Tiểu luận lịch sử Đảng

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH

KHOA ĐIỀU DƯỠNG - KĨ THUẬT Y HỌC

BỘ MÔN XÉT NGHIỆM

TIỂU LUẬN NHÓM

MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN


VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Lê Thị Hiệp


Nhóm: 3
Lớp: XNYH2020
Thành viên nhóm:
1. Nguyễn Tiến Dũng 2056010008
2. Vũ Thị Thu Hương 2056010016
3. Lê Ngọc Quỳnh Nhi 2056010034
4. Nguyễn Hoàng Quyên 2056010041
5. Nguyễn Thị Cẩm Thi 2056010046

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 10 năm 2023

1
Lời cảm ơn
Kính gửi quý thầy cô là giảng viên bộ môn Lý luận chính trị của trường Đại học Y khoa Phạm
Ngọc Thạch.
Nhờ những hỗ trợ, dẫn dắt tận tình của giảng viên mà chúng em có được những cơ hội quý giá
để tôi rèn khả năng lý luận của bản thân, đồng thời có được một quãng thời gian tuyệt vời tuy
ngắn ngủi để có thể tìm hiểu hết ý nghĩa của những sự kiện chấn động một thời, những cái bắt tay
lịch sử giữa các nước và đặc biệt nhất là lịch sử của Đảng ta, non sông ta. Những gì chúng em có
được ngày hôm nay hoàn toàn là nhờ có được sự dìu dắt, hỗ trợ nhiệt tình của quý thầy cô đã
không quản ngày đêm chăm chút, nâng cao chất lượng bài giảng để đem lại cho chúng em những
buổi học thú vị, sôi động mà lại thấm thía, sâu sắc để chúng em có thể đem theo những ghi nhớ,
dấu ấn thật sâu đậm, điều mà sẽ chắp cánh hỗ trợ chúng em không chỉ hôm nay, ngày mai, mà là
cả sự nghiệp sau này. Nhóm của chúng em đã từng ngại ngùng khi làm việc nhóm, từng chật vật
khi thuyết trình, đã từng vô số lần vấp ngã khi tự mình xây dựng kỹ năng tư duy lý luận, tư duy
độc lập cho bản thân, là đã từng cho đến khi được rèn giũa qua những buổi học và lời dẫn dạy từ
tâm huyết trào dâng của quý thầy cô. Chúng em từ những sai sót của chính mình, một lần nữa đã
có thể đứng lên tự tin vào bản thân khi lý luận thể hiện niềm tin tuyệt đối vào đời lối lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Chúng em xin được gửi những lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến giảng viên của
chúng em vì những bài giảng đầy tâm huyết của cô đối với chúng em đã hơn cả vô giá. Dù cho
chúng em đã có nhiều sai sót, lỗi lầm trong trong quá trình học tập, cô đã không bỏ mặc chúng
em mà đã uốn nắn, chỉnh sửa những thiếu sót vụng về của chúng em, chỉ mong chúng em ngày
một tốt hơn, tiến bộ hơn.
Trân trọng
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 10 năm 2023.
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC NHÓM VÀ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH
Số thứ Họ và tên Mã số sinh viên Công việc Mức độ hoàn
tự thành
1 Nguyễn Tiến Dũng 2056010008 Chỉnh sửa, 100%
thống nhất và
trình bày nội
dung.
Tình hình
kinh tế, chính
trị đầu giai
đoạn 1975-
1985
2 Vũ Thị Thu Hương 2056010016 100%
3 Lê Ngọc Quỳnh Nhi 2056010034 100%
4 Nguyễn Hoàng Quyên 2056010041 100%
5 Nguyễn Thị Cẩm Thi 2056010046 100%
Danh mục từ viết tắt

Số thứ tự Chữ viết tắt Giải nghĩa


VNCH Việt Nam Cộng Hòa
USD Đô la Mỹ
BCHTƯ Ban chấp hành trung ương
XHCN Xã hội chủ nghĩa
Mục lục
Danh mục hình
I. Kinh tế.
1. Tình hình trong nước.
Sau khi chạy trốn khỏi đất nước, VNCH đã để lại cho chúng ta một khoản nợ khổng lồ khi xin
viện trợ từ Mỹ (khoảng 2 tỷ USD/năm từ 1971 – 1975) buộc chúng ta phải trả. Dựa vào lý do
này, Mỹ đã cấm vận nhằm phá hoại nước ta trên mặt trận kinh tế.
Các chính sách mị dân, chia để trị, ngu dân, … đã ảnh hưởng sâu rộng đến nhận thức và hành
động của người dân.
Chính quyền non trẻ, thiếu kinh nghiệm, chịu ảnh hưởng của chiến tranh mà nhân lực, vật lực
và tài lực gần như đã cạn kiệt.
Mặc dù đất nước đã sạch bóng quân thù, nhưng trên đất bạn vẫn còn. Chúng ta vẫn phải chịu
vô số âm mưu phá hoại, tấn công chia rẽ từ các thế lực thù địch, ngăn cản Việt Nam tiến lên trên
con đường phát triển đất nước.
2. Tình hình quốc tế.
Từ năm 1975, Mỹ và các nước Châu Âu đã thực hiện cấm vận kinh tế với Việt Nam và Mỹ
cũng chấm dứt nguồn viện trợ dồi dào cho miền Nam Việt Nam. Điều này khiến cho vô số
phương tiện, máy móc trang thiết bị tiên tiến mà phương Tây để lại trên đất Việt chỉ còn là đống
sắt vụn khi không có đủ nhiên liệu và phụ tùng thay thể và bảo dưỡng, kéo theo hàng loạt các
doanh nhân, doanh nghiệp vốn là đầu tàu kinh tế của Sài Gòn bị gặp nhiều khó khăn.
Tháng 10 năm 1973, Tổ chức các quốc gia Ả Rập quyết định ngừng cung cấp nhiên liệu sang
Mỹ, Nhật và Tây Âu, nhằm trừng phạt các quốc gia này vì đã ủng hộ Israel trong cuộc xung đột
giữa Israel và liên quân Ai Cập - Syria. Kéo theo cả thế giới đối mặt với cơn khủng hoảng dầu mỏ
đầu tiên trên thế giới. Trước tình hình kinh tế khó khăn, năm 1977, Trung Quốc từ bỏ viện trợ cho
Việt Nam, lần lượt theo đó là Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi các cường quốc mải cứu mình
khỏi khủng hoảng dầu mỏ, họ đã bỏ lại Việt Nam cùng với các quốc gia kém phát triển khác
khiến cho vốn dĩ Việt Nam vốn đã trong thế khó, nay lại gồng mình chịu trận với cơn bão khủng
hoảng.
II. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc.
1. Bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1975-1981).
1.1. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
- Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn
toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội → là nhiệm vụ đầu tiên và bứt thiết nhất
là lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước.
- 8/1975: Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II chủ trương: Hoàn
thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội.
+ Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa.

1
+ Miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nưốc, vừa là quy luật
khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam.  Ngăn ngừa
và phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực phản động trong nước và trên thế giới.
- Ngày 25/4/1976 cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất.

- Hơn 23 triệu cử tri, đạt tỷ lệ 98,77% tông số cử tri đi bầu cử, đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ
các thành phần công nhân, nông dần; trí thức, các lực lượng vũ trang, các đại biểu tầng lớp thanh
niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc thiểu số và các tôn giáo... trên cả nước.
- Từ ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976, kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã
họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca.
Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thành phố Sài Gòn đổi tên là
Thành phố Hồ Chí Minh.

2
1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc.
- Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, tại Hà Nội đã tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đề ra đường lối đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
- Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu Kế
hoạch nhà nước 5 năm (1976 - 1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi
tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng (Đại hội
quyết định bổ sung Điều lệ Đảng, đặt chức danh Tổng Bí thư thay chức danh Bí thư thứ nhất
BCHTƯ Đảng; bầu BCHTƯ mới gồm 101 ủy viên chính thức, BCT gồm 14 ủy viên chính thức,
Ban Bí thư gồm 9 ủy viên, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư).

3
- Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu nước, khẳng định thắng lợi của nhân dân
ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế.
- Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng
Việt Nam.
Thứ nhất: Từ một nước kinh tế còn phổ biến là SX nhỏ tiến thẳng lên CNXH , bỏ qua phát
triển Tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai: Tổ quốc đã hòa bình, đọc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiều
thuận lợi nhưng nhiều khó khăn do chiến tranh và tàn dư chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Thứ ba: nước ta tiến hành đi lên CNXH khi cuộc chiến tranh ai thắng ai vẫn diễn ra quyết liệt
kỷ XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc.
 Nước ta từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; hậu quả chiến tranh còn rất nặng nề;
cuộc đấu tranh giữa lực lượng cách mạng và phản cách mạng trên thế giới vẫn diễn ra gay go,
quyết liệt. Trong ba đặc điểm trên đặc điểm đầu tiên là lớn nhất quy định nội dung, hình thức,
bước đi của cách mạng XHCN ở nước ta.
a. Đường lối chung của Đảng:
- Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
- Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về QHSX, cách mạng về tư tưởng văn
hóa, cách mạng về khoa học kỹ thuật.
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

4
- 04 Mục tiêu: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền sản xuất lớn, nền văn hóa mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa.
- Xoá bỏ: chế độ người bóc lột người; nghèo nàn và lạc hậu.
- Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị
và trật tự xã hội.
- Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.
b. Đường lối kinh tế:
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cuả CNXH, đưa nền
kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ.
- Kết hợp phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh tế công –
nông nghiệp.
- Kết hợp kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất.
- Kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng.
-Tăng cường phân công, tương trợ, hợp tác quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
c. Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá (1976 - 1980):
Nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn
hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước XHCN, phát huy vai trò của
các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại
của Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

5
 Ưu điểm của Đại hội lần thứ IV của Đảng:
+Là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
khẳng định và xác định đường lốì đưa cả nưốc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
+ Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại
đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tập trung
chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông.
 Khuyết điểm: Đại hội lần thứ IV chưa tổng kết được kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc; chưa nhấn mạnh việc bức thiết phải làm sau chiến tranh là khắc phục hậu quả
chiến tranh; đặc biệt là chưa xác định được nội dung của chặng đường đầu tiên tiến lên chủ nghĩa
xã hội, nóng vội “tả khuynh” trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là
nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
1.3. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1976-1981):
a. Cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội:
- Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, BCHTƯ đã tập trung chỉ đạo phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông:
- Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) được cho là bước đột phá đẩu tiên đổi mới kinh tế của Đảng
vối chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”.

6
-Chỉ thị số 100-CT/TW (ngày 13/1/1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong các hợp tác xã nông nghiệp (mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các
khâu cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch
vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán).
- Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành phố Hồ
Chí Minh và tỉnh Long An.
- Q/đ 25-CP (1-1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của
các xí nghiệp quốc doanh.
- Q/đ số 26-CP (1-1981) về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận
dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
=>Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp
đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.

b. Bảo vệ tổ quốc giữ gìn an ninh quốc gia.


Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng thiết tha của
nhân dân Việt Nam là hoà bình, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ để xây dựng đất nước. Song, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù.

7
địch đã cấu kết vối nhau ra sức chống phá, buộc Việt Nam phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo
vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
i. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới tây nam.

- Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 -1975), Trung
Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa đã dành cho nhân dân Việt Nam sự ủng hộ và giúp đỡ toàn
diện, to lớn và quý báu. Nhưng từ năm 1978, quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam xấu đi rõ rệt.
Ngày 17/2/1979, Trung Quốc huy động hơn 60 vạn quân đồng loạt tấn công toàn tuyến biên giới
nước ta từ Lai Châu đến Quảng Ninh, gây ra những thiệt hại rất nặng nề.

8
 Quân dân Việt Nam, được nhân dân thế giới ủng hộ đã chiến đấu anh dũng bảo vệ đất
nước, tiêu biểu làcác anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh, Hoàng Thị Hồng Chiêm …
 Ngày 5/3/1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân và đến ngày 18/3/1979 quân Trung Quốc đã
rút hết về nước.
 Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hoà bình, an ninh ở biên giới, giải
quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ.
III. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới
kinh tế (1982 - 1986).
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội.

Thời gian: từ 27-31/3/1982.

9
1.1. Nội dung đại hội:
- Đại hội đánh giá những ưu khuyết điểm, phân tích nguyên nhân thắng lợi và khó khan của đất
nước, tình hình thế giới  quyết định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do
Đại hội lần thứ IV đề ra.
- Đại hội có nhận thức về thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta là thời kỳ dài, nhiều chặng
đường.
- Xác định chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (trước mắt thời kỳ 5
năm 1981-1985 và kéo dài đến những năm 1990).
- Nhiệm vụ chặng đường đầu: giữ ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Hai nhiệm vụ chiến lược:
• Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
• Bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa
- Nội dung, bước đi, cách làm để thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên là:
+ Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông
nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
+ Ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng
+ Tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng
+ Cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp hợp lý
1.2. Ý nghĩa:
Đại hội đã có bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong quá độ lên CNXH
1.3. Hạn chế của Đại hội V:
• Chưa thấy hết sự cần thiết duy trì kinh tế nhiều thành phần
• Chưa có những quan điểm kinh tế kết hợp kế hoạch với thị trường
• Một số quan điểm về công tác quản lý lưu thông, công nghiệp nặng tràn lan, không dứt
khoát đầu tư phát triển nông nghiệp và hàng tiêu dùng…

10
2. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế:
• Hội nghị Trung ương 6 (7/1984) chủ trương tập trung giải quyết một số
vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông: đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ
thị trường tự do; thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
• Hội nghị Trung ương 7 (12/1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận sản
xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm.
• Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm
tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Trung ương chủ trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
trong giá và lương:
+ Tính đủ chi phí giá thành sản phẩm, giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý,
+người sản xuất có lợi nhuận thỏa đáng và Nhà nước từng bước có tích lũy.
+ Xóa bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ.
+ Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống, khắc phục tình trạng thả nổi
trong việc định giá và quản lý giá.
+ Xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa...
 Giá, lương, tiền là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế.
• Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan
điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết định
cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
- Về cơ cấu sản xuất: Lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ,
việc phát triển công nghiệp nặng phải có chọn lọc cả về quy mô và nhịp độ.

11
- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
- Về cơ chế quản lý kinh tế: đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của
các quy luật kinh tế XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa - tiền
tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
 Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh
giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được
trình bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
IV. Tổng kết 10 năm đầu lãnh đạo cả nước quá độ lên CNXH (1975-1986).
1. Thành tựu:
-Thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.
-Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu của CNXH.
-Thắng lợi trong bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
2. Hạn chế:
- Không hoàn thành các mục tiêu của Đại hội IV, V.
- Khủng khoảng kinh tế - xã hội kéo dài.
- Đất nước bị bao vây, cô lập Nghèo đói dẫn đến lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm
sút nghiêm trọng.
<<Giai đoạn 1975 - 1986 là giai đoạn Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp thống nhất đất nước về mặt
nhà nước, khôi phục kinh tế đất nước sau chiến tranh, hoạch định đường lối xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên cả nước, chỉ đạo thực hiện đường lối chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn này, sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam ở vào tình thế vô
cùng khó khăn, khi kinh tế và xã hội bị ảnh hưởng nặng nề sau những năm chiến tranh tàn khốc.
Năm 1979, trên tinh thần đoàn kết, nhân đạo, Việt Nam đã đưa quân tình nguyện sang giúp nhân
dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, nhà cầm quyền Trung Quốc tiến hành cuộc chiến
tranh biên giới; Mỹ và phương Tây bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam. Ngành ngoại giao đã
tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất của các nước, tổ chức quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với
hàng chục nước, đề cao chính sách đối ngoại độc lập, yêu chuộng hòa bình.
Trong 5 năm 1976-1980, trên mặt trận kinh tế, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành
tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh xâm lược do đế
quốc Mỹ gây ra và của cuộc chiến tranh biên giới; khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến
tranh tàn phá; củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ở miền Bắc, bước đầu cải tạo và sắp
xếp công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam, đưa một bộ phận nông dân Nam Bộ, nông dân
Nam Trung Bộ vào con đường làm ăn tập thể; bước đầu phân bố lại lực lượng lao động xã hội;
tăng cường một bước cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân.

12
Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980 chưa tương xứng với sức lao động và vốn
đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng; thu nhập quốc dân chưa
bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định; đời sống
của nhân dân lao động còn khó khăn. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và
sự điều hành của Nhà nước giảm sút.
Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985), nhiều Nghị quyết và
Quyết định quan trọng của Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm từng bước sửa đổi cơ chế
quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tư nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp.
Trước đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), bước đầu có cách nhìn mới về nền kinh tế
nhiều thành phần, thừa nhận miền Bắc tồn tại 3 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể và cá
thể; miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư
nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề
cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khoá V (6/1986) đã đánh giá tình hình sau
cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9/1985) và khẳng định chính thức đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.>>
<Mở đầu để giới thiệu về nội dung ưu nhược điểm, bài học kinh nghiệm>
2.1. Ưu điểm:
Thứ nhất, Đảng tiếp tục xác định đường lối cách mạng đúng đắn, đưa đất nước thống nhất lên
chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IV (1976) của Đảng đã tổng kết sâu sắc tình hình cách mạng VN trong suốt 16 năm từ
sau Đại hội III (1960) của Đảng. Đảng đã khẳng định nền tảng tư tưởng vững chắc là chủ nghĩa
Mac- Lenin được vận dụng cụ thể vào nước ta, vạch ra đường lối cách mạng XHCN và xây dựng
XHCN trong cả nước. Đảng xuất phát từ đặc điểm cách mạng VN, từ những điều kiện cụ thể của
đất nước và dân tộc ta mà vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mac-Lenin và những kinh
nghiệm của phong trào cách mạng thế giới. Với tinh thần độc lập, tự chủ, đường lối của của Đảng
đã động viên quần chúng nhân dân khắc phục hậu quả sau chiến tranh, bảo vệ và giữ vững toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Thứ hai, công tác tư tưởng được coi trọng và đã đạt được kết quả tích cực.
Thành cồn của Đảng trên lịch vực công tác tư tưởng đã xây dựng lập trường, quan điểm đúng
đắn cho cán bộ, Đảng viên, củng cố sự thống nhất tư tưởng trên cơ sở đường lối cách mạng của
Đảng. Đảng chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mac-Leni và đường lối , chủ trương, chính sách của
Đảng, góp phần xây dựng lập trường, quan điểm đúng đắn, nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tăng
cường ý chí chiến đấu cách mạng, bồi dưỡng kiến thức và năng lực công tác cho cán bộ, Đảng
viên. Những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa hữu và ‘tả’ trong một số cán bộ, Đảng viên đã bị
phê phán và ngăn chặn hiệu quả.
Thứ ba, công tác xây dựng Đảng về tổ chức đã bám sát yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, bảo
đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
13
Đảng tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chín trị của mình và rất coi trọng rèn luyện cán bộ,
Đảng viên trong phong trào quần chúng. Đảng vừa là lực lượng lãnh đạo, bộ tham mưu chính trị,
vừa là lực lượng chiến đấu, là đội quan xung kích dẫn đầu và là người tổ chức các phong trào
cách mạng của quần chúng. Trong quá trình chiến đấu cách mạng lâu dài, đầy thử thách quyết
liệt, Đảng đã được rèn luyện và trưởng thành dưới nhiều hình thức khác nhau trong chiến tranh
cách mạng. Điều này đã bồi đắp thêm lập trường, quan điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ, Đảng viên trung kiên, phát huy vai trò trong điều kiện Đảng cầm
quyền trên phạm vi toàn quốc.
Nhiều cán bộ, Đảng viên không ngại gian khổ, khó khăn, đương đầu với quân thù, sẵn sàng
chấp nhận mọi thử thách, kể cả hy sinh tính mạng. Đội ngũ cán bộ, Đảng viên luôn được sự tin
yêu, ủng hộ của quần chúng nhân dân, luôn phát huy truyền thống cách mạng, tích cực xây dựng
phong trào cách mạng để phát triển kinh tế, văn hóa, ổn định đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xứng đáng vào những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng.
2.2. Khuyết điểm:
Thứ nhất, khẳng định lập trường của Đảng là lập trường giai cấp công nhân, giai cấp gắn liền
với nền sản xuất đại công nghiệp, tiêu biểu cho xu thể phát triển của thời đại, có hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học là chủ nghĩa Mac-Lenin nhưng đã tạo lập ranh giới quá mức cần thiết trong
quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Đấu tranh chống lập trường của tiểu tư sản và tư
sản là điều rất quan trọng đối với Đảng, một đảng mà số đông đảng viên xuất thân từ nông dân,
tiểu từ sản nhưng nhiều nơi đã tuyệt đối hóa nó không coi trọng đúng mức các thành phần xã hội
khác nên đã giảm đáng kể động lực cho sự phát triển, mục tiêu phấn đấu.
Thứ hai, tư tưởng nóng vội nhằm "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội"
trong từng quyết sách và phương châm hành động của từng địa phương trong cả nước, nhất là chủ
trương “cải tạo xã hội chủ nghĩa” vội vàng xóa bỏ các thành phần kinh tế để chỉ còn một nền kinh
tế thuần nhất với 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, mặc dù mô hình tập thể đã từng có
tác dụng nhất định trong điều kiện chiến tranh
Chậm thay đổi tư duy về xây dựng hệ thống chính trị thời chiến sang thời bình, quá nhấn mạnh
xây dựng “chuyên chính vô sản”, với “xây dựng chế độ làm chủ tập thể” mà chưa chú trọng đến
lợi ích thiết thực của cá nhân, chưa huy động được sức dân trong và ngoài nước. Theo đó, bộ máy
tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặc
thù chậm đổi mới về phương thức tổ chức và hoạt động nên ngày càng phình to, hoạt động kém
hiệu lực, hiệu quả và không ít trong số đó trở nên “hành chính hóa”.
Thứ ba, sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ
chức thực hiện. Đó là tư tưởng chủ quan nóng vội và bảo thủ, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế,
cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân
phối, lưu thông. Đảng đã đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng
14
cơ bản và phát triển sản xuất, đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa
phương, như lập kế hoạch và triển khai xây dựng một số công trình khi còn thiếu tài liệu điều tra,
nghiên cứu và chuẩn bị chưa chu đáo. Việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu,
bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ đã kìm hãm sản xuất, tạo nên tư tưởng ỷ lại rất
nặng nề.
Trong điều kiện hoà bình, Đại hội IV (12-1976) của Đảng về cơ bản vẫn tiếp tục thực hiện cơ
chế quản lý kinh tế thời chiến. Nền kinh tế XHCN vẫn được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa
tập trung, coi kế hoạch là công cụ chính để quản lý và điều khiển quá trình tiến từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn XHCN. Những đặc điểm chủ yếu là: Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng
mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới; các cơ
quan hành chính cạn thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp,
quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Chế độ bao cấp với các hình thức chủ yếu là bao cấp qua giá; bao cấp qua chế độ tem phiếu
(tiền lương hiện vật) và bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài
ràng buộc trách nhiệm. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng
vốn kém hiệu quả, hệ thống các cơ quan nhà nước “thu mua”, “phân phối”, “cung cấp” đã nảy
sinh tiêu cực từ cơ chế “xin-cho”.
Như vậy, việc không thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, không thừa nhận trên
thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, xây dựng nền kinh tế
khép kín... là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế vào cuối những năm
70.
Thứ tư, trên lĩnh vực quan hệ quốc tế, chưa kịp thời chuyển từ tư duy đối ngoại trong chiến
tranh sang thời bình, quá nhấn mạnh “ba dòng thác cách mạng”, các nước XHCN, của các dân tộc
bị áp bức, của phong trào công nhân quốc tế mà không quan tâm đúng mức, thậm chí đoạn tuyệt
trong quan hệ với các nước “đối lập về tư tưởng" hoặc có thể chế chính trị khác với thể chế cộng
sản.
Thứ năm, công tác xây dựng Đảng còn nhiều khuyết điểm.
Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu kịp thời và kém tính chiến đấu. Có những mặt còn
phạm hữu khuynh, giản đơn, một chiều, kém tính linh hoạt, hiệu quả thấp. Sau kháng chiến chống
Mỹ thắng lợi, chúng ta đã thiếu sự giáo dục sâu rộng về chuyển biến giai đoạn, chưa đánh giá
đúng tình hình, chưa lường hết các khó khăn và những diễn biến về tư tưởng của cán bộ, đảng
viên và quần chúng để chủ động ngăn chặn các mặt tiêu cực. Tình hình thiếu cảnh giác cách
mạng diễn biến nghiêm trọng Tình trạng thiếu nhạy bén, quan liêu, bảo thủ nặng nề; nguyên tắc
tập trung dân chủ ở nhiều nơi không được chấp hành triệt để. Tình trạng vô tổ chức, vô kỷ luật,
cục bộ, địa phương với mức độ khác nhau xảy ra phổ biến. Tình hình mất dân chủ, thiếu tự phê
bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên, những hiện tượng gia trưởng, độc đoán, thành kiến
với cán bộ, trù dập cán bộ, đảng viên và quần chúng tốt, dám phê bình khuyết điểm cũng không
kém phần nghiêm trọng.
15
Tình trạng sa sút phẩm chất, giảm sút ý chí chiến đấu trong một bộ phận cán bộ phụ trách ở
các cấp, các ngành từ trên xuống dưới và một bộ phận đảng viên đang gây tác hại lớn. Nhiều
người từ sai lầm trong sinh hoạt, quan liêu hoá trong tác phong, đã đi đến chỗ bị biến chất trong
lối sống, thoái hoá về chính trị.
Công tác tổ chức cũng rất trì trệ, chậm chuyển hướng, không theo kịp với tình hình và nhiệm
vụ, chưa xây dựng được một cơ cấu tổ chức đồng bộ và mạnh từ trung ương cho đến cơ sở. Cơ
chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước quản lý chưa được thể hiện trong nền
nếp sinh hoạt hằng ngày của các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể quần chúng
ở mọi cấp, mọi ngành. Tổ chức đảng có nơi chưa trong sạch. Nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu kém
kéo dài. Chất lượng sinh hoạt chi bộ thấp, tính năng động chủ quan của nhiều đảng bộ cơ sở yếu.
Công tác cán bộ còn bảo thủ, trì trệ về nhiều mặt. Nhiều chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ lạc
hậu, bảo thủ, không khuyến khích phát triển tài năng, gây tâm lý không lành mạnh trong cán bộ
và ngoài xã hội. Chưa xây dựng được phong cách và chế độ làm việc cách mạng và khoa học.
Bệnh sự vụ, thủ công, phân tán, họp hành, giấy tờ quá nhiều từ trên xuống dưới, đều còn rất nặng
là một nguyên nhân quan trọng của những khuyết điểm trong việc ra những quyết định thiếu
chính xác, thiếu cụ thể.
Công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng cũng như
kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thi hành kỷ luật trong Đảng còn rất
yếu.
10 năm đầu của đất nước sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ những
ưu, khuyết điểm, thậm chí là sai lầm, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật, Đại hội VI (1986) của Đảng đã mạnh dạn nhận khuyết điểm, rút ra những bài học
quý báu. Đó là: trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; phải biết kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới; phải chăm lo công tác xây dựng Đảng
ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
V. Bài học kinh nghiệm trong lĩnh vực đối ngoại
Thứ nhất, cần phải đánh giá đúng sự biến đổi của bối cảnh quốc tế, khu vực; bám sát thực tiễn
đất nước, kịp thời điều chỉnh chủ trương, chính sách đối ngoại.
Trong những năm 1976 - 1986, Việt Nam chưa làm tốt công tác dự báo tình hình, nhận diện
chưa đúng về mối quan hệ phức tạp giữa các nước lớn. Vì thế, một số chủ trương, chính sách đối
ngoại mang tính cứng nhắc, giáo điều, đánh giá chủ quan, dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng.
Điều này được thể rõ nhất trong việc nhận diện tình hình thế giới:
+ Đầu tiên, nhìn nhận chưa thấu đáo về Mỹ và sức mạnh của Mỹ trong khu vực. Việt Nam cho
rằng, chiến thắng mùa Xuân 1975 đã “đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng có”(1),đánh dấu
bước ngoặt đi xuống của Mỹ; làm Mỹ bị suy yếu nghiêm trọng, buộc phải rút lui khỏi một số địa
bàn ở châu Á. Song trên thực tế, Mỹ không rơi vào “tình thế khó khăn chưa từng có”, mặc dù uy
16
tín có giảm sút, nhưng Mỹ chưa hề đánh mất vị trí siêu cường và khi cần thiết Mỹ có thể sử dụng
sức mạnh đó liên kết với các nước khácthực hiện các chính sách chống phá Việt Nam. Việt Nam
cũng chưa nắm bắt được những tính toán của Mỹ trong mối bang giao với các nước cùng khu
vực. Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ và cơ hội tháo gỡ nút thắt
trong quan hệ đối ngoại của mình. Bên cạnh đó, do chưa nắm bắt chuẩn xác về sự thay đổi trong
tam giác chiến lược Mỹ - Xô -Trungnên Việt Nam cũng chưa có những đối sách phù hợp, nhất là
với Trung Quốc.
Việt Nam vẫn còn chậm chễ trong nhận thức về các vấn đề của khu vực, nhất là những thay
đổi trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong ASEAN. Vì thế,
chưa thực sự nỗ lực thúc đẩy, phát triển quan hệ hợp tác song phương, đa phương.
Việt Nam đánh giá thiếu chính xác về thế và lực của đất nước. Sau Đại thắng mùa Xuân năm
1975, uy tín và vị thế của Việt Nam đã được nâng cao, song với tư thế là người chiến thắng, Việt
Nam đã thiếu tỉnh táo, đánh giá quá cao thời kỳ sau Việt Nam, đồng thời, thỏa mãn với nhận định
của một số học giả nước ngoài và tự nhận thấy đánh được Mỹ thì không có gì không làm được.
Điều đó dẫn đến tư tưởng chủ quan, tư duy nôn nóng, phiêu lưu. Với những nhận thức chưa
chuẩn xác thế và lực của đất nước, đánh giá chưa đúng những chuyển động của tình hình thế giới,
thiếu nhạy bén, Việt Nam đã nghiêng hẳn về phía Liên Xô, coi Liên Xô là “hòn đá tảng” trong
chính sách đối ngoại. Điều này khiến Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Liên Xô, tự đẩy đất nước
vào thế đối đầu với Trung Quốc.Hơn nữa, Việt Nam vẫn còn sai lầm khi tự nhận diện về sứ mệnh
mới: “chống chủ nghĩa bành trướng, bá quyền” trong phong trào cách mạng thế giới, “vì nghĩa vụ
quốc tế cao cả”.
Có thể thấy, tư tưởng giáo điều, không nhạy bén trước sự vận động của thế giới và khu vực đã
khiến quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong những năm 1976-1986 gặp nhiều khó khăn, chưa
phát huy được thế mạnh của đất nước sau thống nhất, độc lập.
Thứ hai, cần thường xuyên phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và đường lối đối
ngoại, coi trọng công tác nghiên cứu chiến lược, tổng kết thực tiễn và dự báo quốc tế
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, độc lập, tự chủ luôn là một trong
những yêu cầu hàng đầu; đồng thời, là một trong những điều kiện bảo vệ chủ quyền quốc gia dân
tộc, là cơ sở vững chắc cho quyền tự quyết dân tộc, là đòn bẩy đưa đất nước hội nhập với quốc tế.
Để phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và đường lối đối ngoại, trong những
năm 1976-1986, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương“ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế
thuận lợi nhất để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển
kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội(3).Đồng thời, mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển quan hệ với các
nước Đông Dương, các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản phát triển. Bên cạnh đó, cần đặt
mình vào đúng dòng chảy của thời đại, hóa giải nguy cơ, tranh thủ thời cơ, khai thác tối đa những
lợi thế so sánh giữa Việt Nam với các nước về các mặt, tận dụng những khả năng sẵn có, đánh
thức những tiềm năng của đất nước, lấy “cái mạnh” của thế giới về nguồn vốn dồi dào, khoa học
17
công nghệ cao, trình độ quản lý hiện đại, nguồn nguyên nhiên liệu phong phú, thị trường rộng lớn
và đa dạng để bổ sung và tăng sức mạnh cho mình, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, giải phóng và phát triển mạnh mẽ sức sản xuất, hoàn thành tốt nhất yêu cầu của
đất nước.
Trong giai đoạn 1976-1986, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đãchung sứcđập tan âm
mưu phá hoại của các thế lực thù địch, đẩy lùi chiến tranh xâm lấn ở hai đầu biên giới, phá vỡ
chính sách bao vây, cấm vận nhằm cô lập Việt Nam của một số nước lớn, giành lại độc lập, tự
chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bên cạnh việc phòng tránh nguy cơ mất độc lập, tự chủ về tư duy và đường lối đối ngoại, coi
trọng công tác nghiên cứu chiến lược, tổng kết thực tiễn và dự báo quốc tếcũng là kinh nghiệm
quý báu trong lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1976-1986.
Nghiên cứu chiến lược và tổng kết thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi lẽ, tổng kết
thực tiễn là để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, những bài học kinh nghiệm và các giải pháp
tích cực, hạn chế tiêu cực nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động đối ngoại. Đồng thời, tổng
kết thực tiễn cũng là cơ sở để đề ra đường lối, chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình mới.
Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác dự báo quốc tế để kịp thời xử lý các vướng mắc trong quan hệ
đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong tương lai.
Thứ ba, chủ động khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tích cực xác lập các mối
quan hệ quốc tế đa dạng, đa phương
Đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế là vũ khí sắc bén giúp Việt Nam phá vỡ
thế bao vây, cấm vận, đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Đồng
thời, đem lại những lợi ích kinh tế rõ ràng, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và
là phòng tuyến đầu tiên giúp Việt Nam bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Hơn nữa, ngoại giao đa phương còn giúp Việt Nam độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, qua đó
nhận được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận và bạn bè quốc tế. Mặc dù, Đảng, Nhà nước Việt Nam
đã có tầm nhìn chiến lược về mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi.
Song, những năm 1976-1986, Việt Nam quá chú trọng, đề cao Liên Xô và nhất quán nhấn mạnh
quan hệ thủy chung với Liên Xô là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của mình, do đó
Việt Nam đã rơi trạng thái cô lập, đối đầu với các nước lớn khác. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng từ
sự kiện Campuchia nên chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và thế
giới chưa được hiện thực hóa một cách trọn vẹn, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong việc
xác lập các mối quan hệ quốc tế.
Nhận thấy những hạn chế, thiếu sót trong hoạch định và thực hiện chủ trương đối ngoại, Đảng,
Nhà nước Việt Nam đã từng bước khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”, tăng cường mở
rộng quan hệ với tất cả các nước trong khu vực và thế giới. Bởi vậy, từ năm 1975 đến năm 1977,
Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước, trong đó có nhiều nước tư bản phát triển. Từ
năm 1976 đến trước khi xảy ra vấn đề Campuchia, nhiều đoàn cấp cao của Việt Nam đi thăm các
18
nước Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản... mở ra quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kỹ thuật
với các nước thuộc khu vực này. Đây là khoảng thời gian Việt Nam tranh thủ được nhiều nguồn
viện trợ, thiết bị kỹ thuật từ các nước tư bản phương Tây. Trong những năm 1976-1980, Việt
Nam đã tranh thủ được từ các nước tư bản khoảng 2,263 đôla mỹ, trong đó 54% là cho vay, 46%
là viện trợ không hoàn lại. Từ năm 1975 đến cuối 1978, riêng các nước Bắc Âu đã dành cho Việt
Nam 612 triệu đôla Mỹ, trong đó 91% là viện trợ không hoàn lại(4).Bên cạnh đó, Việt Nam cũng
ký kết nhiều hiệp định hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với các nước Tây Âu, Bắc
Âu như Pháp, Bỉ, Thụy Điển, Đức, Italia, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Có thể thấy, những điều chỉnh trong đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn này đã giúp Việt
Nam mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều nước, tranh thủ nguồn vốn, viện trợ từ nước ngoài để
khôi phục và phát triển kinh tế. Đồng thời, chủ động khắc phục đường lối đối ngoại “nhất biên
đảo”, tích cực xác lập các mối quan hệ quốc tế đa dạng, đa phương đã giúp Việt Nam có nhiều cơ
hội tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế, tạo nền tảng thúc đẩy Việt Nam bình thường
hóa quan hệ với các nước lớn.
Thứ tư, cần xác định đúng đắn, kịp thời tầm quan trọng của quan hệ với các nước lớn và các
nước láng giềng cùng khu vực
Việt Nam giữ vị trí chiến lược quan trọng trên bản đồ địa chính trị khu vực, là cầu nối giữa đất
liền và hải đảo, là trung tâm thương mại của khu vực, đồng thời cũng là cửa khẩu đi vào hệ thống
giao thông đường bộ trên đất liền của các quốc gia Đông Nam Á và châu Á. Do đó, ngay từ rất
sớm, Việt Nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới của các nước đế quốc. Trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Việt Nam đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn trong nội
bộ kẻ thù, cân bằng quan hệ giữa các cường quốc. Đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của các nước
lớn trong khối XHCN để hoàn thành sự nghiệp bảo vệ, giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc. Có
thể thấy, trước năm 1975, Việt Nam đã thực hiện thành công “chiến lược cân bằng” trong đối
ngoại với các nước lớn, coi trọng quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong những năm 1976-1986, do tác động, chi phối bởi những yếu tố chủ quan,
khách quan khác nhau nên Việt Nam đã nghiêng hẳn về phía Liên Xô, đối đầu với Trung Quốc và
coi Liên Xô đây là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của mình. Đồng thời, nhấn mạnh
thắt chặt tình đoàn kết với Liên Xô là vấn đề cần thiết và quan trọng. Điều đó thể hiện sự mất cân
bằng trong quan hệ với các nước lớn, đẩy ngoại giao Việt Nam rơi vào “thế kẹt” trong mười năm
trước đổi mới. Bên cạnh đó, Việt Nam còn dè chừng, cảnh giác trong quan hệ với Mỹ, Nhật do
cách nhìn nhận, đánh giá còn chủ quan. Việt Nam cho rằng Nhật vừa giữ quan hệ với ta, vừa
tranh thủ các nước các nước ASEAN, vừa phối hợp với Mỹ và Bắc Kinh chống ba nước Đông
Dương. Còn Mỹ đang tìm cách gắn chặt với các nước Đông Nam Á nhằm tranh thủ lực lượng để
ngăn Liên Xô ở phía Đông; đồng thời, phối hợp với các thế lực phản động chống phá ba nước
Đông Dương. Vì vậy, Việt Nam bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ, tiếp tục đẩy quan
hệ Việt - Mỹ rơi vào tình trạng đối đầu căng thẳng. Cũng bởi vì không giữ được thế cân bằng
19
trong quan hệ với các nước lớn nên thời gian này đối ngoại Việt Nam gặp phải rất nhiều khó
khăn, thách thức. Một mặt, Việt Nam chèo chống với nước láng giềng lớn Trung Quốc đầy tham
vọng. Mặt khác, phải chèo chống với sự bao vây, cấm vận của các nước lớn, khiến Việt Nam bị
cô lập với khu vực và quốc tế.
Trong quan hệ với các nước láng giềng cùng khu vực, Việt Nam luôn coi trọng và ra sức củng
cố tình đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương, coi đó là quy luật phát triển cách mạng của
ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của cả ba quốc gia. Bởi vậy, trong những
năm 1976-1985, Việt Nam đã không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác
đặc biệt với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Nhiều thỏa thuận hợp tác giữa hai nước Việt - Lào
đã được ký kết trên cơ sở tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, hợp tác lâu dài, giúp đỡ
nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình
đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Đối với Campuchia, Việt Nam luôn coi “vấn đề Campuchia” là chìa khóa cần tập trung tháo gỡ
để giải quyết những khúc mắc, bất đồng trong quan hệ đối ngoại với các nước Đông Nam Á và
ASEAN. Đi đôi với việc giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đuổi lực lượng Khơme đỏ, giành lại
độc lập, Việt Nam còn thực hiện nhiều hoạt động nhằm giảm bớt căng thẳng, hiểu lầm của dư
luận quốc tế. Vượt qua khó khăn, thách thức, xóa bỏ mọi rào cản, quan hệ Việt Nam - Campuchia
đã cải thiện và không ngừng được củng cố, giữ gìn.
Có thể thấy, xác định đúng đắn, kịp thời tầm quan trọng của quan hệ với các nước lớn và các
nước láng giềng cùng khu vựclà vấn đề mang tính chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trước những chuyển biến sâu sắc trong quan hệ quốc tế, Việt Nam
cần đánh giá đúng bản chất mối quan hệ đối ngoại với tất cả các nước. Đặc biệt, tránh đối đầu
hoặc lập liên minh để đối đầu, gây chiến tranh với các nước láng giềng cùng khu vực, chủ động
tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định, thực hiện chủ trương “khép lại quá khứ, hướng tới tương
lai” là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại.
VI. Liên hệ thực tiễn
Hiện nay, tình hình đất nước sau 35 năm đổi mới đã có những bước phát triển to lớn, trên tất
cả các lĩnh vực: kinh tế - xã hội; văn hóa - khoa học - công nghệ; an ninh - quốc phòng; sức
mạnh, vị thế và uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên,
những bài học kinh nghiệm chúng ta học được trong giai đoạn 1976 – 1985 là vô cùng to lớn. Các
thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bên cạnh đó, dịch
bệnh, biến đổi khí hậu, nguồn nước bị biến dạng, thiên tai ngày càng nghiêm trọng, dịch bệnh lan
rộng khắp thế giới đang là những thách thức, khó khăn lớn của thời đại ngày nay. Nhờ những
kinh nghiệm từ thế hệ đi trước, chúng ta hằng ngày cố gắng, nỗ lực vượt qua tất cả.

Trong bất kì thời đại hòa bình hay chiến tranh thì chúng ta luôn phải xây dựng, ý thức củng
cố, vững mạnh hơn nữa về đoàn kết dân tộc, về kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm để

20
bảo vệ chủ quyền, nền độc lập, không chịu làm nô lệ. Khi đất nước thống nhất, dân ta còn chịu
cảnh bữa đói, bữa no, nhưng Đảng và nhà nước đã có những đường lối đúng đắn giúp dân ta quá
độ lên chủ nghĩa xã hôi. Ngày nay khi đất nước đã hòa bình lặp lại, chúng ta được sống trong môi
trường tốt hơn, mọi thứ đầy đủ, sung túc. Càng như vậy chúng ta càng phải thấm nhuần, biết ơn
những bài học kinh nghiệm từ ông cha ta.

Mỗi chúng ta để làm tốt điều này thì phải coi đây là một nghĩa vụ thiêng liêng cao quý của
mỗi công dân. Từ đó chúng ta sẽ ý thức được Trách nhiệm của thanh niên, học sinh hiện nay là:

Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ. Người yêu nước thì
phải tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn tham gia tốt vào các sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thì phải có sức khoẻ tốt. Muốn có sức khoẻ tốt thì phải tập thể
dục. Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả
nước mạnh khỏe.

Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, Cảnh giác trước âm mưu chia rẽ,
xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái độ, việc làm gây tổn hại
đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia hoạt động
đền ơn đáp nghĩa…

Với trách nhiệm của người sinh viên, là tầng lớp trí thức, có sự hiểu biết, năng động và
sáng tạo, lại đang được tiếp thu những kiến thức khoa học của nhân loại, là nguồn lực để xây
dựng và phát triển đất nước, nhưng mỗi sinh viên cũng cần được sự hỗ trợ, định hướng và dìu dắt
của Đảng, Nhà nước, nhà trường và của toàn xã hội, do đó mỗi người học không những chấp
hành đúng và đủ các quy định của Nhà nước về đảm bảo an ninh trật tự mà còn phải tham gia tích
cực vào các phong trào bảo vệ an ninh – trật tự của địa phương, như:

Có thể thấy hiện nay theo các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở
khu dân cư; phong trào Toàn dân phòng chống ma tuý, Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ; phong trào
Toàn dân tham gia cảm hoá giáo dục người lầm lỗi cũng như các phong trào bảo vệ an ninh trật
tự khác: phong trào xây dựng cụm dân cư an toàn, số nhà an toàn; tham gia vào các tổ chức quần
chúng Đội thanh niên xung kích an ninh, Đội thanh niên tự quản… tích cực tham gia tuần tra
canh gác, phòng ngừa các hoạt động tội phạm.

Để thực hiện được các nội dung trên sinh viên thông qua các hoạt động của Đoàn thanh
niên, các hoạt động khác của nhà trường để lồng ghép các nội dung của phong trào bảo vệ an ninh
Tổ quốc.

21
Quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời Thực hiện tốt
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời vận động mọi người
xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn
xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn
hoá- đạo đức truyền thống của dân tộc.

Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết thực, phù hợp
khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo,
chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động mang tính xã hội như hiến máu tình
nguyện, làm tình nguyện viên…

Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may mắn, chính vì
vậy chúng ta cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà vững mạnh, có thể chống lại
mọi kẻ thù. Mỗi người khi học tập, lao động, tạo lập cho mình một cuộc sống tốt đẹp cũng chính
là cống hiến cho tổ quốc. Bên cạnh đó, mỗi chúng ta cần phải yêu thương, giúp đỡ đồng bào,
đoàn kết với mọi người vì điều đó không chỉ giúp cho chúng ta được yêu thương, trân trọng mà
còn thể hiện sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

Là một học sinh trước hết chúng ta cần học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép
với thầy cô. Có nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Luôn biết yêu thương và
giúp đỡ những người xung quanh,… Tuy nhiên vẫn còn có nhiều bạn chưa có nhận thức đúng đắn
về trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước, chỉ biết đến bản thân mình, coi việc chung
là việc của người khác,… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn lên án. Mỗi chúng ta cần
phải cố gắng không chỉ vì tương lai của mình mà còn để xây dựng đất nước giàu đẹp xứng đáng
với những gì được hưởng

22

You might also like