Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT

BỘ MÔN ĐẠI CƯƠNG


_______________________

TIỂU LUẬN MÔN HỌC

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN – 7020105

Họ và tên: Dương Huy Hoàng


Mã số sinh viên: 2121050957
Lớp: DCCTCT66F1
Cán bộ giảng dạy: Ngô Văn Hưởng

CHỦ ĐỀ 7

Từ lý luận của triết học Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội và quá
trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
hãy vận dụng để lý giải cho con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
tư bản chủ nghĩa của Việt Nam.

Hà Nội – 2022
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

Mục lục
I. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ HÌNH THÁI KINH
TẾ XÃ HỘI..........................................................................................................2
1. Giá trị khoa học.......................................................................................2
2. Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất
quyết định các mặt của đời sống xã hội và vai trò quyết định của người
lao động đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.................................2
3. Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa
các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau........................................................3
4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên.....................................................................................................4
II. QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI............................................................5
1. Sự vận động và phát triển......................................................................5
2. Nguồn gốc................................................................................................5
3. Quá trình phát triển...............................................................................5
4. Kết luận....................................................................................................5
III. LÝ GIẢI CHO CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
BỎ QUA TƯ BẢN CHỦ NGHĨA CỦA VIỆT NAM........................................6
1. Lý giải......................................................................................................6
2. Đặc điểm..................................................................................................7
3. Cơ hội.......................................................................................................8
4. Thách thức.............................................................................................11

1
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

Bài làm

I. LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ HÌNH THÁI


KINH TẾ XÃ HỘI
1. Giá trị khoa học
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trước Mác đã có không ít cách tiếp cận, nghiên cứu
lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ những nhận thức khác nhau, với những quan
điểm lập trường khác nhau mà có sự phân chia lịch sử, sự tiến hoá của xã hội theo những
cách khác nhau. Chúng ta cũng đã quen với khái niệm thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng,
thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước… và gần đây là các nền văn minh: Văn minh
nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
do C. Mác xây dựng lên, có vị trí quan trọng trong triết học Mác-Lênin. Lý luận đó đã
được khoa học thừa nhận và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh
vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài
người, C.Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội,
bản chất của từng chế độ xã hội, nghiên cứu về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép
phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện chứng
giữa các lĩnh vực cơ bản của nó; chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một
qua trình lịch sử - tự nhiên. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn
và khoa học sự vận hành của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định cũng
như tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã hội loài người.
Hiện tại, do lo sợ sự lớn mạnh bởi tư tưởng cách mạng của C. Mác, sợ bị mất đi
lợi ích từ sự độc quyền áp bức, bóc lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân
tộc trên thế giới nên giai cấp tư sản tìm mọi cách phủ nhận lý luận hình thái kinh tế -
xã hội dưới mọi hình thức. Thêm vào đó, cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống
xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và lâm vào giai đoạn thoái trào, các phần tử phản
động, chống phá tuyên bố về “sự cáo chung” của lý luận này. Những ý kiến phê phán
có đủ mọi màu sắc, tựu trung là phủ nhận giá trị của lý luận với lập luận rằng: Lý luận
đã lạc hậu, chỉ thích hợp đối với “bước chuyển từ thời trung cổ sang thời cận đại”.
Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn như lý luận về các nền văn minh.
Chính vì vậy việc khẳng định những giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã
hội đang là một đòi hỏi cấp thiết, nghiêm túc nhằm cũng cố niềm tin khoa học về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn.

2
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

2. Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết
định các mặt của đời sống xã hội và vai trò quyết định của người lao động đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất

Không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải
thích các hiện tượng đời sống mà phải từ phương thức sản xuất. Trong đó con người
giữ vị trí trung tâm, là chủ thể của lịch sử, người lao động là nhân tố đóng vai trò quyết
định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Không thể phủ nhận được ngày nay những
thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại với sự ra đời của người máy đã thay thế
không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp mà còn có thể thay thế
cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là khoa học - công nghệ hiện đại trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của
lực lượng sản xuất, từ đó người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá
trình sản xuất. Về thực chất, khoa học - công nghệ là sản phẩm của quá trình nhận
thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của con người. Có thể nói, do yêu cầu của sản
xuất mà con người đã sáng tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa
học - công nghệ, đồng thời quyết định việc sử dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
theo mục đích của mình.
Chính vì thế, khoa học - công nghệ là của con người, gắn liền với con người,
phụ thuộc vào con người và phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được
vật hóa vào quá trình sản xuất. Nếu không xuất phát từ con người, được tiến hành bởi
con người và không hướng về mục đích phục vụ con người, không có quá trình sản
xuất nào có đủ lý do để tồn tại và phát triển. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả
thời đại của khoa học - công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò
quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
3. Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá
nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau

Trong tác phẩm: “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những
người dân chủ nghĩa xã hội ra sao”, Lênin đã chỉ ra rằng: Các nhà xã hội học chủ quan
không chỉ ra được nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động phát triển xã hội, họ
coi xã hội là một tổ hợp máy móc hỗn loạn không tuân theo quy luật nhất định.
Ngược lại, lý luận hình thái kinh tế - xã hội cho thấy để nhận thức, lý giải đúng
đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối
quan hệ lẫn nhau giữa chúng. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát
triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành từ máy móc và do đó
cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể
mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát
triển của hình thái xã hội đó” 3. Cũng như phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng
3
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

hóa khoa học - đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để đi
sâu tìm hiểu các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học…) và
mối quan hệ giữa chúng để thấy được tính thống nhất biện chứng giữa các mặt trong
đời sống xã hội. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ
xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.
Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công nghệ, có những
quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và đòi phải thay thế
bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại
thành văn minh nông nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây
là phân chia dựa và các trình độ phát triển của kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và
công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và
các quy luật vận động của xã hội từ thấp đến cao.
4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên

Quan điểm của C. Mác: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên. Tức diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không
phải theo ý muốn chủ quan. Xã hội loài người vận động, phát triển liên tục từ thấp đến
cao không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của con người, mà do các quy luật nội tại của
đời sống xã hội quy định, trong đó trước hết và cơ bản là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lênin đã chỉ rõ cơ sở khoa học của
vấn đề này như sau: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản
xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì
người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy dưới ảnh hưởng, tác động của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, của quá trình toàn cầu hóa, thì những nước kinh tế kém
phát triển nếu đã giành chính quyền về tay giai cấp vô sản, có được những nhân tố
khách quan và chủ quân cần thiết thì hoàn toàn có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Quan niệm Mácxít cũng chỉ ra rằng: Toàn bộ xã hội loài người vận động phát
triển tuần tự qua hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau từ thấp đến cao: Cộng sản
nguyên thủy; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến; Tư bản chủ nghĩa; Cộng sản chủ nghĩa
(giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội). Những đồng thời cũng chỉ ra rằng: Một dân tộc,
hay quốc gia cụ thể nào đó trong những điều kiện khách quan, chủ quan, thời đại hay
trong nước cho phép, thì không nhất thiết phải phát triển tuần tự, mà có thể phát triển
“bỏ qua” một nấc thang nào đó của lịch sử để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội
cao hơn. Đó chính là quá trình lịch sử - tự nhiên đặc thù.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một trong những thành tựu khoa học mà C.
Mác đã để lại cho nhân loại. Chính nhờ xuất phát từ con người hiện thực - con người
đang sống hiện thực của mình, C. Mác đã vạch ra sản xuất vật chất là cơ sở đời sống
xã hội. Xã hội là một hệ thống mà trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau từ thấp đến
cao thông qua cách mạng xã hội. Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã

4
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, vừa bị tác động bởi các điều kiện lịch sử
cụ thể của từng quốc gia, từng dân tộc.
Mặc dù hiện nay, xã hội loài người có những đặc điểm khác với thời kỳ của
C.Mác, nhưng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Nó là phương
pháp luận thực sự khoa học để phân chia giai đoạn phát triển, xem xét mỗi quan hệ lẫn
nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội như quy luật vận động, phát triển từ hình thái
kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học, loài người
ngày nay cũng tìm ra những phương pháp tiếp cận mới về xã hội, nhưng không phải vì
thế mà lý luận hình thái kinh tế - xã hội trở lên lỗi thời. Lý luận hình thái kinh tế - xã
hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và tính thời đại của nó; Là phương pháp luận thực
sự khoa học để phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay.

II. QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN


CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sự vận động và phát triển

Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu
trúc hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc
thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.

2. Nguồn gốc

Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của
mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên
nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.
V.I.Lênin từng nhấn mạnh một phương pháp luận quan trọng khi nghiên cứu về xã hội
là: "Chỉ cố đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy
những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có
được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên".

3. Quá trình phát triển

Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát triển của
lịch sử xã hội loài người có thể đo sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng
nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới
sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ
của nó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa.

5
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

4. Kết luận

Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính
chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội:
hình thái kinh tế – xã hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến,
hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái
kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Như vậy, quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát
triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm
cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã
hội nhất định.

III. LÝ GIẢI CHO CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ
QUA TƯ BẢN CHỦ NGHĨA CỦA VIỆT NAM.

1. Lý giải

Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
(TBCN) không phải theo phương thức trực tiếp, mà phải đi qua các bước trung gian,
phải bắc những “chiếc cầu nhỏ” đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Việc bỏ qua chế
độ TBCN, về cơ bản, chính là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN trong nền sản xuất
xã hội đang vận động đi lên CNXH, cũng có nghĩa ở đó còn tồn tại ở mức độ nhất định
các quan hệ sản xuất tư bản và tiền tư bản, chúng vận động và tác động đến sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội đang định hướng đi lên CNXH. Chính vì vậy, trong thực
tiễn cần có những chính sách để các quan hệ này vận động, đóng góp vào sự tăng
trưởng chung, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của chúng.

Quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển nhất định của
lực lượng sản xuất. Một khi lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn thấp, đa dạng, cần xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp, nghĩa là cần có các quan hệ sản xuất đa dạng để tạo điều kiện khai thác các
nguồn lực và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

Trên phạm vi quốc gia, chúng ta bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ
sản xuất TBCN, song trong phạm vi cụ thể như doanh nghiệp, hay các đặc khu kinh tế,
quan hệ kinh tế TBCN, cách thức quản lý theo kiểu TBCN vẫn tồn tại, vận hành theo
các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản (CNTB). Sự vận hành và chi phối của quan
hệ sản xuất TBCN vẫn diễn ra trong quá trình sản xuất, song với không gian và thời
gian nhất định. Phạm vi không gian và thời gian này được quy định bởi các luật và quy
định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Việc bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH không chỉ là bỏ qua xác lập vị trí chi
phối của quan hệ sản xuất TBCN và kiến trúc thượng tầng TBCN, mà còn là bỏ
qua việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, cũng như việc tước đoạt tư liệu sản xuất
của người lao động, đẩy những người lao động trở thành người làm thuê. Sau khi
giành được chính quyền, giai cấp công nhân và những người lao động trở thành những
6
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

người chủ của xã hội mới, thực hiện xã hội hóa tư liệu sản xuất, từng bước xây dựng
và đưa quan hệ sản xuất mới ngày càng chiếm vị trí chi phối trong nền sản xuất xã hội.
Do vậy, bỏ qua chế độ TBCN cũng còn là việc bỏ qua tạo dựng giai cấp thực hiện sự
thống trị, bóc lột giai cấp công nhân và những người lao động trong CNTB. Song,
trong thời kỳ quá độ cùng với xây dựng giai cấp công nhân là việc hình thành tầng lớp
doanh nhân, cùng với những người lao động cùng làm chủ xã hội, cùng xây dựng xã
hội mới.

Vậy bỏ qua chế độ TBCN là việc bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, đồng thời bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất và
tư liệu sản xuất của người lao động, bỏ qua việc tạo dựng giai cấp thống trị, bóc lột
người lao động, và đương nhiên tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ TBCN.

2. Đặc điểm

- Cơ hội và thách thức luôn đan xen lẫn nhau trong quá trình vận động đi lên

CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta. Bản thân cơ hội xuất hiện thường gắn liền
với thách thức, đan xen nhau cùng tác động. Vấn đề là chúng ta cần nắm bắt cụ thể
tình hình, lường trước những thay đổi để nhận rõ các cơ hội cũng như thách thức đặt ra
để có giải pháp tận dụng cơ hội, khắc phục các khó khăn, thách thức, không lạc quan
thái quá và cũng như không chủ quan trước những thách thức, khó khăn.

Trong môi trường ràng buộc các mối quan hệ, các biến động của môi trường quốc tế
luôn đặt ra các cơ hội và thách thức, và tùy thuộc vào lợi ích của các quốc gia mà họ
ứng xử với các biến động. Do vậy, các cơ hội, thách thức đặt ra cũng rất đa dạng, có
khi là cơ hội với quốc gia này, nhưng lại là thách thức với quốc gia khác.

Sự đan xen cơ hội và thách thức không chỉ trong ứng xử quan hệ với mỗi quốc gia, mà
ngay trong từng vấn đề cũng đều bao gồm cả cơ hội và thách thức. Trong bối cảnh
hiện nay, trong mỗi cặp quan hệ quốc tế vừa là đối tác, vừa là đối tượng. Trong quan
hệ với đối tác cũng có cả cơ hội và thách thức đối với sự phát triển.

- Sự chuyển hóa cơ hội và thách thức trong quá trình tác động đến sự phát triển

đi lên CNXH. Thực tế cho thấy cơ hội và thách thức luôn đan xen với nhau, trong cơ
hội có thách thức và ngược lại. Nếu có cơ hội đến mà chúng ta không nhận biết, không
có khả năng nắm bắt thì sự tụt hậu không chỉ là nguy cơ, mà là các thách thức, các mối
đe dọa hiện hữu. Ngược lại, nếu có chính sách tốt, chúng ta có thể chuyển hóa thách
thức thành cơ hội cho mình.

Cơ hội không thể tự biến thành lực lượng vật chất trên thực tế mà nó tuỳ thuộc vào khả
năng tận dụng cơ hội của mỗi chủ thể khác nhau. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp
nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào vị thế và nỗ lực vươn lên của các
chủ thể. Cơ hội và thách thức không phải cố định mà luôn vận động, biến đổi và
chuyển hóa. Điều đó cũng có nghĩa thách thức đối với lĩnh vực này có thể lại là cơ hội
cho lĩnh vực khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt
7
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới cho phát triển. Ngược lại, nếu không tận
dụng được cơ hội, cơ hội sẽ mất đi, thậm chí chuyển hóa thành thách thức và những
khó khăn rất khó vượt qua.

Sự chuyển hóa cơ hội và thách thức không chỉ phụ thuộc vào năng lực chủ quan trong
quá trình nhận thức và nắm bắt cơ hội, mà còn phụ thuộc vào thế và lực của bản thân
chúng ta trước việc ứng xử các quan hệ. Do vậy việc tạo lập thế và lực rất quan trọng
trong tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức. Và chính việc tận dụng được cơ hội lại tạo
thế và lực mới cho chúng ta trong bước đường vận động đi lên.

- Do mở cửa và hội nhập sâu rộng và sự phát triển của các phương tiện truyền

thông, nên sự tác động của môi trường đến sự phát triển của chúng ta rất nhanh nhạy,
trực tiếp và phức tạp. Trong điều kiện mở cửa, hội nhập, với sự phát triển mạnh của
phương tiện truyền thông, thế giới ngày càng “phẳng”, nên sự tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau trong thế giới toàn cầu hóa rất nhanh nhạy và trực tiếp. Hội nhập càng sâu rộng
sẽ cho phép tranh thủ các điều kiện bên ngoài, nhất là tranh thủ tham gia sự phân công
lao động quốc tế và thị trường thế giới rộng lớn. Song cũng với hội nhập, gắn nền kinh
tế quốc gia với nền kinh tế toàn cầu, các biến động của thế giới sẽ tác động nhanh và
mạnh tới nền kinh tế quốc gia.

Sự tác động lẫn nhau trong thế giới hội nhập như vậy nên thời cơ và thách thức cũng
xuất hiện rất nhanh, đòi hỏi có chính sách linh hoạt để tận dụng các cơ hội và hạn chế
thách thức. Điều này cần cơ chế quản lý hiệu quả mới đáp ứng được đòi hỏi của thực
tiễn.

Tác động của bối cảnh mới đến sự phát triển của một quốc gia rất đa dạng, tùy theo vị
thế của quốc gia đó. Tuy nhiên, sự tác động đến việc quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ
TBCN trong bối cảnh chung hiện nay, rõ ràng có nét đặc thù. Cụ thể các quốc gia
TBCN hiện nay sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển của Việt Nam khác với các nước
đang trong quỹ đạo phát triển TBCN, và đặc biệt trong điều kiện có sự chống đối của
các thế lực thù địch thì sự tác động càng phức tạp. Nói cách khác việc tranh thủ các
điều kiện quốc tế với việc phát triển đi lên CNXH của ta vì vậy cũng phức tạp, khó
khăn hơn.

Trong điều kiện tồn tại hệ thống các nước XHCN như trước đây, Việt Nam đã nhận
được sự giúp đỡ rất lớn cả về vật chất và tinh thần trong quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Ngày nay là sự hợp tác đôi bên cùng có lợi, mọi sự hỗ trợ, giúp đỡ đều có
điều kiện. Do vậy, chúng ta cần có chiến lược, sách lược phù hợp để tận dụng, thực
hiện tốt sự hợp tác đôi bên cùng có lợi.

3. Cơ hội

- Thực tiễn phát triển đất nước và xu hướng vận động của thế giới tạo cơ hội cho

Việt Nam phân tích, tổng kết, hình dung ngày càng rõ hơn mô hình, con đường đi lên
CNXH. Chúng ta biết rằng do sai lầm trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đã dẫn
đến mô hình CNXH kiểu cũ ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ. Thực tiễn này đòi hỏi cần
8
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

phải đổi mới, cải cách, xây dựng mô hình CNXH hiện thực phù hợp với sự phát triển
trong điều kiện mới. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia đã có những đổi mới,
cải cách thành công, trên cơ sở mô hình CNXH phù hợp với điều kiện thực tiễn mỗi
quốc gia.

Sự phát triển trên thế giới cho thấy, CNXH không phải là sự đối lập với CNTB, mà là
sự kế thừa phát triển theo hình vòng xoáy ốc ở nấc thang cao hơn. Chính quan niệm
đối lập giữa CNXH với CNTB trong thời gian những năm tháng chiến tranh lạnh, đã
đẩy đến việc xác định mô hình CNXH không phù hợp với thực tiễn. Hơn nữa sự phát
triển của khoa học và công nghệ, của toàn cầu hóa đã góp phần hình thành nền kinh tế
tri thức, được các học giả xem như là cơ sở kinh tế của xã hội tương lai.

Bản thân thực tiễn phát triển cũng chỉ rõ mô hình kinh tế thị trường không phải là
riêng có với CNTB, mà kinh tế thị trường - một phương thức phát triển phù hợp, cho
phép phát huy sức mạnh tổng hợp các nguồn lực - là thành tựu phát triển chung của
nền kinh tế thế giới. Và cũng vì vậy CNXH không phải đối lập với thị trường, mà
chính thông qua nền kinh tế thị trường là phương thức phù hợp cho phép chúng ta huy
động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất của xã hội mới - xã hội XHCN.

Như vậy các xu hướng phát triển thế giới đã tạo ra cơ hội cho các quốc gia xác lập mô
hình xã hội mới phù hợp. Đối với Việt Nam đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đây chính là con đường phù hợp để Việt Nam thực hiện: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Cơ hội trong hợp tác giao lưu, tìm kiến nguồn vốn, công nghệ và quản lý đối với

các nước đi sau. Trong điều kiện toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
và công nghệ đã thúc đẩy các quốc gia mở cửa, hội nhập. Quá trình giao lưu, hội nhập,
một mặt, tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, sự hiểu biết lẫn nhau; mặt khác, tạo
điều kiện cho việc tiếp thu các thành tựu và kinh nghiệm phát triển của những nước đi
trước, có trình độ phát triển cao, để tạo ra khả năng “đi tắt đón đầu”, phát triển rút
ngắn đối với các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng.

Đi lên từ nghèo nàn, lạc hậu, cái cần thiết cho sự phát triển chính là nguồn vốn, công
nghệ và kỹ năng quản lý. Các nước muốn phát triển trong điều kiện hiện nay không
thể đóng cửa, mà phải hội nhập, tham gia quá trình phân công lao động quốc tế. Chính
trong quá trình này các nguồn lực được khai thác, phát huy và nâng cao giá trị.

Có thể thấy trong điều kiện Chiến tranh lạnh, việc giao lưu, hợp tác trên phạm vi toàn
cầu luôn bị hạn chế bởi sự cách trở giữa hai hệ thống kinh tế đối lập nhau. Quá trình
liên kết kinh tế và hội nhập chỉ thực hiện trong nội khối. Trong điều kiện mới ngày
nay, không gian liên kết kinh tế và hội nhập được mở rộng. Bên cạnh đó, với sự phát
triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin càng tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình hội nhập. Việt Nam ngày nay có thể thực hiện hội nhập cả ở cấp độ
song phương, khu vực và toàn cầu. Điều đó cũng có nghĩa rằng, cơ hội tranh thủ các
nguồn lực quốc tế rộng mở hơn đối với quá trình phát triển của Việt Nam. Vấn đề chỉ
còn ở chỗ chúng ta tranh thủ các nguồn lực đó như thế nào cho hiệu quả.

9
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

- Điều kiện hiện nay mở rộng cơ hội tập hợp lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân

chủ và CNXH. Chính thực trạng phát triển của thế giới, nhất là ở các nước TBCN cho
thấy rõ không thể tiếp tục cách thức phát triển truyền thống gây ô nhiễm môi trường,
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân. Chủ nghĩa tư bản thể hiện rõ sự
bất lực trước nhiều vấn đề toàn cầu hiện nay. Hàng loạt các vấn đề toàn cầu, như biến
đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường,... đòi hỏi phải có sự chung sức của cộng đồng quốc
tế cùng nhau giải quyết, chứ không phải chỉ một nước, thậm chí một nhóm nước có thể
giải quyết được.

Sự phát triển của khoa học - công nghệ mở ra nhiều cơ hội để nâng cao chất lượng
cuộc sống, song việc lợi dụng các thành tựu khoa học để tạo ưu thế, đặc biệt trong lĩnh
vực quân sự, cũng đã và đang đặt thế giới trước nguy cơ hủy diệt bởi chiến tranh nhiệt
hạch. Xu thế hướng đến hòa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau,
cùng nhau tìm kiếm các cơ chế kiềm chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh.
Điều này rất có ý nghĩa với các nước như Việt Nam chúng ta, nhằm tạo ra môi trường
hòa bình và ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ lực lượng tiến bộ vì hòa bình,
dân chủ trong cuộc đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

Đặc biệt với việc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia gắn bó, ràng buộc và
phụ thuộc nhau trong phát triển. An ninh của các quốc gia dân tộc trong điều kiện toàn
cầu hóa hiện nay là an ninh tương tác. Chính vì vậy, vì sự phát triển chung các quốc
gia đều có nhu cầu liên kết hợp tác, cùng tập trung khai thác các nguồn lực cho phát
triển.

Có thể nói, trong điều kiện thế giới hiện nay, phương thức tập hợp lực lượng trở nên
phong phú và đa dạng hơn. Việt Nam có nhiều cơ hội tham gia các tổ chức quốc tế để
đấu tranh bảo vệ quyền lợi, đồng thời tham gia xác định các “luật chơi” cho phù hợp,
có lợi với mình và với hoà bình phát triển.

Nói tóm lại, sự ủng hộ của thế giới với sự phát triển của Việt Nam ngày càng đa dạng
hơn. Đó không chỉ là khả năng ủng hộ về cơ sở vật chất, công nghệ, mà còn là sự ủng
hộ về tinh thần, là sự đồng thuận về phương cách ứng xử của Việt Nam trước các vấn
đề quốc tế có liên quan. Chính những điều đó góp phần tạo lực và thế của Việt Nam
trên con đường phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu.

- Kinh nghiệm 30 năm đổi mới tạo tiềm lực, cả về vật lực và trí lực. Đây chính là

điều kiện và cơ hội cực kỳ quan trọng cho việc vững bước trên con đường XHCN đã
được lựa chọn. Quá trình phát triển của Việt Nam, đặc biệt công cuộc đổi mới đất
nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong 30 năm qua đã thu được những kết quả
góp phần nâng cao vị thế đất nước và cải thiện đời sống của người dân. Điều này, một
mặt, củng cố và khẳng định sự lựa chọn đúng đắn con đường đi lên CNXH, bỏ qua chế
độ TBCN ở nước ta; mặt khác, đó còn là các điều kiện, cơ sở cho việc tiếp tục vững
bước trên con đường đã chọn.

Thực tiễn phát triển của Việt Nam cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Không
10
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

thể giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản. Việc lựa
chọn mục tiêu và hướng theo mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, được nhân dân ta
bảo vệ bằng chính công sức và xương máu của bao thế hệ. Chính vì vậy, độc lập dân
tộc luôn gắn liền với CNXH và trở thành ngọn cờ cách mạng và niềm tin sắt đá trong
mỗi người dân Việt Nam. Đó chính là yếu tố xuyên suốt, là cội nguồn sức mạnh bảo
đảm sự thành công con đường đã lựa chọn.

Trải qua 3 thập niên đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Không ít quốc gia
xem Việt Nam là tấm gương trong phát triển, xóa đói, giảm nghèo. Chính trong 30
năm đổi mới Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm, trở thành phương châm
hành động nhằm tận dụng tốt các cơ hội, vượt qua các thách thức trong bước đường
phát triển tiếp theo. Và cũng chính trong thực tiễn cách mạng, đội ngũ tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam ngày càng được tôi luyện. Đó
chính là một trong những điều kiện nội tại bảo đảm cho sự quá độ lên CNXH, bỏ qua
chế độ TBCN ở nước ta.

- Truyền thống yêu nước, cần cù, yêu lao động, hiếu học, đề cao tính cộng

đồng - đề cao trách nhiệm xã hội và giá trị gia đình trong bối cảnh hội nhập hiện nay
cũng đã và đang mở ra những cơ hội cho tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân loại,
từ đó nhân lên sức mạnh của dân tộc trên con đường phát triển. Bỏ qua chế độ TBCN,
không có nghĩa là sự phủ định sạch trơn, mà vẫn tiếp thu, kế thừa những thành tựu do
nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Việc này chỉ hiệu quả
khi bản thân chúng ta đủ năng lực tiếp nhận và có cơ chế phù hợp. Việc thực hiện
đường lối đổi mới chính là tạo ra cơ chế mới và nâng cao năng lực tiếp nhận thông qua
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Bên cạnh đó, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam còn là màng lọc hiệu
quả nhất trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay, nhất là
sự phát triển của mạng thông tin toàn cầu, các tin tức, sự kiện thế giới luôn tác động
đến mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá quá
trình xây dựng CNXH ở nước ta với nhiều cách thức, biện pháp tinh vi. Nếu không có
sự tự đề kháng, nếu không có bản lĩnh vững vàng, nguy cơ thoái hóa biến chất, thậm
chí là chuyển hóa luôn hiển hiện. Chính vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu,
hội nhập phát triển rất cần phát huy các giá trị truyền thống, tạo nền tảng văn hóa lành
mạnh, làm cơ sở để tiếp thu các giá trị tinh hoa của nhân loại, loại trừ những tác động
tiêu cực.

4. Thách thức

- Sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, CNXH lâm vào thoái
trào, CNTB tận dụng các thành tựu khoa học công nghệ để điều chỉnh, thay đổi và đã
tạo ra sự phát triển nhất định. Tình hình đó đặt ra những suy luận, những nhận định ở
một số người rằng hiện nay có phải là thời kỳ quá độ lên CNXH, và phải chăng CNTB
đã khắc phục được các hạn chế? Nếu vậy các điều kiện về quá độ lên CNXH, cũng
như khả năng lên CNXH không qua CNTB liệu có trở thành hiện thực? Tình hình này
11
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

được thể hiện khá rõ ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây. Và trên thực
tế, nhiều nước đã chuyển hướng phát triển theo mô hình CNTB, gia nhập vào quỹ đạo
của CNTB. Ở các nước đang tiếp tục, kiên trì con đường XHCN như Việt Nam và
Trung Quốc cũng xuất hiện các ý kiến trái chiều trước tác động của những thay đổi
trên thế giới và những khó khăn tạm thời trong nước. Điều này ảnh hưởng trực tiếp
đến sự đồng thuận xã hội, đến việc tập trung lực lượng và sức mạnh trong mỗi quốc
gia cũng như trên phạm vi thế giới.
Điều cần thấy là, tuy CNTB tạm thời khắc phục các hạn chế, tận dụng thành tựu khoa
học công nghệ tạo bước phát triển nhất định, song bản chất của CNTB không hề thay
đổi, các mâu thuẫn trong quá trình phát triển của nó ngày càng bộc lộ gay gắt, không
thể điều hòa. Đó là mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn cạnh tranh giữa các nước tư bản và
giữa các nước tư bản với các nước đang phát triển dưới tác động của quy luật giá trị
thăng dư và quy luật phát triển không đồng đều. Tình trạng phân hóa giàu nghèo trong
các nước TBCN có chiều hướng gia tăng, không thể khắc phục; hàng loạt vấn đề mang
tính toàn cầu đặt ra thách thức sự phát triển...

Chủ nghĩa xã hội, một xã hội cộng đồng trách nhiệm, một xã hội mà ở đó con người có
điều kiện phát triển hài hòa cùng với tự nhiên. Tuy nhiên, những sai lầm trong phát
triển theo mô hình cũ đã để lại những tác động không hề nhỏ. Tất nhiên đó là những
bước díc-dắc trên con đường phát triển. Thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi phải đổi mới, cải
cách để khắc phục sai lầm, hạn chế. Chính từ những sai lầm, từ thực tiễn phát triển của
thế giới cho phép các đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, ở một số
nước XHCN trước đây, kịp thời xác định con đường, mô hình xã hội XHCN phù hợp
với điều kiện phát triển của mỗi quốc gia, đang đổi mới, cải cách đi lên, khẳng định
sức sống của con đường XHCN.

Do không có mô hình định sẵn, cùng với đó sự tác động của các yếu tố bên trong và
bên ngoài, nên thách thức đặt ra rất lớn và nguy cơ chệch hướng luôn hiển hiện trên
con đường phát triển.

- Cải cách đi lên trong điều kiện mới, các nước xác định con đường XHCN
đứng trước những thách thức vô cùng lớn trong việc tạo lập cơ sở vật chất của xã hội
mới, khi mà bản thân điều kiện vật chất nội tại còn hạn chế, thậm chí nghèo nàn. Bên
cạnh đó là sự chống phá của các thế lực thù địch.
Trong điều kiện mới phải tự xác định cho mình mô hình phát triển, không có sẵn
những tấm gương và sự giúp đỡ to lớn của các nước đi trước, đồng thời tự mình hội
nhập vào xu thế phát triển chung vừa có cơ hội, vừa có thách thức để tranh thủ các cơ
hội, tạo lập các cơ sở vật chất của xã hội mới. Công việc này càng khó khăn và thách
thức lớn hơn khi mà ngày nay các quốc gia đều tìm cách tranh thủ vượt lên, lấy lợi ích
quốc gia làm tiêu chí trong hợp tác. Nếu không có quyết tâm, không có một đường lối,
chiến lược phát triển phù hợp thì nguy cơ tụt hậu luôn luôn đặt ra trên bước đường
phát triển.
Thách thức cao hơn khi mà chúng ta phải luôn cảnh giác với âm mưu “diễn biến hòa
bình”, sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Thông qua hợp tác trên các
lĩnh vực để tạo cơ hội xâm nhập, gây bất ổn từ bên trong là một trong những phương
thức của các thế lực thù địch. Thực tiễn diễn biến của các cuộc “cách mạng màu sắc” ở
nhiều nước trên thế giới đã cho thấy điều đó. Song không thể không mở cửa hợp tác.
Trong bối cảnh hiện nay, đóng cửa đồng nghĩa với nguy cơ tụt hậu, tự sát. Cho nên
12
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

chủ trương tích cực và chủ động hợp tác là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta không thụ
động chờ đợi, phải có chiến lược, dựa trên tiềm lực và phát huy tiềm năng để hợp tác,
luôn quán triệt hợp tác đi liền với đấu tranh. Trong bối cảnh hiện nay, đối tác lại vừa là
đối tượng. Hợp tác phát triển phải đi liền với bảo đảm an ninh, sẵn sàng đối phó với
những mưu đồ gây phương hại đến lợi ích quốc gia dân tộc, đến môi trường phát triển.

- Thách thức trong xây dựng Đảng, trong tạo nền tảng chính trị xã hội vững chắc
của xã hội mới, điều kiện quan trọng để thực hiện sự phát triển đi lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN. Trong bối cảnh kinh tế thị trường, các quan hệ thị trường thâm nhập
vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặt ra nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống, nhất
là khi các lối sống thực dụng, thiếu tính nhân văn cũng đang từng ngày từng giờ tác
động đến cán bộ, đảng viên, nhất là tầng lớp trẻ. Thực tế cho thấy, trong những năm
qua tình trạng suy thoái đạo đức và lối sống trong bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên
đã và đang diễn ra, ảnh hưởng đến uy tín và sự lãnh đạo của Đảng.
Rõ ràng là, đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN trong bối cảnh hiện nay đặt trước
những người cộng sản và dân tộc Việt Nam không ít thách thức. Những thách thức đó
biểu hiện dưới các nguy cơ được Đảng ta khái quát tại Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), đó là: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng
chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy
cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chỉ
đạo thực hiện; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; âm mưu và hành động “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Sự tổng kết này vẫn còn nguyên giá trị trong
bối cảnh hiện nay, thậm chí có những mặt còn diễn biến phức tạp hơn.

- Mặc dù độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đã luôn được giữ
vững, song, bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức trước sự bảo đảm toàn vẹn, chủ
quyền lãnh thổ ngày càng phức tạp, khó khăn hơn. Trước sự nổi lên của chủ nghĩa bá
quyền nước lớn, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa nghiêm trọng. Việc xử
lý vấn đề này đòi hỏi phải hết sức khôn khéo và tế nhị, nếu không sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến môi trường phát triển đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta. Nếu
không xử lý tốt các thách thức về bảo vệ chủ quyền biển, đảo sẽ rất khó khăn trong
việc tạo cơ hội củng cố khối đoàn kết toàn dân ở bên trong. Ngược lại, xử lý tốt vấn đề
này sẽ tạo ra sức mạnh nội tại tổng hợp, đồng thời tạo cơ hội, điều kiện gắn lợi ích của
ta với lợi ích của cộng đồng quốc tế, thông qua đó thu hút sự quan tâm của khu vực và
cộng đồng quốc tế, tạo thành một mặt trận quốc tế rộng rãi ủng hộ Việt Nam. Như vậy,
từ thách thức về chủ quyền an ninh quốc gia, chúng ta không chỉ hóa giải được nguy
cơ, mà còn giúp tạo ra sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thế
và lực cho Việt Nam trên bước đường phát triển đi lên CNXH.

END

13
Dương Huy Hoàng - 2121050957 - K66F1 – Triết học Mác-Lênin

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, t.23; tr.21.
2. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2012.
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr.198.
4. Lênin: Toàn tập, Nxb, Mátxcơva, 1974, t1, tr.163
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những Nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa MácLênin,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

14

You might also like