Thần Học Các Tôn Giáo Dưới Lăng Kính Của Công Đồng Vaticanô II

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 40

Thần học các tôn giáo dưới lăng kính của Công Đồng

Vaticanô II
23 Tháng Bảy, 2019
913
Trong lịch sử tín lý liên quan đến thần học về các tôn giáo,
chúng ta thấy Công đồng thành Florence (1442) đã chấp nhận đề
cập tới vấn đề cứu độ của tất cả mọi người – bao hàm cả những
người ngoài Kitô giáo – khi họ ở bên ngoài Giáo hội, dù với một
thái độ cứng rắn. Thái độ cứng rắn này đương nhiên xuất phát từ
một bối cảnh tế nhị. Vào một thế kỷ sau (1547), công đồng
Trentô, qua tuyên bố về vấn đề “rửa tội bằng ước muốn”, đã
long trọng khẳng định khả năng lãnh nhận ơn cứu độ cho những
người sống bên ngoài biên giới của Giáo hội hữu hình. Các bản
văn sau đó của Giáo hội cũng tái khẳng định khả năng này.

Tuy nhiên, trong lịch sử gần hai ngàn năm của mình, hình như
chưa bao giờ các tài liệu chính thức của Giáo hội – Công đồng
hoặc các bản văn khác – đề cập tới các tôn giáo khác, hơn nữa
lại đề cập tới vai trò tích cực của các tôn giáo. Công đồng
Vaticanô II không chỉ phá vỡ sự thinh lặng này mà còn mở ra
một hướng đi cho môn thần học về các tôn giáo. Kể từ sau Công
đồng Vaticanô II, hầu như các đại học Công giáo trên thế giới
đều có chuyên ngành nghiên cứu môn thần học về các tôn giáo.
Trước khi nghiên cứu ảnh hưởng của Công đồng lên nền thần
học về các tôn giáo và tác động của nó trên các bản văn hậu
Công đồng (4), chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc nghiên cứu lịch sử
ra đời của bản văn (1), nhằm khám phá tinh hoa của các bản văn
này (2), cũng như những đánh giá đa chiều về chính các bản văn
này (3).
1. Lịch sử ra đời của tuyên ngôn Nostra Aetate
Tuyên ngôn Nostra aetate (Tuyên ngôn về Tương quan giữa
Giáo hội với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo) đến rất trễ trong
Công đồng chung Vaticanô II. Nói một cách cụ thể, tuyên ngôn
này chỉ xuất hiện vào kỳ họp thứ 3 (1964), trong lược đồ thứ ba
được dự trù để thêm vào phần đề cập tới Giáo hội[1]. Khởi đầu,
Công đồng, -dưới sự điều khiển của đức Giáo hoàng Gioan
XXIII- chỉ muốn thêm vào sắc lệnh về Hiệp nhất Kitô giáo một
tuyên ngôn nhằm cải thiện tương quan vốn đang rất căng thẳng
giữa những các Kitô hữu với anh em Do Thái giáo. Mục đích
của tuyên ngôn là muốn cho những thái độ kỳ thị, hiểu lầm của
các Kitô hữu và của cả Giáo hội đối với người Do Thái được
loại bỏ, nhằm hàn gắn vết thương đã tạo ra từ bao thể kỷ, nhất là
kinh nghiệm đau thương về cuộc diệt chủng người Do Thái
(Shoah) trong đại chiến thế giới lần thứ II. Theo đề nghị của một
số giám mục đến từ các nước mà người ngoài Kitô hữu chiếm đa
số, nội dung của tài liệu được mở rộng, nhằm đưa vào trong đó
các tôn giáo khác cùng với Do Thái giáo. Việc đức giáo hoàng
Phaolô VI thiết lập vào năm 1964 một Văn phòng Đối thoại với
những Người ngoài Kitô giáo; việc xuất bản cùng năm tông
huấn Ecclesiam suam về đối thoại (bao hàm việc đối thoại với
người ngoài Kitô giáo); chuyến thăm Ấn Độ của đức Phaolô VI
cùng năm, nơi ngài đã gặp các nhà lãnh đạo các tôn giáo khác
với tất cả tâm tình đơn sơ và kính trọng : tất cả những sự kiện
này đã thúc đẩy Công đồng có một cái nhìn vượt ra khỏi thế giới
Tây Phương, đồng thời tiếp nhận sự cần thiết của một tương
quan giữa Giáo hội với các tôn giáo khác, không chỉ với Do
Thái giáo mà với tất cả các tôn giáo khác trên thế giới.
Chính vì thế, nội dung của tuyên ngôn Nostra aetate đã được mở
rộng để thêm phần đề cập tới các tôn giáo khác cùng với Do
Thái giáo, mặc dù phần đề cập tới tương quan giữa Giáo hội và
Do Thái giáo vẫn còn dài hơn. Điều cần ghi nhận là một trật tự
bị đảo lộn trong lược đồ của Nostra aetate so với Lumen
gentium. Hiến chế Lumen gentium nói một cách trực tiếp cách
thức mà các các thành viên của các tôn giáo khác “quy hướng
về” Giáo hội : trước hết là người Do Thái, vì Giáo hội có một
tương quan mật thiết với họ; kế đến là người Hồi Giáo, vì “họ
tuyên xưng rằng họ giữ đức tin của Abraham”; và cuối cùng
“những kẻ đang tìm kiếm Thiên Chúa trong bóng tối và qua
ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài
cũng không xa họ, bởi vì chính Ngài ban cho mọi người sự
sống, hơi thở và tất cả mọi sự” (LG 16). Trong khi đó, Nostra
aetate theo trật tự ngược lại : tôn giáo của nhân loại nói chung;
các tôn giáo “liên quan đến sự tiến bộ của văn hoá” như Ấn Độ
giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác (NA 2); Hồi giáo (NA 3),
và cuối cùng là Do Thái giáo (NA 4). Với từng cấp độ khác
nhau, tuyên ngôn chỉ rõ mối liên hệ chặt chẽ và sự nối kết linh
thiêng giữa Giáo hội với từng tôn giáo. Mối dây liên hệ này có
các cấp độ khác nhau. Với ba tôn giáo có cùng nguồn gốc từ đức
tin của Abraham, thì Israel có một mối tương quan đặc biệt hơn,
vì Giáo hội cùng nhận chung một mặc khải Cựu Ước với “Dân
được tuyển chọn” này. Tuy nhiên, trong Nostra aetate, Công
đồng không có ý định hướng các tôn giáo khác quy tụ một cách
tiệm tiến về Giáo hội, nhưng đề nghị các tôn giáo cùng vượt qua
các chia rẽ hầu thiết lập tình thân hữu với nhau (NA 5).

2. Những giá trị tích cực hàm chứa trong các truyền thống
tôn giáo
Các bản văn mà chúng ta nghiên cứu ở đây nằm trong thứ tự của
Công đồng : Hiến chế Lumen gentium (16-17), tuyên ngôn
Nostra aetate và sắc lệnh Ad gentes (3,9-11). Trong từng bản
văn, Cồng Cồng phát triển ba đề tài : (1), Ơn cứu độ cho những
người ngoài Giáo hội; (2), Giá trị đính thực mà ta có thể tìm
thấy nơi những người ngoài Kitô giáo và trong các truyền thống
tôn giáo của họ; (3), Định giá của Giáo hội về các giá trị này và
thái độ mà Giáo hội chọn lựa trong tương quan đối với các tín
đồ và các truyền thống tôn giáo.

2.1. Lumen gentium


Hiến chế Tín lý về Giáo hội khẳng định rằng sự trợ giúp của
Thiên Chúa là cần thiết cho ơn cứu độ, không chỉ cho những
người thuộc các truyền thống tôn giáo, nhưng cả cho “những kẻ
vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn
Chúa, cố gắng sống đời chính trực, Chúa Quan Phòng không từ
chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu rỗi”. Bản văn viết
tiếp : “Thật vậy, Giáo hội xem tất cả những gì là chân thiện nơi
họ như để chuẩn bị họ lãnh nhận Phúc Âm, như một ân huệ mà
Đấng soi sáng mọi người ban cho hầu cuối cùng họ được sống”
(LG 16).

Các giá trị tích cực ở đây được gán cho từng con người cụ thể,
chứ không phải cho cộng đoàn tôn giáo trong đó các cá nhân
này trực thuộc. Bản văn cũng thêm rằng, ngoài những yếu tố
tích cực, “con người cũng thường bị ma quỷ gạt gẫm làm sai lạc
phán đoán của mình khiến họ đánh đổi chân lý Thiên Chúa lấy
sự giả dối, phụng sự thụ tạo hơn là phụng sự Đấng Tạo Hoá (x.
Rm 1,21.25)” (LG 16). Sứ mạng của Giáo hội hệ tại ở việc rao
giảng Tin Mừng cứu độ trong Đức Giêsu Kitô cho tất cả mọi
người:

Thực ra, những gì thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của loài
người, hoặc trong nghi lễ văn hoá riêng của các dân tộc, hoạt
động của Giáo hội không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành
mạnh hoá, nâng cao và hoàn thành chúng, hầu làm vinh danh
Thiên Chúa, đánh bại ma quỷ và mưu cầu hạnh phúc cho con
người (LG 17).

Như vậy, một mặt, Giáo hội nhìn nhận những yếu tố tích cực nơi
từng con người khi họ mở lòng đón nhận những gì là tốt đẹp
nhất trong các truyền thống tôn giáo của họ; mặt khác, Giáo hội
cũng ý thức bổn phận loan báo sứ điệp Tin Mừng của mình, hầu
dẫn đưa con người đến sự trọn hảo.

2.2. Ad gentes
Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo hội cũng nói đến
sự kết hợp giữa thái độ đón nhận của các tín đồ và những giá trị
khách quan của các tôn giáo :

Ý định của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi toàn thể nhân loại không
phải chỉ được thực hiện một cách có thể nói là kín đáo trong tâm
trí con người, nhưng còn bằng những sáng kiến, ngay cả sáng
kiến tôn giáo, nhờ đó con người tìm kiếm Thiên Chúa bằng
nhiều cách, “hầu may ra sẽ đến gần Ngài hoặc gặp được Ngài,
mặc dù Ngài không ở xa mỗi người chúng ta” (Cv. 17,27) (AG
3).

Ở đây, những “sáng kiến tôn giáo” hình như có tương quan với
các yếu tố tích cực trong các tôn giáo, các sáng kiến này được
phân biệt rõ ràng với thái độ sẵn sàng từ bên trong của từng con
người, giúp định hình đời sống tôn giáo của từng người. Tuy
nhiên, các “sáng kiến này” cũng “cần phải được soi dẫn và tu
bổ, tuy đôi khi, nhờ ý định nhân lành của Chúa Quan Phòng, có
thể được coi như con đường hướng về Thiên Chúa chân thật
hoặc chuẩn bị Phúc Âm” (AG 3).

Cùng một ý tưởng này được lặp lại trong Ad gentes (9), khi
Công đồng đề cập tới tương quan giữa các hoạt đồng truyền giáo
của Giáo hội với thế giới ngoài Kitô giáo. Hoạt động truyền giáo
nhằm thanh tẩy, nâng cao và kiện toàn trong Đức Giêsu Kitô
những gì là tốt đẹp nơi mỗi con người và mỗi truyền thống tôn
giáo:

Tất cả những gì là chân lý và ân sủng đã có nơi các dân tộc như


một sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa sẽ được hoạt động truyền
giáo giải thoát cho khỏi bị nhiễm độc và hoàn lại cho Chúa Kitô
là Đấng tác thành chúng […] Bởi vậy, bất cứ điều gì tốt đẹp
khám phá thấy là đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay
trong những lễ chế và văn minh riêng của các dân tộc, sẽ không
bị hủy diệt, nhưng còn được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất, để
Chúa được tôn vinh, ma quỷ bị xấu hổ và con người được hạnh
phúc (x. LG 17) (AG 9).

Khởi đi từ việc khám phá ra những gì là chân thiện mỹ nơi thế


giới ngoài Kitô giáo, Ad gentes đã rút ra kết luận cho phương
thức truyền giáo của người Kitô hữu:

Để có thể làm chứng về Chúa Kitô một cách hữu hiệu, chính các
Kitô hữu phải lấy lòng kính trọng và tình bác ái liên kết với
những người ấy, phải biết mình là thành phần của nhóm người
mình chung sống và tham gia đời sống văn hoá, xã hội qua
những giao tiếp và hoạt động khác nhau trong đời sống nhân
loại. Họ phải làm quen với những truyền thống dân tộc và tôn
giáo của những người ấy; phải lấy làm sung sướng và kính cẩn
khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong họ
[…] Như chính Chúa Kitô đã dò xét tâm hồn con người và đối
thoại với họ đúng theo kiểu loài người để dẫn họ đến ánh sáng
thần linh, các môn đệ của Người, một khi thấm nhuần tinh thần
Chúa Kitô, cũng phải hiểu biết người họ chung sống, và phải đối
thoại với họ, để nhờ chính việc đối thoại chân thành và nhẫn nại
đó, các môn đệ học biết những ân huệ phong phú đã được Thiên
Chúa rộng ban cho các dân tộc; đồng thời các môn đệ phải cố
gắng đem ánh sáng Phúc Âm chiếu soi những sự phong phú đó,
giải thoát chúng và đem chúng quy phục về Chúa Cứu Thế (AG
11).

2.3. Nostra aetate


Tuyên ngôn đề cập tới sự gặp gỡ giữa Giáo hội và các tôn giáo
trên thế giới, khi cố gắng suy tư về nguồn gốc và cứu cánh
chung của mỗi người trong Thiên Chúa, đồng thời trả lời về
những câu hỏi căn bản làm con người bận tâm:

Con người mong đợi các tôn giáo giải đáp về những bí nhiệm
xưa nay vẫn làm tâm hồn họ xao xuyến sâu xa : con người là
gì ? Đời người có mục đích và ý nghĩa nào ? Sự thiện và tội ác là
chi ? Đâu là nguyên nhân và mục đích của đau khổ ? Đâu là con
đường dẫn tới hạnh phúc thật sự ? Cái chết, sự phán xét, và sự
thưởng phạt sau khi chết là gì ? Sau cùng, cái huyền nhiệm tối
hậu khôn tả vẫn bao trùm cuộc sống chúng ta là chi, chúng ta
xuất phát từ đâu và chúng ta hướng về đâu ? (NA 1).
Và rồi, một thái độ của Giáo hội đối với các tôn giáo được diễn
tả như sau:

Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và
thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành,
Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống,
những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác
với chủ trương mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại
ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người.
Tuy nhiên Giáo hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao
giảng Chúa Kitô, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga
14,6), nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung
mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với mình (x.
2Cr 5,18-19).

Vì thế, Giáo hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì
và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và
những giá trị xã hội văn hoá của các tín đồ thuộc các tôn giáo ấy
mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo (NA 2).

Chúng ta có thể quan sát và thấy rằng những giá trị nơi các tôn
giáo được bản văn nhấn mạnh hơn so với các văn bản trước. Cụ
thể, các thuật ngữ được thêm vào như : “những phương thức
hành động và lối sống, […] những huấn giới và giáo thuyết […]
cũng thường đem lại ánh sáng Chân Lý chiếu soi cho hết mọi
người”. Dù không trích dẫn một cách cụ thể Gioan 1,9, nhưng ta
thấy có bóng dáng của bản văn này. Đó là sự hiện diện, dù chưa
toàn diện, nhưng một cách cụ thể của “Chân Lý” trong các tôn
giáo. Đây là lý do thúc đẩy Giáo hội kính trọng các tôn giáo
khác và thăng tiến các giá trị tinh thần và văn hoá nơi các tôn
giáo này, đồng thời sứ mạng của Giáo hội cũng loan báo báo “sự
trọn hảo của đời sống tôn giáo” trong Đức Giêsu Kitô.

Giáo huấn của Công đồng sử dụng nhiều thuật ngữ của các
truyền thống xưa, nhưng thiếu những định nghĩa cụ thể. Vì thế,
một tài liệu của Văn phòng Đối thoại với những Người ngoài
Kitô giáo được xuất bản vào năm 1984, tái khẳng định những
giá trị tích cực của các truyền thống tôn giáo khi quy tụ các thuật
ngữ mà Công đồng đã sử dụng. Bản văn viết:

[…] Các nghị phụ của Công đồng đã khẳng định rằng, trong các
truyền thống tôn giáo ngoài Kitô giáo có những yếu tố “chân
thiện” (LG 16), những “yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá”
(GS 92), những yếu tố “của chân lý và ân sủng” (AG 9), “những
hạt giống của Ngôi Lời” (AG 11; 15), những “tia sáng của Chân
Lý chiếu soi hết thảy mọi người” (NA 2).

Theo các khẳng định một cách rõ ràng nhất của Công đồng, tất
cả những giá trị này quy tụ trong các truyền thống tôn giáo của
nhân loại. Nó cần được các Kitô hữu chú ý và tôn trọng. Những
kho tàng thiêng liêng này mời gọi các Kitô hữu tham gia đối
thoại một cách thiết thực (x. NA 2, 3; AG 11), không chỉ trên
những điểm tương đồng, mà còn với cả những điểm dị biệt nữa
(s. 26)[2].

3. Các chú giải đối nghịch nhau về các bản văn của Công
đồng
Giáo huấn của Công đồng Vaticanô II về các tôn giáo ngoài Kitô
giáo đã nhận được nhiều bình phẩm khác nhau, từ thái độ đơn
giản hoá đến cách giải thích thái quá.
3.1. Thái độ đơn giản hoá các giáo huấn của Công đồng
Lối chú giải này cho rằng Công đồng chưa tôn trọng đúng mức
các tôn giáo khác. Tiêu biểu cho lối giải thích này là P.
Hacker[3] và M. Ruokanen.

– P. Hacker phân biệt hai khía cạnh của tôn giáo : khía cạnh con
người hay những gì thuộc về con người và khía cạnh thần học
hay là những gì thuộc về tín lý. Và ông đi đến kết luận rằng
cũng như thánh Phaolô ở Athènes (Cv 17), các bản văn của
Công đồng chỉ nói tới khía cạnh tích cực về ‘mặt con người nơi
các tôn giáo’:

Các bản văn chỉ viết về những cố gắng tôn giáo của con người
trong các tôn giáo và nhìn nhận con người có thể tìm kiếm Thiên
Chúa qua cách thức này; nhưng các bản văn hoàn toàn im lặng
về khả năng con người đạt tới đích qua cách thức này, đồng thời
nó cũng không đề cập tới việc liệu các huyền thoại trong các tôn
giáo khác có chứa đựng các yếu tố chân lý hay không, hoặc các
nghi lễ và cách thức thực hành các nghi lễ trong các tôn giáo
khác có phù hợp với Ý Chúa hay không (tr. 73-75).

Khi Công đồng nhấn mạnh tới những điểm tiêu cực nơi các tôn
giáo khác làm cho người ta hiểu rằng các “dân ngoại không thể
được cứu độ thông qua tôn giáo của mình, và chính các tôn giáo
này tự nó không có vai trò cứu độ”. Vì vậy, tính cách “hợp
pháp” (légitimité) của các tôn giáo khác không được Công đồng
thừa nhận cũng như không bị phủ nhận (tr. 72).

– Cũng như Hacker, M. Ruokanen, thần học gia Tin lành theo
phái Lutêrô, cũng có cái nhìn tiêu cực đối với các giáo huấn của
Công đồng Vaticanô II về các tôn giáo. Theo chú giải của ông,
“có một sự kế thừa giữa các tôn giáo ngoài Kitô giáo và các
chân lý Kitô giáo. Khả năng hiện diện ân sủng cứu độ của Thiên
Chúa trong các tôn giáo không hoàn toàn bị khai trừ”. Tuy
nhiên, các tôn giáo ngoài Kitô giáo “hoàn toàn không có một
cương vị độc lập về mặc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa;
các chân lý tôn giáo của họ phải quy về với chân lý Kitô
giáo”[4]. Tác giả ghi nhận rằng giáo lý của Công đồng nằm
trong “chủ thuyết kiện toàn như người ta thấy sau thời hậu Công
đồng”.

Liên quan đến câu hỏi về các chân lý tiềm ẩn trong các tôn giáo
ngoài Kitô giáo, tác giả cho rằng Công đồng không bao giờ nói
tới “mặc khải” dành cho các tôn giáo khác. “Mặc dù có những
tích cực diễn tả sự tôn trọng tới những yếu tố tâm linh trong các
tôn giáo khác”, nhưng Công đồng chỉ xem đó là những “giá trị
tự nhiên, tức là khả năng tự nhiên về việc nhận biết một Thiên
Chúa Sáng Tạo qua các định luật tự nhiên được Ngài ban tặng”
(tr. 68). Công đồng không xem các tôn giáo khác là “các con
đường cứu rỗi” : “Công đồng nhìn nhận một cách đầy đủ các giá
trị luân lý mà người ta có thể tìm thấy trong các tôn giáo. Còn
những gì liên quan tới mầu nhiệm của Thiên Chúa, các tôn giáo
khác đang ở trên con đường kiếm tìm” (tr. 93). Lumen gentium
(16), cũng như Nostra aetate (2) “loại trừ khả năng chân lý độc
lập của các tôn giáo khác ngõ hầu đạt tới ơn cứu chuộc. Những
người ngoài Kitô giáo chỉ phản ánh đúng chân lý khi đời sống
của họ phù hợp với việc nhận biết tự nhiên về một Thiên Chúa
Duy Nhất và qua các định luật của luân lý tự nhiên” (tr. 99). Nói
một cách khác, “các tôn giáo ngoài Kitô giáo không thêm gì về
khía cạnh siêu nhiên của mặc khải hoặc ân sủng cho thân phận
tự nhiên của con người” (tr. 100).
3.2. Lối diễn dịch thái quá
Ngược với hai nhà thần học vừa nêu trên, P. Rossano cho rằng
những yếu tố “chân lý và ân sủng” chứa đựng trong các truyền
thống tôn giáo khác. Ông không ngần ngại viết rằng:

Liên quan đến vai trò cứu độ của các tôn giáo, để biết các tôn
giáo này có hay không các con đường cứu độ, chúng ta không
còn nghi ngờ gì nữa, rằng “ân sủng và chân lý” đạt tới hoặc có
thể chạm tới mọi người qua những dấu hiệu thấy được của các
kinh nghiệm tôn giáo. Vaticanô II giải thích rất rõ về điểm này
(x. AG 3, 11; NA 2; LG 16)[5].

Một học giả khác, K. Kunnupuram, khi nghiên cứu các bản văn
của Công đồng liên quan tới các tôn giáo, cũng đưa ra những
khẳng định như Rossano. Theo ông, vì Công đồng có hướng đi
mục vụ, nên không đưa ra kết luận về một vấn đề tranh luận như
vấn đề ơn cứu độ trong các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Tuy nhiên,
Công đồng cũng đã nhấn mạnh tới những giá trị tích cực trong
chính truyền thống các tôn giáo : giáo lý, nghi lễ, luật sống[6].
Sự phong phú về “chân lý và ân sủng” này là những hồng ân
siêu nhiên của Thiên Chúa, một sự “hiện diện bí nhiệm của
Thiên Chúa” (AG 9), công trình của Đức Kitô chính là “ánh
sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1, 9; x. NA 2), những “hạt
giống của Ngôi Lời” (AG 11). Sự “chuẩn bị cho Tin Mừng”
chứa đựng trong các tôn giáo không chỉ giới hạn ở mức độ tự
nhiên hoặc một sự đón nhận ở thế bị động hồng ân Thiên Chúa.
“Ý nghĩa thâm sâu hệ tại ở việc đó là những dấu chỉ hướng về
Đức Kitô […] Những dấu chỉ này có sức sống bên trong, một
biện chứng gắn liền với Đức Kitô và quy về Đức Kitô” (tr. 87).
Công đồng không bao giờ đặt câu hỏi một cách trực tiếp để biết
nếu Thiên Chúa sử dụng các nghi lễ hay giáo lý của các tôn giáo
ngoài Kitô giáo cho việc cứu độ của các tín đồ của họ hay
không, và qua đó để biết được các tôn giáo khác có phải là
những “phương tiện mà Thiên Chúa Quan Phòng gửi tới để cứu
độ các thành viên của họ” hay không. Dù sao thì đối với Công
đồng, ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người không phải
là một vấn đề hoàn toàn bên trong con người. Chính Công đồng
đã khẳng định : “Ý định của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi nhân loại
không phải chỉ được thực hiện một cách có thể nói là kín đáo
trong tâm trí con người […]” (AG 3). Ơn cứu độ cũng không
phải là chuyện hoàn toàn riêng tư : nó có tính cách xã hội. Tác
giả ghi nhận rằng, điều có thể giải thích là tín đồ của các tôn
giáo khác “được cứu độ hoặc có thể được cứu độ trong và qua
các tôn giáo của họ. Các tôn giáo này chính là con đường cứu
rỗi cho họ” (tr. 88-91). Và Kunnumpuram tóm lược quan niệm
của ông như sau:

Công đồng Vaticanô II nhìn nhận rằng các tôn giáo ngoài Kitô
giáo chứa đựng nhiều giá trị tích cực như chân lý và sự thiện, ân
sủng và sự thánh thiện. Công đồng xem các giá trị này như là
một sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa, của hạt giống Ngôi
Lời và hoa trái của Thánh Thần. Công đồng ý thức rằng các tôn
giáo này không chỉ đơn thuần là các tôn giáo tự nhiên, vì nó hàm
chứa nhiều yếu tố siêu nhiên, và ngay cả một đức tin cứu rỗi. Dù
còn có sai phạm, tội lỗi và băng hoại của con người, các tôn giáo
ngoài Kitô giáo là bước chuẩn bị cho Tin Mừng, vì nó có một
khuynh hướng bẩm sinh, một nội lực hướng về Đức Kitô và
Giáo hội của Ngài. Đối với những ai chưa có cơ hội gặp gỡ Kitô
giáo trong đời sống của mình, thì các tôn giáo ngoài Kitô giáo
này là con đường cứu rỗi cho họ, vì Thiên Chúa cứu rỗi họ trong
và qua giáo lý cũng như cách thức thực hành niềm tin của các
tôn giáo này (tr. 91).

3.3. Hướng tới một đánh giá quân bình hơn


Qua việc nghiên cứu hai lối giải thích của Công đồng như trên,
ta có thể tự hỏi rằng có thực sự Công đồng chỉ theo “thần học
hoàn thiện” cổ điển hay ngược lại, Công đồng đi theo thần học
về “sự hiện hữu của mầu nhiệm cứu chuộc trong Đức Kitô” nơi
các tôn giáo. Về hai câu hỏi này, ta có thể trả lời rằng Công
đồng không chọn hướng này hoặc loại hướng kia. Một mặt, ta
thấy Công đồng dùng các thuật ngữ gần gũi của thần học hoàn
thiện để định nghĩa thái độ của Giáo hội với các tôn giáo khác
như đảm nhận và cứu chuộc, chữa lành và phục hồi, nâng lên và
đưa tới sự hoàn thiện. Mặt khác, các yếu tố “chân lý và ân sủng”
trong các tôn giáo như “một sự hiện diện bí nhiệm của Thiên
Chúa” trong chính các truyền thống tôn giáo – trong giáo lý,
nghi lễ, lối sống – làm cho ta nghĩ rằng Công đồng nghiêng về
phía ngược lại.

Theo P. F. Knitter, “Công đồng Vaticanô II tạo ra một bước


ngoặt triệt để trong cách nhìn của người Công giáo so với trước
đây”. Tuy nhiên, vẫn còn có “một mập mờ trong cách hiểu về
mức độ hiệu quả của chân lý và ân sủng hàm chứa trong các tôn
giáo”[7]. Theo ông, sự khó hiểu hệ tại nơi “mâu thuẫn ý muốn
cứu độ của Thiên Chúa và sự cần thiết của Giáo hội như một sự
hiển nhiên dưới mắt người Kitô hữu trải qua bao thế kỷ qua”.
Theo nhiều nhà thần học Công giáo, sự cần thiết của Giáo hội
cho việc cứu độ con người không nhất thiết phải loại trừ các giá
trị cứu độ nơi các tôn giáo khác.
Một đánh giá quân bình về giáo huấn của Công đồng với các tôn
giáo khác phải vừa tích cực và có tính phê bình. Theo K.
Rahner, thành công của Công đồng là đã vượt qua cả câu hỏi về
sự cứu độ của từng cá nhân trong các tôn giáo ngoài Kitô giáo,
để có một tương quan tích cực giữa Giáo hội và các tôn giáo
khác. Trong khi ơn cứu độ siêu nhiên (salut surnaturel) hệ tại ở
hành động tự hiến của Thiên Chúa (autodonnation de Dieu) cho
con người đã được Công đồng nhìn nhận một cách tích cực, thì
chính cái nhìn tích cực này chưa được tuyên xưng một cách rõ
ràng về những gì liên quan tới các tôn giáo. Về điểm này, “một
điểm chính yếu, đối với thần học gia, câu trả lời đang bỏ ngỏ”;
“tính chất thần học của các tôn giáo ngoài Kitô giáo chưa được
định nghĩa rõ ràng”. Người ngoài Kitô giáo có đạt được ơn cứu
độ ngoài tôn giáo của họ hay là chính trong tôn giáo của họ?
Chính các tôn giáo có hay không giá trị cứu độ? Các câu hỏi này
không có một câu trả lời cụ thể.[8] Ngay cả khi đa số người cho
rằng Công đồng nghiêng về câu trả lời tích cực, ta vẫn chưa có
thể rút ra được những câu trả lời rõ ràng.

Riêng H. Maurier thì nhấn mạnh đến thần học “Giáo hội vi
trung” (ecclésiocentrique) trong các văn bản của Công đồng, đặc
biệt là trong Nostra aetate. Giáo hội hình như chỉ nhìn nhận
những yếu tố tích cực và tốt trong các tôn giáo khác khi người ta
thấy những yếu tố này trong Giáo hội. Những “tia ánh sáng”
chân lý có trong các tôn giáo khác có nhất thiết phải quy hướng
về chân lý trọn đầy mà Giáo hội gìn giữ? Các tuyên ngôn có sẵn
sàng nhìn nhận trong các tôn giáo khác có những “tia ánh sáng”
chân lý mà Giáo hội không có? Lối suy nghĩ này của Giáo hội
đang lấy mình làm trung tâm (égocentrique)[9]. Viễn tưởng này
sẽ dễ dàng dẫn đến “thần học kiện toàn”, theo đó, các tôn giáo
khác, nếu họ đi tìm kiếm Thiên Chúa, sẽ trở nên lỗi thời một khi
họ đạt tới mức kiện toàn trong và qua Giáo hội (tr. 135). Vì thế
ta có thể tự hỏi rằng nếu việc đối thoại mà Công đồng muốn
thăng tiến với các tôn giáo khác phải chăng phải bắt đầu từ việc
nhìn nhận các giá trị nhân bản đích thực hàm chứa trong các tôn
giáo khác, những giá trị mà có thể Kitô giáo không có. Chỉ khi
đạt tới được như vậy, đối thoại mới thực sự có ý nghĩa, vì đối
thoại được hiểu như là một tương quan qua lại mà người ta vừa
cho vừa nhận.

Tóm lại, các bản văn của Công đồng Vaticanô II dù chưa đề cập
tới những vấn đề còn gây tranh cãi về tín lý, đã có một thái độ
cởi mở đối với các truyền thống tôn giáo khác, một thái độ mà ta
chưa bao giờ thấy trong các bản văn của Giáo hội trước đó. Dù
chưa nhìn nhận một cách chính thức trong các tôn giáo khác có
các con đường cứu độ dành cho các tín đồ của họ, Công đồng
hình như cũng đã kín đáo đi theo hướng này khi nhìn nhận trong
các tôn giáo khác không chỉ có các giá trị nhân bản tích cực, mà
còn có cả những yếu tố “chân lý và ân sủng”, như một sự hiện
diện kín đáo các hoạt động của Thiên Chúa. Để có được những
bản văn tích cực này, chúng ta không thể phủ nhận vai trò tích
cực của các thần học gia.

4. Tác động hỗ tương giữa Công đồng và các suy tư thần học

4.1. Khuynh hướng thần học hoàn thiện


– Jean Daniélou : Tôn giáo vũ trụ và mặc khải Kitô giáo.

Daniélou được xem như là thần học gia Tây Phương đầu tiên
viết về thuyết hoàn thiện (théorie de l’accomplissement). Từ
thập niên 40 đến 70, ngài đã viết rất nhiều về đề tài này[10]. Vậy
đâu là giá trị thật của các tôn giáo trên thế giới ? Chữ “chuẩn bị
cho Tin Mừng” có ý nghĩa thế nào?

Daniélou phân biệt giữa tự nhiên và siêu nhiên, hay nói một
cách tương đồng, ngài phân biệt giữa tôn giáo và mặc khải. Các
tôn giáo ngoài Kitô giáo thuộc phạm trù lý trí tự nhiên, còn mặc
khải Do Thái và Kitô giáo thuộc phạm trù đức tin siêu nhiên.
Hai trật tự này phù hợp với sự phân biệt giữa hai giao ước được
Thiên Chúa ban tặng : vũ trụ và lịch sử. Giao ước vũ trụ tương
ứng với sự biểu hiện của Thiên Chúa qua tự nhiên, dù rằng,
trong thực tế, giao ước này chuẩn bị cho việc mặc khải của
Thiên Chúa trong lịch sử. Nó cho thấy Thiên Chúa hiện hữu một
cách thường hằng trong công trình tạo dựng. Những người ngoài
Kitô giáo cũng có thể biết Thiên Chúa qua trật tự vũ trụ hoặc
qua tiếng nói của lương tâm. Nếu những người ngoài Kitô giáo
nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình, thì họ có một
sự hiểu biết đúng đắn. Ngược lại, nếu họ không nhìn nhận Ngài
là Thượng Đế, thì tâm trí họ trở nên tối tăm.

Cũng thế, các tôn giáo ngoài Kitô giáo là một sự trộn lẫn giữa
chân lý và dối trá, ánh sáng và bóng tối, sự ngay thẳng và cả
hành động xấu xa. Vì các tôn giáo này thuộc trật tự của tôn giáo
vũ trụ, nên thuộc về giao ước vũ trụ. Giao ước này, dù nó nằm
trong chương trình của Thiên Chúa cho nhân loại và cho cả vũ
trụ, cũng chỉ nhằm vào việc chuẩn bị cho mặc khải của chính
Thiên Chúa trong lịch sử. Vì thế nên nó được gọi là “tiền lịch
sử” cứu độ. Có một sự kế thừa giữa giao ước vũ trụ và giao ước
lịch sử, vì giao ước thứ nhất đặt nền móng cho giao ước thứ hai;
nhưng sự can dự trực tiếp của Thiên Chúa một cách vô vị lợi chỉ
thực sự khai mào với giao ước lịch sử và nó tạo nên một khác
biệt lớn với giao ước thứ nhất.
Nhiều người sống trong giao ước vũ trụ làm đẹp lòng Thiên
Chúa, bằng chứng là các vị “thánh ngoại đạo” được đề cập tới
trong Cựu Ước và được thư gửi tín hữu Do Thái ca ngợi (Dt 11).
Thánh Kinh không cho biết số lượng họ đông bao nhiêu, nhưng
cả Cựu Ước và thánh Phaolô trong thư gửi các tín hữu Rôma
đều nhắc tới những lầm lỗi mà các quốc gia đã sa vào. Dù sao
thì một sự chuẩn bị cho Tin Mừng cũng được tìm thấy nơi các
tôn giáo của con người, để chuẩn bị tốt hơn, như một nền tảng tự
nhiên, cho mặc khải của Thiên Chúa với nhân loại trong lịch sử,
mà đỉnh điểm của lịch sử cứu độ là biến cố Đức Giêsu Kitô.

Tóm lại, theo Daniélou, các tôn giáo ngoài truyền thống Do Thái
và Kitô giáo là tôn giáo tự nhiên, tức là con người tìm cách vươn
tới Thiên Chúa. Còn Kitô giáo là tôn giáo mặc khải, tôn giáo
siêu nhiên, tức là Thiên Chúa đến với con người. Daniélou viết:

Kitô giáo không phải là cố gắng của con người đạt tới Thiên
Chúa. Kitô giáo là sức mạnh của Thiên Chúa hoàn thiện trong
con người, vượt lên trên khả năng của con người: và vì thế, cố
gắng của con người chỉ là việc đáp trả lời mời gọi của Thiên
Chúa. […]

Các tôn giáo tự nhiên -và đây là bảo chứng về giá trị của các tôn
giáo- khẳng định hành động của con người hướng về Thiên
Chúa; còn trong Kitô giáo, Thiên Chúa đến với con người; trong
Đức Kitô, Thiên Chúa đến với con người để dẫn đưa con người
về với Ngài[11].

Daniélou viết tiếp : Sự khác biệt chính yếu giữa Công giáo và
các tôn giáo khác là : các tôn giáo khác khởi đi từ con người, và
đây là là một ý hướng thật cảm động và nhiều khi rất đẹp nhằm
vươn cao, hầu chạm tới Thiên Chúa, nhưng trong Công giáo,
một chuyển động ngược lại, Thiên Chúa đi xuống với con
người, hầu đưa con người về thông phần sự sống của Ngài.
Trong Công giáo, khả năng đáp trả linh hứng của toàn vũ trụ
cũng được ban tặng. Trong Công giáo, tôn giáo thật sự, là sự kết
hợp giữa hai yếu tố này, tức là Thiên Chúa đến với con người và
kêu mời con người đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ảo tưởng của
chủ nghĩa đại đồng (chủ nghĩa tương đối) là tin rằng mọi tôn
giáo đều như nhau[12].

Thần học hoàn thiện của Daniélou có một ảnh hưởng rất lớn trên
Công đồng Vaticanô II và cả trên các tài liệu hậu Công đồng của
Giáo hội mà chúng ta vừa đề cập tới.

– Henri de Lubac : Kitô giáo như là một trục chính trong chương
trình cứu độ của Thiên Chúa.

Henri de Lubac đến với thần học về các tôn giáo bằng các
nghiên cứu qua đó ngài so sánh một số “khía cạnh của Phật
giáo” và Kitô giáo. Dù có một số thiện cảm với phật giáo, ngài
chỉ rõ những khác biệt không thể dung hoà giữa hai tôn giáo
trong vấn đề giải phóng con người, cũng như những quan niệm
khác biệt về con người và thế giới của hai tôn giáo này[13]. Từ
khi còn là một thần học gia trẻ tuổi, de Lubac đã cho xuất bản
nhiều cuốn sách về mầu nhiệm của siêu nhiên, trước hết là
nghiên cứu về lịch sử của siêu nhiên và sau đó là cấu trúc từ siêu
nhiên một cách có hệ thống. Những nghiên cứu này nhằm chuẩn
bị cho Kitô giáo tiếp cận với các tôn giáo khác, qua đó ngài nhấn
mạnh tới tính đặc thù và duy nhất của Kitô giáo so với các tôn
giáo khác trên bình diện giáo lý cũng như về đời sống chiêm
niệm.
Trong cuốn sách nổi tiếng, Catholicisme (Công giáo chủ nghĩa),
dựa theo tư tưởng của Irénée, de Lubac đã viết viết “sự mới mẻ
hoàn toàn” của Kitô giáo so với các tôn giáo khác trong lịch sử
nhân loại:

Kitô giáo đã mang đến cho con người một điều hoàn toàn mới
mẻ. Quan niệm về cứu độ nơi Kitô giáo không chỉ mang tính
đặc thù so với các tôn giáo khác chung quanh nó : Kitô giáo
thiết lập một sự kiện duy nhất trong lịch sử tôn giáo của nhân
loại […] Trong bản hoà tấu của vụ trụ (các tôn giáo), chỉ một
mình Kitô giáo khẳng định một cách không thể phân chia, một
cứu cách siêu việt cho con người và một cứu cách chung cho
toàn thể nhân loại. Cứu cách chung cho nhân loại được chuẩn bị
suốt chiều dài lịch sử. Từ khi tạo dựng cho tới ngày chung
hưởng cuối cùng, […] chỉ là một chương trình của Thiên Chúa
được hoàn thiện[14].

Cũng giống như Daniélou, theo de Lubac, tương quan giữa Kitô
giáo và các tôn giáo khác phù hợp với cấu trúc “phân biệt nhưng
không chia lìa” giữa tự nhiên và siêu nhiên. Siêu nhiên, hoàn
toàn vô vị lợi từ Thiên Chúa, đáp trả ước muốn tự nhiên của con
người muốn kết hợp với Thần Linh. Tự nhiên và siêu nhiên
được kết hợp một cách mật thiết trong Đức Giêsu Kitô. Trong
Ngài và qua Ngài, siêu nhiên không thế chỗ tự nhiên, nhưng mở
đường và biến đổi tự nhiên : “Đức Kitô không cạnh tranh với
bản tính nhân loại, vì Đức Kitô và hồng ân của Ngài không xoá
mất bản tính của con người”[15]. Tương quan giữa Kitô giáo và
các tôn giáo khác cũng giống như vậy. Ở đây, không có sự cạnh
tranh giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác. Qua việc nhập thể của
hồng ân Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Kitô giáo là một tôn
giáo siêu nhiên. Nên, những gì là chân thật và tốt đẹp nơi các
tôn giáo khác không bị xoá đi, vì “ân sủng không phá hủy tự
nhiên”. Tuy nhiên, cũng như bản tính tự nhiên của con người
được tạo dựng vừa tội lỗi vừa là dấu ấn của Thiên Chúa, các tôn
giáo tạo ra bởi con người hàm chứa vừa “hạt giống Ngôi Lời”
vừa những yếu tố phản trắc. Không cạnh tranh với các tôn giáo
khác, nhưng Kitô giáo mặc khải những giá trị tích cực; nên Kitô
giáo hoàn thiện, thanh tẩy và biến đổi các tôn giáo khác. Nói
một cách khác, “Kitô giáo không thêm gì vào cho các tôn giáo
khác, ngoài việc mang đến một giải pháp cho các tôn giáo khác,
hay nói đúng hơn là đích điểm của cuộc chạy. Kitô giáo đến để
vực dậy những cố gắng của con người, thanh tẩy nó, biến đổi nó
để đi tìm một lối thoát; vì vậy Kitô giáo chính là tôn giáo nối kết
con người với Thiên Chúa”[16].

Tương quan giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác, đặc biệt là cách
thức mà ơn cứu độ trong Đức Kitô đến với người ngoài Kitô
giáo được viết một chương ngắn trong cuốn Paradoxe et mystère
de l’Eglise (Nghịch lý và mầu nhiệm Giáo hội). Theo thuyết
hoàn thiện mà De Lubac viết theo cách thức của ngài, mầu
nhiệm của Đức Kitô đạt tới thành viên của các truyền thống tôn
giáo khác như một câu trả lời cho khát vọng của con người
muốn kết hợp với Thượng Đế, tuy nhiên các tôn giáo khác
không giữ một vai trò nào trong mầu nhiệm cứu chuộc này. De
Lubac diễn dẫn rằng, nếu cho các tôn giáo khác một vai trò tích
cực liên quan tới ơn cứu độ, sẽ đặt các tôn giáo khác trong thế
cạnh tranh với Kitô giáo, đồng thời làm lu mờ tính duy nhất của
Kitô giáo. Ngài quan sát, khi trích lại quan điểm của Teilhard de
Chardin, rằng chương trình của Thiên Chúa chắc chắn là một
chương trình có trật tự : chương trình này có một truc, một điểm
hội tụ. Điểm hội tụ này chính là Kitô giáo, con đường duy nhất
của ơn cứu độ. Nếu nghĩ rằng các tôn giáo khác cũng đóng góp
một vai trò cứu độ cho các thành viên của mình sẽ biến các tôn
giáo khác thành những con đường cứu chuộc song song với Kitô
giáo, và như thế sẽ phá hủy sự thống nhất chương trình cứu độ
của Thiên Chúa:

Nếu quả thực có nhiều con đường cứu độ song song với nhau,
thì chúng ta đối diện với một sự phân tán, chứ không phải là một
điểm hội tụ thiêng liêng, và điều mà chúng ta gọi là chương
trình của Thiên Chúa thì không thống nhất. Phải có một trục
thống nhất […] Nếu phù hợp với ý định của Thiên Chúa, chúng
ta phải bận tâm về sự cứu độ của con người, nếu chúng ta tin
rằng lịch sử cứu độ là cái gì đó cụ thể và nếu chúng ta muốn có
sự hợp nhất, chúng ta không thể tránh khỏi việc tìm kiếm một
trục và một sức mạnh nối kết, trong đó Thánh Thần của Thiên
Chúa hoạt động trong Giáo hội[17].

Liên quan đến điểm hội tụ, theo Teilhard de Chardin, đó không
phải là Kitô giáo, cũng không phải là Giáo hội, nhưng là Đức
Giêsu Kitô. Ngài chính là đỉnh điểm cuối cùng của quá trình tiến
hoá trong vụ trũ:

Đức Kitô là Alpha và Oméga, Nguyên Lý và Cứu cánh, là Viên


Đá nền và là Điểm tận cùng của vòm tháp, là Sự sung mãn và là
người Điều Phối tổng thể. Ngài là người hoàn thiện và là Người
ban tặng cho tất cả sự sống […] Ngài là trung tâm điểm duy
nhất, quý giá và mãi trường tồn, một tâm điểm soi sáng từ đỉnh
cao cho tương lai thế giới[18].

– Hans Urs von Balthasar : Đức Kitô, một Con người “Phổ quát
cụ thể’’
Trong số muôn vàn tác phẩm được Balthasar viết ra, người ta
không tìm thấy bất kì nơi nào một thần học chi tiết về các tôn
giáo. Điều đó không có nghĩa là đề tài này không được đề cập
tới trong các tác phẩm của ngài, đặc biệt là ba cuốn nổi tiếng :
Herrlichkeit, Theodramatik, Theologik. Trong thực tế, Balthasar
đã nhiều lần so sánh Kitô giáo với các tôn giáo khác, nhằm chỉ
ra những điểm mâu thuẫn, cũng như những hướng đi hoàn toàn
khác của Kitô giáo, tính siêu việt của Kitô giáo so với các tôn
giáo khác. Vì thế, để hiểu được thần học về các tôn giáo nơi
Balthasar, cần đọc nhiều bản văn khác nhau của ngài. Qua việc
nghiên cứu, ta thấy tư tưởng của ngài cũng giống như Daniélou
và de Lubac, tức là ta có thể xếp vào hạng “thuyết về sự hoàn
thiện”. Thuật ngữ “Phổ quát cụ thể” mà ngài sử dụng để diễn tả
mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô nói lên tính tuyệt đối của con người
Đức Kitô trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người :
trong Đức Giêsu Kitô, mâu thuẩn giữa cụ thể-đặc thù (concret-
particulier) và phổ quát trừu tượng (universel-abstrait) được giải
quyết[19].

Balthasar còn tự hỏi rằng trong nghĩa nào mà người ta có quyền


nói tới “điểm hội tụ” hay là “hội nhập” của các tôn giáo. Theo
ngài, không có chuyện các tôn giáo hoàn cầu đều có một giá trị
như nhau. Điều phân biệt lớn nhất giữa các tôn giáo được mặc
khải- tức là Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi-giáo- những tôn giáo
có cùng một Đức Tin vào Thiên Chúa hữu ngã sáng tạo, còn các
tôn giáo Đông Phương, thì Thực tại thần linh vô ngã được cất
giấu dưới các biến cố của thời gian đổi thay. Hai nhóm tôn giáo
này có hai hướng đi khác biệt và nhiều khi đối lập nhau : nhóm
độc thần thì Thiên Chúa đến với con người, còn nhóm khác thì
con người tìm đến Đấng Siêu Việt.
Điều đó không có nghĩa là các tôn giáo không có những điểm
tương đồng. Tất cả các tôn giáo đều có một nền móng hay một
tầng nền chung, liên quan đến việc tìm kiếm sự tự siêu thăng
(auto-transcendance) và việc giải phóng con người. Tuy nhiên,
để đạt tới các mục đích trên, hai nhóm tôn giáo đi hai con đường
đối lập nhau : Nhóm thứ nhất, Thiên Chúa đi tìm con người và
hướng về con người qua Lời của Ngài, trong lịch sử, trong tình
yêu và hồng ân của chính Ngài; nhóm thứ hai thì tự đấu tranh để
giải phóng chính mình khi tự tan biến trong Đấng Siêu Việt Vô
Ngã. Giữa hai thái độ trên, không có một khả năng “hội tụ”,
nhưng nói đúng hơn là một sự đi về hoàn chỉnh. Hai nhóm này,
quan niệm về thế giới hoàn toàn khác nhau; vì thế, một “tôn giáo
đại đồng” là một ảo tưởng không thể thực hiện. Trong thực tế,
cả hai quan niệm khác biệt này đều cho rằng mình có tính phổ
quát và tuyệt đối.

Nhưng tham vọng giải phóng chính mình -qua việc thiền, qua
các thực hành kìm hãm thân xác hay qua các kỹ thuật khác- của
các tôn giáo Đông phương là vô ích. Sự siêu thăng chỉ có thể đạt
được như ân sủng của một Thiên Chúa Tình Yêu trao ban cho
loài người. Liên quan đến ba tôn giáo xuất phát từ mặc khải : Sự
chối từ của người Do Thái trong việc đi đến hết con đường Đức
Tin, tức là họ không thể tin vào hồng ân của Thiên Chúa trong
Đức Giêsu Kitô, đã làm gián đoạn lịch sử cứu độ, sẽ có thể được
kiện toàn trong ngày cánh chung. Còn Hồi Giáo dù phụ thuộc
một phần lớn truyền thống Do Thái và Kitô giáo, nhưng trong
thực tế đã mất đi tính năng động cánh chung (dynamisme
eschatologique) được định hình trong truyền thống này, tức là sự
đợi chờ triều đại của Đấng Thiên Sai hay là ngày Ngài trở lại.
Chỉ còn lại Kitô giáo -và đặc biệt là Công giáo- là một tôn giáo
phổ quát dành cho mọi người.
Kitô giáo đón nhận và cụ thể hoá tất cả những gì tốt đẹp nhất nơi
tâm thức tôn giáo căn bản của từng con người và siêu thăng các
thái độ ấy. Nó cụ thể hoá các khát vọng nơi các tôn giáo Đông
phương hướng về Đấng Duy Nhất, nhưng mỗi người không
đánh mất chính mình. Mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô là ân sủng
hoàn toàn của chính Thiên Chúa tình yêu với nhân loại, một
Ngôi Hai làm người; qua một sự “trao đổi kỳ diệu” này, Thiên
Chúa mời gọi mọi người hiệp thông với Ngài như tôi và bạn (un
moi à un toi). Đặc thù của Kitô giáo là Đức Kitô trong mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ngài là một “phổ quát cụ thể” (universel
concret).

Qua mầu nhiệm thập giá và phục sinh, Đức Giêsu Kitô chính là
lời “xin vâng” vô điều kiện của Thiên Chúa với con người, lời
xin vâng này luôn có giá trị cho ngày hôm nay. Nếu như những
người ngoại giáo tìm sự cứu chuộc thế giới bằng cách chạy trốn
khỏi đau khổ, thì Đức Giêsu Kitô lại mang lấy vào thân mình sự
đau khổ của thế giới nhằm nối kết đau khổ của thế giới với
Thiên Chúa. Vì thế, chương trình của Kitô giáo là chương trình
duy nhất có thể trả lời cho con người một cách cụ thể và toàn
diện.

Về vấn đề thần hiệp, Balthasar cho rằng có một sự giống nhau


nào đó giữa thần hiệp trong Kitô giáo và thần hiệp ngoài Kitô
giáo, khi cả hai đều muốn sống phụ thuộc vào Đấng Siêu Việt và
muốn giảm bớt khoảng cách giữa con người với Ngài. Tuy nhiên
cũng có một khác biệt lớn. Trong khi thần hiệp của các tôn giáo
ngoài Kitô giáo là sự cố gắng của chính con người tìm cách đi
tới Đấng Siêu Việt, thì trong thần hiệp Kitô giáo, chính Thiên
Chúa đã đi bước trước, một cách bất ngờ, đến với con người
trong Ngôi Lời Nhập Thể. Sự đáp trả “hành động và lời” của
Ngài chỉ hệ tại ở việc nghe và đi theo. Nói tóm lại, thần hiệp
ngoài Kitô giáo, đặc biệt là nơi các tôn giáo ở Đông Phương
diễn tả ước vọng thâm sâu cũng như cố gắng của con người để
tự giải phóng chính mình, để làm sao hữu hạn đạt tới Vô Hạn.
Thần hiệp Kitô giáo thì hoàn toàn ngược lại : Một Thiên Chúa
Hằng Sống đi tìm con người; cách thức Ngài đi ra khỏi chính
mình để đến với chúng ta đạt tới đỉnh cao nhất trong biến cố
Nhập thể của Ngôi Lời.

Nói tóm lại, Balthasar xem các tôn giáo ngoài Kitô giáo hoàn
toàn đối lập với mặc khải Kitô giáo. Dù các tôn giáo có cùng
một nền chung nơi bản tính người, tôn giáo mặc khải và tôn giáo
ngoài Kitô giáo có hai hướng đi đối lập nhau : một bên đi từ con
người tới Đấng Siêu Việt; một bên khác thì Thiên Chúa Hằng
Sống đến với con người. Tôn giáo ngoài Kitô giáo là tự nhiên,
còn Kitô giáo thì siêu nhiên. Siêu nhiên thanh tẩy và biến đổi tự
nhiên.

4.2. Mầu nhiệm Đức Kitô trong truyền thống các tôn giáo
Giữa thần học hoàn thiện và thần học về sự hiện diện của mầu
nhiệm Đức Kitô trong các truyền thống tôn giáo có một khoảng
cách khá lớn. Thần học hoàn thiện được xây dưng trên sự phân
cách không thể vượt qua giữa con người và Thượng Đế, vô ngã
và hữu ngã, tự giải phóng chính mình và ơn cứu độ đến từ Thiên
Chúa. Khuynh hướng thần học khác, trong lúc vẫn ý thức có sự
khác biệt giữa tôn giáo mặc khải và các truyền thống tôn giáo
Đông Phương, từ chối tách rời tự nhiên khỏi ân sủng. Nền thần
học này vượt lên sự chia cắt giữa việc đi tìm siêu thăng nơi con
người và biến cố Thiên Chúa tự hạ mình để gặp gỡ con người.
Cũng như khuynh hướng thứ nhất, khuynh hướng này cũng phát
triển trước và sau Công đồng Vaticanô II. Nhiệm vụ của chúng
ta là giới thiệu một số lăng kính thần học có một cái nhìn cởi mở
hơn với các truyền thống tôn giáo khác, theo đó mầu nhiệm Đức
Kitô không ngừng hiện hữu và hoạt động nơi các truyền thống
ngoài Kitô giáo. Theo cách nhìn này, các thành viên của các tôn
giáo khác cũng được cứu rỗi trong Đức Kitô nhờ vào việc thành
tâm thực hành các tôn giáo của họ. Như vậy, có sự cứu độ mà
không cần Tin Mừng, nhưng không phải không cần Đức Giêsu,
càng không phải bên ngoài Ngài. Chắc chắn, các thành viên của
các truyền thống tôn giáo khác không nhận ra sự hiện diện của
Đức Giêsu Kitô vì Ngài còn tiềm ẩn đối với họ, nhưng không vì
thế mà sự hiện hữu của Ngài không cụ thể.

– Karl Rahner : “Kitô hữu ẩn danh”

“Kitô hữu ẩn danh” là thuật ngữ mà Karl Rahner dùng để chỉ sự


hiện diện của Mầu nhiệm Đức Kitô nơi truyền thống các tôn
giáo khác, dù sự hiện diện này còn bị che dấu hay chưa được
nhận biết một cách rõ ràng. Theo Rahner, mỗi người chúng ta
mang trong mình hơn cả một sức mạnh thụ động của sự tự siêu
thăng (autotranscendance) trong Thiên Chúa. Một cách cụ thể và
chủ động, chúng ta hướng về sự tự siêu thăng. Hiện hữu siêu
nhiên (existentiel surnaturel) là một cấu trúc căn bản được Thiên
Chúa đưa vào trong mỗi người nhờ ân sủng, để khơi dậy các
hoạt động của con người hướng về Thiên Chúa. Kinh nghiệm
siêu thăng về Thiên Chúa ở trong mỗi người, cũng như mỗi tôn
giáo tùy mức độ khác nhau, nhờ ân sủng. Con người không tự đi
tìm Thiên Chúa; hồng ân trong Đức Giêsu Kitô cho nhân loại
chính là động lực khiến con người đi tìm Thiên Chúa để mong
gặp được Ngài. Chúng ta có thể nói theo cách của thánh
Augustinô: Con đã không đi tìm Ngài, nếu Ngài đã không gặp
con từ trước. Theo lăng kính của mặc khải Kitô giáo, lịch sử cứu
độ, đạt tới đỉnh cao nơi Đức Giêsu Kitô, cùng hiện hữu với lịch
sử nhân loại. Suốt chiều dài lịch sử nhân loại, mỗi người có một
kinh nghiệm riêng về hồng ân Thiên Chúa ban tặng, để mở rộng
lòng mình đón nhận hồng ân đó một cách tự do. Bằng cách nào
đi chăng nữa, hồng ân ban tặng này đều được thực hiện một
cách cụ thể hoặc hiện sinh trong Đức Giêsu Kitô.

Như vậy, một cách hiện sinh, mỗi người đều tham dự vào mầu
nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô. Hay nói cách khác, trong mỗi
người, luôn tiềm ẩn một khao khát đi tìm Đức Kitô. Chính vì
thế, Kitô học chính là sự kiện toàn tuyệt đối của nhân học.
Trong Đức Kitô, sự kết hợp giữa nhân tính và thiên tính đạt tới
mức độ tuyệt đối, nên Ngài là Đấng Cứu Độ tuyệt đối cho con
người, là trung tâm của lịch sử cứu độ nhân loại, vì trong Ngài,
sự tiếp cập với Thiên Chúa được khắc ghi trong kinh nghiệm
siêu thăng của con người, đạt tới đỉnh cao của sự hoàn thiện.
Ngoài mặc khải Kitô giáo, kinh nghiệm về hồng ân Thiên Chúa
ban tặng vẫn đang bị che phủ. Trong các truyền thống tôn giáo
khác, kinh nghiệm này cũng hiện diện một phần nào, nhưng
phiến diện và chưa rõ ràng. Chỉ có sứ điệp Kitô giáo đưa họ ra
khỏi sự “ẩn danh” qua việc cung cấp cho họ một sự hiểu biết rõ
ràng về Đức Kitô.

Kitô hữu ẩn danh là các thành viên trong các truyền thống tôn
giáo khác sống và thực hành tốt truyền thống tôn giáo của mình.
Sự cứu rỗi của Kitô giáo đến với các thành viên này một cách
“ẩn danh” qua việc họ tuân giữ và thực hành các tôn giáo của
mình. Chúng ta phải nhận biết có sự hiện diện của “những giây
phút siêu nhiên” đến từ hồng ân nơi các tôn giáo khác. Một khi
Đức Tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ Duy Nhất, chưa được
khắc ghi vào trong lương tâm của họ, thì mầu nhiệm cứu độ
được thực hiện qua trung gian của các tôn giáo khác, qua cách
thực hành một cách thật thà truyền thống của họ. Người Kitô
hữu ẩn danh là người chưa biết Đức Kitô. Nhưng họ có thể mở
lòng đón nhận hồng ân Thiên Chúa, trong Đức Kitô, qua truyền
thống tôn giáo của mình.

Sự khác nhau giữa người Kitô hữu minh nhiên và một Kitô hữu
ẩn danh là người Kitô hữu ý thức chín chắn về Đức Tin Kitô
giáo của mình. Ý thức này ăn sâu vào tận trong thâm khảm của
họ. Trong lúc đó, Kitô hữu ẩn danh thiếu vắng ý thức này. Dù họ
chưa ý thức một cách rõ ràng về Đức Tin Kitô giáo, mầu nhiệm
cứu chuộc của Đức Kitô luôn tiềm ẩn và hoạt động trong họ.
Nói tóm lại, “Kitô hữu ẩn danh” muốn nói rằng mọi người đều
có thể nhận lãnh mầu nhiệm cứu chuộc trong Đức Kitô. Hay nói
cách khác, theo Rahner, nhân loại luôn thao thức tìm kiếm mầu
nhiệm Đức Kitô; vì thế họ có thể gặp Ngài ngay cả khi họ chưa
biết Ngài một cách rõ ràng qua các biến cố lịch sử.

– Raimundo Panikkar : “Đức Kitô chưa được nhận biết”

Tác phẩm đầu tiên của Panikkar mà chúng ta nghiên cứu ở đây
là “Đức Kitô chưa được nhận biết trong Ấn Độ giáo”[20]. Người
ta có thể dịch “sự hiện diện của Đức Kitô trong truyền thống các
tôn giáo khác”, vì đây là ý chính của tác giả. Khi đề cập tới Ấn
Độ giáo một cách cụ thể, Panikkar viết : “Có một sự hiện diện
sống động của Đức Kitô trong Ấn Độ giáo”[21]. Sự hiện diện
này không chỉ trong đời sống cá nhân từng thành viên trung
thành của tôn giáo này, nhưng là một sự hiện diện thật sự trong
chính truyền thống tôn giáo này như một hiện tượng tôn giáo,
khách quan và có tính cách xã hội. Qua khẳng định này,
Panikkar vượt lên cả thần học hoàn thiện. Ông viết : “Đức Kitô
không chỉ là cứu cánh, Ngài là khởi nguyên […], Đức Kitô
không chỉ là đích điểm hữu thể học mà Ấn Độ giáo theo đuổi;
Ngài là nguồn khởi hứng đích thực cho tôn giáo này, và ân sủng
của Ngài, dù còn che dấu, là sức mạnh dẫn đưa Ấn Dộ giáo tới
sự trọn đầy mà họ đang kiếm tìm” (tr. 12). Đức Kitô, nguồn
mạch duy nhất của tất cả mọi kinh nghiệm tôn giáo chân thật, là
“điểm hội ngộ bản thể” giữa Ấn Độ giáo và Kitô giáo. Vì
“không thuộc sở hữu của riêng Kitô giáo : Ngài thuộc về Thiên
Chúa. Chính Kitô giáo và Ấn Độ giáo thuộc về Đức Kitô, dù
dưới hai cách thức khác nhau” (tr. 44).

– Hans Küng : “Các con đường cứu độ”

Hans Küng đề cập đến thần học thần học tôn giáo lần đầu tiên
trong một bài viết gửi tới cuộc hội thảo về “Mặc khải Kitô giáo
và các tôn giáo ngoài Kitô giáo”, diễn ra ở Bombay, Ấn Độ, từ
ngày 25 đến ngày 28 tháng 11 năm 1964[22]. Ngay từ đầu, H.
Küng khẳng định rằng, ngoài những sai lầm hàm chứa trong đó,
các tôn giáo cũng bao hàm cách này hay cách khác chân lý linh
thiêng; các tín đồ của các tôn giáo ngoài Kitô giáo, khi trở về
với Tin Mừng, không cần từ bỏ những gì tốt đẹp từ các tôn giáo
cũ của họ, vì những gì tốt đẹp nơi các tôn giáo khác cũng đến từ
Thiên Chúa. Dưới lăng kính của Đức Tin Kitô giáo, Hans Küng
đã có một tuyên bố quan trọng về vai trò của các tôn giáo trong
chương trình của Thiên Chúa. Bản tuyên bố này như sau :

Khi nhìn con đường “đặc thù” (extraordinaire) của sự cứu độ là


Giáo hội, các tôn giáo của nhân loại có thể được gọi là -nếu
thuật ngữ này được hiểu một cách chính xác- con đường “thông
thường” (ordinaire) của sự cứu độ cho nhân loại ngoài Kitô giáo.
Thiên Chúa không chỉ là Chúa của lịch sử cứu độ đặc thù nơi
Giáo hội, mà còn là Chúa của lịch sử cứu độ cho toàn thể nhân
loại. Lịch sử cứu độ của hoàn cầu gắn liền với lịch sử cứu độ
đặc thù qua nguồn gốc, ý nghĩa và đích điểm chung, vì cả hai
phụ thuộc vào cùng một hồng ân của Thiên Chúa. Tất cả những
hoàn cảnh lịch sử, trong cũng như ngoài Giáo hội, đều được bao
bọc từ trước bởi ân sủng. Vì Thiên Chúa muốn cứu độ một cách
nghiêm túc và cụ thể tất cả mọi người, ngoại trừ những người tự
hư mất do lỗi lầm của chính họ, mỗi người được ủy thác để tìm
phần rỗi của mình trong chính điều kiện lịch sử của mình. Ở
đây, câu nói “trong điều kiện lịch sử của mình” có nghĩa là trong
môi trường cá nhân và xã hội đặc thù, nơi đó họ không thể thoát
ra được, và cuối cùng trong chính tôn giáo mà xã hội áp đặt lên
họ. Tôn giáo của con người, xét như là một hữu thể có tính xã
hội, không bao giờ chỉ đơn thuần là một hành động cá thể hay
chủ quan ở trong nội tâm hoàn toàn có tính riêng tư, nhưng nó
luôn luôn là một hoạt động được thực hiện trong một thân thể xã
hội đặc thù, tức là dưới dạng một tôn giáo đặc thù, một cộng
đồng tín ngưỡng cụ thể. Nhưng vì Thiên Chúa muốn cứu độ một
cách nghiêm chỉnh và cụ thể tất cả mọi người trong lịch sử nhân
loại, dù Ngài không thừa nhận tất cả các yếu tố (sai lầm và lệch
lạc) của các tôn giáo này (chính Giao ước cũ cũng không hoàn
hảo), nhưng Ngài vẫn phê chuẩn các tôn giáo như nó vẫn có, tức
là những cấu trúc của xã hội. Những tôn giáo này, trong nhiều
nghĩa và nhiều mức độ khác nhau, vẫn là những “tôn giáo hợp
pháp”[23]. Một con người phải được cứu rỗi ngay trong chính
tôn giáo mà họ đang theo vì hoàn cảnh lịch sử của mình. Họ có
quyền và bổn phận tìm kiếm Thiên Chúa trong tôn giáo của
mình, nơi mà Thiên Chúa ẩn mình đã tìm gặp họ trước khi họ
gặp Ngài. Tất cả những điều này được diễn tiến cho đến ngày
chính họ được đối diện một cách đích thực trong cuộc sống của
mình với mặc khải của Đức Giêsu Kitô. Các tôn giáo, với các
hình thức của đức tin và nghi lễ, các phạm trù và giá trị, các biểu
tượng và các hình thức tế tự, các kinh nghiệm tôn giáo và đạo
đức của họ có một “hiệu lực tương đối”[24], một “quyền tương
đối và phù hợp với ý Trời cho sự hiện hữu”[25]. Các tôn giáo là
con đường cứu độ trong lịch sử nhân loại; con đường chung của
lịch sử cứu độ, người ta có thể nói cho thành viên của các tôn
giáo ngoài Kitô giáo : đó là con đường chung nhất, con đường
“bình thường” dẫn tới ơn cứu độ, vì con đường cứu độ trong
Giáo hội được xem như là con đường đặc thù và kỳ diệu. Con
đường của Giáo hội có thể được xem như là con đường lớn, con
đường “đặc thù” của ơn cứu độ ! […] Con đường cứu độ cho
con người, ngoài Giáo hội, xuất hiện như con đường “thường
nhật”, còn con đường của Giáo hội là con đường lớn có tính
cách “đặc thù” (tr. 51-53).

Như vậy, Hans Küng đã chịu ảnh hưởng tư tưởng thần học của
K. Rahner và H. R. Schlette. Với Rahner, như ta đã biết, ngài
cho rằng các truyền thống tôn giáo “hàm chứa những yếu tố
được nhận lãnh từ ân sủng siêu nhiên”. Vì thế, một cách nào đó,
các tôn giáo là “phương tiện” hay là các “con đường” của sự cứu
độ. H. Küng tiến xa hơn khi nhìn nhận các tôn giáo khác là con
đường thường nhật (ordinaires) của sự cứu độ cho các tín đồ của
tôn giáo mình. Về phần H. R. Schlette, ông khẳng định một cách
rõ ràng rằng, các tôn giáo vẫn là các con đường cứu độ hữu hiệu
cho tín đồ của mình chừng nào các tín đồ này vẫn tiếp tục gắn
bó với tôn giáo của mình trong đức tin và sự chân thành. H.
Küng mượn tư tưởng này của Schlette, khi phân biệt lịch sử cứu
độ chung cho tất cả mọi người và lịch sử cứu độ một cách đặc
thù trong truyền thống Do Thái – Kitô giáo; ông cũng theo
Schlette khi khẳng định rằng các tôn giáo khác là những con
đường bình thường của ơn cứu độ, trong khi Kitô giáo là con
đường đặc thù[26].

– Gustave Thils: Các “trung gian của ơn cứu chuộc”

Một thần học gia khác cũng có cái nhìn về vai trò tích cực của
các tôn giáo trong mầu nhiệm cứu chuộc đó là G. Thils, được
viết trong cuốn sách với tựa đề Propos et problèmes de la
théologie des religions non chrétiennes (Mục đích và vấn nạn
của thần học về các tôn giáo ngoài Kitô giáo) xuất bản vào năm
1966. G. Thils khẳng định có một “mặc khải phổ quát” của
Thiên Chúa cho con người. Vì vậy, phải phân biệt sự hiểu biết
một cách tự nhiên về Thiên Chúa và sự hiểu biết có tính cách
siêu nhiên về Ngài; điều đó không có nghĩa là việc Thiên Chúa
tỏ mình qua tự nhiên không hàm chứa một mặc khải thiên tính
về chính Ngài. Công trình tạo dựng không chỉ mặc khải cho lý
trí của con người về sự hiện hữu của một Thiên Chúa sáng tạo,
nhưng còn diễn tả một Thiên Chúa quan phòng bằng tình yêu.

Chương trình của Thiên Chúa cho nhân loại bao hàm việc con
người có một tôn giáo, để trong và qua tôn giáo này, Ngài có thể
mặc khải một cách tiệm tiến và hoàn thiện chương trình cứu độ
của mình. Vì thế, Thils cho rằng ơn cứu độ cho các thành viên
của các tôn giáo có thể đạt được trong, và trong một nghĩa nào
đó qua tôn giáo của họ: “Vì các tôn giáo thể hiện chương trình
phổ quát của ơn cứu độ hoặc đáp trả mời gọi của mặc khải phổ
quát, nên các tôn giáo cũng có một số hiệu lực của ơn cứu độ”
(tr. 131-133). Trước mặt Thiên Chúa, các tôn giáo có một số
tính chất hợp pháp (tr. 133-134). Các tôn giáo có thể được gọi là
các “con đường” cứu độ vì các tôn giáo này bày tỏ và nhập thể
chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho các tín đồ của mình;
trong chiều hướng này, ta có thể gọi các tôn giáo là các “con
đường cứu độ thông thường” cho các tín đồ của họ (tr. 135).

Nhưng điều đó không có nghĩa là các tôn giáo đều có giá trị như
nhau. Vì nếu “con đường của các tôn giáo không phải Kitô giáo”
bao hàm những phương thế cho chương trình cứu độ chung
(économie générale), phù hợp với mặc khải phổ quát của Thiên
Chúa (révélation universelle), thì “con đường của Kitô giáo” là
con đường giàu về phương tiện vì được ban tặng bằng một
“chương trình cứu độ đặc thù” qua Đức Giêsu Kitô. Các con
đường khác nhau này không tương đồng, cũng không song song
với nhau (tr. 136). Kitô giáo là con đường “đặc thù”
(extraordinaire) vì có tính cách đặc biệt và vì sự trọn hảo bởi các
phương thế cứu chuộc mà nó được nhận lãnh qua Đức Giêsu
Kitô. Không loại trừ các tôn giáo khác, nhưng Kitô giáo là “con
đường cứu độ tròn đầy”. Tóm lại, các tôn giáo cũng có một vai
trò có ý nghĩa trong việc cứu chuộc con người, nhưng không có
một phương cách đặc thù và trọn hảo như Kitô giáo (tr. 173-
190).

Quan niệm này, cùng với nền thần học hoàn thiện, đặt nền móng
cho một tài liệu của Thánh bộ Giáo lý Đức tin ban hành ngày 6
thánh 8 năm 2000, Dominus Jesus, do Đức Hồng Y Giuse
Ratzinger, Chủ tịch Thánh bộ ấn ký. Một mặt, tài liệu nhấn
mạnh việc tại sao ta phải tôn trọng các truyền thống tôn giáo
khác. Về mặt này, tài liệu lấy lại các quan điểm của Công đồng
Vaticanô II, cũng như các văn kiện hậu Công đồng mà chúng ta
đã có dịp tiếp cận. Mặt khác, trước sự lớn mạnh của thuyết
tương đối -một số thần học gia nhân danh đa nguyên tôn giáo để
biện minh cho thuyết tương đối (s. 4)-, cũng như trước việc một
số thần học gia chạy theo thuyết “Dĩ Thiên Chúa Vi Trung” thay
vì “Dĩ Đức Kitô Vi Trung”, Thánh bộ đã nhấn mạnh tới việc
bình đẳng trong đối thoại, nhưng không bình đẳng trong giáo lý:
“Đối thoại là một phần trong trách vụ của Giáo hội đến với
muôn dân khi loan báo Tin Mừng. Sự bình đẳng, điều kiện cần
thiết cho đối thoại, có nghĩa là nhân phẩm con người từ mọi phía
đều bằng nhau, nhưng về giáo lý thì không thể bằng nhau và
càng không thể bằng nhau giữa Đức Giêsu Kitô, một Thiên
Chúa làm người và các vị sáng lập các tôn giáo khác” (s. 22).
Qua tài liệu này, một lần nữa Thánh bộ Giáo lý Đức tin khẳng
định mặc khải nơi Đức Giêsu Kitô là mặc khải đầy đủ, kiện
toàn. Giáo hội thật sự của Đức Kitô là Giáo hội Công giáo.

Kết luận
Công đồng Vaticanô II đơm hoa kết trái từ các suy tư thần học
của Giáo hội trong suốt hai ngàn năm, đặc biệt nơi những khuôn
mặt vĩ đại như Daniélou, Congar, De Lubac, Rahner. Công đồng
này cũng mở đường cho các suy tư thần học về tôn giáo tiếp tục
phát triển. Nhờ Công đồng, nhiều bản văn chính thức của Giáo
hội tiếp tục ra đời như Tông huấn Evangelii nuntiandi, sau
Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1974 về vấn đề truyền giáo
cho thế giới hiện đại; Thông điệp Redemptor hominis ngày 4
tháng 3 năm 1979 xác nhận “sự vững vàng của tín ngưỡng” nơi
những người ngoài Kitô giáo là một “kết quả của Thánh Thần
chân lý”; Tông huấn Dominum et vivificantem (Tông huấn về
Chúa Thánh Thần), ban hành ngày 18 tháng 5 năm 1986 nhấn
mạnh một cách rõ ràng về hoạt động phổ quát của Chúa Thánh
Thần trước thời kỳ Kitô giáo và cả bên ngoài Giáo hội ngày hôm
nay; Thông Điệp Redemptoris missio ban hành vào ngày 7 tháng
12 năm 1990 tuyên bố một cách rõ ràng rằng Chúa Thánh Thần
hiện diện không chỉ trong từng người, nhưng cả trong các truyền
thống tôn giáo[27]; tài liệu mang tựa đề Đối thoại và rao giảng.
Suy tư và định hướng liên quan đến vấn đề đối thoại liên tôn và
rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô[28] do Hội đồng Giáo
hoàng về Đối thoại Liên tôn và Thánh bộ Rao Giảng tin Mừng
cho các Dân tộc đồng ấn hành vào ngày 19 tháng 5 năm 1991
cũng đi theo đường hướng này. Đặc biệt, tinh thần của Công
đồng đã được hiện thực hoá một cách tuyệt diệu qua cuộc gặp
liên tôn tại Assisi vào ngày 27/10/1986, khi đức Giáo hoàng
Gioan Phaolô II cùng các đại diện của các tôn giáo trên thế giới
cùng nhau gặp gỡ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới.

Để kết thúc, xin được mượn lời của Tổng Gíám mục Angelo
Fernandes của Delhi (Ấn Độ) tại Thượng Hội đồng Giám mục
năm 1974 về vấn đề truyền giáo cho thế giới hiện đại liên quan
đến thần học về các tôn giáo:

Một thần học về các tôn giáo thế giới đòi hỏi chúng ta […] nhìn
nhận một cách đầy đủ rằng trong quá khứ Thiên Chúa đã làm
việc bằng nhiều cách thức khác nhau với các dân tộc khác nhau,
và Ngài tiếp tục làm như vậy ngày hôm nay. Bổn phận cấp bách
của chúng ta là xây dựng một thần học về các truyền thống tôn
giáo sống động của thế giới và ý nghĩa của các truyền thống này
trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Môn thần học này sẽ
có bổn phận chỉ ra rằng Chúa Phục Sinh là Đấng Trung Gian
duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, và chỉ nhờ danh Ngài
mà mọi người đạt tới ơn cứu độ; Đấng Phục Sinh, qua Thánh
Thần của Ngài, luôn hiện diện và hoạt động, không chỉ trong trí
óc và con tim của tất cả những ai chưa hề nghe danh Ngài,
nhưng cả trong các biểu hiện cụ thể, qua đó, trong phạm vi các
truyền thống tôn giáo, và ngay ở giữa các cộng đồng tôn giáo,
các tín đồ tìm được cách thức diễn tả niềm tin của mình. Khi
khẳng định cách thức thực hành niềm tin của người khác, các
sách thánh của họ cũng như cách thức thực hành bí tích của họ
tạo thành một con đường, qua đó Đức Kitô Phục Sinh gặp gỡ
họ, hoàn toàn không đe doạ tới tính duy nhất của Đức Kitô và sứ
điệp của Ngài. Ngược lại, thần học của chúng ta phải chỉ ra rằng
tính duy nhất của Kitô giáo hệ tại ở điểm này : nó không loại bỏ
tôn giáo nào; nó ôm chầm tất cả. Các truyền thống tôn giáo,
trong đó, Đức Kitô hiện diện nhưng còn ẩn mặt, Thần Khí của
Ngài luôn làm việc một cách kín đáo, được tiên liệu để đi tới sự
kiện toàn của mình trong việc nhận biết một cách tỏ tường Đấng
làm chủ lịch sử. Chính ở bên trong, chứ không phải ở bên ngoài
của các truyền thống tôn giáo này mà các tín đồ của các tôn giáo
này bị thách thức bởi mầu nhiệm của Đức Kitô[29].

Lm. Nguyễn Tiến Dưng, A.A.


________

[1] Để tìm hiểu lịch sử tuyên ngôn, xin tham khảo bài của G.M.
–M. COTTIER, “L’historique de la déclaration”, trong : A.-M.
HENRY (éd), Les Relations de l’Eglise avec les religions non-
chrétiens. Déclaration “Nostra aetate”, tr. 37-78.
[2] Bản văn của SECRETARIATTUS PRO NON
CHRISTIANIS, Bulletin, n. 56 ; 19 (1982/2), tr. 146-165 (ở đây
tr. 155).
[3] P. HACKER, “The Christian Attitude toward Non-Christian
Religions”, Theological Foundations of Evangelization, St.
Augustin, Steyler Verlag, 1980, tr. 61-77.
[4] M. ROUKANEN, The Catholic Doctrine of Non-Christian
Religions According to the Second Vatican Council, Leyde, E.
J. Brill, 1992, tr. 61.
[5] Xem P. ROSSANO, “God’s Lordship and Religious
Pluralism in Roman Catholic Perspectives”, trong G.H.
ANDERSON và Th.F. STRANSKY (éd.) Christ’s Lordship and
Religious Pluralism, tr. 96-110 (102-103).
[6] Xem K. KUNNUMPURAM, Ways of Salvation. The
Salvific Meaning of Non-Christian Religions According to the
Teaching of the Vatican II, Poona, Pontificium Atheneuum,
1971, tr. 66-68.
[7] P. F. KNITTER, No Other Name? A Critical Survey of
Christian Attitude towards the World Religions, Maryknoll,
New York, Orbis Books, 1985, tr. 124.
[8] K. RAHNER, “Uber die Heilsbedeutung der
nichtchristlichen Religionen”, Schriften zur Theologie, vol. XIII,
tr. 341-350.
[9] H. MAURIER, “Lecture de la déclaration par un
missionnaire d’Afrique”, trong A.-M. HENRY (éd.), Les
relations de l’Eglise avec les religions non chrétiennes, tr. 119-
160 (tr. 133-134).
[10] Xem : Jean DANIELOU, Le Mystère du salut des nations ;
Le Mystère de l’avent; Essai sur le mystère de l’histoire ; Les
saints “païens” de l’Ancien Testament ; Mythes païens, mystère
chrétien ; La foi de toujour et l’homme aujourd’hui.
[11] Jean DANIELOU, Essai sur le mystère de l’histoire, tr. 113,
116.
[12] Ibid., tr. 21-22.
[13] Henri de LUBAC, Aspects du bouddhisme ; La rencontre
du bouddhisme et de l’Occident.
[14] Henri DE LUBAC, Catholicisme, Les aspects sociaux du
dogme, tr. 107-110.
[15] Xem N. ETEROVIC, Cristianesimo e religioni secondo H.
de Lubac, tr. 283.
[16] Henri DE LUBAC, Le fondement théologique des misions,
tr. 283-284.
[17] Henri DE LUBAC, Paradoxe et mystère de l’Eglise, tr. 149.
[18] Pierre TEILHARD DE CHARDIN, Science et Christ, tr.
61-62.
[19] Hans Urs VON BALTHASAR, Théologie de l’histoire, tr.
112 : unversale concretum et personnale.
[20] R. PANIKKAR, The Unknown Christ of Hinduism. Bản
dịch tiếng Pháp: Le Christ et l’Hindouisme. Une présence
cachée.
[21] R. PANIKKAR, Le Christ et Hindouisme, tr. 11.
[22] Hans KÜNG, “The World Religions in God’s Plan of
Salvation”, trong: J.NEUNER (éd), Christian Revelation and
World Religions, tr. 25-66.
[23] Xem K. RAHNER, “Das Christentum und die
nichtchrislichen Religionen”, Schriften…, vol.V, tr. 143-154.
[24] J. NEUNER, “Missionstheologische Probleme in Indien”,
tr. 401.
[25] Xem H. R. SCHLETTE, Pour une “théologie des
religions”, tr. 37.
[26] Xem H.R SCHLETTE, Pour une “théologie des religions”,
tr. 106-110.
[27] DC 88 (1991), tr. 153-159: “Chúa Thánh Thần biểu hiện
một cách đặc thù trong Giáo hội và trong các thành viên của
Giáo hội; tuy nhiên sự hiện diện và hoạt động của Ngài có tính
phổ quát, không giới hạn trong không gian và thời gian. […]
Thánh Thần […] là nguồn gốc của các câu hỏi hiện sinh và tôn
giáo của con người, những câu hỏi không chỉ xuất phát từ điều
kiện sống, mà ngay cả từ cấu trúc của con người. Sự hiện diện
và hoạt động của Thánh Thần không chỉ liên hệ đến từng con
người, mà cả xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa, các
tôn giáo” (n°.28).
[28] Pontificum Consilium Pro Dialogo Interreligiones, Bulletin,
n. 77 ; 26 (1991/2), tr. 260-302.
[29] Xem D. S. AMALORPAVADASS (éd.), Evangelization of
the Modern World, tr. 129-134.

You might also like