Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: KHOA HỌC CHÍNH TRỊ & NHÂN VĂN

……..o0o……..

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN GIỮA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Sinh viên thực hiện : Mai Lê Thảo Tâm

Mã sinh viên : 2313530041

Số thứ tự : 81

Lớp tín chỉ : TRIH114.2

Giáo viên hướng dẫn : Cô Thân Thị Hạnh

Hà Nội, tháng 10 năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: KHOA HỌC CHÍNH TRỊ & NHÂN VĂN

……..o0o……..

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN GIỮA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Sinh viên thực hiện : Mai Lê Thảo Tâm

Mã sinh viên : 2313530041

Số thứ tự : 81

Lớp tín chỉ : TRIH114.2

Giáo viên hướng dẫn : Cô Thân Thị Hạnh


H
à Nội, tháng 10 năm 2023
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................2

NỘI DUNG.........................................................................................................3

Phần 1.Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến...................................3

1. Khái quát về phép biện chứng......................................................................3

1.1. Khái niệm..............................................................................................3

1.2. Phép biện chứng duy vật.......................................................................3

2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến................................................................4

2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến.............................................................4

2.2. Tính chất của các mối liên hệ.................................................................4

2.3. Ý nghĩa phương pháp luận......................................................................6

Phần 2.Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội

............................................................................................................................7

1. Tăng trưởng kinh tế......................................................................................7

2. Công bằng xã hội...........................................................................................7

3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.......................8

4. Giải pháp cho tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta.........10

KẾT LUẬN.......................................................................................................17

1
LỜI MỞ ĐẦU
Căn cứ vào những thực tế đã được chứng minh trong từng giai đoạn lịch sử và
trong hoạt động thực tiễn của con người trong suốt quá trình hình thành và phát
triển, chúng ta không thể phủ nhận mối quan hệ ràng buộc giữa con người, sự vật,
hiện tượng của thế giới. Chúng không tồn tại độc lập và ngẫu nhiên bên ngoài vũ
trụ mà tồn tại trong sự ràng buộc, quy định và chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, sự tồn
tại của thế giới ngày nay là kết quả tất yếu của việc giải quyết các mối quan hệ giữa
các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, mặc dù lợi ích của
kinh tế đối với sự phát triển con người là vô cùng lớn nhưng cũng không thể bỏ qua
những nhu cầu tất yếu của xã hội. Đây chính là lý do chính khiến “Phát triển bền
vững” đang trở thành xu hướng tất yếu cho sự phát triển của thế giới.

Là một quốc gia đang phát triển với nhiều lợi thế về nhân lực, tài nguyên…,Việt
Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển đó. Từ sau công cuộc đổi mới,
nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường và đã đạt
đượcnhững thành tựu to lớn phải kể đến như là: Nền kinh tế tăng trưởng dương
giữa tình hình đại dịch bùng phát; Lạm phát thấp và có chiều hướng chậm dần;
Giáo dục và y tế gặt hái được nhiều thành tích nổi bật… Nhưng bên cạnh đó vẫn
còn những hạn chế, vướng mắc chưa tìm được lời giải đáp như: Sự gia tăng khoảng
cách giàu nghèo; Vấn đề an ninh, an toàn xã hội chưa được đảm bảo… Những hạn
chế ấy sẽ trở thành thách thức lớn cản trở sự phát triển bền vững mà nước ta đang
hướng tới. Chính vì vậy, có thể nói rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội là vấn đề ưu tiên hàng đầu, là đòi hỏi vừa cấp thiết vừa lâu dài
trong công cuộc đổi mới của đất nước.

Xét tính cấp thiết và đúng đắn nêu trên của triết học Mác - Lênin nói chung và
phép biện chứng của các mối quan hệ phổ quát nói riêng, tôi quyết định chọn đề
tài:

2
“Biện chứng của các mối quan hệ” phổ biến và vận dụng phân tích mối quan hệ
chung giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội" để phục vụ nghiên cứu. Bằng
việc đi sâu phân tích, nghiên cứu làm rõ hai nội dung chính bao gồm: Khái niệm,
tính chất và ý nghĩa lý luận của phép biện chứng của quan hệ phổ biến và Mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội của ngành và một số giải pháp của
nhà nước ta hiện nay. Tôi mong muốn được đóng góp thông qua nỗ lực của mình
để đưa ra những chính sách, định hướng, giải pháp thiết thực nhất nhằm phát triển
kinh tế đất nước đi đôi với công bằng xã hội.

NỘI DUNG

Phần 1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến

1. Khái quát về phép biện chứng

1.1. Khái niệm

Phép biện chứng là học thuyết khái quát về biện chứng của thế giới thành hệ thống
các nguyên lí, các quy luật, các phạm trù để từ đó hình thành nên hệ thống nguyên
tắc phương pháp luận nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người.

Phép biện chứng thuộc biện chứng chủ quan, tức là sự phản ánh biện chứng của thế
giới vật chất vào trong đời sống ý thức của con người. Khi xem xét sự vật, hiện
tượng phép biện chứng đặt nó vào trạng thái vận động, biến đổi, phát triển và trong
mối quan hệ với sự vật, hiện tượng khác.

1.2. Phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng đã phát triển qua ba giai đoạn, ba hình thức cơ bản, trong đó giai
đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử triết học là sang tạo nên phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phép biện chứng duy vật được xem là khoa học

3
nhất, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị , sâu sắc nhất và không
phiến diện.

Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ
biến của các quá trình vận động phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật cung cấp những nguyên tắc,
phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”
để nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến

Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến
của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên
hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới,
nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa:
các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản
chất và hiện tượng… Như vậy giữa các sự vật hiện tượng của thế giới vừa tồn tại
những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi
nhất định. Đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những
mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều
kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính
thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của
các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.

2.2. Tính chất của các mối liên hệ

Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ
bản của các mối liên hệ.

4
- Tính khách quan của các mối liên hệ

Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động
lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật hiện tượng (hoặc trong bản
thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của
con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong
hoạt động nhận thức của mình.

- Tính phổ biến của các mối liên hệ

Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật hiện tượng hay quá trình
nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng hay quá trình khác. Đồng
thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ
thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó,
tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ

Tính phong phú, đa dạng phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các
sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác,
cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển cuả sự vật
thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất
tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật
nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên
ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mói liên hệ chủ yếu và thứ yếu,
mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp…

5
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm
về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ
đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều
kiện không gian và thời gian cụ thể.

2.3. Ý nghĩa phương pháp luận

- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và nhận thức cần phải có quan điểm toàn diện.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại của sự vật đó
với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý
có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối
lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức thực tiễn.

Lenin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.

- Từ tính chất da dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện qua điểm toàn diện thì đồng thời
cũng phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.

Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng
nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ
vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong mỗi tình huống cụ thể để
từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý những vấn
đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và
khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khác phục quan
điểm chiết trung, ngụy biện.
6
Phần 2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội

1. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế học, phản ánh sự gia tăng về mặt
lượng của một nền kinh tế. Nó được đo bằng nhiều chỉ số khác nhau, như tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay thu nhập bình quân đầu
người trên năm (GNP/người/năm, GDP/người/năm). Tốc độ tăng trưởng kinh tế là
mức (%) được tăng thêm của sản lượng GNP, GDP, GNP/người hay GDP/người
của năm này so với năm trước hay giai đoạn này so với giai đoạn trước. Với nghĩa
như vậy, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi quốc gia, mọi nền kinh
tế trước yêu cầu tồn tại và phát triển.

2. Công bằng xã hội

Công bằng xã hội là khái niệm có nội dung phức tạp hơn so với khái niệm tăng
trưởng kinh tế. Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự ngang bằng
nhau trong mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa
nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng thành viên trong xã hội
gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
thông qua sự cống hiến theo khả năng trí tuệ, sức lực của mình cho sự phát triển xã
hội và được xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự
tương xứng ấy là bất công. Với cách hiểu công bằng xã hội như vậy, việc định
lượng mức độ thực hiện công bằng xã hội chỉ mang tính tương đối, nó không
những phản ánh trình độ phát triển về kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa của từng
nước, mà còn thể hiện quan điểm, cách nhìn của các nhóm chủ thể.

Ngày nay, trên thế giới, người ta nhìn nhận và đánh giá mức độ thực hiện công
bằng xã hội trước hết qua các chỉ số thu nhập. Ngoài ra, các chỉ số thể hiện mức độ

7
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, như mức tối thiểu về dinh dưỡng,
sức khỏe, mức sống, nhà ở và các điều kiện khác đảm bảo sự phát triển của cá nhân
cũng là những yếu tố quan trọng. Gần đây, Liên hợp quốc đưa ra chỉ số phát triển
con người (HDI) và được sử dụng khá phổ biến để đánh giá sự phát triển của một
đất nước. Chỉ số này được tính toán theo 3 tiêu chí có tính bao quát, thể hiện được
những yếu tố quan trọng nhất trong phát triển con người, đó là tuổi thọ, trí tuệ và
mức sống. Những chỉ số đó cho thấy, công bằng xã hội không chỉ phản ánh các
quan hệ chính trị - xã hội và mức độ nhân văn của xã hội, mà còn phần nào phản
ánh cả xu hướng ổn định, bền vững của một nền kinh tế cũng như trật tự xã hội.
Đây là vấn đề cần được tính đến trên con đường phát triển của các quốc gia.

3. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những cái đích cần hướng tới
của các quốc gia hiện nay. Tuy nhiên, việc nhìn nhận mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội ở những quốc gia khác nhau là không giống nhau; vì
vậy, cách giải quyết vấn đề cũng đi theo những xu hướng khác nhau. Có quan điểm
cho rằng, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định sự sống còn của một đất nước; vì
vậy, cần tập trung cho tăng trưởng kinh tế. Với quan niệm như vậy, nhiều quốc gia
đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, song lại phải đối mặt với nhiều vấn đề xã
hội.

Từ thực tế phát triển ở nhiều nước, chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
đã đưa ra lời cảnh báo về 5 kiểu tăng trưởng kinh tế cần phải tránh. Đó là:

1. Tăng trưởng không việc làm – kiểu tăng trưởng kinh tế nhưng không mở rộng
những cơ hội tạo thêm việc làm, hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập thấp.

2. Tăng trưởng không lương tâm – kiểu tăng trưởng mà thành quả của nó chủ yếu
đem lại lợi ích cho người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, thậm chí số người
nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng.

8
3. Tăng trưởng không có tiếng nói – kiểu tăng trưởng kinh tế không kèm theo sự
mở rộng nền dân chủ hay là việc tạo thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói khác và
dập tắt những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn về xã hội và kinh tế.

4. Tăng trưởng không gốc rễ – kiểu tăng trưởng khiến cho nền văn hóa của con
người trở nên khô héo.

5. Tăng trưởng không tương lai – kiểu tăng trưởng mà thế hệ hiện nay đã phung phí
những nguồn lực mà các thế hệ tương lai cần đến.

Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, công bằng xã hội là ước mơ của con người
ở mọi thời đại; vì vậy, cần đạt tới một xã hội công bằng càng nhanh càng tốt. Do
nôn nóng muốn có ngay một xã hội không còn áp bức, bất công, mọi người được
sống tự do và bình đẳng, một số nước đã bất chấp quy luật phát triển kinh tế - xã
hội, không căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể và nhanh chóng tiến hành công hữu
hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, thực hiện phân phối bình quân, cào bằng. Quan niệm
về công bằng xã hội một cách cực đoan như vậy đã tạo thành lực cản đối với tăng
trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế của các nước theo mô hình này rơi vào khủng
hoảng. Thực tế này đã buộc các nước đó phải thay đổi cách nhìn trước đây của
mình về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội theo chiều
hướng khác.

Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là mối quan hệ có sự
tác động qua lại, biện chứng với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau.
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng
trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội; tiến
bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực để tăng trưởng kinh tế cao bền vững. Như
vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố
đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.

9
Lịch sử phát triển xã hội trên thế giới trải qua những giai đoạn mà mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội không được tôn
trọng. Có những mô hình tăng trưởng kinh tế tiêu cực đã gây ra những hậu quả
nghiêm trọng, mà thành tựu tăng trưởng ấy chẳng thể bù đắp những hậu quả cho sự
phát triển xã hội và môi trường thiên nhiên. Mặt khác, cũng có mô hình quá coi
trọng phúc lợi xã hội trong khi tăng trưởng kinh tế chưa đủ sức gánh vác được
trọng trách ấy… Những mô hình đó không tạo ra được động lực phát triển bền
vững. Việc đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm từ những mô hình ấy, đã khiến thế
giới hướng đến sự phát triển hài hòa, cân đối, coi trọng mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Tiến bộ và công bằng quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế ở hai khía cạnh: vừa
là động lực, vừa là thành quả của tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự phân phối thành
quả của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện vật chất để thực
hiện tiến bộ công bằng xã hội. Tiến bộ, công bằng xã hội cũng là động lực mục tiêu
của tăng trưởng kinh tế. Không đảm bảo tiến độ, công bằng xã hội sẽ gây cản trở
cho tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo.

4. Giải pháp cho tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta

Ở nước ta, trong những năm đổi mới, đường lối của Đảng cũng như chính sách của
Nhà nước đã thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Điều này được phản
ánh một cách nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng và trong chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong suốt thời kỳ đổi mới. Một số văn kiện lớn
của Đảng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII (6-1993) về phát triển
nông nghiệp, xây dựng nông thôn; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-
1994) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa... khẳng định lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; động viên toàn
dân cần, kiệm để xây dựng đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện

10
đời sống nhân dân; phát huy văn hóa, giáo dục; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; bảo vệ môi trường…

Đại hội VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về vấn đề này.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp
lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho
mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình". Đến Hội
nghị Trung ương 4 khóa VIII, Đảng ta nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế phải đi
đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với thành thị, giữa các tầng lớp
xã hội.

Đường lối đúng đắn đó tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại
hội lần thứ IX: "… phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế
đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường".

Đến Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển một bước
quan trọng, cụ thể là: "Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong
phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính
sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và
hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc". Tư tưởng chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm 2006 -
2010 là: "Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện
con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải

11
thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo.
Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng".

Tựu trung lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề này trên một
số điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ
không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế vừa
là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội. Không thể có công
bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một nền
kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội mà con người
ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp và một bộ phận đáng kể lực lượng lao
động chưa được đào tạo, thất nghiệp, nghèo đói. Ngay cả trong điều kiện nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội cũng luôn là một đòi hỏi khách quan, tất yếu. Trong điều kiện
đất nước còn nhiều khó khăn, lực lượng sản xuất thấp kém, không đồng đều, cơ cấu
dân số đông, việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội ở nước
ta phải tính đến mục tiêu phát triển kinh tế. Để công bằng xã hội có nội dung thực
chất và tạo động lực phát triển kinh tế, cần dứt khoát từ bỏ phương thức phân phối
bình quân, cào bằng, bao cấp; khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước; xoá
bỏ lối quản lý xin - cho... Chẳng hạn, trong chiến lược xóa đói giảm nghèo ở nước
ta, một mặt, cần tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội trong các
chương trình xóa đói giảm nghèo; mặt khác, cần tăng cường các hoạt động giám
sát, định hướng, tổ chức giúp người dân thoát nghèo một cách vững chắc theo kiểu
"dạy người dân cách tự câu lấy cá cho mình".

Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống

12
hiến với hưởng thụ. C. Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng
trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này
có nghĩa là những người khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ như
nhau.

Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau.
Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến của họ
đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối phân
phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã xuất hiện
ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã
hội như vậy nhằm khuyến khích mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là
tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như
những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục... cũng cần và phải
tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều
người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hi sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp
một cách thoả đáng. Giải quyết vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó
phải mang tính pháp lý, được xã hội thừa nhận.

Ngoài ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần thiết lập và
bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, như nguồn vốn, tài
nguyên, thông tin, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế cũng như các cơ hội
tìm kiếm thị trường và việc làm...

Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả
nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát

13
triển. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã cụ thể hóa tinh thần này trên từng lĩnh
vực.

Về kinh tế, Đảng ta chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm
giàu theo luật pháp, tạo cơ hội để các hộ nghèo thoát đói nghèo một cách bền vững,
khắc phục tình trạng bao cấp, tư tưởng ỷ lại; tiếp tục cải cách chính sách tiền lương.
Về mặt y tế, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe, xây dựng và hoàn thiện các chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế cho các
đối tượng chính sách và người nghèo trong khám chữa bệnh, chú trọng triển khai
các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế
ngoài công lập... Về giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện đa dạng hóa các loại hình
cứu trợ xã hội, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết
yếu, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng...
Trên từng lĩnh vực, các địa phương phải chủ động đề ra và thực hiện những bước
đi, mục tiêu và các giải pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng
vùng, miền.

Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố
con người. Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã
hội mới. Xây dựng xã hội mới chính là để phát triển con người toàn diện; ngược
lại, trong số các nguồn lực để xây dựng xã hội mới, con người là vốn quý nhất.
Trong thời đại ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải quan tâm giải quyết vấn đề
công bằng xã hội, tạo điều kiện cho con người có thể phát huy mọi năng lực và
hưởng thụ xứng đáng những thành quả của chính mình. Tại Đại hội lần thứ X,
Đảng ta nhấn mạnh việc thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu HDI trong
suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách xã hội. Như vậy, có thể nói, tăng
cường đầu tư cho con người là cơ sở để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và
giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả, thiết thực.

14
Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã hội
là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Công
bằng xã hội là vấn đề của quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền đề,
nhưng không phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế
tác động đến việc phân phối lợi ích thông qua những khâu trung gian; trong đó,
trước hết phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước.

Thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội theo cách thức riêng của nó, cụ
thể là bằng cách phân phối lợi nhuận theo quy luật của thị trường. Theo đó, người
có đóng góp nhiều thì hưởng lợi nhiều, giỏi thắng kém thua và nhờ vậy, tạo động
lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan
điểm nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc phân phối thu nhập được thực hiện không
chỉ theo lao động, mà còn theo mức độ đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài
sản, đất đai vào tăng trưởng kinh tế, trong đó phân phối thu nhập theo lao động là
hình thức phân phối chủ yếu, và như thế được coi là công bằng. Tuy vậy, đối với
một thị trường chưa hoàn hảo, còn có độc quyền, có cạnh tranh bất bình đẳng thì
nguyên tắc phân phối của thị trường cũng chưa phải đã là công bằng. Ngoài ra, hiện
nay, ở nước ta, còn nhiều đối tượng có những khiếm khuyết về sức khỏe, năng lực,
trí tuệ, còn nhiều khu vực dân cư các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa kinh tế
hàng hóa chưa phát triển… mà sự phân phối của thị trường không đến được. Trong
điều kiện như vậy, sự điều tiết của “bàn tay hữu hình” - Nhà nước là sự can thiệp
cần thiết, bảo đảm cho tất cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những
cống hiến của họ cho xã hội trên nhiều lĩnh vực mà thị trường không làm được. Vì
vậy, tăng cường vai trò của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội là xu hướng tất yếu, là một biện pháp đặc biệt quan trọng. Bên
cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ đạo tích cực đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo dục, y tế và
các dịch vụ công cộng khác với phương châmkhông bao cấp tràn lan và không vì
mục tiêu lợi nhuận.

15
Vấn đề đảm bảo sự công bằng và bình đẳng nhiều hơn nữa đang đặt ra cho Nhà
nước trọng trách phải điều tiết một số lĩnh vực sau:

1. Tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người, nhất là người nghèo được quyền sở hữu hay
chiếm hữu và sử dụng những yếu tố sản xuất, hoặc còn gọi là “các tài sản sinh lời”.

2. Điều tiết giảm thu nhập của tầng lớp dân cư giàu có.

3. Điều tiết tăng thu nhập cho tầng lớp người nghèo, yếu thế. Nhà nước dùng ngân
sách để hỗ trợ cho người nghèo, những người khuyết tật thông qua các chương
trình kinh tế - xã hội, các quỹ trợ cấp, tín dụng ưu đãi… Ngoài ra còn vận động
nhân dân góp quỹ xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ vùng gặp thiên tai.

4. Điều tiết giá cả, quan hệ cung cầu trên thị trường, nhằm đảm bảo ổn định sản
xuất và mức sống của những người có thu nhập thấp

5. Mở rộng và đa dạng hệ thống bảo hiểm.

Bên cạnh những giải pháp trên cần quan tâm hơn nữa vấn đề cải cách hành chính
và nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ Đảng và Chính
quyền. Cải cách hành chính, lành mạnh hóa bộ máy nhà nước, ngăn ngừa và
nghiêm trị các hành vi tiêu cực, nhất là nạn tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, lừa đảo,
hối lộ giữa công chức nhà nước với các đại gia giàu có… là biện pháp cần thiết và
hữu hiệu để nâng cao vai trò của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo ra sự hài hòa trong mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng, xã hội, như vậy sẽ tạo
đượcđộng lực cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

16
KẾT LUẬN

Tăng trưởng kinh tê và công bằng xã hội là một trong những mối quan hệ cơ bản
của quá trình phát triển. Có thể nói thực chất của quan điểm phát triển hiện đại là
tăng trưởng kinh tế đi liền với công bằng xã hội. Tăng trưởng là điều kiện tiên
quyết, quan trọng nhất của phát triển, nhưng tự nó không đưa đến phát triển. Phát
triển chỉ có được khi tăng trưởng kinh tế tạo ra những chuyển biến trong cơ cấu
kinh tế và cấu trúc xã hội, ở đó mỗi người dân được hưởng những thành quả của
tăng trưởng và nhờ đó phát triển cá nhân mình. Công bằng xã hội chỉ có thể đạt
được trong điều kiện mỗi cá nhân có các điều kiện như nhau tham gia vào các hoạt
động cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, có sự khác biệt về các điều kiện tùy theo
giai đoạn lịch sử, điều kiện sinh sống, tố chất cá nhân. Do đó, công bằng xã hội
luôn thể hiện ra như một xu hướng hơn là một trạng thái hiện thực. Trên thực tế,
người ta có thể giảm bất bình đẳng và bất công chứ chưa thể đạt được công bằng
tuyệt đối. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội do vậy phai được
hiểu là mức độ giảm bất bình đẳng đạt được cùng với tăng trưởng.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là mối quan hệ biện
chứng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau.
Tăng trưởng kinh tế là nền tảng, là cơ sở, điều kiện để thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công
bằng xã hội; Tiến bộ, công bằng xã hội là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao
và bền vững. Do đó, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là

17
những yếu tố đối lập nhau mà có quan hệ nhân quả với nhau. Vì vậy, thực hiện các
biện pháp nhằm hướng tới cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
sẽ giúp đất nước vươn lên và phát triển bền vững.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính Trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính
Trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.

3. Bùi Đình Phong, Nguyễn Tuyết Hạnh (7/12/2012), Giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta hiện nay, Tập
chí Phát triển nhân lực số 29 trang 13.

4. Ngân hàng Phát triển Châu Á (2021), Báo cáo cập nhật Triển vọng Phát triển
châu Á, Hà Nội.

5. World Bank (2021), Bối cảnh Tổng quan về Việt Nam,


(https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview#1)

18

You might also like