Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 7

Câu 1:

1. Khái quát về quyền con người


Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới từ
trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân
tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa
và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú
ý.
Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học.v.v Từ rất sớm trong lịch sử
đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu
đó đều có ý nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Hơn bất cứ một
lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và
nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ
nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư
tưởng hướng giải quyết khác nhau.

Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con người là gì và
để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn troch chính con người.
- Con người chỉ đứng sau thần linh theo quan điểm của các nhà triết học thần linh. Con
người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo
thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần
xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần
xác quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận
thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất
của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
- Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên cơ sở khoa
học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con
người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học chủ nghĩa duy tâm chủ quan
và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo
ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá cảm giác của mình
nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt
đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người
là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh. Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến
Heghen đã phát triển quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy
tâm. Đặc biệt Heghen là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời
sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân.
Đồng thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ
bản của quá trình đó. Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê
phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm con
người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học trực quan,
phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng
minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong
cơ thể con người, song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì phơ bách
lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.

Cụ thể dưới đây sẽ là các quan điểm khác nhau về con người như sau:

2. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông


Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo
- Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo, phủ nhận cái Tôi của con người.
- Trong quá trình tồn tại, con người có trần tục tính và phật tính. Bản tính con người vốn tự
có cái ác và cái thiện. Cuộc đời con người do chính con người quyết định qua quá trình
tạo nghiệp.
- Con đường tu nghiệp để trở thành La Hán, Bồ tát hay Phật được coi là đạo làm người.
Quan điểm về con người trong triết học Nho gia
- Con người và vạn vật được tạo nên từ sự hỗn hợp giữa Trời với Đất trong khoảng giữa
âm - dương và do bẩm thụ tính Trời nên bản tính con người vốn thiện.
- Bản chất con người bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức, âm dương
chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là cái đức của Trời Đất, sự
giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành”.

3. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời cổ đại và
trung cổ
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời cổ đại
- Quan điểm về con người trong triết học duy vật Hy Lạp cổ đại (Empêđôclơ, Lơxíp,
Đêmôcrít v.v).
- Quan điểm về con người trong triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại (Xôcrát và Platôn v.v).
- Quan điểm về con người trong triết học Arítxtốt.
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời Trung cổ
- Quan điểm về con người của Cơ đốc giáo.
- Quan điểm về con người trong triết học Tômát Đacanh.

4. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời Phục hưng,
Cận đại và Hiện đại
Triết học phương Tây thời nào cũng có tư tưởng duy vật gắn với thực tiễn xã hội; tuy
nhiên, ở bất kỳ thời nào quan điểm duy tâm về con người vẫn là tư tưởng thống trị.
Cho đến khi "Thuyết tiến hoá của các loài" của Đácuyn ra đời, các nhà triết học duy vật
mới có căn cứ khoa học để chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người "Không phải
Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con người đã tạo ra Chúa
theo hình ảnh của con người" (Phoiơbắc).
Tuy vậy, do chịu ảnh hưởng bởi phương pháp tư duy siêu hình nên đã giải thích sai lệch
về nguồn gốc và bản chất con người. Còn các nhà duy vật thế kỷ XVII-XVIII (Hốpxơ) coi
con người khi sinh ra đã mang sẵn bản chất tự nhiên (tính đồng loại).Phái nhân bản học
sinh vật (Phoiơbắc, Phờrớt v.v) cho con người là một thực thể tự nhiên, sinh vật; con
người sinh vật thuần tuý; con người nhân bản, tuyệt đối hoá yếu tố sinh vậtcủa con người,
quy bản chất của con người vào tính tự nhiên của nó. Ở Phoiơbắc, bản chất của con
người nằm ở tính tộc loại được thể hiện ra trong tình cảm, đạo đức, tôn giáo và tình yêu.
Đây là quan điểm triết học đã tuyệt đối hoá mặt tự nhiên của con người, tách con người ra
khỏi các hoạt động (thực tiễn) của họ, làm hoà tan bản chất con người vào bản chất tôn
giáo.
- Quan điểm về con người trong triết học Italia.
- Quan điểm về con người trong triết học Anh (Ph.Bêcơn).
- Quan điểm về con người trong triết học Hà Lan (Xpinôda)
Ở thời hiện đại, quan điểm về con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ
nét qua các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực dụng, chủ
nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc v.v, trong đó các quan điểm về
con người của chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò chủ yếu.

2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người
2.1. Khái niệm con người
2.1.1. Con người là một thực thể tự nhiên

-Giới tự nhiên là nơi chứa đựng và cũng là tiền đề vật chất đầu tiên quy định
sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người. Vì vậy bản tính tự nhiên
chính là một phương diện cơ bản của con người. Cũng vì thế mà việc nghiên
cứu khoa học, khám phá về nguồn gốc tự nhiên và cấu tạo tự nhiên của con
người là rất quan trọng. Nó góp phần giúp loài người hiểu rõ hơn về bản thân
mình từ đó làm chủ bản thân trong mọi hành vi cũng như hoạt động sáng tạo ra
lịch sử của mình.
-Bản tính tự nhiên của con người được phân tích dựa trên hai giác ngộ sau:
-Thứ nhất, về phương diện sinh học, con người là kết quả của một quá trình
tiến hóa và phát triển kéo dài từ rất nhiều năm về trước. Điều này được chứng
minh qua những ghi chép lịch sử và bằng toàn bộ các thành tựu khoa học, văn
hóa, nghệ thuật, sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc
biệt là “Học thuyết tiến hóa của Darwin”. Con người chính là một loài động vật
cấp cao, là một thực thể sinh vật sống trong tự nhiên, là sản phẩm của tự nhiên.
-Thứ hai, không chỉ là sản phẩm, con người còn là một thành phần, một bộ
phận của giới tự nhiên, đồng thời, giới tự nhiên cũng là “thân thể vô cơ của con
người”. Con người chịu sự tác động và chi phối từ các quy luật có sẵn của giới
tự nhiên như quy luật sinh học di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh
học trong cơ thể cũng như ngoài môi trường. Do đó, việc xảy ra sự biến đổi của
các quy luật tự nhiên, dù trực tiếp hay gián tiếp, cũng sẽ quyết định sự tồn tại
của con người. Ngược lại, những hoạt động của con người sẽ có thể tác động
trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên. Đây là mối quan hệ biện
chứng, thống nhất giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác
của giới tự nhiên.
2.1.2. Con người là một thực thể xã hội
- Con người cũng là một sinh vật sinh ra từ sự tiến hóa tự nhiên, song, con
người khác hoàn toàn với những loài sinh vật khác vì con người có những hoạt
động xã hội và đặc tính xã hội. Mỗi con người đều đang sống và tham gia vào,
được xét trong mối quan hệ với các cộng đồng xã hội xung quanh mình, đó là
các cộng đồng như gia đình, bạn bè, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại,…
- Bản tính xã hội của con người được phân tích dựa trên hai giác ngộ sau:
- Thứ nhất, xét từ nguồn gốc hình thành loài người, không chỉ có nguồn gốc
tiến hóa từ loài vượn cổ, từ sự phát triển tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội,
mà trước hết và cơ bản nhất chính là yếu tố lao động. Con người có khả năng
vượt qua, tách biệt khỏi các loài động vật và tiến hóa để trở thành người như
ngày nay chính là nhờ sự lao động. Nhờ lao động kết hợp với ngôn ngữ và các
mối quan hệ xã hội mà con người có thể hình thành nên ý thức, cải tạo bản năng
sinh học, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa.
- Thứ hai, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, sự tồn tại của nó
luôn phụ thuộc và bị chi phối bởi các nhân tố xã hội, quy luật xã hội. “Bản thân
xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng
sản xuất ra xã hội như thế”. Nếu xã hội biến đổi, con người sẽ chịu tác động và
có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, những hành động, sự phát triển của mỗi
con người lại là nền móng, cơ sở giúp xã hội ngày càng phát triển. Nếu không
đặt con người vào trong các mối quan hệ xã hội thì mỗi cá nhân chỉ tồn tại một
cách thuần túy, đơn giản là một thực thể sinh vật chứ không phải là một “con
người” đúng nghĩa.
- Hai bản tính tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong mối quan hệ ràng
buộc lẫn nhau, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau. Từ
đó, khả năng hoạt động sáng tạo của con người được hình thành trong quá trình
tạo ra lịch sử của chính nó.

2.2. Bản chất con người

- Trong quan niệm của triết học Mác – Lênin, con người là một thực thể trong
sự thống nhất biện chứng giữa tự nhiên và xã hội. Con người có nguồn gốc từ tự
nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời sự tồn tại và phát triển của
con người gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Một luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác khẳng định trong “Luận
cương về Phoi-ơ-bắc” (1845) rằng: “Bản chất con người không phải là một cái
gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
- Xem xét trên phương diện tính hiện thực của con người, bản chất con người
là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội” bởi vì xã hội là sản phẩm của sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa những con người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
… Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngoài thừa nhận bản tính tự nhiên của con
người, còn lý giải con người từ góc độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát
hiện ra bản tính xã hội của nó. Con người là một thực thể tự nhiên, điều đó
không sai, nhưng hơn thế nữa, con người là một thực thể tự nhiên mang đặc
tính xã hội. Bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con
người với tư cách “người”, tính xã hội đó chỉ có trong “xã hội loài người”,
không thể có ở nơi khác và con người không thể rời khỏi xã hội đó. Đó cũng là
yếu tố cơ bản giúp phân biệt con người với các loài sinh vật khác trong giới tự
nhiên.
- Dưới quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người, sự
hình thành và phát triển, khả năng sáng tạo lịch sử của con người phải được tiếp
cận từ góc độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ
xã hội của nó trong lịch sử. Vì thế, sự nghiệp giải phóng con người, bản chất
con người nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải hướng vào sự
giải phóng các mối quan hệ kinh tế - xã hội.
Như vậy, bản chất con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con
người cụ thể trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Con người, một thực thể xã
hội, thông qua những hoạt động thực tiễn đã làm thay đổi giới tự nhiên nhằm
mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó. Đồng thời, trong
quá trình ấy, con người cũng sáng tạo, làm chủ lịch sử của chính nó và góp phần
phát triển lịch sử đó.

Câu 2:
1. Thực chất của hiện tượng tha hóa con người là lao động của con
người bị tha hóa .
- Theo C.Mác thực chất của lao động bị tha hóa là quá trình lao động và sản phẩm lao
đọng từ chỗ để phục vụ và phát triển con người đã bị biến thành lực lượng đối lâp, nô
dịch và thống trị con người.
=> Con người bị tha hóa là con người đánh mất mình trong lao động, tức trong hoạt
động đặc trưng, bản chất của con người
(Hoặc nói:+ Lao động là hoạt động mang tính sáng tạo của con người, là đặc trưng
chỉ
có ở con người chứ không hề có ở con vật.
+ Nhưng khi hoạt động lao động trở thành hoạt động mang tính chất cưỡng bức bị o
ép bởi điều kiện môi trường xã hội thì con người không còn đủ năng lực, ý chí để
sáng tạo lao động một khi bị tha hóa nó không còn phẩm chất con người nữa mà chỉ

yếu tố để đảm bảo sự tồn tại thuần túy về mặt thể xác của con người điều đó có nghĩa
là một khi con người lao động trong điều kiện lao động bị tha hóa thì con người đang
thực hiện chức năng của con vật.)
- Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu
tư liệu sản xuất, nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhất trong nền sản xuất TBCN
(Hoặc nói : Chế độ TBCN đã tạo ra sự phân hóa xã hội về chiếm hữu tư nhân, tư liệu
sản xuất điều này đã làm cho đa số người lao động trở thành vô sản, số ít trở thành tư
sản vì vậy những người vô sản phải bán sức lao động của mình tức là làm thuê cho tư
sản => bị vô sản bóc lột =>tất yếu quá trình tha hóa lao động sẽ diễn ra)
=> Lao động bị tha hóa là nguyên nhân, nội dung chính yếu của sự tha hóa con người
- Sự tha hóa đã làm cho người lao dộng ngày càng phẫn nộ, sự phân cực xã hội ngày
càng lớn và điều này nó đã gây ra tình trạng bất ổn xã hội, tiềm ẩn nguy cơ khủng
hoảng về mặt chính trị xã hội
-Trong nề sản xuất tư bản chủ nghĩa sự tha hóa của lao động tạo nên bởi sự tha hóa
trên các phương diện khác của đời sống xã hội: ví dụ như sự tha hóa của đời sống
chính trị, tư tưởng của tầng lớp thống trị, của các thiết chế xã hội ....
=> Chính vì vậy sự khác phục sự tha hóa không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ

hữu, tư bản chủ nghĩa mà còn gắn liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương
diện khác của đời sống xã hội, đó là một quá trình lâu dài, phức tạp để giải phóng
con người nói chung, giải phóng người lao dộng nói riêng
2. Vĩnh viễn giải phóng toàn bộ xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột
Hoặc nói: Đây là một trong những tư tưởng cơ bản cốt lõi của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác–Lênin về con người. Giải phóng con người đã được chủ nghĩa Mác
Lênin triển khai trong nhiều nội dung lí luận và trên nhiều phương diện khác nhau.
Một trong những phương diện để giải phóng con người đó là đấu tranh giai cấp
- Khắc phục được sự tha hóa của con người, biến lao động sáng tạo trở thành hoạt
động mang tính tự nguyện ,tự tác trong điều kiện xã hội mới
- Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất và phương thức sản xuất để giải phóng con người về phương diện chính trị.
3. Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người
- Mục tiêu cuối cùng trong con người về chủ nghĩa Mác Lênin là giải phóng con
người trên tất cả các phương diện và các nội dung đó là con người cá nhân, giải
phóng
con người giai cấp,dân tộc và nhân loại .
- Có thể khẳng định rằng sự phát triển tự do của mỗi người nó chỉ có thể đạt được khi
mỗi con người thoát khỏi sự tha hóa, được giải phóng sự nô dịch do chính chế độ tư
hữu,các tư liệu sản xuất gây nên .
- Những tư tưởng về con người trong chủ nghĩa Mác đc nói là những tư tưởng cơ bản,
là cơ sở lý luận khoa học, đóng vai trò là “kim chỉ nam”, định hướng cho các hoạt
động chính trị, xh, văn hóa và tư tưởng cũng như tạo nên cuộc cách mạng trong lịch
sử nhân loại. Nó còn là tiền đề lý luận và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát
triển của KHXH, là nền tảng cho việc nghiên cứu, giải phóng và phát triển con người
trong xã hội hiện thực

You might also like