Biểu Hiện Gene ở Prokaryote

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

1.

Quá trình điều hòa biểu hiện gene ở prokaryote chủ yếu ở giai đoạn phiên
mã, dựa vào sự tương tác của protein điều hòa với trình tự đặc biệt trong vùng điều
hòa của gene.
Điều hòa hoạt động của gene là điều hòa lượng sản phẩm do gene tạo ra (ARN và
protein) hay điều hòa các quá trình nhân đôi ADN, phiên mã tạo ARN và quá trình tổng
hợp protein trong tế bào đảm bảo cho hoạt động sống của tế bào phù hợp với điều kiện
môi trường cũng như với sự phát triển bình thường của cơ thể.
- Đặc điểm: Ở hầu hết các vi khuẩn và các sinh
vật đơn bào khác, biểu hiện gene được điều hòa
chặt chẽ để điều chỉnh bộ máy enzyme và
thành phần cấu trúc của tế bào theo những
biến đổi sinh lí và thành phần dinh dưỡng của
môi trường xung quanh.
- Tế bào có thể điều chỉnh bộ máy enzyme
bằng:
+ Ức chế ngược.
+ Điều hoà sản xuất enzyme (protein).

- Vi khuẩn thường đáp ứng với các thay đổi của


môi trường qua điều hòa phiên mã tổng hợp
các mRNA xảy ra khi sản phẩm của gene được
cần đến.

1.1. Điều hòa âm tính:


Sự điều hòa các operon trong đó
các operon bị tắt khi repressor ở
dạng hoạt động
- Repressor có thể ở dạng hoạt động
hoặc bất hoạt tùy vào sự hiện diện của
các phân tử nhỏ khác:
+ Inducer (chất cảm ứng) là phân
tử có khả năng kết hợp với repressor,
bất hoạt repressor và cảm ứng “mở”
operon.
+ Copressor (chất đồng ức chế) là phân tử có khả năng kết hợp với repressor, hoạt
hóa repressor và ức chế (“tắt”) operon.
1.1.1. Operon cảm ứng – Operon Lac
- Một operon cảm ứng là dạng bình thường “tắt”; một phân tử chất cảm ứng (inducer) sẽ
bất hoạt repressor và giúp xảy ra phiên mã gene cấu trúc.
- Các enzyme được điều hòa theo kiểu cảm ứng thường có chức năng trong các con
đường dị hóa; sự tổng hợp chúng được cảm ứng bởi tín hiệu hóa học.
1.1.2. Operon ức chế - Operon Trp
- Operon ức chế là operon bình thường “mở”; một phân tử copressor sẽ hoạt hóa
repressor, sự liên kết của repressor vào operator sẽ làm “tắt” phiên mã gene cấu trúc.
- Các enzyme được điều hòa theo kiểu ức chế thường tham gia vào các con đường đồng
hóa; sự tổng hợp chúng bị ức chế khi lượng sản phẩm sau cùng có nồng độ cao.
1.2. Điều hòa dương tính:
- Một số operon còn được điều hòa dương tính nhờ protein kích thích, chẳng hạn như
CAP (catabolite activator protein), một yếu tố hoạt hóa phiên mã, đó là glucose và
lactose.
+ Môi trường chỉ có glucose, không có lactose: tế bào tạo rất ít lac mRNA vì
protein kìm hãm lac gắn với Operator, ức chế sigma70-RNApolymerase khởi đầu phiên

+ Môi trường có glucose và galactose, protein kìm hãm bất hoạt. Sigma 70-
RNApolymerase khởi đầu phiên mã ở mức thấp do
1. khi không có protein hoạt hóa hoặc kìm hãm thì trình tự promoter giúp xác đinh
tốc độ khởi đầu phiên mã của sigma 70 – RNApolymerase . Tế bào sẽ ưu tiên
sử dụng đường glucose trước vì tế bào có sẵn enzyme để chuyển hóa glucose.
2. Promoter của operon lac là promoter yếu, có trình tự khác với trình tự promoter
lí tưởng (promoter mạnh – giàu A-T ở vùng -10 và có G-C ở vùng -35)
+ Môi trường không có glucose và lactose, cAMP tăng lên để phản ứng lại với
nồng độ glucose thấp và hình thành phức hệ CAP-cAMP. Phức hệ này gắn với vị trí CAP,
nơi nó tương tác với RNApolymerase để tăng ái lực với RNA, do đó làm tăng tốc độ
phiên mã.
1.3. Điều hòa hoà khởi đầu phiên mã nhờ các yếu tố sigma của RNA
polymerase
- Hầu hết promoter ở E.coli tương tác với sigma 70 – RNA polymerase, dạng enzyme khởi
đầu phiên mã ở chính vi khuẩn.
- Tuy nhiên một số nhóm gene nhất định khởi đầu phiên mã nhờ RNA polymerase chứa
một trong những yếu tố sigma khác.
1.4. Điều hòa nhờ cơ chế điều khiển kéo dài phiên mã trong vùng cận
promoter nhờ tạo thành cấu trúc kẹp tóc
- 140 nucleotide đầu tiên của operon Trp không mã hóa protein cần cho sinh tổng hợp
protein mà chứa trình tự mở đầu gồm 4 vùng có vai trò quan trọng tạo thành cấu trúc kẹp
tóc giúp kết thúc phiên mã sớm, tiết kiệm năng lượng cho tế bào.
2. Cấu trúc Operon lac
- Phức hợp được gọi là operon
được mô tả vào năm 1961 bởi
Francois Jacob và Jacques Monod
để giải thích sự điều hòa hoạt động
gene.
- Operon là các gene cấu trúc có
liên quan về chức năng thường
phân bố theo cụm có chung một cơ
chế điều hòa.
- Operon Lac là Operon quy định
tổng hợp các enzim thủy phân
Lactose.

- Một operon gồm có 3 phần:


+ Vùng khởi động (promoter): nằm trước vùng vận hành, là nơi để RNA
polymerase bám vào và khởi đầu phiên mã.
+ Vùng vận hành (operator): nằm trước nhóm gen cấu trúc, chỉ huy sự hoạt động
của nhóm gen cấu trúc, là trình tự nucleotide đặc biệt, tại đó protein ức chế có thể liên
kết làm ngăn cản sự phiên mã.
+ Nhóm gene cấu trúc: bao gồm các gene nằm kề nhau có liên quan với nhau về
mặt chức năng: mã hóa cho các enzyme phân giải lactose có trong môi trường để cung
cấp năng lượng cho tế bào.
+ lacZ  β-Galactosidae  Thủy phân lactose
+ lacY  Permease  Protein màng, chuyển lactose vào tế bào.
+ lacA  Transacetylase
- Còn có gene điều hòa (Regulator) không thuộc operon, nằm liền kề hoặc cách xa
operon nhưng có vai trò quan trọng trong điều hòa hoạt động của các gene của operon
chính là mang thông tin mã hóa protein ức chế.
- Gene điều hòa khi hoạt động: phiên mã  dịch mã tổng hợp protein ức chế
(repressor)  tương tác với Operator.
 điều chỉnh hoạt động nhóm gene cấu trúc:
+ Repressor bám vào Operator  không phiên mã.
+ Repressor không bám vào Operator  phiên mã.
- Repressor lac bình thường ở dạng hoạt động và “tắt” operon lac.
3. Cơ chế hoạt động của Operon lac:
- Sự hoạt động của operon chịu sự điều khiển của một gen điều hoà (regulator: R) nằm ở
trước operon. Bình thường, gen điều hòa tổng hợp ra một loại protein ức chế gắn vào gen
chỉ huy do đó gene cấu trúc ở trạng thái bị ức chế nên không hoạt động.
- Khi có chất cảm ứng (ví dụ lactose) thì operon chuyển sang trạng thái hoạt động (cảm
ứng). Lactose: đóng vai trò là chất cảm ứng (inducer) giúp mở operon lac.
- Khi môi trường không có lactose:

Gene điều hòa quy định


tổng hợp protein ức chế.
Protein này liên kết với vùng
vận hành ngăn cản RNA
polymerase bám vào vùng
khởi động thực hiện quá trình
phiên mã làm cho quá trình
phiên mã không xảy ra, dẫn
đến các gen cấu trúc không
hoạt động.
- Khi môi trường có lactose:
Lactose + Repressor lac  phức hợp Repressor lac bất hoạt => “mở” operon lac.
Một số phân tử lactose
trong môi trường liên kết
với protein ức chế làm biến
đổi cấu hình không gian ba
chiều của nó làm cho
protein ức chế không thể
liên kết được với vùng vận
hành và do vậy RNA
polymerase có thể liên kết
được với vùng khởi động
để tiến hành phiên mã. Sau đó, các phân tử mRNA của gene cấu trúc Z, Y, A được
dịch mã tạo ra các enzyme phân giải đường lactose.

Khi đường lactose bị phân giải hết thì protein ức chế được giải phóng lại liên kết với
vùng vận hành, chất ức chế chuyển từ trạng thái bất hoạt sang trạng thái hoạt động
đến bám vào vùng vận hành và quá trình phiên mã bị dừng lại.

You might also like