người siêng năng thì hay tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no. Cả
làng siêng năng thì làng phồn vinh. Cả nước siêng năng thì nước giàu
mạnh”.
 Kiệm tức là tiêu dùng hợp lý, là tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của
của dân, của nước và của bản thân; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi”, không phô trương hình thức. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau,
gắn bó mật thiết với nhau, Cần mà không Kiệm thì như thùng không đáy,
Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm, không phát triển.
 Liêm tức là “Luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; phải “trong
sạch, không tham lam”, “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình...” và “chỉ có một thứ
ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Theo Hồ Chí Minh, Liêm là thước
đo bản chất con người. Có Kiệm mới có Liêm, vì xa xỉ mà sinh tham lam,
tham tiền của, tham địa vị, tham ăn ngon... đều là những hành động bất liêm.
Người dạy: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.
 Chính là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Điều gì không đứng đắn, không
thẳng thắn tức là Tà - “làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người
ác”.
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, là những đức tính không
thể thiếu được của mỗi con người, cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương -
đó là quy luật tất yếu.
Theo Hồ Chí Minh, trong bất kỳ xã hội nào, địa vị nào, nghề nghiệp nào cũng
cần phải giữ 3 mối quan hệ:
Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết; không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách
việc gì thì giải quyết cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy
hiểm; việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày
cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.
 Chí công vô tư là khái niệm tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính, nhưng nó cũng
có nội hàm riêng. Đó là: không nghĩ đến mình trước, ham làm những việc
ích quốc lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú
quý. Đó là nội dung của chủ nghĩa tập thể. Người chí công vô tư thì lòng dạ
thảnh thơi, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Có chí công vô tư mới nâng cao được
chủ nghĩa tập thể, loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó
khéo dỗ dành người ta đi xuống”, “là một thứ vi trùng rất độc”, đẻ ra hàng trăm thứ
bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành,
tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, quan liêu,
mệnh lệnh,.... Vì vậy, đạo đức cách mạng, vô luận là trong hoàn cảnh nào, phải
quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại rất lớn
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không
thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Người cho
rằng: chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy cho Đảng, cho cả dân tộc. “Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng
dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Hồ Chí Minh nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc”,
“khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghỉ đến đồng
bào, đến toàn dân”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
=> Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần thiết của con người. Cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư một lòng
vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và
có được nhiều đức tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh, những đức tính tốt ấy gồm có
năm điều: “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con
người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
Câu 12: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người.
1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người.
a. Xây dựng con người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
cách mạng
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa quan trọng của chiến lược xây dựng con người
mới. Người rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người.
Người đề cập tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là
những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp
bách. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm
trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.
b. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
Nhưng ở đây, trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này về mặt lôgic không hề mâu thuẫn,
cần hiểu là phải đặt ra ngay từ đầu nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm
chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội.
Công việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và phụ
thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và cá nhân mỗi người. Mỗi
bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người
xã hội chủ nghĩa”.
c. “Trồng người là công việc lâu dài, phải được tiến hành thường xuyên trong
suốt tiến trình cách mạng; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể chính trị - xã hội.
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây/Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Để xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa có nhiều biện pháp, nhưng theo Hồ Chí Minh, giáo dục - đào
tạo là biện pháp quan trọng nhất. Người luận giải: giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện,
đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng
xấu đến thế hệ trẻ. Bác rất đề cao vai trò của giáo dục: một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên, phải chống giặc dốt cũng như chống
giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm.
2. Nội dung xây dựng con người
 Xây dựng con người “vừa hồng vừa chuyên”, có mục đích, lối sống cao đẹp,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội
chủ nghĩa.
 Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể.
 Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
 Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
 Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương.
3. Phương pháp xây dựng con người
 Mỗi người tự tu dưỡng rèn luyện
 Phát huy vai trò của giáo dục và nêu gương.
 Xây dựng cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.
 Phát huy vai trò của Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng.

You might also like