Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

1.

Phản ứng ghép C-N


Liên kết C-N đóng một vai trò quan trọng trong tổng hợp hữu cơ từ các vòng thơm
chứa Nitơ được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp dược phẩm và sản phẩm
nông hóa. Theo truyền thống, các hợp chất này được điều chế chủ yếu từ các phản ứng
nổi loại Ullmann. Tuy nhiên các phản ứng thường tiến thành ở nhiệt độ cao (khoảng
200ºC ) và thường sử dụng một lượng xúc tác đồng cân bằng phản ứng. Để khắc phục
được những hạn chế, những tiến bộ tuyệt vời đã được thực hiện đối với phản ứng ghép
nối loại Ullmann. Sau những công trình có bước tiên phong, một số nhóm nghiên cứu
khác đã báo cáo những phương pháp tương tự cho các phản ứng này trong điều kiện êm
diệu với các loại hợp chất khác nhau của Cu và phù hợp với các phối tử N,N-, O,O-, hoặc
N,O- . Một vài nghiên cứu trước đây về phản ứng ghép C-N, nhưng được thực hiện bởi
xúc tác đồng thể. Phản ứng được thực hiện giữa những dẫn xuất của amin (1mmol), axit
benzenboronic (1mmol) với xúc tác là Cu(OAc)2 .2H2O (0,2g, 10% mol) được thêm vào
và khuấy ở 70ºC để tạo thành vòng thơm chứa N. Sau khi phản ứng được thực hiện xong,
sản phẩm được chiết xuất bằng dietyl ete, hoặc etylacetat:n-hexan theo tỉ lệ 1:1.
Theo thứ tự từ trên xuống, hiệu suất sản phẩm giảm dần. Nguyên nhân chính ở đây
là do sự ấn ngữ không gian lớn tăng dần từ trên xuống dưới. Riêng đối với sản phẩm cuối
do hiệu ứng –R của nhóm carbonyl làm cho tính Nu của NH 2 giảm mạnh, vì vậy hiệu suất
chỉ đạt được 30%.

2. MOF – 199 làm xúc tác dị thể cho phản ứng ghép C-N
2.1. Dụng cụ và hóa chất
Dụng cụ Hóa chất
Ống nghiệm Benzylamin
Pipet hút mẫu 4-Flobenzylamin
Pipet 1ml, 0,5ml, 5ml 4-Metylbenzylamin
Erlen 50ml, 100ml Cyclohexylamin
Ống sinh hàn xoắn p-Anisidin
Bình cầu 3 có 50ml o- Anisidin
Bình cầu 3 có 25ml Axit Benzenboronic
Cá từ Axit 4-Flophenyboronic
Máy khuấy có gia nhiệt Axit 4-Tolyphenyboronic
Nhiệt kế thủy ngân 200ºC n-Dodecan
Becher 100ml, 200ml DMF
Hủ bi 5 ml n-Butanol
Toluen
Dietyl ete
Na2CO3
Na2SO4

2.2. Quy trình phản ứng cắt ghép C-N


*Thuyết minh quy trình
Sử dụng phương pháp nội chuẩn cùng với kết quả phân tích GC (Gas
chromatographic) để xác định độ chuyển hóa sản phẩm và nhận danh bằng GC-MS (Gas
chromatographic – mass spectrometry). Đầu tiên, hỗn hợp gồm 3 ml DMF, 1 mmol tác
chất benzylamin (0,11ml), 0,1 ml n-Dodecan làm nội chuẩn cho vào bình cầu và khuấy
đều trong vòng 10 phút, sau đó lấy mẫu T o. Tiếp theo cho 1,5 mmol axit benzenboronic
(0,18 g đã được hòa tan trong Iml DMF) vào hỗn hợp trên, đợi nhiệt độ ổn định rồi cho
0,02 g xúc tác MOF-199 (10% mmol) vào. Hỗn hợp được gia nhiệt ở một nhiệt độ ổn
định, sau 1 giờ lấy mẫu một lần. Lấy tổng cộng là bảy mẫu, mỗi mẫu được trích ly bằng
cách: lấy 0,1ml dung dịch phản ứng cho vào 0,1 ml Na 2CO3 5%, rồi sau đó cho 3 ml
dietyl ete vào hỗn hợp. Sục nhiều lần rồi chờ hỗn hợp phân lớp, chiết lấy phần trên rồi
đem làm khan bằng Na2SO4 (nhằm loại nước để tránh làm hỏng cột sắc ký khi phân tích).
Nồng độ đồng trong cấu trúc của MOF-199 được xác định bằng quang phổ hấp
phụ nguyên tử AAS. Điều này có ý nghĩa cho hoạt động xúc tác, bên cạnh đó có thể kiểm
tra lại lượng nước trong MOF-199. Kết quả phân tích nguyên tố AAS cho thấy hảm
lượng đồng là 29,5%, cho thấy dung môi bảm trên tinh thể hoặc bị nước hấp phụ một
phần.

3. Tổng hợp trực tiếp các disulfua và diselenua đối xứng bằng khung hữu cơ kim
loại MOF-199 như một chất xúc tác dị thể hiệu quả
Khung hữu cơ-kim loại đồng xốp có độ xốp cao MOF-199 đã được tổng hợp và
đặc trưng bằng một số kỹ thuật bao gồm XRD, EDX, SEM và FT-IR. MOF-199 được sử
dụng làm chất xúc tác hiệu quả cho quá trình tổng hợp một bình và hiệu quả các
dichalcogenide hữu cơ từ aryl halogenua (–OTs) và lưu huỳnh nguyên tố và selen trong
polyethylen glycol (PEG). Nhiều loại disulfua và diselenua có thể thu được hiệu suất từ
tốt đến xuất sắc lên tới 98% trong thời gian phản ứng tương đối ngắn.

4. Phản ứng ghép đôi kiểu Ullmann sử dụng khung kim loại-hữu cơ MOF-199 làm
chất xúc tác rắn có thể tái chế hiệu quả
Khung hữu cơ-kim loại có độ xốp cao (MOF-199) đã được tổng hợp và đặc trưng
bằng một số phương pháp bao gồm XRD, SEM, TEM, TGA, FT-IR, AAS và đo độ hấp
thụ vật lý nitơ. MOF-199 được sử dụng làm chất xúc tác rắn có thể tái chế hiệu quả cho
phản ứng kiểu Ullmann giữa aryl iodua và phenol để tạo thành ete Diaryl. Chuyển hóa
cao đã đạt được khi chuyển hóa ở nồng độ xúc tác 5 mol%, với sự có mặt của MeONa
làm bazơ. Do hiếm có và giá thành cao nên Cs 2CO3 chỉ nên được sử dụng cho trường hợp
aryl iodide bị khử hoạt tính hoặc phenol bị khử hoạt tính. Chất xúc tác MOF-199 có thể
được tách ra khỏi hỗn hợp phản ứng một cách dễ dàng bằng cách lọc đơn giản và có thể
được tái sử dụng nhiều lần mà hoạt tính xúc tác không bị suy giảm đáng kể. Phản ứng
loại Ullmann chỉ có thể tiến hành khi có chất xúc tác rắn MOF-199 và sự đóng góp của
các hoạt chất đã lọc trong pha lỏng, nếu có, là không đáng kể.

MOF-199 được sử dụng làm chất xúc tác cho phản ứng loại Ullmann. Đạt được độ
chuyển hóa cao nhờ sử dụng lượng xúc tác MOF-199. Chất xúc tác có thể được thu hồi
và tái sử dụng.
Tóm lại, MOF-199 xốp có tinh thể cao được tổng hợp từ phản ứng của đồng nitrat
trihydrat và axit 1,3,5-benzentricarboxylic bằng phương pháp dung môi và được đặc
trưng bởi một số kỹ thuật bao gồm FT-IR, TEM, SEM, XRD, TGA , DLS, AAS và đo độ
hấp thụ vật lý nitơ. MOF-199 thể hiện hoạt tính cao trong phản ứng kiểu Ullmann giữa
aryl iodua và phenol để tạo thành ete Diaryl là sản phẩm chính. Sự chuyển đổi có thể tiến
hành dễ dàng trong công nghiệp.

5. Sự kết hợp các NP CuO vào các khung hữu cơ kim loại UiO-66-NH 2 đã được biến
tính (MOF) với melamine để tạo liên kết xúc tác C–O trong quá trình ngưng tụ
Ullmann
Ở đây, khung hữu cơ-kim loại UiO-66-NH 2 (MOF) ban đầu được biến đổi bằng
melamine thông qua phương pháp hậu tổng hợp. Sau đó, các hạt nano CuO (NP) được
neo thông qua các nhóm chức có sẵn (nhóm amin và tương tác điện tử π của melamine và
phối tử) trên bề mặt MOF biến tính. Các NP UiO-66-NH 2 -Mlm/CuO được tổng hợp
được đặc trưng bằng các kỹ thuật khác nhau bao gồm XRD, TGA, TEM, EDX và XPS.
MOF hỗ trợ CuO được sử dụng thành công làm chất xúc tác không đồng nhất cho phản
ứng ghép C–O trong quá trình ngưng tụ Ullmann. Lượng xúc tác của chất xúc tác được
hỗ trợ (5% CuO) thúc đẩy phản ứng ngưng tụ tạo ra các aryl clorua, bromua và iodua
khác nhau trong điều kiện phản ứng nhẹ (100°C với KOH làm bazơ) với hiệu suất tốt
(30–95%) trong khoảng 18–24 giờ. Ngay cả khi không có KOH, phản ứng vẫn có thể đạt
hiệu suất 55% trong 24 giờ bằng cách ghép melamine với các nhóm amin để tạo ra các vị
trí hoạt động bazơ trên MOF, điều này cho thấy vai trò bổ sung của chất mang như một vị
trí hoạt động bazơ. Chất xúc tác được hỗ trợ có thể dễ dàng tái chế và tái sử dụng nhiều
lần với hoạt tính bị mất đi không đáng kể. Hơn nữa, lượng đồng thoát ra từ chất xúc tác
thấp tới 1,2% trọng lượng sau khi được tái sử dụng bốn lần.

6. Tổng hợp xúc tác đồng của α-Aryl Ketone bằng khung hữu cơ kim loại MOF-199
như một chất xúc tác không đồng nhất hiệu quả
MOF-199 thể hiện hoạt tính cao trong phản ứng C-arylation của aryl iodides và
acetylacetone để tạo thành α-aryl ketone. Chất xúc tác có thể được tách ra một cách dễ
dàng và được tái sử dụng mà hoạt tính xúc tác không bị suy giảm đáng kể.
Khung hữu cơ-kim loại đồng xốp có độ xốp cao MOF-199 được tổng hợp từ phản
ứng của axit 1,3,5-benzentricarboxylic và đồng nitrat trihydrat bằng phương pháp nhiệt
dung môi. MOF-199 được đặc trưng bởi một số kỹ thuật, bao gồm nhiễu xạ bột tia X
(XRD), kính hiển vi điện tử quét (SEM), kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM), phân
tích nhiệt trọng lượng (TGA), hồng ngoại biến đổi Fourier (FT-IR), đo quang phổ hấp thụ
nguyên tử (AAS) và phép đo hấp thụ vật lý nitơ. MOF-199 được chứng minh là chất xúc
tác hiệu quả cho quá trình C-aryl hóa aryl iodua với acetylacetone để tạo thành α-aryl
ketone làm sản phẩm chính. Chất xúc tác có thể được tách ra khỏi hỗn hợp phản ứng
bằng cách gạn đơn giản và được tái sử dụng mà hoạt tính xúc tác không bị suy giảm đáng
kể. Không phát hiện thấy sự đóng góp nào từ quá trình xúc tác đồng nhất của các hoạt
chất hòa tan vào pha lỏng, điều này xác nhận rằng MOF-199 thực sự là chất xúc tác
không đồng nhất.

You might also like