Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 69

CHUYÊN ĐỀ TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

TÂY TIẾN
Quang Dũng
MB.
Nhà thơ CLV đã từng tha thiết, vời vợi những nhớ thương với mảnh đất Tây Bắc:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Mỗi mảnh đất đi qua là « nơi máu rỏ » để tâm hồn ta thấm đất, mỗi bước chân là một bước ân tình. Bao
nhiêu kỉ niệm đã ăn sâu vào tiềm thức, những tháng ngày gian nan, lúc băng rừng, vượt thác, khi hào hùng,
lúc mộng mơ...tất cả chỉ bao bọc trong nỗi nhớ, niềm thương của người đại đội trưởng gửi trao những đồng
đội thân yêu. TT là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà QD gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân TT
của mình.
TB.
1. Đề tài: hình tượng người lính trong KCCP.
Có những bức tượng đài đã trở thành bất tử trong văn học viết về người lính: nữ anh hùng thủa bà Trưng,
bà Triệu “cưỡi voi xông trận”, người nông dân nghĩa sĩ với “manh áo vải, ngọn tầm vông” trong văn Nguyễn
Đình Chiểu, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung …Nhưng có một bức tượng đài đẹp như
huyền thoại trong văn học là hình tượng người lính trong KKCP. Chắc chúng ta đã biết đến người nông dân
vác súng lên đường đi chiến đấu trong bài Nhớ của Hồng Nguyên. Người đồng đội thắm thiết ân tình trong
Đồng Chí của Chính Hữu…Một mảnh đất thân quen của văn học đã bao người cày xới. Đã bao cây đại thụ
trưởng thành từ mảnh đất này. Đó là một thử thách không hề nhỏ đối với người cầm bút có ý định viết về
mảng đề tài người lính. Nhưng khó khăn càng lớn càng thôi thúc và đánh thức tài năng. QD đã không ngần
ngại khi lách bút vào kẽ hở của đề tài này và ươm lên một hạt mầm đủ sức vươn cao, trường tồn, bất tử cùng
thời gian. Tây Tiến là một minh chứng hùng hồn khẳng định lao động nghệ thuật đầy trách nhiệm, ý thức và
tình yêu của Quang Dũng.
2, Hoàn cảnh sáng tác.
Một tác phẩm ra đời đôi khi là sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm và ngoại cảnh. Tây Tiến cũng vậy,
là kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương mà QD gửi về cho binh đoàn Tây Tiến máu thịt, thân yêu của
mình.
Đặc điểm của binh đoàn TT:
- Thành phần: Đoàn quân TT được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai
trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm
Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Đây là điểm khác biệt rõ nét làm nên chất
lãng mạn và trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người lính trong thơ QD. (so sánh với hình tượng người
lính trong bài Đồng Chí của Chính Hữu)
- Tinh thần: Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời chân lí của thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh.
- Địa bàn hoạt động: Một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu- Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo
sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi nứi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng,
nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.
- Nhiệm vụ: Chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pa-thét Lào
đánh tiêu hao sinh lực địch.
- Cuộc sống chiến đấu: Vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì
thế mà những người kính TT hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều.
 Chính vì vậy chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn TT đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng
QD được chuyển sang một đơn vị khác và TT sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi tại dòng sông Đáy
hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh
ra tử lại ùa về. TT được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết QD gửi đến cho đất và người trọn vẹn một
tình yêu.
3, Nhan đề và xuất xứ bài thơ.

1
Tác phẩm văn học có thể coi như đứa con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế đặt tên cho tác
phẩm cũng là nỗi băn khoăn, trăn trở của mỗi tác giả. Có những tác phẩm tên được đặt đi, đặt lại. TT của QD
mới ra đời nó có tên là “Nhớ TT”. Nhưng có lẽ sau này QD hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói
nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ. Đấy mới là cái tài hoa
của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “TT” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là
nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” năm 1948.
Phân tích bài thơ
Bố cục: 4 phần:
1. Hình tượng người lính TT thấp thoáng ẩn hiện trên chặng đường hành quân giữa thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc.
2. Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
3. Chân dung người lính TT.
4. Lời thề gắn bó với binh đoàn TT và mảnh đất miền Tây.

Phân tích đoạn thơ đầu.


1, Hai câu thơ đầu: Cánh cửa cảm xúc của bài thơ.
*Câu 1.
Ý1: Hình ảnh dòng sông Mã.
- Vai trò của dòng sông Mã.
+ Biểu tượng cho tình yêu quê hương.
Đã là người con của đất mẹ Việt Nam có lẽ chúng ta ai cũng từng một lần trên môi ngân nga khúc hát
ngọt ngào “quê hương ai cũng có một dòng sông bên nhà. Đi xa ai cũng nhớ, một dòng sông tuổi thơ…”
Một đất nước miền khí hậu nhiệt đới, thiên nhiên lại ban tặng cho hầu hết mỗi tỉnh thành một dòng sông. Nhà
thơ Hoàng Cầm yêu con sông Đuống hiền hòa bên làng tranh Đông Hồ cổ kính. Tố Hữu yêu dòng sông
Hương với mái chèo man mác và điệu hò Nam ai, Nam bình, Mái nhì, Mái đẩy. QD của chúng ta là con của
mảnh đất Hà Thành, nơi có dòng sông Hồng thắm đỏ phù sa, nên nỗi nhớ khắc sâu trong tim đáng ra phải là
dòng sông ấy. Nhưng điều đặc biệt ở đây là nỗi nhớ lại ùa về theo dòng chảy cuộn xoáy của dòng sông Mã.
Phải chăng dòng sông của mảnh đất miền Tây ấy đã gắn bó máu thịt như quê hương thứ hai của nhà thơ. Nên
xa rồi mới thấy nhớ thương, thấy vấn vương để cất lên thành tiếng thơ dào dạt
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+Là chứng nhân lịch sử.
Dòng sông Mã là dòng sông nằm miền Tây Bắc của tổ quốc, chảy qua Sơn La và Thanh Hóa và với hàng
loạt chi lưu của nó. Dòng sông ấy đã gắn bó cùng chiến sĩ trong đoàn quân TT suốt những năm tháng chiến
đấu ở nơi đây. Dòng sông đã trở thành chứng nhân lịch sử, chứng kiến bao vui buồn, những niềm vui hân
hoan khi chiến thắng, những nỗi đau thầm lặng của sự hi sinh…Một chứng nhân không thể thiếu trong dòng
hoài niệm của QD khi nhớ về đồng đội thân yêu.
+ Sự kết nối giữa dòng sông hiện tại và dòng sông trong kí ức.
Năm 1948, QD được cử làm đại biểu đi dự đại hội toàn quân tại Hà Đông cũ, nay thuộc Hà Nội. Một
hôm ngồi tại bến Phù Lưu Chanh của dòng sông Đáy hiền hòa, nỗi nhớ về đồng đội trào dâng, dòng sông
Đáy của hiện tại đã đưa QD trở về với quá khứ, với những tháng ngày gắn bó cùng binh đoàn TT. Nỗi nhớ
này gọi nỗi nhớ kia, dòng sông này chảy về dòng sông khác. Kí ức về đoàn quân TT dập dềnh theo sóng
nước của dòng sông hoài niệm. Và nỗi nhớ vỡ òa chơi vơi.
Ý 2: Thời gian:
Như một sự thật phũ phàng mà QD không thể phủ nhận là cho dù hình ảnh dòng sông Mã có thân thương
đến mấy, TT có gần gũi biết bao thì giờ đây chỉ còn trong hoài niệm, trong kí ức vì tất cả đã “xa rồi”. Tính từ
chỉ thời gian được đặt giữa câu thơ như bẻ đôi quá khứ và hiện tại. Như một lẽ hiển nhiên của sự chia cắt. Bởi
kỉ niệm càng đẹp thì càng xót xa.
Ý 3: Danh từ TT.
Nỗi nhớ thương như đang dâng trào theo con nước cuộn xoáy của dòng sông Mã. Khi biết tất cả đã xa rồi
thì QD muốn níu kéo. Và như một phản xạ bản năng, tiếng gọi TT bật lên thân thương, trìu mến và da diết
biết bao. TT là danh từ chung chỉ đoàn quân TT, nhưng khi QD cất lên tiếng gọi TT ơi thì danh từ chung đã
chuyển thành danh từ riêng khi có thán từ hô gọi “ơi” đứng phía sau và người đọc lại có cảm giác như chính
2
tác giả đang gọi một người bạn tri âm, tri kỉ của mình. Có như vậy ta mới hiểu hết hồng tâm đầy tình sâu,
nghĩa nặng mà QD dành cho đồng đội thân yêu.
Ý 4: Dấu chấm cảm.
Dấu chấm cảm cuối câu như một sự khẳng định lại dứt khoát, mạnh mẽ, chắc nịch tình cảm của nhà thơ.
Nếu có ai đó, sẽ là không quá, nếu nói rằng câu thơ đầu đã khơi được mạch nguồn cảm xúc cho toàn bộ bài
thơ để rồi nỗi lòng của nhà thơ không thể che giấu được, và phải lộ thiên theo ngôn từ, một thứ ngôn ngữ đặc
biệt của trái tim.
=>Câu thơ 7 chữ mà có 4 chữ là tên riêng, đó cũng là nơi gửi, chốn về của nỗi nhớ: Vùng đất miền Tây mà
con sông Mã đã trở thành biểu tượng mỗi lần người ta nhắc đến mảnh đất nơi chiến trường chiến đấu oanh
liệt khiến bao thế hệ của Tổ quốc nhìn lại để ngậm ngùi.
*Câu 2.
Ý1: Điệp từ nhớ.
Nỗi nhớ không thể chất chứa được trong lòng, nó đã bật lên thổn thức. Câu thơ thứ hai không có chỗ cho
hình ảnh thơ mà nó là những khoảng, những chỗ trống cho trái tim lên tiếng. Nói nhớ thôi có lẽ là chưa đủ,
nên vần thơ điệp lại: nhớ rồi lại nhớ. Nỗi nhớ cứ ùa về, trào dâng, cuộn xoáy trong lòng.
Ý 2: Từ láy nhớ chơi vơi.
Để diễn tả nỗi nhớ, người ta có thể sử dụng hàng loạt các bổ ngữ: da diết, cồn cào, cháy bỏng, nồng
nàn…Nhưng QD lai không chọn những từ quen thuộc. Lọc trong hàng ngàn tấn quặng ngôn ngữ để chắt lọc
được một ngôn từ trong thơ đó là việc của những bậc thi thánh. QD khi viết nhớ chơi vơi liệu ông có nghĩ đến
những câu ca dao quen thuộc:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm
Hay Xuân Diệu cũng từng viết
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
Phải chăng khi sử dụng nhớ chơi vơi là QD như ngầm một sự so sánh: Nỗi nhớ của tôi dành cho đồng đội
thân yêu cũng da diết cháy bỏng như nỗi nhớ, nỗi tương tư của trai gái trong tình yêu. Còn gì sâu đậm hơn?
Bản thân từ láy “chơi vơi’ còn có tác dụng gợi hình. Nỗi nhớ ấy dù không có hình, khối, không thể cân, đong,
đo, đếm được nhưng chỉ biết rằng nỗi nhớ ấy cứ dâng lên, cứ đầy lên, từ lòng người mà tan thấm, lan tỏa ra
bao trùm khắp không gian rừng núi mênh mông.
Ý 3: Cách gieo vần ơi.
Hai câu thơ đầu được gieo vần chân – vần “ơi” như tạo độ ngân vang, lan tỏa về âm thanh và đồng thời
như diễn tả một nỗi nhớ triền miên, da diết, khôn nguôi của nhà thơ về đồng đội thân yêu của mình.
=> Hai câu thơ đầu, với thủ pháp "lắng dần"của điện ảnh tác giả đã để hình ảnh Sông Mã là hình ảnh đầu
tiên gọi về nỗi nhớ. Để rồi dòng sông Mã mờ dần cho dòng cảm xúc miên man nhớ về Tây Bắc choáng ngợp
tâm hồn nhà thơ, cứ chơi với, hư ảo.
2, Sáu câu thơ tiếp: Thiên nhiên miền Tây qua chặng đường hành quân của binh đoàn TT.
*2 câu đầu.
Ý 1: Những địa danh lạ lẫm, xa xôi.
QD đã đưa người đọc đến những vùng đất hẻo lánh, xa xôi của miền biên cương qua các địa danh nghe lạ
lẫm đến vô cùng.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Ý 2: Thiên nhiên miền Tây và con người hòa quyện.
* Chất hiện thực
- Qua ngòi bút kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tả thực và lãng mạn, thiên nhiên miền Tây hiện lên hoang
sơ, hùng vĩ, khắc nghiệt nhưng cũng thơ mộng đến vô cùng. Nơi núi rừng Sài Khao sương mù bao phủ trắng
trời, như nhấn chìm, khuất lấp cả đoàn quân. Sương mù là nét thiên nhiên đặc trưng của chốn núi rừng. Đó
cũng là sự khắc nghiệt của thiên nhiên làm tăng thêm sự khó khăn, gian khổ cho đoàn quân TT trong quá
trình chiến đấu. Thê nên mới dẫn đến một hệ lụy tất yếu là “đoàn quân mỏi”.
- Thanh trắc của tư “lấp” như vút lên, sương dày, sương che thì bước chân của những chiến sĩ càng nặng nề,
nên kết thúc câu thơ là thanh trắc của từ “mỏi”. Nếu chỉ dừng lại ở câu thơ này thì có lẽ cảm xúc chính lắng
lại là sự mệt mỏi, nhọc nhằn cả về thể xác lẫn tinh thần.
3
- Liên hệ: Cũng miêu tả về "sương", Chế Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
* Chất lãng mạn
- Bằng ngòi bút tài hoa và nghị lực phi thường, ngay câu thơ sau với thủ pháp lãng mạn đã nâng đỡ tâm hồn
người lính trên con đường hành quân vất vả, gian lao:
+ Ở Mường Lát những đóa hoa rừng đang bung nở trong đêm. Hình ảnh “hoa về” có nhiều ẩn ý. Người đọc
có thể hiểu rằng, những người lính TT trên chặng đường hành quân dù đầy khó khăn, gian khổ nhưng những
chàng trai mang tâm hồn hào hoa, lãng mạn của đất Hà thành vẫn yêu đời “ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ
ta đi”. Khi đoàn quân dừng chân nghỉ tại Mường Lát, quân về cũng là lúc “hoa về”. Đồng thời hình ảnh “hoa
về” còn cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tài tình của QD, đoàn quân ấy là những chàng trai hào hoa,
với tâm hồn đẹp và lí tưởng đang tỏa sắc, lên hương như loài hoa của núi rừng Tây Bắc.
“Hoa về” còn có thể hiểu là khi hành quân đêm trong rừng rậm, những chàng lính trẻ đã làm những bó đuốc
bằng thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi cháy rất đượm và những tàn lửa tung bay trông từ xa đoàn quân như
một tràng hoa lửa rực rỡ đang về nơi tập kết giữa núi rừng trong làn sương mờ hư ảo.
+ Hình ảnh thiên nhiên “đêm hơi” được miêu tả lập lờ giữa hai bờ hư, thực. Đêm hơi còn có thể hiểu là đêm
có sương mù giăng mắc, một nét đặc trưng đầy khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây. Nhưng chỉ bằng cách
thay đổi một từ sương bằng hơi đã làm cho khung cảnh bỗng trở nên lung linh, hư ảo. Người đọc như đang
cùng những chàng Lưu Nguyễn thời đại Hồ Chí Minh vào nhập cõi thiên thai.
=> Cái tài tình của QD là sự đan xen giữa bút pháp tả thực và lãng mạn. Nếu câu trước là nét vẽ gân guốc,
đầy khắc nghiệt của hiện thực thì câu sau lại là nét vẽ mềm mại của bút pháp lãng mạn. Đó là sức mạnh
nâng đỡ tâm hồn người lính TT trên chặng đường trường hành quân đầy gian khổ.
*4 câu tiếp.
Bốn câu thơ tiếp là hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở đầy dữ dội hiện lên trong nỗi nhớ như một
bức tranh hùng tráng. Mà theo cách nói của Xuân Diệu "thi trung hữu họa":
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ý 1:Nghệ thuật điệp.
Một nét vẽ đậm, tô đi tô lại con đường toàn những dốc núi chính là điệp từ “dốc” để rồi hiện ra trước mắt
người đọc là con đường đi dốc tiếp dốc, hết con dốc này đến con dốc khác:
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non

Ý 2: Từ láy tượng hình.


Bức tranh ấy còn thêm sinh động, tác giả đã tô vẽ bằng những từ láy tượng hình.
- “Khúc khuỷu” là con đường vừa dốc lại như gấp khúc, gẫy gập. Con đường hành quân của người lính TT
vốn đã gian nan giờ độ khó khăn lại còn tăng thêm.
- “Thăm thẳm” vốn là từ độc quyền để tả độ sâu. Nhưng thật tài tình khi QD dùng nó để tả độ cao của dốc
núi và nó mang lại hiệu quả bất ngờ. Con dốc mà chót vót thì có lẽ người đọc còn nhìn thấy điểm cuối của
con đường và nơi ấy là chỗ dừng chân. Nhưng để từ “thăm thẳm” ở cuối câu trong việc tả con dốc thì dường
như cung đường ấy không chỉ cao mà còn dài hun hút, không cùng, không tận, biết đâu là điểm cuối - gian
nan nối tiếp gian nan.
- Từ láy “heo hút” gợi lên sự hoang sơ, vắng lặng của chốn thâm sơn cùng cốc. Nơi mà chỉ có thiên nhiên
ngự trị khiến cho con người thêm nhỏ bé, choáng ngợp trước không gian.
Ý 3: Thanh điệu câu thơ.
Một câu thơ 7 tiếng mà có đến 5 thanh trắc không chỉ diễn tả con đường đi đầy gập ghênh, gian nan mà còn
khiến người đọc như nghe rõ tiếng thở hổn hển của người lính TT khi leo dốc. Thế mới thấy thi trung không
chỉ hữu họa mà còn có nhạc. Đọc câu thơ mà ngỡ nhạc rung trong lời. Đó là cái tài của nhà thơ.
Ý 4 Hình ảnh cồn mây

4
Con đường đi với dốc tiếp dốc thì hậu quả tất yếu của nó là con đường ấy cao đến tận mây. Đây là hình ảnh
tô đậm thêm độ cao cũng như sự vất vả gian nan của người lính TT.
Ý 5: Hình ảnh súng ngửi trời.
Một nét vẽ làm câu thơ mềm mại, uyển chuyển thậm chí đánh tan hơi thở hổn hển, mệt mỏi và mang nụ cười
hóm hỉnh đến đặt trên môi những chàng lính trẻ đó chính là hình ảnh “súng ngửi trời”.
- Súng ngửi trời như một lần nữa khẳng định lại vị thế đứng của người lính TT, họ đang đứng trên tầm cao,
nơi đất trời đang giao nhau. Nhưng điều lạ là trước hiện thực ấy, QD không nói súng chạm trời hay súng chọc
trời mà lại là “súng ngửi trời”.
- Nghệ thuật nhân hóa như hé mở tâm hồn đang đùa vui, bốc tếu đầy hóm hỉnh của những chàng lính trẻ.
Những tâm hồn hào hoa, lãng mạn.
- Hình ảnh này còn tôn lên tư thế hiên ngang, đang làm chủ hoàn cảnh, đứng trên đỉnh đèo cao. Con người
mang tầm vóc kì vĩ, lớn lao. Một tư thế hiên ngang như bức tượng đài của người lính thế kỉ XX, người lính
trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ý 6: Đứng trên cao cảm nhận con đường đi.
- Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi
xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như
một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
- Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên hùng vĩ vô cùng. Bên
cạnh đó, QD còn khắc họa lại ngọn núi án ngữ sừng sững con đường đi, hai bên dốc núi nhìn lên cao chót vót
nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- Câu thơ ngắt nhịp 4/3 như bẻ đôi con đường. Hai từ đối lập, trái nghĩa: lên >< xuống khiến người đọc rơi
vào cảm giác bất ngờ, như một làn sương lạnh thốc vào giác quan chứng kiến cảnh vật biến động nhanh đến
choáng váng. Mà như nhà phê bình Trần Đình Sử đã nhận xét: đọc câu thơ mà QD cho người đọc như đang
chơi trò bập bênh đến chóng mặt.
* Ý 7: Câu thơ kết.
- Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo với nhịp thơ như hơi thở dồn dập, tác giả khắc họa cái dữ dội tột đỉnh của
thiên nhiên Tây Bắc. Những thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang, QD đã thể hiện ánh mắt vô
cùng thơ mộng của người lính Tây Tiến để tìm thấy vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt đèo cao, núi sâu. Họ tạm dừng chân bên
dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua không gian mịt mùng của sương rừng, mưa núi để ngắm nhìn những ngôi
nhà đang thấp thoáng trôi nhẹ nhàng giữa biển mưa. Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa gam màu
nóng trong hội họa dịu lại cả khổ thơ tạo nên một cảm giác êm đềm.
- Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện.
Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của Quang
Dũng, dường như nó lãng mạn hơn, trữ tình hơn. Nhà thơ đầy sáng tạo khi tả mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa
khơi". Nó gợi lên một cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng, tả mưa rừng mà cho người đọc cảm
giác như đang đứng trước biển khơi mênh mang khác nào bậc kì tài Nguyễn Tuân đã dùng lửa để tả nước
trong tùy bút Người lái đò sông Đà của mình.
- Hình ảnh ngôi nhà của ai đó thấp thoáng sau làn sương mù và mây núi thật hư ảo. Nó không chỉ có tác
dụng làm cho những người lính thấy ấm lòng khi tìm thấy cuộc sống quen thuộc nơi núi rừng hoang sơ, hiểm
trở. Mà ngôi nhà thân thương ấy còn là động lực giúp họ bước tiếp trên con đường chiến đấu gian nan đầy
hiểm nguy. Bởi:
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông
- Câu thơ thứ 7 với 8 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra một bức tranh
thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những
dòng thơ trong "Chinh phụ ngâm khúc" xưa:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
5
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
=> 6 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi
tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi
nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và hững người lính nói chung.
3, Bốn câu thơ tiếp:Người lính TT trên chặng đường hành quân.
* 2 câu đầu: sự hi sinh và lí tưởng của người lính TT.
Ý 1: Cách gọi.
Hai từ “anh bạn” cất lên như muốn đùa vui, hóm hỉnh, như một cái vỗ vai nhẹ nhàng người đồng đội thân
quen của mình. Thân thiết biết nhường nào.
Ý 2: Từ láy “dãi dầu”.
Trong dân gian ta có câu thành ngữ “dãi nắng, dầu sương” để chỉ sự vất vả, gian truân. QD đã rút gọn thành
ngữ trong từ láy dãi dầu vừa để gom lại sự nhọc nhằn của những chàng lính TT vừa để khắc họa cuộc sống và
chiến đấu đầy khắc nghiệt. Chữ "dãi dầu" đã lột tả được hết sự khốc liệt của chiến tranh. Bao nhiêu sóng gió,
hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi là những tất yếu.
Ý3: Hiện thực khốc liệt.
- Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt như vậy khiến cuộc hành quân của người lính Tây Tiên vô cùng gian
khổ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng, thấm thía"…không
bước nữa"và "gục lên súng mũ" gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Người lính ấy không rũ bỏ,
quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của họ cũng là điều tất
yếu sao? Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ.
Ý 4: Nghệ thuật miêu tả sự hi sinh.
- Cụm từ ‘bỏ quên đời” trong câu thơ có nhiều cách hiểu. Cũng có thể là người lính TT, trên chặng đường
hành quân mệt mỏi, họ không đi nữa và dừng chân lại nghỉ và giấc ngủ say đến thật nhẹ nhàng. Trong giây
phút ấy người lính như gác lại, để quên những khó khăn, nhọc nhằn của cuộc chiến đấu. Nhưng cũng có thể
hiểu rằng các anh nằm xuống và vĩnh viễn không bao giờ đứng dậy cùng đồng đội tiếp tục cuộc chiến đấu
trường kì được nữa.
- Cái chết của các anh đựơc miêu tả nhẹ nhàng, than thản"bỏ quên đời" bởi nghệ thuật nói giảm, nói tránh. Ba
chữ:"bỏ quên đời" thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ
tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng:"Cổ lai chinh chiến kỉ nhân
hồi"(xưa nay chinh chiến mấy ai trở về). Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc
ngủ mà thôi. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng đứng Việt
Nam":
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
- Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Đây là hình ảnh vừa bi
vừa hùng mang không khí thời đại. Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng: "Quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày trở về giống như một lời ca của một thời: "Đoàn vệ quốc quân 1 lần
ra đi nào có mong chi đâu ngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà quyết không lui".
=>Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến mất mát, hi sinh nhưng vẫn không bị lụy về thái độ
của người hi sinh. Người chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo đựoc khó khăn nhưng họ không chịu khuất phục.
Họ đứng trên cái chết, coi cái chết "nhẹ tựa lông hồng"và sẵn sàng đón nhận nó vì Tổ quốc thân yêu.
* 2 câu sau: Những hiểm nguy ẩn chứa nơi núi rừng.
Bấy nhiêu khắc nghiệt mà người lính phải chịu đựng vẫn chưa phải là tất cả bởi vùng rừng núi miền Tây
ấy còn là nơi ngự trị của âm u, hoang dã, của thác cao, sông sâu, suối dữ. Sự hoang dã ấy không chỉ đựơc mở
ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cả thời gian với những đe dọa khủng khiếp luôn rình rập
con người:

6
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Ý 1: Điệp từ chỉ thời gian.
- Hết chiều chiều lại đến đêm đêm, những hiểm nguy cứ kéo dài, triền miên không dứt. Lúc nào cũng đe dọa
những người lính TT.
Ý 2: Hình ảnh thác gầm thét và cọp trêu người.
- Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều
tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê
rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động những tiếng nói riêng của núi
rừng.
- Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của
núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí. Cảnh hoang vu của núi rừng Tây Bắc đúng
là thử thách ghê gớm đối với người lính Tây Tiến.
- Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian kết hợp với biện pháp nhân hóa "thác gầm
thét","cọp trêu người "đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội, hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn
rình rập đe dọa người lính của núi rừng miền Tây. Đồng thời cho thấy sự đùa vui hóm hỉnh, coi nhẹ những
gian khó hiểm nguy của những chàng lính trẻ.
- Qua cách sử dụng thanh điệu: hai thanh trắc là hai dấu nặng ở hai từ “hịch, cọp” nhà thơ Trần Lê Văn từng
nhận xét "Hai chữ có dấu nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp". Trước đó lại kết hợp với cả hai
thanh bằng đã tạo nên một quá trình rình mồi rồi bất ngờ vồ mồi của loài cọp dữ dội, quyết liệt. Hình ảnh trên
trang giấy được nhà thơ tài tình lưu giữ thành những kỉ niệm gian khổ, khắc nghiệt không thể quên của những
chàng lính chiến.
* 2 câu cuối: Nồng ấm tình quân dân.
Đoạn thơ đã khép lại bằng một cảm xúc thật ấm áp và ngọt ngào
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi
Ý 1: Hình ảnh bát cơm nếp xôi
- Trên đuờng hành quân cheo leo đầy trắc trở đoàn quân dừng lại nghỉ chân nơi bản làng. Một bát cơm nếp
xôi còn nóng đang bốc khói, tỏa hương. Hương vị ngọt ngon của những bát xôi nếp thơm do những bông hoa
của núi rừng Tây Bắc đem tới đã khiến cho các chàng trai hào hoa, phong nhã như quên đi tất cả nỗi vất vả về
thể xác suốt dọc đường để đón nhận tình quân – dân nồng đượm.
Ý 2: Nghệ thuật sử dụng thanh điệu
- Ba thanh trắc với ba dấu sắc của từ “nhớ, Tiến, khói” không chỉ cho người đọc hình dung được làn khói tỏa
ngào ngạt của bát cơm xôi nếp, mà còn như nghe được tiếng suýt xoa của những người lính TT khi đón nhận
bát cơm còn ấm nóng tình người. Hương vị của nếp xôi, hương vị của lòng người. Chiến binh Tây Tiến hào
hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và tình người đằm thắm.
Ý 3: Hình ảnh chủ đạo.
Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những
câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha.
Ý 4: Sử dụng thán từ
Thán từ “nhớ ôi” gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau
một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi
xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp, khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần
bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một
cảnh sinh hoạt tươi vui. Mãi là mảnh tâm hồn của người cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đẹp của anh bộ đội cụ
Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng nagỳ không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

7
=> Đoạn thơ đã cho thấy nét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng câu thơ đỡ câu thơ, hình ảnh đỡ
hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng sự gian lao của hành trình những người lính Tây Tiến vẫn có
phút dừng chân thư thái yên bình những hình ảnh lãng mạn, trữ tình, thơ mộng.

Phân tích đoạn thơ thứ hai.


Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh
trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống đậm chất Đường thi: “Thi trung hữu hoạ,
thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.
1. Bốn câu thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấm áp tình quân dân.
Ý 1: Từ bừng- nhãn tự của đoạn thơ.
Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
- Nội hàm khái niệm mà động từ “bừng” bao chứa: “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát ra đột ngột,
bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện
của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Từ “bừng” làm sống dậy cả một đêm liên hoan văn nghệ,
làm bùng sáng và rộn ràng cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó là nhãn tự, là chữ có thần.
- Bừng lên đầu tiên là ánh sáng. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây
nên cần phải có lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem và những chàng lính trẻ cầm trên tay bó đuốc là những
thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng là lúc ánh sáng của lửa đuốc bừng lên
soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong con mắt thơ tài hoa của QD đó là đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào,
đắm say, lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc táo bạo và
khó phai mờ.
- Ánh sáng bừng lên cũng là lúc những sắc màu lung linh tỏa rạng của những xiêm áo thổ cẩm
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng
đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc tôn vinh
thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành
hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.
- Bừng lên cả âm thanh của tiếng khèn “man điệu”.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Những điệu nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ như chốn núi
rừng có sức mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.
Ý2: Trạng thái cảm xúc của người lính TT.
Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát
hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ.
Ý3: Hình ảnh nhân vật trung tâm đêm liên hoan văn nghệ.
Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi điểm
nhìn.
-Nhân vật “em” đã có những cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái dân tộc miền núi rừng Tây Bắc,
mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ
kháng chiến và những anh chàng lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong các đoàn văn công về
phục vụ văn nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng đường hành
quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi,
nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng có thể chính là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí
trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang
làm con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
Ý4: Lí tưởng của người lính.
-Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước sắc màu lung linh của
những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm bổng, trước những điệu múa yêu kiều, duyên
dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng trai Hà Thành sẽ bị hút hồn vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng là
những phút giây lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng không, có lẽ
chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc cũng là lúc người lính sống
đúng với khát khao cháy bỏng của mình.
8
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
- Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian và không gian hiện tại, chơi vơi sang tận
thủ đô Viên Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu hỏi vì sao? Thủ đô là trung tâm đầu não của một
quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập. Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi
thủ đô cũng là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra tại Viên
Chăn của Lào ắt sẽ là đêm liên hoan vui niềm vui trọn vẹn, niềm vui trong chiến thắng.
=> Trong lúc mộng mơ nhất, người lính TT vẫn không quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng một khát
khao quét sạch bóng quân thù ra khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng chân chính, đúng đắn.
2. Bốn câu thơ sau: Cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Ý 1: Hình ảnh “người đi”
Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi là ai? Phải chăng đó là những chiến sĩ trong
đoàn quân TT trên đường trường hành quân đã đi qua mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. Và giờ đây khi
ngồi nhớ về TT, QD đã nhớ đến khoảnh khắc đầy ắp những kỉ niệm cùng đồng đội thân yêu, nhớ từng khuôn
mặt, từng bóng hình thân quen.
Ý2: Thời gian
Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời gian “chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó là thời gian nào
nhưng Quang Dũng chắc còn nhớ như in đó là một buổi hành quân trong chiều sương mù giăng mắc, bao
phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế
hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền
cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của
Quang Dũng thật tài hoa.
Ý3: Khung cảnh thiên nhiên
- Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn núi rừng Tây Bắc.
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước, bến bờ hoang dại như một bờ tiền
sử.
-“Hồn lau”: Những cây lau không còn vô tri vô giác mà ẩn chứa linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm,
tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến bờ. Những bông lau nở
trắng khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều, nó không chỉ mang hồn cốt của
mảnh đất miền Tây mà còn kí thác anh linh của những người đã ngã xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này
gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của bà Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ
kính qua linh hồn cây cỏ:
Lối xe ngựa cũ hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Và nay QD nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.
- Hình ảnh hoa đong đưa trên dòng nước lũ. Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như
những con sông nơi đồng bằng mà nó cuộn xoáy và càng dữ dội hơn khi mùa nước lũ tràn về. Bên bờ sông
có những bông hoa dại nở, khi nước lũ tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa rừng. Dòng nước vì yêu
hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng vì hoa yêu đất nên hoa vấn vương ở lại. Kết quả là bông hoa cứ đong
đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng dằng nửa ở, nửa đi nhưng vấn vương không nỡ nên cứ làm mình làm
mẩy, làm duyên làm dáng trên dòng sông. Tình cây- tình đất, bông hoa - dòng nước đang cố giao hòa giao
cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên, đất trời.
Ý 4: Hình ảnh con người trung tâm.
Trung tâm, điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh con người chèo thuyền độc mộc trên dòng nước lũ.
- Con thuyền độc mộc là một loại thuyền chỉ xuất hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi rừng. Nó
không giống như thuyền thắt đuôi én, thuyền nan ở những con sông vùng đồng bằng. Con thuyền được làm
từ thân một cây gỗ lớn, được đục và khoét thân nên thuyền rất chắc chắn.
- Dáng người chèo thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó là ai, người con gái hay con trai? Có lẽ
người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thể là những cô thiếu nữ chèo thuyền đưa các chiến sĩ
9
qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn ngẩn ngơ, còn làm thơ, còn vấn vương mãi trong tim
bóng hình uyển chuyển, mềm mại ấy và rồi bỗng nhiên nó trở thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào
neo đậu mãi trong tim những chàng trai trẻ.
Ý 5. Sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người.
- Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, làm dáng, đong đưa trên dòng nước lũ thì con
người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở hoa trên dòng sông. Câu thơ không tả mà gợi, gợi
cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình.
Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say. Ở đây cảnh như làm duyên với người. Duyên dáng đến độ và tình tứ
cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu đến
mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi
thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là
xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Ý 6. Nghệ thuật.
- Điệp từ: “có thấy” “có nhớ”. Được lặp lại ở hai câu thơ liên tiếp như những câu hỏi đang xoáy sâu và tâm
can người đại đội trưởng QD. QD như muốn hỏi, muốn đối thoại: Đồng đội của tôi ơi, ai còn, ai mất, có như
tôi lúc này đang nhớ lại từng kỉ niệm đã qua, từng khuôn mặt, từng dáng hình đồng đội thân yêu không.
- Gieo vần: Với kết cấu câu thơ vắt dòng: “ấy” “thấy”, “bờ” “nhớ” khiến cho âm hưởng câu thơ cứ trào dâng
da diết. Cảm xúc cứ dạt dào cuộn xoáy, câu thơ này gọi câu thơ khác, nỗi nhớ này gọi về nỗi nhớ kia. Tất cả
cứ ào ạt, xô bờ, vỗ sóng trong tâm hồn nhà thơ.
=>Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta
một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc, yêu cảnh và người
nơi đây.
Phân tích đoạn thơ thứ ba
1, Hai câu đầu: Ngoại hình của người lính TT
Ý1: Cụm từ “đoàn binh”.
QD rất tài hoa khi lựa chọn ngôn ngữ thơ điêu luyện. Tác giả không nói là đoàn quân mà là đoàn binh
nên nghĩa được nhấn sâu và bồi đắp thêm rất nhiều. Đoàn binh vừa chỉ tập hợp quân sĩ mà còn có tác dụng
gợi hình vì đoàn quân ấy luôn sẵn sàng cầm binh khí trong tay, với tư thế sẵn sàng chiến. Chỉ bằng một cụm
từ đắt nghĩa mà QD đã cho thấy hào khí ngút trời của thế hệ trẻ những chiến sĩ lên đường đi chiến đấu.
Ý 2: Hình ảnh “không mọc tóc”
- Hoàn cảnh cuộc chiến đấu: “Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến trường kì gian
khổ nhưng nhất định thắng lợi”(Trường Chinh). Các anh bộ đội cụ Hồ ra đi kháng chiến thời kì này phải chịu
nhiều khó khăn, thiếu thốn: những thiếu thốn về vật chất, họ lại phải hành quân nung nấu trong suốt những
đêm dài nên người lính TT thường mắc căn bệnh sốt rét rừng – đây là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến
tranh. Hiện thực cuộc sống bước vào văn chương như một quy luật tất yếu bởi “nhà văn là thư kí trung thành
của thời đại” (Ban-dắc).
- Căn bệnh sốt rét rừng:
+ Liên hệ mở rộng:Viết về các anh, văn nghệ sĩ trong giai đoạn này thường bị ám ảnh bởi căn bệnh sốt rét
rừng. Nếu căn bệnh này được cảm nhận qua tâm hồn những nhà thơ hiện thực cách mạng thì người lính hiện
ra thật đáng thương, làm sao ta có thể quên được những vần thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”:
“…Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi…”
Có khi căn bệnh sốt rét rừng lại được hiện lên qua màu da vàng nghệ của anh vệ quốc quân trong bài “Cá
nước” của Tố Hữu:
“…Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi!
Sao mà yêu anh thế…”
+ Cách viết riêng của QD:
Nghệ thuật lãng mạn hóa: QD cũng viết về căn bện này nhưng ông đã cảm nhận bằng tâm hồn của một nhà
thơ lãng mạn, đây là nghệ thuật nhất quán của nhà thơ QD. Đó không phải là thứ lãng mạn tô hồng, bôi đen
cuộc sống, thứ lãng mạn thoát li của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trước cách mạng. QD đã lãng mạn hoá hiện
thực là thứ lãng mạn cách mạng và lí tưởng. Hiện thực là những người lính TT vì mắc căn bệnh sốt rét rừng
10
nên các anh đã bị rụng tóc. Hiện thực này tái hiện qua tâm hồn lãng mạn của QD, nay được thể hiện trên
trang thơ là hình ảnh: “Đoàn binh không mọc tóc”.
Nghệ thuật đảo ngữ: “không mọc tóc” chứ không phải là tóc không mọc. Cách viết này, QD đã làm toát lên
tư tế chủ động của người lính TT: Không thèm mọc tóc. Bởi thực tế cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt và thiếu
thốn nên có khi những người lính TT đã cắt tóc, cạo trọc đầu để tiện cho quá trình sinh hoạt, chiến đấu cũng
như vệ sinh cá nhân. Qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan, đùa vui hóm hỉnh, bốc tếu của những chàng lính
trẻ.
Ý 3: Hình ảnh “quân xanh màu lá”. Có hai cách hiểu:
- Vẫn biết rằng căn bệnh sốt rét làm cho da dẻ người lính xanh xao, vàng vọt. Mà như một nhà thơ khác cũng
đã viết:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Không còn tươi nữa những ngày qua.
Đây là một hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến mà QD chỉ là người thư kí trung thành ghi lại qua những
dòng thơ. Nhưng hiện thực không phơi bày trần trụi. Chỉ qua cách chọn lọc ngôn từ mà ý thơ chuyển hóa đầy
ẩn ý. QD không nói là da xanh màu lá mà là “quân xanh màu lá” nó không còn là màu vàng nghệ của làn da
bị bệnh tật, nó là màu xanh của lá nguỵ trang, màu xanh của cánh rừng bạt ngàn… . Nhờ có nghệ thuật lãng
mạn, QD viết về cái bi của hiện thực chiến tranh nhưng thơ của Quang Dũng không hề bi quan, bi luỵ trái lại
là bi hùng, bi tráng.
Ý 4: Hình ảnh “dữ oai hùm”
- Với nghệ thuật tu từ ẩn dụ vật hóa đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc, bởi tầm vóc của những
người chiến sĩ bật lên với sức mạnh táo bạo, gân guốc, oai phong, dữ dằn như những vị chúa tể sơn lâm,
những con hùm thiêng nơi núi rừng Tây Bắc. Nhưng điều quan trọng hơn với cách viết này, Quang Dũng đã
làm tái hiện trước mắt chúng ta bức chân dung của những anh vệ trọc oai phong như mãnh hổ: dữ oai hùm,
ngự trị giữa chốn rừng thiêng làm cho quân thù phải khiếp sợ. Đúng như giáo sư Vũ Quần Phương đã nhận
xét: “Lối viết của QD thật tài hoa. Nói được lính ốm mà không thấy lính yếu”.
- Liên hệ: Nếu các tráng sĩ đời Trần có vẻ đẹp “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Sức mạnh của các tráng sĩ
đời Lê là “sĩ tốt kén tay tì hổ” thì các chiến sĩ TT thời đại HCM có vẻ đẹp “dữ oai hùm”. Đó là một dòng
chảy lịch sử hào hùng của giòng giống “con rồng cháu tiên”.
2, Hai câu thơ sau: vẻ đẹp của tâm hồn người lính.
“…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Ý 1: Hình ảnh ánh mắt.
- Ánh mắt được coi là cửa sổ tâm hồn. Có thể dâng cả tình yêu lên sóng mắt, nhưng cũng có thể là sự căm
hờn, uất hận. Mà theo quan niệm dân gian của các cụ ta xưa nếu yêu ai thì nhìn bằng con mắt màu xanh, còn
ghét ai thì nhìn bằng con mắt trắng.
- Hình ảnh “Mắt trừng” thể hiện sự căm hờn, uất hận. Chính vì thế đây là con mắt mà những người lính TT
nhìn kẻ thù xâm lược.
- Ánh mắt ấy dù nhìn kẻ thù xâm lược sục sôi căm hờn nhưng cũng không quên gom vào đó những mộng
mơ, hoài bão của tuổi trẻ. Đó là khao khát giết giặc lập công –“xác giặc chất đống xây thành chiến công”.
Ý 2: Giấc mộng chiến công.
- Hình ảnh “gửi mộng qua biên giới” phải chăng là giấc mộng chiến công. Khi ra đi những chàng trai trong
binh đoàn TT đã mang trong mình lí tưởng
“Ra đi chỉ một lời thề
Khi chưa hết giặc chưa về quê hương”.
Nên mong ước ấy đã được QD gửi gắm một cách kín đáo vào ngôn từ. “Qua biên giới” hay cũng chính là
khi bóng dáng quân thù đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi quê hương để đất nước sống trong thái bình yên ổn.
Một ước mơ sáng ngời lí tưởng của những anh bộ đội Cụ Hồ.
- Nhắc đến nghệ thuật của câu thơ bình giảng, ta không thể bỏ qua nghệ thuật đối lập qua hình ảnh thơ:
“Mắt trừng gửi mộng…” . Mắt “trừng” trong câu thơ này nghĩa là các anh đang trừng về phía quân thù để
canh chừng, để nêu cao quyết tâm chiến đấu và tinh thần cảnh giác đồng thời họ vẫn gửi mộng qua biên giới
về Hà thành mĩ lệ. Chữ “mộng” trong câu thơ này phải hiểu theo nghĩa hàm ẩn, là mộng lí tưởng, là khát
vọng lên đường, chính nó đã thôi thúc người lính Tây tiến lên đường vì nghĩa lớn và chính nó đã giúp cho
người lính Tây tiến vượt qua những chặng đường gian khổ.
11
Ý 3: Những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm hồn.
Trong hành trang lên đường chiến đấu của người lính TT không chỉ có mộng mà còn có mơ.
- Lí do: Những anh bộ đội cụ Hồ có nguồn gốc xuất thân từ nhiều ngả đường của tổ quốc. Nên khi ra đi quê
hương là một phần máu thịt mang theo trong tâm hồn họ.
- Liên hệ tình yêu, nỗi nhớ quê hương:
Người lính trong bài Đồng Chí của Chính Hữu đến từ những miền quê nghèo, người dân lao động một nắng
hai sương, cày sâu cuốc bẫm:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau…”
Họ bỏ lại đằng sau quê hương, nơi ấy có “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”; họ còn bỏ lại sau lưng Hà
thành mĩ lệ:
“…Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…”
Đi sâu vào cuộc chiến tranh trường kì, gian khổ, từ trong sâu thẳm các anh bộ đội cụ Hồ thường nhớ về quê
nhà. Nếu người lính xuất thân từ nông dân thì nỗi nhớ của họ chân chất, ngai ngái mùi lúa gạo, ta nhớ đến tứ
thơ hay trong bài thơ “Nhớ” - Hồng Nguyên:
“…Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường
Luống cầy đất đỏ, ít người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya…”
- Nguồn gốc xuất thân của những chàng lính TT: Cần phải mở ngoặc đơn để nói với nhau rằng: đối tượng
ra lính trong bài thơ này là những trí thức Hà thành. Tâm hồn họ đã thấm nhuần áng văn chương cổ, họ xếp
bút non nghiên lên đường vì nghĩa lớn. Nhớ về hà thành mĩ lệ, họ xem Hà Nội như một dáng kiều thơm là
hoàn toàn hợp lí chứ sao?
Ý 4: Hình ảnh “dáng Kiều thơm”.
- “Dáng Kiều thơm” như một mặc định biểu tượng cho những người phụ nữ đẹp. Họ có thể là những người
yêu, người vợ, người mẹ, người em gái đất Hà thành. Những con người mà không hề quá khi Nguyễn Khải
ca ngợi họ là những “hạt bụi vàng” làm nên vẻ đẹp lung linh, làm nên bản sắc đậm đà cổ kính của đất kinh
kì. Bởi
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Tiếc rằng, có thời kì người ta coi câu thơ này là “mộng rớt tiểu tư sản” vì vậy bài thơ này vắng bóng nhà
trường 40 năm trời. Khoảng thời gian này không ít lớp bụi thời gian có thể phủ mờ lên biết bao nhiêu sự kiện,
vấn đề nhưng thời gian lại bất lực trước vẻ đẹp của một thi phẩm nghệ thuật, càng đi vào lớp bụi thời “Tây
tiến” – QD lại ngời lên những vẻ đẹp.
3, Bốn câu tiếp: Sự hi sinh của người lính TT.
*Câu 1:
Ý 1:Ngòi bút tả chân.
Viết về chiến tranh, nhà thơ QD không hề ngần ngại né tránh viết về những hi sinh, mất mát bởi súng đã nổ
người Việt Nam cùng đổ máu. Nhưng cái hay của người nghệ sĩ tài ba này là ở chỗ: xuyên suốt bài thơ, khi
đề cập đến cái chết, nhà thơ Quang Dũng không phải sử dụng đến từ “mất”, “chết”, “hi sinh”. Thay vào đó là
hình ảnh:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiều anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…
- Hai chữ “rải rác” cho thấy đoàn binh TT năm xưa họ bị chết bệnh nhiều hơn chết trận. Mỗi mảnh đất đi qua
đều có thể là nơi những đồng đội thân yêu nằm xuống. Những nấm mồ nằm rải khắp miền biên ải xa xôi,
hoang vu, lạnh lẽo. Thậm chí còn vĩnh viễn gửi thân mình nơi đất bạn Lào. Nhưng dù ở nơi đâu thì đó cũng là
sự hi sinh đáng trân trọng.
Ý 2: Nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt.
12
- Cách viết của QD: Viết về cái bi nhưng trong thơ Quang Dũng cái bi đã giảm đi đáng kể bởi ở đây tác giả
liên tục sử dụng những từ Hán Việt:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ…”
Câu thơ gồm bảy âm tiết, ở đó đã có năm âm tiết “biên cương mồ viễn xứ” vốn là những từ Hán Việt dùng
để chỉ những nấm mồ nơi rừng sâu biên giới. Nhờ đó mà Quang Dũng viết về cái bi thương không hề bi luỵ,
bi quan trái lại là bi hùng, bi tráng. Vẫn viết về cái chết ở nơi chiến trường biên ải trong “Chinh phụ ngâm”
của Đoàn Thị Điểm - Đặng Trần Côn, cảnh tượng hiện ra rùng rợn, ảm đạm và thê lương hơn nhiều:
“…Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…”
* Câu 2:
Ý 1: Lí tưởng của người lính TT.
Đặc biệt, câu thơ tiếp sau cái bi không còn nữa bởi khát vọng lên đường đầy cao đẹp của các anh:
“…Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”
Nghệ thuật đảo ngữ: Ấn tượng của bạn đọc với câu thơ này là nghệ thuật đảo ngữ. Xưa nay, người ta
thường nói “đi chiến trường”, ở đây Quang Dũng đặt hai chữ “chiến trường”, tác giả khẳng định đây là một
cuộc chia li đã xác định được lí tưởng cũng như mục đích lên đường. Đó là một cuộc chia li chói ngời sắc đỏ
đã làm nên “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên. Ta liên tưởng tới cuộc chia li trong bài “Tống biệt hành”
của Thâm Tâm:
“…Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giớ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong…”
Ý 2: Cụm từ “chẳng tiếc”:
Đọc câu thơ: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, ta nhận thấy sức nặng của thơ ca lại dồn vào hai chữ
“chẳng tiếc” làm ta liên tưởng tới hai chữ “mặc kệ” trong thơ Chính Hữu: “Gian nhà không mặc kệ gió lung
lay”. Ta còn nhớ đến chữ “thà” trong tứ thơ đẹp của Thâm Tâm trong “Tống biệt hành” khi tác giả khẳng
định sự quyết tâm của trang nam nhi lên đường vì nghĩa lớn không hẹn ngày về:
“…Người đi ừ nhỉ người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say…”
Ý 3: Cụm từ “đời xanh”:
Hai chữ “đời xanh” ở cuối câu thơ đã gợi lên cái tuổi với bao mộng đẹp, hoài bão vậy mà các anh cũng
chẳng tiếc, chẳng màng tới, các anh đã hi sinh cả cuộc đời cho Tổ quốc, vậy thì thử hỏi có sự hiến dâng nào
cao hơn sự hiến dâng này? Hai chữ “đời xanh” trong câu thơ còn giúp cho bạn đọc liên tưởng tới tứ thơ đẹp
trong “Trường ca đất nước hình tia chớp” của Trần Mạnh Hảo:
“…Thế hệ chúng con ra đi như gió thổi
Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn còn trai…”
Đó là những con người sống giản dị, bình tâm nhưng chính họ đã âm thầm ngã xuống vì ngày mai độc lập để
đất nước Việt Nam mang dáng hình các anh. Là một người chiến sĩ làm thơ, bước chân của Nguyễn Khoa
Điềm in hằn trên dải đất hình tia chớp. Sau khi đi dọc dải đất Việt Nam thân yêu, Nguyễn Khoa Điềm khẳng
định:
“…Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước! Sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
* Câu 3: Sự hi sinh cao cả.
Ý 1: Hiện thực khốc liệt.
Thơ của Quang Dũng bùng lên với khát vọng, lí tưởng thì lại bị trùng xuống bằng một hiện thực khốc liệt.
Đoạn thơ này không nằm ngoại lệ. Câu thơ mô tả một hiện thực khó khăn mà người lính Tây tiến phải đối
mặt “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
- Hình ảnh“Áo bào thay chiếu”: Người yêu thơ thường bị ám ảnh bởi “Áo bào thay chiếu”.
13
+ Thứ nhất, theo cách hiểu của Trần Lê Văn: thì đây là hình ảnh chiếu thay áo bào, đó là những chiếc
chiếu được đồng bào dân tộc đan tặng người lính Tây Tiến, thể hiện tình quân dân cá nước, nếu hiểu theo
cách này thì nhà thơ Hoàng Lộc trong bài “Viếng bạn” đã khẳng định:
“…Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán…”
+ Cách hiểu thứ hai: Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh đầy thiếu thốn ấy, những chiếc chiếu để khâm liệm
các anh cũng không còn vì vậy để thể hiện sự trân trọng của mình trước sự ra đi đầy cao đẹp của người lính
Tây tiến, Quang Dũng đã thay bằng hình ảnh “Áo bào thay chiếu”. Suy đến cùng thì nó là những chiếc áo
được Chế Lan Viên ghi lại trong “Tiếng hát con tàu”:
“…Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con…”
Đó là những chiếc áo đã đi vào trong thơ ca truyền thống từ “Ngoài cật có một manh áo vải” (Nguyễn Đình
Chiểu) cho đến “Mà nay áo vải cờ đào” (Quang Trung - Nguyễn Huệ). Như vậy, các anh ra đi như thế nào thì
khi trở về với đất mẹ lại vẫn giản dị như thế.
+ Ý nghĩa của hình ảnh áo bào: Áo bào là loại áo đặc biệt dành riêng cho vua chúa. Vậy mà khi nằm xuống
những chiến sĩ đã vinh dự khoác trên mình tấm áo ấy. Phải chăng qua hình ảnh này điều QD muốn ngầm gửi
gắm là vai trò của các anh trong lịch sử dân tộc. Hơn 4000 năm lịch sử dựng nước, giữ nước và đấu tranh
triền miên để chống giặc ngoại xâm, đã có bao chiến sĩ hữu danh và vô danh nằm xuống. Nhưng nhân dân thì
không một ai nhớ mặt đặt tên. Còn các ông vua của các triều đại thì nhân dân ngàn đời ghi nhớ. Nên khi
khoác cho các anh tấm áo bào khi nằm xuống QD đã một lần nữa khẳng định: công lao của các anh dành cho
dân tộc lớn lao như những vị vua đối với dân tộc. Và vì thế nhân dân, dân tộc đời đời nhớ ơn các anh.
- Nghệ thuật nói giảm nói tránh: Cụm từ “về đất”
+ Chất đau thương của hiện thực, của sự hi sinh đã giảm đi đáng kể khi QD sử dụng biện pháp nghệ thuật nói
giảm nói tránh này.
+ Với động từ “về” trong câu thơ này chứng tỏ rằng cái chết của người lính Tây Tiến năm xưa không phải là
chấm hết mà mở ra một cuộc sống mới. Ra đi nhưng thực chất lại là sự trở về của ngày đòan viên, ấm cúng.
Cái chết không chỉ vỗ về bản thân người ngã xuống. Cái chết ấy làm cho những đồng đội ở lại của mình có
thêm động lực để “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” (Lê Anh Xuân):
“…Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung…”
+ Hình ảnh “đất mẹ” thân thương: Đất mẹ mở rộng lòng mình để ôm các anh vào lòng và dệt nên truyền
thống của một dân tộc không bao giờ khất phục trước kẻ thù mà Nguyễn Đình Thi đã tự hào trong bài “Đất
nước”:
“…Nước chúng ta!
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…”
+ Ý nghĩa của sự hi sinh: Cái chết của người lính Tây tiến năm xưa làm đoá hoa tự do luôn được nở, và rồi
quả độc lập được kết trái, chẳng thế mà trong bài “Mồ anh hoa nở” nhà thơ Thanh Hải có viết:
“…Mồ anh trên đồi cao
Bông hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay”
*Câu 4: Hình ảnh dòng sông Mã.
Ý 1: Nhân vật tiễn đưa.
Tiễn biệt các anh về với đất mẹ, bên cạnh đồng đội của mình còn có một nhân vật nữa là dòng sông Mã
“sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Ai đã từng đọc thơ Quang Dũng dễ dàng nhận thấy sông Mã đã trở thành
một ám ảnh nghệ thuật. Trong bài thơ này, tác giả đã nhiều lần nhắc đến sông Mã, không phải ngẫu nhiên

14
một buổi chiều mưa ở Phù Lưu Chanh, khi những kỉ niệm của một thời trận mạc ùa về trong tâm hồn mình,
nốt nhạc đầu tiên ngân vang trong khúc độc hành ca của một thời ấy, Quang Dũng lại đến dòng sông Mã:
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!...”
Và cùng không phải ngẫu nhiên ngày tiễn biệt Quang Dũng, người bạn thân trong bản điếu văn đã thốt lên
rằng:
“Sông Mã gầm lên sông Mã ơi,
Người yêu sông Mã đã qua đời”
Ý 2: Khúc tráng ca của dân tộc.
Sông Mã đã thay mặt đất trời, nhân dân, đất nước gầm lên những khúc bi ai để tiễn biệt các anh về với đất
mẹ. Đó là tiếng khóc trường tồn, bất tử cùng thời gian. Chừng nào sông Mã còn thì dân tộc còn khóc thương
những người chiến sĩ đã hi sinh. Chính vì thế chúng ta hôm nay hiểu rằng vì sao có ngày lễ kỉ niệm 27/07
hàng năm, để nhân dân. Những người còn sống hôm nay thắp một nén hương lòng tưởng nhớ những người
con đã ngã xuông vì đất mẹ thân yêu.
=>Sự rung động của thơ ca bao giờ cũng được đo bằng nhịp đập của con tim. Trích đoạn bình giảng tác
động nhiều vào xúc cảm của bạn đọc đó là bức tượng đài của người lính Tây tiến - những con người đẹp như
chân lí sinh ra. Bởi lẽ chính thời đại đã sinh ra những anh hùng; chính thời đại đã làm nên những tên tuổi.
Đoàn binh TT năm xưa góp phần viết nên huyền thoại của Việt Nam ở thế kỉ XX, đó là huyền thoại của
những con người đáng quý, đáng yêu hơn một lần đi vào trong thơ:
“…Ôi Tổ quốc bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại vuốt hoa
Trong và thực giữa đôi bờ suy tưởng
Mà hiên ngang, nhân ái, chan hoà…”
Đoạn thơ khép lại, QD dựng lên bức tượng đài của người lính Tây tiến: oai phong, lẫm liệt khác hoàn toàn
với hiện thực nhưng ẩn chứa bên trong là một tầm hồn khao khát yêu thương, là một trái tim biết căm thù
quân xâm lược, một trái tim rực lửa anh hùng.

Phân tích đoạn thơ cuối


- Lời thề gắn bó với TT.
-Lời thề gắn bó với mảnh đất miền Tây.
3. KB.
Có một thời như thế đã đi qua. Nhưng có lẽ bức tượng đài mà QD dựng lên về hình tượng người lính trong
KCCP sẽ mãi còn là khúc tráng ca bất tử. Không một phút giây nào dân tộc quên ơn các anh. Cảm ơn những
người con cảm tử của tổ quốc, cảm ơn người nghệ sĩ tài hoa QD, đã để lại cho nền văn học dân tộc nước nhà
một bông hoa thơm mãi tỏa hương trong vườn hoa thơ của văn học Việt Nam hiện đại.

15
VIỆT BẮC
Tố Hữu
1. MB.
Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với
Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hoạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn
nồng, thắm thiết. Cuộc đưa tiễn người chinh phu ra trận trong Chinh phụ ngâm …Và đến văn học Việt
Nam hiện đại người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử của dân tộc giữa hai tập thể người đầy bịn
rịn, lưu luyến, vấn vương. Tất cả được ghi lại trong thước phim quay chậm mà Tố Hữu là người bấm
máy. Từng dòng thơ, từng con chữ đong đầy nhớ thương. Để rồi hôm nay khi ngồi đọc lại Việt Bắc thì
tất cả vẫn còn nóng hổi, vẹn nguyên vừa như mới hôm qua.
2. TB.
a, Hoàn cảnh sáng tác.
- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập
lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954,
các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng
cho cách mạng trong suốt những năm trường kì chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.
– Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị.
Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã từng “chia
ngọt sẻ bùi”. Người ra đi không khỏi bâng khuâng thương nhớ; người ở lại cũng không khỏi bịn rịn,
trống trải, bùi ngùi…
=>Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu – một cán bộ của Đảng, một nhà thơ lớn của
cách mạng đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy làm tên
chung cho cả tập thơ “Việt Bắc”, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của
thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
b, Kết cấu bài thơ:
Một tác phẩm có cuốn hút độc giả hay không tác phẩm ấy cần phải có một kết cấu độc đáo. Tố
Hữu đã xây dựng một kết cấu đặc biệt trong bài thơ Việt Bắc.

16
- Diễn biến tâm trạng của tác giả được phân thân vào hai tuyến nhân vật trữ tình: Người đi và người ở.
Một bên cất lên lời hỏi thì một bên đáp lại khiến người đọc nhớ đến lối đối đáp giao duyên trong ca dao
- dân ca. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng,
bằng cả nỗi nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư
tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
- Cách xưng hô “ta” – “mình” gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca, khiến
cho cuộc chia tay giữa hai tập thể người như một cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn, vấn vương,
thương nhớ như đôi lứa yêu nhau. Lời hỏi đáp như lời thủ thỉ ân tình cứ ngọt ngào thấm sâu vào lòng kẻ
ở người đi.
c, Phân tích.

Phân tích 8 câu thơ đầu


* Nhận xát chung:
- "Việt Bắc" được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, nhưng trước hết là một trong
những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với
kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố
Hữu.
- Đó là những đặc trưng về chất trữ tình chính trị, là đặc trưng về tính dân tộc, về màu sắc dân gian
trong thơ Tố Hữu. Vì thế bài thơ vừa đem đến cho người đọc những nhận thức sâu sắc về niềm tự hào
đối với cuộc kháng chiến thần thánh của chúng ta, lại vừa đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm
mỹ mạnh mẽ. Có thể thấy những đặc sắc này ngay từ những dòng thơ mở đầu của "Việt Bắc".
* Đại ý 8 câu thơ đầu:
Tám câu thơ đầu, bằng nghệ thuật tài hoa, Tố Hữu đã khắc họa khung cảnh chia ly nhưng
thấm đẫm tình cảm của cả kẻ ở lẫn người đi.
a, 4 câu thơ đầu – lời của người ở lại.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Ý 1: Vai trò của cấu tứ thơ đối đáp giao duyên trong bài thơ và đoạn thơ đầu:
- Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", từ cảm xúc
mãnh liệt của trái tim mà thức nhận những chân lý sống, chân lý cách mạng. Với ý tưởng trữ tình hoá sự
kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một
cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi
những kỉ niệm về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kỉ niệm kia mà dựng lại
quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người chiến
sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng.
- Vì thế ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện tâm tình, những câu hát đối đáp giữa
"mình" và "ta", song song, trùng phùng.
Ý 2: Cách xưng hô “mình”, “ta”:
- Nguồn gốc:Tố Hữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp “mình”, “ta” rất quen thuộc trong ca dao, dân ca
để cuộc chia tay trở nên đằm thắm như của đôi lứa yêu nhau. Hai đại từ trên thường xuất hiện trong ca
dao, dân ca để nói về tình yêu đôi lứa. Bạn đọc yêu nền văn học nguyên sơ này hẳn còn nhớ những câu
ca chất chứa nặng ân tình:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Hay:
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Rồi:
Mình về ta dặn câu này
Thương ta thì chớ đứng ngồi với ai
- Vai trò của những chữ “mình”, “ta” trong đoạn thơ, bài thơ:
17
Những chữ "mình", "ta" từ câu thơ mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng luôn luôn nhắc gợi
những tình cảm mặn nồng, không bao giờ phai nhạt giữa Việt Bắc và cách mạng, kháng chiến. Giữa hai
tập thể người lúc này không còn đơn thuần là một cuộc chia tay chính trị, mà như cuộc chia ly đầy lưu
luyến, bịn rịn không nỡ rời của đôi lứa yêu nhau. Càng mặn nồng bao nhiêu thì càng nhớ càng thương
càng vấn vương lưu luyến.
Ý 3: Ân tình của người ở lại nhắn gửi người ra đi (hai câu đầu):
Mình về mình có nhớ ta
Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn của Việt Bắc đối với người về xuôi, khúc hát chia tay đã
được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tố Hữu như muốn nói lòng người Việt Bắc thuỷ chung
với cách mạng biết nhường nào.
- Điệp từ “mình”: Ngay từ câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã có tới 2 tiếng "mình" thân thương. Sự trở
đi trở lại tiếng gọi đối với "mình" như để nói lòng người Việt Bắc không nguôi nhớ người về xuôi,
nhưng lại cũng như xoáy sâu vào ký ức của người về xuôi những kỉ niệm chan chứa nghĩa tình.
- Cụm từ “mình về”: Như khẳng định một sự thật phũ phàng. Mình đã về thật, và giờ đây chỉ còn lại
mình ta. Sự chia ly bao giờ chẳng phũ phàng:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say...
(Tống biệt hành – Thâm Tâm)
- Cách xếp đặt hai từ “mình” và “ta” trong câu thơ:
+ Từ “mình” đặt ở đầu thơ nhưng từ “ta” lại xếp mãi cuối câu như mở rộng không gian biệt ly xa cách
mình và ta trong phút chia xa.
+ Giữa khoảng cách vời vợi của ta và mình vang vọng một câu hỏi tu từ xoáy sâu vào lòng cả kẻ ở lẫn
người đi “có nhớ”. Người đọc liên tưởng đến câu hát ngọt ngào của bài “Ở hai đầu nỗi nhớ”: “Ở hai
đầu nỗi nhớ, yêu và thương sâu hơn. Ở hai đầu nỗi nhớ, nghĩa tình đằm thắm hơn”.
- Nghệ thuật sử dụng thanh điệu: Âm điệu của câu thơ chủ yếu được tạo bởi thanh bằng: "Mình về
mình có nhớ ta", với một chữ "ta" ở cuối làm cho tình cảm nhớ thương vừa lắng vào lòng người trong
cuộc chia tay lại vừa lan xa mênh mang.
- Kết cấu hai câu thơ mở đầu: Kết cấu của 2 câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi
khơi gợi những kỉ niệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian của 15 năm ấy. Câu hỏi
thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kỉ niệm
đầy xúc động của 15 năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một Việt Nam dân chủ cộng
hoà, bởi Tố Hữu đã sử dụng một thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. Hỏi đấy mà đâu cần câu trả lời vì cả
người ở lẫn người đi đều thấy quá rõ tình cảm đậm sâu trong lòng mình.
- Cụm từ chỉ thời gian 15 năm:
+ 15 năm không phải là một khoảng thời gian dài nhưng với một đời người là điều đáng nói. Đặc biệt
với những người xa lạ, sống gắn bó cùng nhau 15 năm là một điều cần khắc cốt ghi tâm bởi những vò kí
ức đầy ắp ân tình. Bởi theo quan niệm sống của người phương Đông nói chung và lối sống duy tình của
người Việt nói riêng mà các cụ ta vẫn răn dạy “một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen” thì 15 năm
quá đủ để gắn bó sâu nặng.
+ Những chữ "mười lăm năm ấy" gợi ta nhớ tới "cái thuở ban đầu" của tình yêu đã từng được nói tới
trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:
"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ đã ai quên"
Người về làm sao có thể quên được mối tình đầu giữa cách mạng và Việt Bắc. Cùng với sự khơi gợi
những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình cảm "nghìn năm hồ dễ đã ai quên". 15 năm là khoảng
thời gian chủ tịch Hồ Chí Minh thân yêu của chúng ta trở về tổ quốc sau 30 năm bôn ba, mà nhà thơ Tố
Hữu còn ghi lại trong một hình ảnh thơ đẹp đẽ và trong trẻo đến vô cùng:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
18
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Khi về nước Người đã bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để
làm thủ đô kháng chiến của dân tộc. Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc cứ thế đã cùng sống, cùng
ăn, cùng ở, cùng chiến đấu, gắn bó khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội
năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 đáng nhớ. Và rồi là một cuộc chia tay lịch sử.
- Cách sử dụng từ ngữ chỉ tình cảm: câu thơ còn được tiếp tục bởi những chữ "thiết tha mặn nồng".
Một câu thơ viết về 15 năm của cách mạng nồng nàn, tha thiết và trữ tình biết bao.
+ Từ láy “thiết tha”: cho thấy nỗi bâng khuâng, da diết trong tình cảm của người ở lại với người ra đi,
đầy vương vấn.
+ “Mặn nồng”: như sự nồng ấm của tình cảm lứa đôi được Tố Hữu gửi trao cho hai tập thể cách mạng
để tình cảm ấy cứ lên hương, lên sắc, vương vấn mãi trong tâm hồn người ở và cả người đi.
Ý 4: Ân tình của người ở lại nhắn gửi người ra đi (hai câu sau):
- Nội dung bao trùm: Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách
xưng hô đầy tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở 2 dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm cả không gian
của cuộc chia tay, không gian của những kỉ niệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất nước, bao
trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. Một câu hỏi làm
bâng khuâng cả đất trời trong buổi chia ly. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy sự hoà hợp giữa
niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa "mình" với "ta" là một sự kiện lớn lao trong đời sống của đất
nước.
- Hình ảnh thơ:
+ Mượn hình ảnh trong ca dao: Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua
từ ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể phú, thể tỉ trong ca
dao. Đọc câu thơ
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Ta ngỡ như câu ca dao:
"Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Hay:
“Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu"
Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân ca. Điều đó đã làm
mềm hóa câu thơ, làm ngọt ngào thêm cho tình ý.
+Hình ảnh “cây, núi”, “sông, nguồn”: Người đọc như được trở về không gian nơi núi rừng Việt Bắc.
Nhưng cái tài của Tố Hữu là chỉ bằng những hình ảnh thơ tưởng như vô cùng giản dị mà đã vẽ được cả
không gian hiện tại và tương lai, cả miền xuôi lẫn miền ngược và của cả kẻ ở lẫn người đi. Một không
gian mênh mang, bao trùm và trải dài miên man theo ân tình cách mạng. Đồng thời cũng nhắn nhủ
người đi: có về miền xuôi rồi thì nhìn sông hãy nhớ suối nguồn, nhìn cây thì nhớ núi rừng chiến khu.
- Nghệ thuật ẩn dụ: Người ở lại đã khéo léo và tài tình biết bao khi nhắc nhở người ra đi có về miền
xuôi rồi thì hãy nhớ đến những kỉ niệm và những tháng ngày nơi đây. Đặc biệt và không gian núi rừng
Việt Bắc thông qua hình ảnh thơ: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Hình ảnh thơ này gợi
người đọc nhớ đến câu tục ngữ:
“Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Phải chăng người ở muốn khẳng định dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của
cách mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân tộc.
=> 4 câu thơ như một bài ca dao, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn, trăn trở của người
ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho
cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ.
b, 4 câu thơ sau – lời của người ra đi.
Nằm trong mạch hát đối đáp, Tố Hữu cũng dành 4 dòng thơ diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo
nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương xứng, hài hòa. Ở 4 dòng thơ này như có sự nhớ
thương đáp lại những nhớ thương, “tha thiết” hô ứng với “thiết tha”, cái bịn rịn không nỡ rời.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
19
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
* Câu 1:
Ý1: Đại từ phiếm chỉ “ai”:
- Sự vay mượn trong ca dao: Trong ca dao đại từ phiếm chỉ “ai” được sử dụng với mật độ dày đặc và
mang một màu sắc của tình yêu nhưng sâu lắng thiết tha mà không tiện nói ra:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Hay:
Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Khi Tố Hữu sử dụng phiếm từ “ai” tạo nốt nhấn trong dòng thơ, để khắc sâu hình ảnh của người đi
trong lòng người ở lại. Người dân Việt Bắc hãy nhớ về người ra đi như nhớ một người tình trong mộng
không thể chung lối, chung đường. Chính vì thế nỗi nhớ ấy bâng khuâng, da diết biết bao.
- Nội dung đại từ “ai” trong câu thơ: Nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu
nhau, Tố Hữu buông một câu thơ rất tình tứ: "Tiếng ai tha thiết bên cồn" Chỉ một chữ "ai" thôi đủ làm
say đắm lòng người. Chữ "ai" đâu phải để hỏi vì muốn biết ai; chữ "ai" đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ
để chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác định bởi ở đây cả "ta" lẫn "mình" đang lên tiếng hát cho
cuộc chia tay đầy lưu luyến này. Chữ "ai" chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tình cảm yêu thương, để
câu nói trở nên tình tứ mà thôi.
Ý2: Từ láy “tha thiết”: Lời người đi đáp lại nỗi băn khoăn của người ở, từ láy “thiết tha” của câu thơ
trên hô ứng với từ láy “tha thiết” trong câu thơ này. Như một lời khẳng định keo sơn: tình cảm của
người ở lại giành cho người ra đi thiết tha bao nhiêu thì người ra đi cũng trào dâng niềm tha thiết bấy
nhiêu. Cho nên tình cảm đã sâu sắc lại thêm mặn nồng.
=> Người đi không ngoảnh đầu nhìn lại chỉ nghe tiếng nói mà hình ảnh từng khuôn mặt thân
quen đã hiện về rõ nét, và theo đó cảm xúc cứ dâng lên vơi đầy.
* Câu 2:
Ý1: Nghệ thuật sử dụng từ láy:
- Ý chung: Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lòng của mình
để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung kia, để rồi bày tỏ tình cảm của mình. Đó là
trạng thái "bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Những chữ "bâng khuâng", "bồn chồn" diễn tả
rất chính xác trạng thái tình cảm của người về xuôi.
+ “Bâng khuâng”: chính là nỗi niềm thương nhớ đối với cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở
thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến, những kỉ niệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí
người về xuôi. Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với Việt Bắc với nỗi buồn
chia xa, với những nuối tiếc không thể giữ lại.
+ "Bồn chồn": là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời
mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi bước đi mỗi bước nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không
yên bởi nỗi niềm thương nhớ.
Ý2: Nghệ thuật đối:
- Cái vô hình của cảm xúc“bâng khuâng trong dạ” được hiện hình rõ nét qua bước chân đi đầy những
“bồn chồn”. Nội tâm thể hiện qua ngoại hình, tâm tư bộc lộ qua hành động như một sự đồng nhất để
thể hiện chính xác và đầy đủ qua nghệ thuật đối mà nhà thơ sử dụng thật khéo léo.
=>Hai từ láy chỉ tình cảm được đặt liên tiếp trong một câu thơ cho thấy sự lưu luyến, bịn rịn
chứa chan cảm xúc. Những tình cảm ấy như ngàn sợi tơ vương tình cảm vấn vít bước chân người
đi khiến người đi như không cất nổi bước chân. Tình cảm chân thành đã đủ sức nặng kéo chậm
lại giây phút chia ly.
* Câu 3: Hình ảnh áo chàm:
Ý 1: Nghệ thuật hoán dụ: Nhân dân các dân tộc VB thường mặc áo chàm, một loại vải do người dân
tự dệt, tự nhuộm. Nên màu áo này chính là biểu tượng riêng, đặc trưng cho người dân VB.
20
Ý 2: Hình ảnh của cả nhân dân VB: Với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này, Tố Hữu đã bất ngờ làm hiện ra
ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay. Bởi với những dòng thơ mở đâù trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ
của "mình" với "ta", của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả
Việt Bắc đối với người kháng chiến từ một hình ảnh hoán dụ: "Áo chàm đưa buổi phân ly" cả Việt Bắc
như "ngẩn ngơ" trong cuộc chia tay lịch sử ấy.
Ý 3: Sự ẩn ý trong màu áo chàm: màu chàm là một màu rất bền chắc, không nhạt, không phai. Thế
nên ca dao mới có câu thơ:
Bàn tay đã chót nhúng chàm
Không xanh cũng nhuộm cho cam sự đời
Nên khi viết hình ảnh màu áo chàm phải chăng người đi khẳng định lại một lần nữa tình cảm của
người đi giành cho VB như màu chàm bền chắc, son sắc mãi mãi không phai mờ. Cái "ngẩn ngơ" của
Việt Bắc hiện ra ở những chữ "đưa buổi phân ly" đầy day dứt, nhớ thương không nỡ xa rời.
* Câu 3: Câu thơ đặc biệt nhất trong đoạn thơ về nhịp thơ.
Ý1: Ngắt nhịp lẻ: Thơ lục bát là thơ độc quyền của cách ngắt nhịp chẵn. Bởi câu thơ lục bát vốn có kết
cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát chia tay, đã chuyển thành nhịp lẻ:
3/3/2. Nhưng câu thơ cuối đoạn này lại có sự bất thường trong nhịp thơ mà ta tạm gọi đó là sự đột biến
nhịp thơ. Vậy ẩn ý trong cách ngắt nhịp 3/3/2 này là gì.
Ý 2: Tình cảm: Muốn hiểu được tình cảm trong lòng người đi ra sao có lẽ chúng ta cần hình dung toàn
khung cảnh chia tay trong tám câu thơ đầu. Khi người ra đi cất bước lên đường trong buổi chia tay
nhưng là bước đi trong tư thế “người ra đi đầu không ngoảnh lại” nên ở câu thơ trên chỉ nghe thấy
“tiếng ai tha thiết bên cồn”, chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy hình. Nhưng vì tình cảm vương vấn
quá, bước chân đi mà không nỡ rời xa nên người đi đã ngoảnh lại, và bất giác nhận ra trên nền xanh của
cây lá ngút ngàn nơi núi rừng VB là màu áo chàm đưa tiễn buổi chia tay, “Áo chàm đưa buổi phân li”.
Thì đến câu thơ này như một thước phim quay chậm, người ra đi không thể cất nổi bước chân, nên đành
quay lại và ùa chạy tới, ôm chầm lấy hình bóng thân thương gắn bó bao ngày để rồi cái cầm tay trong
giây phút chia ly nghẹn ngào không nói lên lời. Phải chăng khi cảm xúc trào dâng đến đỉnh điểm thì mọi
ngôn từ đều trở thành vô nghĩa, đều không thể diễn tả hết điều muốn nói. Chỉ nhìn thôi, trong cái nhìn
mà ánh mắt sẽ nói lên tất cả. Và cũng bởi lẽ quá xúc động nghẹn ngào mà không thể thốt lên lời. Nhịp
thơ đứt quãng như những tiếng nấc đang thổn thức, nghẹn nơi lồng ngực của cả người tiễn lẫn người đi.
Ý 3: Ý nghĩa: Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ "Bước đi một bước, giây giây lại
dừng" Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi mới đối với cảm xúc của người
đọc. Câu thơ làm cho người đọc không rơi vào cái tiết tấu qúa đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên
mòn, chán.
=> Tám dòng thơ đầu như khúc hát chia tay đầy ân tình lưu luyến giữa người ở lại và người ra
đi. Thời gian như quay lại, không gian như mở ra và cái lắng sâu nhất trong tâm hồn bạn đọc là
tình cảm tha thiết chứa chan, thủy chung son sắc giữa con người với con người. Thế nên tám
dòng thơ đầu cũng là những câu thơ mở ra cảm xúc chủ đạo cho toàn bài thơ, bởi cái cảm xúc
bâng khuâng, lưu luyến ấy sẽ miên man chảy trong những dòng thơ lục bát ngọt ngào với mình
và ta.
* 12 dòng thơ tiếp.
* Đại ý:
- Sự tiếp nối của 12 dòng thơ nằm trong mạch cảm xúc của hoài niệm như một sự xuất hiện tất yếu,
bởi sau những băn khoăn của VB đối với tình cảm của người về xuôi là tiếng hát đầy nghĩa tình của kẻ
đi, là sự khẳng định niềm thuỷ chung của cách mạng đối với VB. Tiếng hát ấy đã làm cảm động người
ở lại khiến bao nhiêu kỉ niệm, bao nhiêu hồi ức đầy nghĩa tình đã trào dâng mạnh mẽ trong tâm trí người
tiễn đưa. 12 dòng thơ tiếp nối nhau tạo thành một dòng chảy của những kniệm cuồn cuộn, nồng nàn, tha
thiết.
- Mỗi cặp 6-8 lại khơi gợi một kỷ niệm về những tháng ngày sâu nặng nghĩa tình của VB. Và những
câu 6 tiếp nối nhau đều là những câu hỏi như một sự khơi gợi nỗi nhớ đối với người về xuôi.
* Điểm nổi bật của những câu thơ 6 tiếng:
Ý 1: Cách sử dụng từ “mình”:
- Thông qua nghệ thuật điệp ngữ:

21
+ Mỗi câu 6 lại hướng tới "mình", những chữ "mình" tiếp nối nhau như một điệp khúc của tình
cảm. Với từ “mình” giữa người ở và người đi dường như không còn khoảng cách, không phải là hai chủ
thể, hai đấy mà như một, mình là ta và ta cũng như mình. Nếu vậy ta mới thấy hết cái nhớ thương, lưu
luyện đến vô cùng của những con người đang đứng trong cuộc chia tay này. Có khác nào:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi hóa dại khờ
+ Khi cuộc chia tay diễn ra cũng là lúc nỗi lòng người ở lại trào dâng sự trống vắng, hẫng hụt, nên tiếng
lòng cứ bật lên gọi mãi, gọi hoài, gọi rồi những vẫn chưa thỏa nên cứ đòi thương, đòi nhớ, đòi yêu qua
điệp từ “mình” đầy thiết tha, sâu lắng.
Ý 2: Cách sử dụng hai từ “về” và “đi”.
- Nghĩa gốc: Bản thân hai từ đi và về là hai từ trái nghĩa nhau, nên với hình thức thì khi Tố Hữu sử dụng
chúng trong các câu thơ 6 tiếng như bản thân nghệ thuật tương phản, đối lập, như tạo nên sự hài hòa cân
xứng.
- Nghĩa trong câu thơ:
+ Ở trong văn cảnh này thì về cũng là đi, đi cũng là về. Điều này đã làm nên sự thay đổi kì diệu trong ý
nghĩa của ngôn từ và trong cuộc chia tay. Nếu người ra đi mà xa thực, thì sự trống trải, hẫng hụt trong
lòng người ở lại sẽ mênh mông nhường nào? Nhưng nếu hiểu đi cũng là về thì sự trở lại, đoàn tụ, sum
họp sẽ ấm áp biết bao? Đó là sự an ủi cho cả người ở và người đi trong cuộc chia ly này.
+ Đi mà là về cũng như một sự ẩn ý đầy sâu xa. 15 năm trước ai đã là người dân Việt Nam hẳn còn nhớ
cuộc chia tay vĩ đại của người dân Hà Thành với thủ đô yêu dấu, thực hiện kế hoạch vườn không nhà
trống để đối phó với Thực dân Pháp mà nhà thơ Chính Hữu đã ghi lại trong bài thơ Ngày về:
Nhớ đêm ra đi đất trời như bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Ngày ra đi đau đớn biết bao thì nay ngày trở về lại hát vang khúc ca khải hoàn. Ta đã chiến thắng,
trở về tiếp quản thủ đô, lấy lại những gì ta đã tạm quên suốt 15 năm kháng chiến. Niềm hân hoan ấy
hạnh phúc và viên mãn đến nhường nào. Cách sử dụng ngôn từ thật tài tình Tố Hữu đã làm giảm chất
sầu bi trong cuộc chia tay, đồng thời còn mở ra trong lòng những con người cách mạng, kháng chiến
một niềm tin, niềm vui mới.
Ý 3: Cách sử dụng câu hỏi tu từ “có nhớ”:
Chữ "mình", chữ "đi" bao giờ cũng kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu luyến kẻ về xuôi
biết bao. Xuất hiện dưới hình thức một câu hỏi tu từ như một lời khẳng định cảm xúc nhớ thương, da
diết, cháy bỏng và nỗi niềm nhạy cảm về sự trống vắng, buồn hiu quạnh, hoang sơ nơi núi rừng khi cán
bộ cách mạng và bộ đội đã về xuôi nên người ở lại cứ đòi thương, đòi nhớ, đòi yêu và tự cho mình
quyền nhắc nhở người ra đi phải luôn nhớ về những kỉ niệm đẹp dù đầy gian khổ đau thương nhưng
cũng không kém phần hào hùng, đằm thắm mà ta và mình đã cùng nhau xây đắp suốt 15 năm.
Ý 4: Cách sử dụng những cụm từ gợi nhắc kỉ niệm:
- Người ở lại nhắc đến “những ngày” của 15 năm khắng chiến ta và mình đã gắn bó, đồng cam cộng
khổ cùng xây dựng chiến khu VB, cùng nhau làm nên cuộc cách mạng thắng lợi.
- Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là một nét vẽ hiện thực trong bức tranh về
thiên nhiên VB. Những khó khăn, khắc nghiệt của mảnh đất núi rừng nơi đây: Mây phủ quanh năm và
sương mù giăng mắc. Dù khó khăn đấy nhung cũng làm nên sự mênh manh hư ảo trong dòng hoài niệm
về VB mỗi khi người ra đi nhớ lại khung cảnh nơi đây.
- Hình ảnh “chiến khu”: Nơi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đã chọn để xây dựng căn cứ địa cách mạng
bao gồm 6 tỉnh độc lập: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà giang, Lạng Sơn. Nơi ấy
trong 15 năm cách mạng chính là thủ đô thứ hai, căn cứ đầu não chứa toàn bộ cơ quan trung ương của
Đảng, chính quyền cách mạng, nơi gắn kết nhân dân và cán bộ cách mạng, nơi tình quân dân thể hiện
thắm thiết nhất.
- Hình ảnh “rừng núi”: Không gian VB với những cánh rừng già đại ngàn hiện lên trong kí ức của
người về xuôi. Những cánh rừng làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc bởi “rừng che bộ đội, rừng vây
quân thù” nên thử hỏi làm sao người ra đi không nhớ không thương.
- Hình ảnh những ngôi nhà thân thương, đơn sơ nhưng thắm đượm ân tình đã nuôi dưỡng che giấu cán
bộ, bộ đội.

22
- Không gian “núi non” trập trùng nơi chiến khu VB cũng là một hình ảnh khắc ghi trong tiềm thức của
người ra đi.
Ý 5: Câu 6 đặc biệt nhất đoạn thơ.
* Sự thay đổi ý nghĩa từ mình.
- "Mình đi mình có nhớ mình" . Một câu thơ sáu tiếng mà tác giả sử dụng đến 3 từ mình, điều mà chúng
ta chưa hề gặp trong ca dao. Nhưng điều đáng nói hơn là từ mình ở đây lại biến ảo vô cùng về ý và tình.
Nếu như người đọc băn khoăn liệu cả 3 từ mình này có chung một ý nghĩa hay không? Đi tìm đáp số
cho câu trả lời trên chúng ta sẽ cùng giả thiết những nội hàm khái niệm của nó.
- Từ mình đầu tiên và thứ hai lại một lần nữa vang lên để khẳng định sự thật là người đi đã đi rồi, đã
chia tay nhân dân VB về xuôi.
- Đến từ mình thứ ba thì ý nghĩa đã có sự thay đổi. Chúng ta có thể hiểu mình ở đây là người ở lại nhưng
đồng thời cũng là người ra đi: Người ở lại nhắn nhủ nhẹ nhàng: mình có đi, có về xuôi liệu còn nhớ
nhân dân VB đã gắn bó ân tình bao ngày tháng, cũng là lời nhắc khéo mình có về thủ đô, chốn phồn hoa
đô hội thì cũng đừng quên những ngày tháng gian khổ nơi chiến khu mà mình đã gồng mình, quân và
dân cùng gánh vác nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, kỉ niệm đó của mình luôn hiển hiện hình bóng ta,
nhó đến mình là cùng nhớ về ta trong năm tháng đó. Mà như chính nhà thơ đã nói rõ ý tình trong một
cặp lục bát ở phần thứ hai của bài thơ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
=> Nếu hiểu theo hai ý trên thì từ mình đã có sự biến ảo về ý nghĩa: Mình cũng là ta, ta cũng như mình,
mình và ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Và người đọc thấy được sự gắn bó keo sơn, thủy
chung son sắt, trước sau như một của ta với mình, dẫu có xa mặt mà không cách lòng.
*Nghệ thuật điệp.
- Từ mình được điệp lại ba lần trong một câu thơ 6 tiếng cho thấy nỗi nhớ của nhân dân VB, những
người ở lại với người ra đi như trào dâng như những lớp sóng lòng, khôn nguôi. Biết mình đi nhưng vẫn
nhắc, vẫn nhớ, vẫn bật lên những tiếng gọi lưu luyến, bịn rịn, nhớ thương.
- Một lần nữa khẳng định tình cảm keo sơn giữa hai thập thể người, quấn quýt không rời.
* Điểm nổi bật của những câu thơ 8 tiếng:
-Đại ý:
+ Nếu những câu thơ 6 tiếng có cấu trúc lặp lại tương tự nhau như lời nhắn nhủ của người ở lại với
người ra đi, hỏi đấy nhưng đâu cần câu trả lời. Thì những câu thơ 8 tiếng đủ sức nặng để trải lòng, để
người ở lại nhắc về những kỉ niệm mà ta với mình đã gắn bó suốt 15 năm. Đó cũng là bức tranh tái hiện
chân thực cuộc sống, chiến đấu của quân dân VB trong cuộc khắng chiến chống Pháp của dân tộc.
+ Những câu thơ 8 tiếng có kết cấu nhịp rất giống nhau:4/4 đều đặn tạo âm hưởng hài hòa, réo rắt, du
dương như tiếng lòng bâng khuâng tha thiết của người ở lại với người ra đi.
Ý1: Câu 8 thứ nhất.
"Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù"
Thiên nhiên VB hiện lên với những nét đặc trưng rất riêng.
- Nét dữ dội, hùng vĩ: Nhà thơ khắc họa thiên nhiên bằng hình ảnh “mưa nguồn”, gợi những trận mưa
rừng xối xả, dữ dội, mạnh mẽ tạo nên những “suối lũ” để tăng thêm uy linh cho thiên nhiên VB: vừa
hùng vĩ, vừa dữ dội. Đó cũng là tác giả gián tiếp khắc họa những khó khăn gian khổ của quân và dân
VB phải đương đầu và trải qua trong cuộc chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc.
- Nét thơ mộng, trữ tình: Thiên nhiên VB không chỉ hùng vĩ mà còn toát lên vẻ đẹp đầy thơ mộng và
trữ tình. Với hai nét vẽ mây và sương mù mà không gian VB thêm hư ảo. Hãy hình dung trước mắt
chúng ta là bạt ngàn một không gian núi rừng bao la, hùng vĩ mây núi cây rừng cứ thấp thoáng ẩn hiện,
sương mây thì trắng, cây lá thì xanh. Người đọc như mãn nhãn với hình ảnh thi trung hữu họa này của
tác giả. Đẹp như chốn bồng lai.
Ý2: Câu 8 thứ hai.
"Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"
- Cuộc sống vật chất: Cuộc sống chiến đấu của quân dân VB được tái hiện chân thực qua hình ảnh thơ
“miếng cơm chấm muối” đã đủ để thấy cái khó khăn gian khổ, đói nghèo của nhân dân VB nói riêng và
23
nhân dân cả nước nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi còn nhớ một câu thơ đau đớn của
những kiếp nghèo trong kháng chiến:
Xưa con khóc đòi cơm chấm muối
Mẹ tìm đâu ra muối con ăn
Đó cũng là một khó khăn, trở ngại cho quân và dân VB. Một miếng cơm chấm muối nhưng vẫn sẻ chia
cùng nhau, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là sức
mạnh giúp quân ta có được quyết tâm: Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
- Cuộc sống tình thần: Gánh nặng lớn nhất quân và dân VB mang trên vai đó chính là mối căm thù
giặc sâu sắc mối thù nặng vai. Nghệ thuật ẩn dụ chuyến đổi cảm giác đã cho người đọc phần nào cảm
nhận được nỗi căm thù ấy. Vốn chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác nhưng qua cách diễn đạt của Tố
Hữu người đọc như đang cùng quân dân VB chung vai vào gánh một mối thù giang sơn là nỗi căm hờn
quân giặc đã xéo gót giày xâm lược, chà đạp lên quyền sống, quyền tự do, dân chủ của nhân dân, dân
tộc ta. Bao nhiêu con người là bấy nhiêu mối thù, bao ngày giặc tàn phá quê hương là bấy nhiêu ngày
đau thương tang tóc. Nên mối thù ấy ngày một lớn lên, nó hiện hữu và đang đè nặng trên vai, đòi hỏi
quân dân cùng đồng lòng, chung sức đập tan mối căm hờn đó.
- Nghệ thuật đối lập, tương phản: Hai vế thơ tương xứng 4/4, với nghệ thuật đối rất chỉnh. Nếu cuộc
sống vật chất của cuộc chiến đấu thiếu thốn, gian khổ bao nhiêu thì nỗi căm hờn với quân thù trong lòng
đầy ắp bấy nhiêu. Khó khăn, gian khổ không làm nguôi ngoai quyết tâm đánh giặc của quân và dân ta,
ngược lại nó còn thôi thúc quân dân VB một lòng, một dạ chung tay chung sức đánh đuổi kẻ thù. Sự
thiếu thốn về vật chất lại làm tăng thêm sức mạnh tinh thần. Bạn đọc hôm nay có lẽ đã tìm ra một chân
lí thật giản đơn về sức mạnh của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của
dân tộc, điều làm nên chiến thắng lẫy lừng của nhân dân ta mà ngay cả các nước đế quốc, thực dân đến
tận ngày hôm nay vẫn không thể hiểu vì sao đất nước Việt Nam nhỏ bé, nhân dân Việt Nam đói nghèo
mà lại có thể đánh bại những đế quốc hùng cường nhất thế giới. Thật đáng trân trọng và tự hào biết bao
truyền thống của dân tộc ta.
Ý3: Câu 8 thứ ba.
- Thiên nhiên VB: Đọc câu thơ "Trám bùi để rụng, măng mai để già" , người đọc đơn thuần tưởng Tố
Hữu miêu tả nét thiên nhiên đặc trưng của núi rừng VB, nhưng tìm vào sâu trong ý tình câu thơ ta như
cảm thấy nỗi ngậm ngùi, nhớ thương.
+ Thiên nhiên VB: Trên những cánh rừng đại ngàn VB thường mọc hai loại cây: trám và măng mai.
Những cây trám thân gỗ đại thụ, làm tăng thêm vẻ uy nghi cho núi rừng VB. Còn những vàn măng mai
bạt ngàn với màu xanh của loài cây họ tre trúc này như tăng thêm sức sống cho cây rừng nơi đây. Đây
còn là hai thực phẩm chính mà núi rừng đã ban tặng cho quân dân VB. Vị trám muối mặn mòi nồng ấm
ân tình mà người dân VB giành cho bộ đội. Cây măng mai, ngọt bùi mà người dân VB đã mất bao công
sức tìm, đào và chế biến trở thành những món ăn thiết yếu cho cuộc sống chiến đấu nơi đây. Mà như
chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi lại:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
=> Miêu tả thiên nhiên nhưng Tố Hữu cũng gián tiếp phản ánh cuộc sống chiến đấu của quân và dân
VB: thiếu thốn, gian khổ mọi đường. Đồng thồi cũng cho thấy tình cảm, sự chăm sóc quan tâm của
nhân dân VB với cán bộ, bộ đội. Họ chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho bộ đội. Với cuộc sống thiếu
thốn đủ đường nhưng người dân VB đã tìm mọi cách khắc phục để đảm bảo điều kiện, sức khỏe cho bộ
đội ta chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.
+ Tình cảm của người VB: Nhà thơ miêu tả một sự thật của thiên nhiên là khi cán bộ, bộ đội cùng ở với
nhân dân thì người đông như kiến, bao nhiêu trám, măng của núi rừng cũng là chưa đủ nuôi quân bởi
trong bài Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Phạm Tiến Duật có viết “hết rau rừng em có lấy măng
không”. Thì giờ đây khi bộ đội về xuôi, những trái trám bùi không có người ăn, những búp măng non,
ngọt không có người lấy nên mới có khung cảnh trám rụng, măng già. Miêu tả cái dư thừa của vật chất
trong thiên nhiên mà nói được cái thiếu thốn vô cùng trong tình cảm của người ở lại khi người ra đi đã
về xuôi. Cái ngút ngàn của rừng trám, vàn măng vốn vô tình nhưng trong câu thơ của Tố Hữu lại bỗng
trở nên có hồn. Một nỗi nhớ vô tận, vô cùng của người dân VB với người ra đi sau cách nói đầy ẩn ý.
Người đi dù đã đi thật nhưng nhân dân VB mỗi khi lên rừng nhìn thấy trám rụng, ra nương thấy măng

24
mai già thì nỗi nhớ lại trào dâng. Khi nào trám hết, măng tàn thì người VB mới nguôi nỗi nhớ thương.
Một cách diễn đạt sâu nặng nghĩa tình.
Ý4: Câu 8 thứ tư.
"Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"
- Cuộc sống vật chất: Thể hiện chân thực qua hình ảnh những ngôi nhà “hắt hiu lau xám”. Những ngôi
nhà nghèo khó, giản đơn của nhân dân VB dựng vội trong cuộc kháng chiến để lấy chỗ ở, chỗ nuôi giấu
cán bộ, bộ đội. Ngôi nhà tranh, vách nứa và lợp bằng cỏ lau đã phản ánh phần nào cuộc sống đầy rẫy
những khó khăn, thiếu thốn của quân và dân ta.
- Cuộc sống tinh thần: Điều ghi lại dấu ấn trong cả lòng người ở và người đi chính là tấm “lòng son”
thắm thiết. Tấm lòng ấy là tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân như cá với nước, mặn nồng như tình
yêu lứa đôi của ta với mình. Nhưng chưa đủ, tình cảm ấy mãi mãi không phai nhòa, thủy chung, trước
sau như một của những con người từng vào sinh ra tử cùng nhau, những con người sẵn sàng ngã xuống
cho tổ quốc thân yêu, sự gắn bó máu thịt vô điều kiện.
- Nghệ thuật đối lập, tương phản: Hai vế câu thơ đối nhau rất chỉnh tạo ra một thế cân bằng cho người
đọc, cũng như chính nhân vật trữ tình trong bài thơ. Cuộc sống vật chất tuy thiếu thốn mọi bề nhưng đổi
lại là tình cảm dạt dào. Đó là sợi tơ vô hình gắn kết quân và dân trong cuộc kháng chiến.
- Từ láy “hắt hiu”: Sự hiu quạnh, trống vắng của nhân dân VB để nói hết được có lẽ không còn ngôn từ
nào đạt hơn khi tác giả chọn từ láy hắt hiu. Nếu ngày trước quân dân cùng nhau gắn bó, sống và chiến
đấu thì chiến khu VB đông vui, nhộn nhịp với không khí khẩn trương, thần tốc. Nhưng nay khi bộ đội
về xuôi thì còn đâu khung cảnh “xóm dưới làng trên, cơm nắm, cơm đùm ríu rít theo nhau”, nên sự
trống trải vô cùng mà người ra đi để cho người ở lại là sự hiu hắt đến vắng lặng trong những ngôi nhà
tranh mà thủa nào sớm tối có nhau.
Ý5: Câu 8 thứ năm.
- Tác giả đã tái hiện thời gian của cuộc kháng chiến mà quân và dân VB đã trải qua: “Nhớ khi kháng
Nhật, thủa còn Việt Minh”. Quãng thời gian suốt từ mùa xuân năm 1941 khi Bác Hồ thân yêu về nước,
dựng căn cứ địa cách mạng trên chiến khu VB, cho đến tận chiến thắng lịch sử của trận Điện Biên Phủ
hào hùng. Trong khoảng thời gian dài suốt 15 năm ấy nhà thơ Tố Hữu không nói toàn bộ lịch sử mà
chọn những mốc son quan trọng.
+ Thời kì kháng Nhật là một bước ngoặt đầy khó khăn trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. Khi thực
dân Pháp còn chưa ra khỏi bờ cõi nước ta, nhưng trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít trên thế giới,
Pháp đã hèn hạ mở cửa nước ta, quỳ gối rước Nhật vào, trong vòng 5 năm từ 1940-1945 chúng đã bán
nước ta hai lần cho Nhật, để nhân dân ta chịu cảnh một cổ ba tròng: Trên một thửa ruộng bọn phong
kiến, địa chủ bắt nộp tô, bọn thực dân bắt đóng thuế, phát xít thì bắt nhổ lúa trồng đay. Đẩy nhân dân ta
rơi vào nạn đói khiến hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Đó là thời kì đầy đau thương của dân tộc. Nhưng
nhân dân cũng đã vượt qua, đập tan chủ nghĩa phát xít, đuổi cổ bọn thực dân lấy lại nền độc lập của dân
tộc.
+ Việt Minh: Việt Nam độc lập đồng minh, còn gọi là Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt
Minh, là liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập vào ngày 19 tháng 5 năm 1941
với mục đích công khai là "Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn
thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập ".
Và kết quả là nhân dân và cách mạng đã giành được thắng lợi. Thủa còn Việt Minh là một thủa hào
hùng, vàng son của dân tộc một đi không trở lại nhưng cả quân và dân VB mãi khắc ghi trong tim như
một khúc tráng ca về độc lập, tự do.
=> Câu thơ tái hiện lại giai đoạn lịch sử khó khăn nhất của dân tộc, nhưng nhân ta đã kiên cường vượt
qua bằng chính sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Giờ đây nhìn lại không chỉ là kỉ niệm mà còn là
niềm tự hào của dân tộc.
Ý6: Câu 8 thứ sáu.
- Lịch sử tái hiện: Câu thơ 8 cuối cùng như thước phim tài liệu quay chậm về cuộc kháng chiến chống
Pháp của dân tộc. Bao chiến thắng lẫy lừng làm vang tên bao địa danh, bao di tích lịch sử mà muôn đời
vẫn còn là niềm tự hào vô bờ bến của nhân dân ta: "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa".
- Nghệ thuật đảo ngữ: Nếu bạn đọc chú ý thì sẽ thấy câu thơ này tác giả đã tách những cụm từ đã
tương đối cố định, đó là "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào" ra như một sự sáng tạo độc đáo của
riêng mình. Viết như Tố Hữu trong câu thơ này người đọc như đang ngấm dần một phong vị của ca
25
dao, dân ca nơi đồng bằng Bắc Bộ. Với không gian vốn đã quen thuộc từ ngàn đời: Cây đa, bến nước,
sân đình.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
Hay:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Phải chăng chính nỗi nhớ thương, quyến luyến đã nâng bước chân, đưa tầm hồn của người ở lại theo
bước chân người ra đi về xuôi cho thỏa nỗi nhớ mong.
=> Nét đặc sắc trong câu 8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật đối. Tố Hữu đã sử
dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất cả các câu 8 ở đây, nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của
đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kỉ niệm. Cả tiểu đối
và trường đối đều được sử dụng hiệu quả. Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như: "Miếng cơm
chấm muối /mối thù nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí giữa nhân dân và cách mạng. Khó
khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với thực dân phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa cuộc
sống gian khổ và lòng người qua những hình ảnh đối chọi nhau "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son".
Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của VB đối với cuộc chia tay "Trám bùi để rụng, măng mai để
già". Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục ngữ, nhưng với Tố Hữu, nghệ thuật đối đã có
những sáng tạo. Ở đây không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế đối. Có lối đối giữa
các vế trong một câu nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối ngay trong một vế câu như "mưa nguồn /
suối lũ" rồi "những mây / cùng mù"; lại có những biến thể lồng chéo tạo nên các vế đối như trong
trường hợp "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa". Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc
điệu được tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.
3 KB.
Thơ Tố Hữu với "Việt Bắc", đặc trưng trữ tình không chỉ hiện ra từ những câu thơ lục bát vốn mang âm
điệu tha thiết mà còn thể hiện ở cấu tứ, ở ngôn ngữ luôn luôn tràn đầy cảm xúc. Vì thế khúc hát mở đầu
cho "Việt Bắc", khúc hát về cuộc chia tay lớn gắn liền với đời sống chính trị của dân tộc, khúc hoài
niệm về những tháng ngày cách mạng mà vẫn có sức lay động tình cảm của người đọc, làm rung động
trái tim mỗi con người Việt Nam ở thời điểm tràn đầy sung sướng và hạnh phúc kia. Với đoạn thơ mở
đầu này, ta cũng đã thấy "Việt Bắc" của Tố Hữu rất giàu chất dân tộc, chất dân gian, giàu nhạc tính.

Phân tích 22 câu thơ tiếp


“Ta với mình…đều đều suối xa”
* Nhận xét chung:
Đoạn thơ là lời nhắn nhủ tâm tình của người ra đi gửi cho người ở lại. Người ra đi thể hiện nỗi nhớ
niềm thương đến cảnh và người VB, những kỉ niệm đã cùng nhân dân nơi đây gắn bó 15 năm đầy ân
tình, ân nghĩa. Là câu trả lời thỏa mãn nỗi băn khoăn trong lòng người ở, như khúc hát đối đáp đầy sâu
nặng.
a, Bốn câu thơ đầu.
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
*Câu 1: Ta với mình, mình với ta
-Ý 1. Nghệ thuật điệp: Một câu thơ 6 tiếng mà tác giả đã để lặp lại hai lần mỗi từ mình, ta cho thấy sự
xoắn xuýt, quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt.
- Ý 2. Liên từ “với”: Nếu chúng ta vô tình coi liên từ “với” như một từ có chức năng liên kết thì có thể
thay vào đó bằng liên từ “và” nhưng ý nghĩa lại thay đổi hoàn toàn, đồng thời tạo sắc thái tình cảm hoàn
toàn khác. Từ và chỉ đơn thuần là mối quan hệ tương tác qua lại giữa ta – mình. Nhưng chỉ thay bằng
liên từ “với” thì hai chủ thể ta – mình lại có sự gắn kết lạ thường bền chặt, keo sơn.
-Ý 3. Cách ngắt nhịp: Câu thơ ngắt nhịp 3/3 tạo thành hai vế thơ đăng đối, rất chỉnh. Phải chăng dụng
ý nhà thơ muốn gửi gắm là những tình cảm đậm sâu của ta với mình. Nếu như trong đoạn thơ trên,
người ở lại đã nói lên tiếng lòng đầy vương vấn, nhớ thương của mình khi người ra đi về xuôi thì bằng
26
nhịp thơ cân chỉnh trong câu lục này người đi đã nhẹ nhàng gửi gắm một thông điệp: Mình nhớ ta như
thế nào thì ta cũng nhớ mình như thế khi chia xa. Lòng mình như nào thì lòng ta như thế. Cứ gửi trao
tình cảm sẽ nhận lại yêu thương, đó là quy luật riêng, lý lẽ riêng của trái tim con người, một điều giản dị
mà chính Tố Hữu đã nhắc đến trong một bài thơ khác của mình:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau.
-Ý4. Cách vận dụng sáng tạo ca dao: Trong ca dao từng nói:
Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai
Tố Hữu đã mượn tình cảm lứa đôi để diễn tả tình cảm cách mạng khăng khít bền chặt.
*Câu 2: Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
- Ý 1. Nhịp thơ : Cách ngắt nhịp 2/2/2/2 đều đặn, không có biến tấu như một lời khẳng định chắc nịch
về tình cảm sắc son không đổi thay, thủy chung, trước sau như một.
-Ý 2 : Từ láy « đinh ninh » : Bản thân từ láy này dùng để chỉ một tình cảm đã qua, một lời hứa đã nói
luôn khắc ghi trong tim, có thể nói là « khắc cốt ghi tâm » lúc nào cũng mang nặng trong lòng, không
phai nhạt, không nguôi ngoai. Đó cũng chính là tình cảm của người ra đi muốn nói với người ở lại : Dù
có xa nhau đi chăng nữa nhưng những kỉ niệm ta với mình đã có suốt 15 năm qua thì không có bao giờ
ta quên. Kỉ niệm ấy không chỉ thường trực trong lòng mà còn nóng bỏng, thôi thúc ta sống tốt hơn, trân
trọng hơn những gì ta với mình đã cùng vun đắp, dựng xây ngày hôm qua, những điều ta với mình đã
đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt và bằng cả máu xương, mạng sống của mình.
*Câu 3: Mình đi mình lại nhớ mình
(Giống câu « Mình đi mình có nhớ mình. Chỉ khác đây là câu trả lời, khẳng định một lấn nữa tình
cảm: mình lại nhớ, mình sao thì ta cũng vậy)
-Ý1 : Chữ "lại": thanh trắc ở âm vực trầm nhất cho thấy câu trả lời vừa là lời khẳng định, vừa là một
nguyện thề thiêng liêng với người ở lại, với nhân dân VB và với chính mình.
- Ý2 : Gắn với câu hỏi "Mình đi mình có nhớ mình" : Đó là sự vận dụng sáng tạo cấu trúc hỏi đáp
của ca dao như :
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Không chỉ có một vế đơn độc- vế hỏi vừa như nêu băn khoăn, vừa khẳng định lòng thuỷ chung của bên
đợi mà còn có vế đáp để nói rõ sự chung thuỷ sắt son của người ra đi.
*Câu 4: Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
- Ý 1. Cách đo đếm đậm màu sắc dân gian: Đó là cách so sánh đòn bẩy mà trong ca dao đã xuất hiện
rất nhiều để thể hiện sự tương đồng, thậm chí là cao hơn.
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu...
-Ý 2. Cách so sánh : Suối nguồn có bao giờ ngừng chảy, tuy nhỏ, chỉ rí rách nhưng là vô cùng, vô tận.
Thế nên mới có câu ca :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Hình ảnh « nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu » đã diễn tả được nghĩa tình cách mạng là vô
tận, như suối nguồn không bao giờ vơi cạn. Một lần nữa khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách
mạng, với quê hương kháng chiến của người cán bộ vê xuôi.
-Ý3. Dấu chấm lửng : Cuối câu thơ kết thúc bằng dấu chấm lửng như khẳng định lại tình cảm bất tận,
như suối nguồn VB mãi tuôn chảy ngàn đời.
=> Bốn câu thơ là câu trả lời của người ra đi, giải tỏa mọi nỗi băn khoăn trong lòng người ở lại. Nhớ bao
nhiêu, thì thương bấy nhiêu, tình càng dày thì nghĩa càng sâu, không gì có thể làm thay đổi, nhạt phai
tình cảm ấy. Chính lời giải đáp đó đã mở ra bao kỉ niệm trong cảm xúc của người ra đi. Và cứ thế hình
ảnh về thiên nhiên, con người và cuộc kháng chiến ùa về, tuôn chảy trong tâm trí của người ra đi, tràn ra
trong 18 dòng thơ lục bát tiếp theo.
b, Mười tám câu thơ tiếp theo.
- Khái quát: Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về VB đầy ắp đầy kỉ
niệm. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở
27
tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình
nổi sắc.
* 6 câu thơ đầu. Nhớ khung cảnh Việt Bắc thanh bình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ý1. Hình ảnh so sánh như nhớ người yêu : Câu thơ sáu tiếng lặp lại hai từ nhớ cho thấy nỗi nhớ
cảnh và người VB đang trào dâng trong lòng người ra đi, không thể không bật lên thành lời. Và để diễn
tả nỗi nhớ ấy Tố Hữu đã chọn biện pháp nghệ thuật so sánh để người ở lại có thể hiểu được nỗi lòng của
mình. Nỗi nhớ nào cũng cồn cào, da diết, cháy bỏng. Nhưng nếu ai đó đã từng trải nghiệm thì nỗi nhớ
thường trực, đau đáu nhất, đốt cháy tâm can con người nhất thì đó là nỗi nhớ trong tình yêu. Trong ca
dao đã từng nói về nỗi nhớ :
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Hay nỗi nhớ người yêu của Xuân Quỳnh :
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Và nhà thơ đã không ngần ngại mà so sánh nỗi nhớ về VB của người ra đi như nỗi nhớ người yêu, thể
hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Cách so sánh này mới lạ sáng tạo, chỉ với "như nhớ người yêu"
mà người đọc có thể thấy hết được tình cảm của người ra đi đối với cảnh và người VB.
Ý 2: Hình ảnh thơ gợi cảm đầy thi vị:
- Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương:
+ Trăng lên đầu núi: Có lẽ không có hình ảnh nào thi vị hơn khi tác giả gắn nỗi nhớ người yêu với
hình ảnh ánh trăng lấp ló, chênh chếch, nghiêng nghiêng nơi đầu núi. Ánh trăng là một biểu tượng quen
thuộc với tình yêu của ca dao:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Và trong truyện Kiều Nguyễn Du cũng tả:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Nhưng hơn thế nữa vầng trăng còn là một biểu tượng cho hòa bình, sự dịu êm. Không phải ngẫu nhiên
mà tác giả chọn hình ảnh này như một khát khao, hay chớp lấy một khoảnh khắc yên bình hiếm hoi của
chiến khu trong cuộc kháng chiến oanh liệt. Càng hiếm hoi thì càng phải nâng niu, trân trọng và đấu
tranh giành được nó. Hình ảnh thơ bỗng ngọt ngào và sâu sắc ý tình.
+ Nắng chiều lưng nương: Một khung cảnh lao động bình dị của buổi chiều nơi chiến khu. Sau những
giây phút khẩn trương phục vụ cho cuộc kháng chiến thì thời gian ngắn ngủi buổi chiều muộn, quân và
dân cùng lên nương lao động sản xuất để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Thời gian ấy cũng là lúc thảnh
thơi, là lúc ta và mình bên nhau để thấu hiểu và gắn bó.
=> Hình ảnh thơ trọn vẹn không gian và thời gian một ngày, đẹp như một bức tranh được phối đều
những gam màu nóng lạnh, sáng tối vừa tạo nên vẻ đẹp dịu nhẹ lại vừa ấm áp.
- Nhớ từng bản khói cùng sương. Hình ảnh những bản làng chìm trong màn sương giăng và thấp
thoáng trong khói lam chiều sao mà thân thương đối với mỗi con người đất Việt. Đó là biểu tượng hoài
cổ trong thơ xưa khơi dậy niềm nhớ quê hương:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Phải chăng VB là quê hương thứ hai để rồi khi về xuôi cán bộ, bộ đội sẽ nhớ mãi không quên.
- Sớm khuya bếp lửa người thương đi về:
+ Hình ảnh bếp lửa hồng: Những bếp lửa hồng được đặt giữa những gian nhà của đồng bào dân tộc
như chính linh hồn của con người nơi đây.

28
+ Hình ảnh người thương: Bếp lửa ấy vương vấn bóng dáng đi về của người thương. Độc giả tự băn
khoăn người thương được nhắc đến ở đây là ai? Có thể là một người em gái dân tộc nào đó đã để
thương để nhớ cho những anh chàng lính chiến, nên nỗi nhớ gửi về là nỗi nhớ cho đôi lứa yêu nhau.
Nhưng cũng có thể là bóng dáng thân thuộc của bất cứ người dân VB nào đã gắn bó cùng bộ đội suốt 15
năm, giờ đây chia xa ắt hẳn phải để thương để nhớ trong lòng người ra đi.
+ Kết hợp hai hình ảnh: Sự gắn kết hình ảnh người thương và bếp lửa hồng cho thấy tình cảm nồng
ấm của người ra đi với nhân dân VB.
- Nhớ từng rừng nứa bờ tre: Những rừng vầu, tre, nứa là đặc trưng nơi núi rừng VB, rừng che bộ đội,
rừng vây quân thù. Ăn, ở, sinh hoạt, chiến đấu đều trong rừng nên có thể nói sự gắn kết không hề nhỏ,
chính vì thế khi đi xa mới thấy nhớ thương.
-Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy:
+ Những con suối nào đã từng băng qua khi đánh giặc, những con suối ầm ào thác lũ chặn quân thù,
những con suối hiền hòa cho bộ đội tắm mát, những mạch nguồn trong vắt để lấy nước uống…tất cả
cùng lúc hiện về, ùa đầy trong nỗi nhớ của người ra đi về VB thân thương mà oai hùng.
+ Cụm từ “vơi đầy” cho thấy nỗi trong lòng người ra đi đã cố được nén xuống cho vơi, cho nhẹ lòng
nhưng lại cứ dâng lên, cứ đầy ắp dập dềnh những con sóng nhớ thương.
=> Tất cả những hình ảnh trên như vẽ ra một VB trong yên bình của tình yêu và nỗi nhớ đồng thời gợi
những nét nhớ nhung tưởng như nhẹ nhàng mà lại hóa tha thiết, mãnh liệt trong lòng người đi.
Ý 3: Chiều kích của nỗi nhớ: Nỗi nhớ trải dài theo thời gian: sớm, chiều, đêm, ngày; trải rộng khắp
không gian: bản làng, núi rừng, sông suối cho thấy một nỗi nhớ thường trực, da diết, rộng lớn, mênh
mang.
* 12 câu thơ sau. Nhớ khung cảnh Việt Bắc trong kháng chiến:
Ý1: Cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
- Cuộc sống vật chất: Người đi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ tuy thiếu thốn mọi đường.
+ Bữa ăn hàng ngày thật hiếm hoi mới có được bát cơm, chủ yếu là ăn khoai,ăn sắn. Nhưng đâu phải lúc
nào khoai sắn cũng đầy đủ, thế nên mới có cảnh:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bộ đội ta chỉ có củ sắn lùi nướng vội trong bếp để chia nhau cùng ăn cho qua cơn đói.
+ Giấc ngủ hàng đêm trong rừng sâu để chống chọi với những ngày đông tháng giá nơi núi cao lạnh lẽo
đó là tấm chăn làm từ vỏ cây sui đập dập, chẳng đủ ấm đâu nhưng quân dân vẫn cùng nhường nhau tấm
chăn hẹp ấy.
- Cuộc sống tình cảm: Những hình ảnh mới đọc lên người đọc ngỡ tưởng là hình ảnh tượng trưng
nhưng đâu phải. Đó chính là hiện thực trần trụi, gian khó của cuộc chiến đấu: "Chia củ sắn lùi, bát cơm
sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" .
+ Cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng": diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân
dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"...
mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
=>Sự sẻ chia của tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân đã góp thêm sức mạnh cho nhân dân ta
đánh thắng kẻ thù. Cao hơn cả là tinh thần đoàn kết dân tộc, tình hữu ái giai cấp luôn thấp
thoáng ẩn hiện trong những vần thơ.
Ý2: Nhân dân VB hết lòng cho cuộc chiến:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Chỉ bằng hai câu thơ thôi mà cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp và tình nghĩa chan hòa:
+ Thiên nhiên VB: Có lẽ hình ảnh này được nhà thơ chụp lấy trong một khoảnh khắc ngắn ngủi của cái
nắng trưa hè lúc đúng ngọ, khi mặt trời nắng gắt và chói chang nhất, với một không gian thoáng đãng
mênh mông trên nương rẫy cao. Cái vàng chói của nắng hè với màu vàng óng của những bắp ngô già đã

29
bóc áo, phơi khô dười nắng như vàng hơn, làm cái nắng đã chói chang lại thêm rực vàng. Một không
gian lớn lao, kì vĩ và có phần lung linh.
+ Con người VB: Trên nền không gian kì vĩ, khoáng đạt ấy là nền để con người VB xuất hiện. Không
phải một anh hùng lao động hay chiến đấu mà là hình ảnh giản dị, quen thuộc thậm chí là quá đỗi thân
thương: Người mẹ địu con lên rẫy. Nhưng chính khung cảnh ấy đã làm cho người mẹ bình dị kia đẹp
lung linh như một huyền thoại. Hình ảnh thơ này không phải chỉ lần đầu xuất hiện trong thơ TH mà nó
còn được nhắc tên và hát mãi trong Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng vừa địu con vừa bẻ từng bắp ngô gợi người đọc liên
tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu
mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống
kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi .
Ý3: Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết sức tiêu biểu
cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc.
- Nhớ lớp học i tờ: Một không khí, một tinh thần của một thời đi không trở lại. Nếu ai đó lật giở lại
những trang sử của dân tộc sẽ thấy bất ngờ khi một dân tộc có đến 90% dân số mù chữ nhanh chóng
được xóa mù bởi phong trào Bình dân học vụ rộng khắp, học mọi lúc, mọi nơi, người biết nhiều dạy
người biết ít, người biết ít dạy người chưa biết. Những lớp học râm ran tiếng i tờ không chỉ là ý thức tự
vươn lên của mỗi người dân VB mà còn là tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc.
- Nhớ những giờ liên hoan: Sống, lao động, chiến đấu nhưng quân và dân VB không thể quên được
những món ăn tinh thần, đó là nguồn động lực vô cùng cần thiết để nhân dân ta có thể vượt qua mọi khó
khăn thử thách và chiến thắng mọi kẻ thù. Những buổi sinh hoạt, liên hoan văn nghệ tập thể như chất
keo gắn kết tình quân dân, đồng bào, đồng chí diễn ra quây quần bên đống lửa trại dựng giữa cánh đồng.
Người đọc như nhìn thấy những cái nắm tay thật chặt, những điệu nhảy, điệu múa, những tiếng ca rộn rã
theo nhịp chân đung đưa, tất cả toát lên một không khí tưng bừng của đêm hội liên hoan văn nghệ để
mai này khi xa rồi, người về xuôi không khỏi xốn xang khi nhớ về kỉ niệm đó.
- Nhớ những ngày tháng cơ quan: Nghệ thuật tương phản đối lập: Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ,
khó khăn nhưng với tinh thần “tiếng hát át tiếng bom” của một thời oai hùng đã làm cho những khó
khăn đó bỗng chốc vơi đi chỉ còn lại những thanh thản, bình yên trong lòng, chút bình yên của người
chủ động trong cuộc chiến đấu vẫn còn trường kì kia.
- Nhớ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống núi rừng VB:
+ Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều": Tiếng mõ quen thuộc mỗi buổi chiều theo đàn trâu thong thả về
nhà sao bình dị, thân thương đến thế.
+ Tiếng"chày đêm nện cối đều đều suối xa": là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc. Những chiếc cối
giã gạo chạy bằng sức nước cứ đều đặn, miệt mài chảy, giã, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi
rừng và gợi nhớ một thời đã qua. Đó là những âm thanh bí ẩn, thiêng liêng và huyền diệu nơi núi rừng
VB, đã thấm sâu vào trái tim nhà thơ, để giờ đây khi chia xa đã thăng hoa thành những câu thơ ngân nga
rung động lòng người.
30
Phân tích 10 câu thơ tiếp
Bức tranh tứ bình của VB
* Nhận xét chung:
Đoạn thơ này được xem là đặc sắc nhất của Việt Bắc. Mười câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả
âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc.
a, Hai câu thơ đầu:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Y1: Kết cấu hô ứng của cặp lục bát: Câu sáu dùng để hỏi, nhưng hỏi đấy mà đâu cần câu trả lời, câu
tám đã nói lên nỗi lòng như một câu trả lời đầy thỏa mãn. Lối hô ứng vay mượn của ca dao được TH
khai thác triệt để. Nói lòng ta cũng là nói hộ lòng mình, bởi từ trên người đọc đã biết: Ta với mình tuy
hai mà một, mình với ta tuy một mà hai.
Ý 2: Hình ảnh đối xứng: Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh
tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng với con người là hoa của đất. Bởi
vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện
hình người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với
nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Nên bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc.
b. Trước hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc:
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Hình ảnh thơ: Như được chắt lọc qua con mắt tinh tế của thi nhân: rừng xanh và hoa chuối đỏ.
+ Rừng xanh: Hình ảnh thơ truyền thẳng đến người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh
của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngắt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa
chất bao sức mạnh bí ẩn "Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng". Màu xanh núi rừng Việt Bắc:
Rừng giăng thành lũy thép dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
+ Hoa chuối đỏ: Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại
ngàn. Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang
nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa
màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn
một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến
màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh
lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
- Nghệ thuật hội họa trong thơ:
+ Pha màu: Cặp lục bát này chính là một bức tranh tứ bình về mùa đông. Mà không có sức mạnh nào
tạo nên sức sống cho bức họa bằng màu sắc. Tố Hữu đã thể hiện tài năng của mình bằng sự tinh tế của
một họa sĩ tài ba khi phối màu cho bức tranh của mình. Gam màu xanh mát lạnh chỉ làm tăng thêm cái
băng giá của mùa đông, nên để gieo vào một hơi ấm tác giả đã chọn một gam màu nóng sáng, đó là màu
đỏ tươi của hoa chuối rừng. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một
bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.
+ Hiệu ứng:
 Sự pha màu đó làm cho bức tranh thêm hài hòa về màu sắc.
 Không chỉ vậy mà nó còn gián tiếp miêu tả được khí hậu khắc nghiệt của núi rừng nơi đây.
Bởi chỉ có ai từng sống ở rừng lâu năm mới hiểu được tường tận nét thiên nhiên độc đáo này: Trời phải
lạnh thì hoa chuối rừng mới nở và càng lạnh thì hoa chuối càng có sắc đỏ tươi.
 Hai chữ "đỏ tươi" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một
khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như
điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp.

31
 Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn xua
tan cái lạnh giá của mùa đông, làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người.
Nên mùa đông thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.
Ý2: Hình ảnh con người: "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".
Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững chãi, tự tin.
- Vị thế, tư thế: Con người đứng trên đỉnh “đèo cao” có tác dụng làm tôn lên tư thế, tầm vóc hào hùng
đứng trên thiên nhiên hòa vào vũ trụ mênh mông bao la, làm chủ cuộc sống. Đây là một quan niệm
nghệ thuật khá độc đáo thường thấy trong thơ TH là khi viết về con người, dù là quân hay dân đều ở thế
chủ động và đi lên phía trước. Nếu là bộ đội thì ở vị trí cao nhất định:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Nếu là dân công thì:
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Và người dân lao động ở đây là vị thế trên đỉnh đèo cao. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng,
đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi
rừng, tự do " Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ
đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang.
- Công việc : Con người xuất hiện trong câu thơ là người lao động bình dị : đi phát nương, làm rẫy, đi
lên rừng hái củi, tìm măng...góp công sức nhỏ bé của mình cho cuộc chiến đấu.
- Khoảnh khắc xuất hiện : Nhà thơ TH đã rất tinh tế khi nắm bắt được khoảnh khắc giao thoa kì diệu
giữa thiên nhiên và con người. Những thép dao để trần được mài sáng loáng gài nơi thắt lưng được ánh
nắng hiếm hoi của mùa đông chiếu vào tạo nên sự phản quang kì lạ, tỏa ra thứ ánh nắng lung linh, lấp
lánh, chói lóa không gian thể hiện qua từ có thần « ánh ». Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng
lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người
ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
=> Câu thơ thể hiện thái độ bao yêu thương, trân trọng, ca ngợi nhân dân lao động của nhà thơ TH. Cứ
nơi nào có con người lao động thì nơi đó tỏa ánh hào quang lấp lánh. Cái lạnh giá của mùa đông cũng
phút chốc được xua tan chỉ còn lại cảm giác ấm áp, vui tươi của lao động.
c. Nỗi nhớ mùa xuân Việt Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Cụm từ chỉ thời gian « ngày xuân » : Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế.
Đó là thái độ ngỡ ngàng, trầm trồ trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời vạn vật khi vào xuân cứ diễn ra, thay
đổi qua từng giây, từng phút, từng ngày để tác giả phải chớp lấy, chọn lấy một hình ảnh có thần nhất vẽ
nên bức tranh mùa xuân nơi núi rừng VB.
- Hình ảnh đặc trưng của mùa xuân « mơ nở trắng rừng » :
+ Sự chuyển gam màu, kéo theo chuyển dịch thời gian : Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang
mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu
trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc
sang xuân. Ngày xuân mơ nở trắng rừng trắng cả không gian "trắng rừng", trắng cả thời gian "ngày
xuân". Không phải là một bông hoa mơ, một cây mơ mà nhất loạt cả rừng mơ bung nở hoa trắng để
mênh mông khắp nứi rừng VB ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, tinh khiết như cái man mác, dịu nhẹ,
ngọt ngào của mùa xuân đầu tiên trên núi rừng VB, đồng thời là hình ảnh đáng nhớ, đầy vấn vương lưu
luyến khi phải chia xa đất và người nơi đây.
+ Ý nghĩa sắc màu: Màu trắng của hoa mơ khởi đầu cho một năm mới cũng như ao ước và khát vọng
đổi thay của nhân dân nơi đây. Cuộc sống nô lệ sẽ thay bằng cuộc sống tràn ngập của hòa bình, tự do.
Ước muốn giản dị nhưng mãnh liệt như sắc trắng của hoa mơ, nhẹ nhàng nhưng không thể nhạt phai.
|+ Liên hệ: Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào
trường ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc trưng của Việt Bắc:
32
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn thờ kẻ đi.
+ Động từ “nở”: Là một động từ mạnh, diễn tả sức sống đang xôn xao, rạo rực, mãnh liệt của những
cây mơ rừng VB hay cũng chính là sức sống bất diệt của nhân dân nơi đây mỗi độ xuân về.
Ý2: Hình ảnh con người:
Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không
nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm
lặng mà cần mẫn tài hoa:
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
- Mùa xuân đáng nhớ:
+ Bình thường: Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội
thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Điều này lại càng đúng hơn trên những vùng núi
rừng chiến khu, nơi của các lễ hội như: Ném còn, hát lượn, hát si, lễ hội lồng tồng (xuống đồng).
+ Sự bất thường: Trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng
giặc thì dù mùa xuân nhưng nhân dân VB đã quên đi niềm vui riêng để miệt mài với, say mê với công
việc, với cuộc kháng chiến: đan nón. Chính sự bất thường này đã làm nên mùa xuân đáng nhớ nơi chiến
khu.
- Phẩm chất con người lao động: Hai chữ "chuốt từng" gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, dường như
bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Câu thơ
như ca ngợi sự khéo léo và tài hoa của con người nơi đây, cũng như con người Việt Nam:
Tay người như có phép tiên
Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ
Cảnh thì mơ mộng, tình thì đượm nồng.
- Tình cảm của con người: Hành động lao động vô cùng giản dị, bình thường ấy nhưng ẩn sâu bên
trong là những tình cảm thiêng liêng của người dân VB giành cho cán bộ và bộ đội. Một chiếc mũ nan,
một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng. Và bao chiến sĩ đã đội
những chiếc mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu, hơn thế nữa chiếc mũ ấy đã trở
thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
=> Hai câu thơ lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân vậy. Tài tình như thế thật hiếm thấy.
d. Nỗi nhớ mùa hè Việt Bắc:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Nét đặc sắc trong bức tranh mùa hè : Nếu như trong bức tranh của hai mùa đông và xuân người
đọc chỉ được mãn nhãn với những đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè tác giả đã đánh thức
giác quan mới trong cảm nhận của người đọc. Thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng
của tiếng ve.
- Âm thanh : Tiếng ve là âm thanh đặc trưng của mùa hè nơi núi rừng đại ngàn. Tiếng ve cũng là dấu
hiệu báo mùa hè đến. Nếu ai đã từng sống trên miền núi rừng sơn cước thì chắc hẳn không quên âm
thanh rộn rã này. Chỉ cần một chú ve đầu đàn tấu lên khúc nhạc là có một dàn hòa tấu độc hành của mùa
hạ, không ngừng, không ngớt.
- Màu sắc : Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Chữ đổ
được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình
từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang.
Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu
râm ran kia nữa cũng trở nên óng ả thêm. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm,
nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ
đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật.
33
Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu
mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ.
- Nghệ thuật ẩn dụ chuyến đổi cảm giác : Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu -
ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự
chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ
hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ
bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi
dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo.
Ý2: Hình ảnh con người:
- Nhân vật trung tâm của bức tranh: Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ
mộng, lãng mạn: "Cô em gái hái măng một mình" nghe ngọt ngào thân thương trìu mến. Nhớ về em, là
nhớ cả một không gian đầy hương sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái
măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm ở hai chữ "một mình" nghe cứ xao xuyến lạ, như
bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa đầy ngọt ngào và vương
vấn.
- Công việc “hái măng”: Một việc tưởng như giản đơn nhưng lại tình nghĩa vô cùng bởi cô đang góp
công sức nhỏ bé của mình cho cuộc cách mạng. Bàn tay thoăn thoắt hái măng kia chính là tình yêu
giành cho bộ đội. Lấy măng để nuôi quân vì đây là nguồn thực phẩm chính của quân dân ta.
- Nghệ thuật sử dụng thanh điệu và điệp phụ âm đầu: Hai thanh trắc liên tiếp “gái-hái” và ba phụ
âm “m”: măng, một, mình liên tiếp xuất hiện khiến người đọc rơi vào một trạng thái đồng cảm cao độ
cùng với tác giả và nhân vật trữ tình ở đây. Người đọc như tận mắt nhìn thấy cô em gái bé nhỏ đang đưa
bàn tay nhanh thoăn thoắt hái những búp măng non, và bàn chân bước nhanh nhẹn hết vàn rừng này đến
vàn rừng khác. Không chỉ có vậy mà khi bàn chân đưa, bàn tay hái thì cô còn cất lên tiếng hát rộn ràng
theo nhịp lao động. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng
dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình
ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm
cảm thông, trân trọng của tác giả.
e. Nỗi nhớ mùa thu Việt Bắc:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời
điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh
huyền ảo.
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Trăng thu:
+ Để miêu tả về mùa thu có lẽ mấy ai không chọn ánh trăng thu. Bởi lẽ trong bốn mùa thì trăng mùa thu
trong nhất, sáng và êm dịu nhất. Chính hình ảnh thơ này đã tạo cho bức trang thu một màu sắc cổ điển.
+ Ánh trăng còn là một biểu tượng của hòa bình chiếu rọi khắp núi rừng bao la, khiến ta cảm nhận như
ánh sáng của hòa bình mát dịu đang tràn ngập khắp chiến khu. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng,
đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta
cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát.
- Rừng thu: Tố Hữu cũng không chọn cách diễn đạt mùa thu mà là rừng thu, với dụng ý nghệ thuật đã
lộ rõ khi miêu tả ánh trăng thu trong khu rừng đại ngàn, rừng già VB để tạo nên bức tranh mùa thu hoàn
mĩ.
- Động từ “rọi”: Là một động từ mạnh, có thần thể hiện rất rõ ánh trăng thu trong vắt, sáng như gương,
chiếu xuống núi rừng, gặp những tán lá cây cổ thụ và giao hòa:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

34
Ánh trăng xuyên qua những tán lá tạo nên bóng rợp và những đốm sáng cứ lung linh như gấm the, tạo
nên tấm phông nền lộng lẫy như gấm thêu, như bức tranh sơn mài huyền ảo.
Ý2: Hình ảnh con người:
- Đại từ phiếm chỉ "ai": đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn
đầy bâng khuâng lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa con người và thiên nhiên.
- Tiếng hát: Dưới ánh trăng thu hòa bình, quân và dân cùng nắm tay ca hát mừng chiến thắng, mừng
hòa bình về trên chiến khu. Đồng thời tiếng hát còn là khúc ca đầy ân tình, ân nghĩa, thủy chung cách
mạng. Tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình người. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng
bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi
rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
=> Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa
kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè,
tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng
mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình
dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

Phân tích đoạn thơ cuối


VB trong kháng chiến
* Nhận xét chung:Thiên nhiên VB không chỉ được cảm nhận bởi vẻ đẹp của 4 mùa mà thiên nhiên còn
là một nhân tố đắc lực góp phần làm nên cuộc kháng chiến toàn thắng với những yếu tố thiên thời, địa
lợi, nhân hòa. Và VB hiện lên là một khu căn cứ địa cách mạng hội tụ đầy đủ yếu tố trên để đưa cuộc
kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang:
a, Yếu tố địa lợi:
- Câu thơ mở đầu gợi lên một bối cảnh chiến tranh tao loạn " Nhớ khi giặc đến giặc lùng". "Giặc đến" là
thời điểm nguy kịch, "giặc lùng" là cảnh nguy biến, hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Câu thơ làm ta liên
tưởng tới cảnh chạy loạn trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ đàn chim dáo dác bay
Hay cảnh tang thương trong thơ Hoàng Cầm:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Ý1. Thiên nhiên VB hiện lên chân thực: Đó là núi rừng bao la, ngút ngàn với những vách núi đá hùng
dũng chìm khuất trong làn sương mù hư ảo chốn núi rừng. Đó là những nét đặc trưng rất riêng biệt của
thiên nhiên VB.
Ý 2. Nghệ thuật nhân hóa: Trước cảnh đau thương ấy rừng núi đã vào cuộc chiến đấu. Với thủ pháp
nghệ thuật nhân hóa, TH đã dựng nên một rừng núi kiêu hùng cùng ta đánh giặc. Từ giọng điệu anh
hùng ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù”
- Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc
tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành những chiến sĩ quân thực thụ trong cuộc
chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Rừng cây, núi đá cũng cùng quân, dân VB chiến đấu, cùng đánh Tây.
Và rừng cũng như núi đều được giao cho một nhiệm vụ phù hợp với khả năng của mình.
+ Núi đá: Những dãy núi trập trùng không đứng yên, vô tri, vô giác mà chúng biết liên kết với nhau,
giang chặt cánh tay nối thành những lũy sắt dày để bao vây quân thù. Hình ảnh hiện hữu, những lũy sắt
dày đầy thách thức hiên ngang với kẻ thù giăng giăng trước mặt mà có lẽ không có kẻ thù nào lọt qua.
35
Hình ảnh này làm cho người đọc nhớ ngay đến lòng chảo Điện Biên, nơi quân giặc chỉ có thể tiến vào
theo đường lính nhảy dù, chỉ có đường vào mà không có lối ra, chỉ tiến chứ không lùi nên khi bị đột
kích chỉ còn một con đường chết. Đó chính là yếu tố địa lợi không hề nhỏ giúp quân ta chiến thắng kẻ
thù.
+ Rừng cây: Rừng cây đại ngàn VB không còn là những rừng phách đổ vàng trong tiếng ve rộn rã,
cũng không chỉ là những vàn mơ nở trắng, càng không phải là khu rừng thu yên bình trong tiếng hát mà
giờ đây khi có kẻ thù đến xâm lược thì rừng cây ấy bỗng trỗi dậy xôn xao, biết cùng nhân dân đánh giặc
với hai nhiệm vụ đầy kiên cường. Với bộ đội ta rừng như một ngôi nhà che chở, bảo vệ. Hình ảnh thơ
này khiến ta liên tưởng tời những cánh rừng xà nu bạt ngàn, bất tận của mảnh đất Tây Nguyên anh
hùng, ưỡn tấm ngực lớn ra che chở, bảo vệ cho dân làng Xô Man trong truyện ngắn Rừng xà nu của
Nguyễn Trung Thành, hay dải rừng già trên dãy Trường Sơn đã là tấm lá chắn che giấu bộ đội trong
chiến đấu, và che mắt quân thù để miền Bắc có thể chi viện cho miền Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ ác liệt. Thiên nhiên Việt Nam thật diệu kì thay. Không chỉ có những ngọn núi, cánh rừng mà
ngay cả những dòng sông hiền hòa khi có giặc xâm lăng cũng biết cựa mình kháng chiến:
Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
+ Sương mù: Miền núi so với miền xuôi thường thì sương mù nơi đây sẽ dày hơn rất nhiều. Nếu chỉ
căn cứ vào yếu tố thiên nhiên này thì không thể coi đây là “địa lợi” được. Bởi cuộc chiến đấu mà bị
sương mù bao phủ là điều bất lợi. Nhưng nếu nhìn nhận kĩ thì ta dễ dàng nhận ra hai mặt của vấn đề.
Với quân ta, sống trên khu vực này rất lâu, đã thông thạo địa hình địa vật, có thể băng rừng lội suối và
chiến đấu trong đêm rất dễ dàng. Nhưng với quân địch, đại đa số là lính nhảy dù, không biết gì về địa
hình, địa vật nên khi có sương mù chắn tầm nhìn thì quả thực đó là trở ngại quá lớn. Nên sương mù che
quân ta mà chắn quân địch. Đó là yếu tố thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng cho nhân dân VB.
=> Yếu tố địa lợi là một trong ba yếu tố cần thiết giúp quân ta đánh thắng kẻ thù trong cuộc chiến không
cân sức. Điều quan trọng hơn là quân dân VB đã biết cách tận dụng khai thác và phát huy triệt để sự
thuận lợi trong yếu tố tự nhiên này làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.
b, Yếu tố nhân hòa:
Yếu tố nhân hòa là điều không thể thiếu nếu cuộc kháng chiến muốn đi đến thắng lợi. Với một dân tộc
nhỏ bé như nước ta, quân tư trang lại không tối tân, hiện đại thì sự đoàn kết, chung lòng, chung sức và ý
chí quyết tâm dánh giặc cao độ là vấn đề then chốt để chiến thắng. Và tinh thần đoàn kết, niềm tin vao
cách mạng chính là điều tác giả để cập đến ở đây. Khi “đất trời ta cả chiến khu một lòng”.
Ý 1: Lực lượng hùng hậu với tinh thần chiến đấu cao độ:
- Bộ đội: Những năm tháng kháng chiến là những tháng ngày với không khí sôi động, khẩn trương của
khung cảnh những ngày “Cả nước ra quân, toàn dân là lính”. Tố Hữu cũng khắc họa không khí này trên
những địa danh đã đi qua.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
+ Cụm từ chỉ thời gian “đêm đêm”: Thật đặc biệt vì tác giả không chọn thời điểm ban ngày mà là ban
đêm, với điệp từ đêm đêm, tức là hết đêm này đến đêm khác vẫn luôn diễn ra khung cảnh khẩn trương,
sôi động như thế. Đó chính là một sự thật lịch sử, bởi trong cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi
viện cho chiến trường cả về nhân lực và vật lực thì nhân dân phải hành quân cả trong đêm. Đó là thời kì
đầy khó khăn nhưng cũng không kém phần hào hùng của dân tộc.
+ Nghệ thuật sử dụng từ láy Đêm đêm, rầm rập, điệp điệp, trùng trùng:
Khiến đoạn thơ chan chứa niềm tự hào khi phản ánh khí thế tiến công thần tốc, sôi động của quân dân
trong kháng chiến, trên khắp các nẻo đường chiến khu VB. Từ láy “rầm rập” gợi âm thanh về sự tiến
công vang vọng, hào hùng, mạnh mẽ đầy háo hức, sôi động và nung nấu. Cội nguồn của âm thanh hào
hùng ấy là sức mạnh tấn công của quân và dân ta: Quân đi điệp điệp trùng trùng. Từ láy điệp điệp trùng
36
trùng giàu tính tạo hình và gợi cảm về một đoàn quân vừa đông, vừa hùng mạnh, đầy ý chí chiến đấu
quyết bảo vệ quê hương đất nước.
+Hình ảnh thơ lãng mạn : Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan:
Có thể nói Tố Hữu đã viết một câu thơ tuyệt hay về đoàn quân ra đi chiến đấu, với ba hình ảnh đứng
bên nhau.
@ Vừa có hình ảnh hiện thực lã “mũ nan” bình thường, giản dị như những người lính trong cuộc sống
và cuộc chiến đấu hàng ngày.
@ Hình ảnh “đầu súng” như một biểu tượng hào hùng cho cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc
Việt Nam. Súng đạn thường gợi chiến tranh khốc liệt, đau thương, tang tóc, hi sinh không ai muốn thế
nhưng để bảo vệ tổ quốc, nhân dân và chủ quyền dân tộc thì đoàn quân phải luôn nắm chắc tay súng để
diệt thù thể hiện bản lĩnh thép của dân tộc Việt Nam: “Tuốt gươm không chịu sống quỳ”, đất nước của
“những người chưa bao giờ khuất” và con người luôn trong thế chủ động “khi có giặc người con trai
ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con”.
@ Và hình ảnh lãng mạn, thơ mộng vô cùng là “ánh sao”. Một hình ảnh đẹp lung linh, lấp lánh trên vũ
trụ, vì tinh tú của đất trời lại đứng cạnh đầu súng và mũ nan vừa có tác dụng tôn lên tư thế người chiến sĩ
như đang bay lên vũ trụ thể hiện sự lãng mạn, thơ mộng trong tâm hồn lại vừa thể hiện khát vọng hòa
bình, tự do. Chính vì vậy hình ảnh người lính trong câu thơ này trở thành một biểu tượng đẹp hoàn mĩ .
Ý 2: Lực lượng dân công tiếp viện:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
- Dân công: là lực lượng không thể thiếu trong cuộc kháng chiến, đặc biệt với địa hình đồi núi như
chiến khu VB thì lại càng cần thiết. Họ là những anh chị thanh niên xung phong mở đường, hết ngày lại
đến đêm, trên những chặng đường thấm đầy mồ hôi nước mắt, thậm chí xác người lấp trên cả những
dải đường chiến trận. Thế nên mới có những hình ảnh thơ với “người lính chèn lưng cứu pháo, lấy thân
mình lấp lỗ châu mai”. Dân công còn là lưc lượng tiếp viện sức người, sức của cho chiến trường.
- Bút pháp tả thực và lãng mạn:
+ Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn đuốc tre rực sáng trên tay và muôn tàn
lửa nhỏ tung bay trải khắp chặng đường hiện lên trong câu thơ vừa thật lại vừa lung linh, hư ảo. Câu thơ
mang đậm tính sử thi ca ngợi tập thể nhân dân hào hùng, xung phong đi phục vụ kháng chiến. Một
không khí lịch sử của dân tộc với những ngày “cả nước ra quân, toàn dân là lính”.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
+ Nghệ thuật nói quá: Tố Hữu đã cường điệu, phóng đại trên những hình ảnh thực là dân công bước
chân trên những dải đường đầy chông gai, đá sỏi để ra tiền tuyến. Nhưng để làm toát lên được tinh thần,
khí thế của nhân dân tác giả như thấy bước chân ấy hùng hổ, dũng mãnh mỗi bước đi có thể làm nát đá
dưới chân nguời. Hào hùng đâu kém hình ảnh thơ trong bài Lên Tây Bắc:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Thiên nhiên khắc nghiệt nhưng sẽ phải khuất phục trước tinh thần chiến đấu đang lên cao ngùn ngụt của
quân ta. Bước chân hào hùng ấy khiến ta cũng nhớ đến bước chân thần tốc của Tây Sơn Nguyễn Huệ,
đầy dứt khoát và mạnh mẽ.
+ Hình ảnh lãng mạn: Trong hiện thực hào hùng, khốc liệt ấy hình ảnh “muôn tàn lửa bay” không chỉ
là hình ảnh thực mà đó còn là nguồn sức mạnh cổ vũ, động viên tinh thần, giúp họ có thêm sức mạnh
và động lực trong cuộc chiến đấu chống quân thù. Ánh lửa đuốc cháy sáng trong đêm chính là ánh sáng
của chân lí cách mạng, của niềm tin vào chính nghĩa trong cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch.
- Nghệ thuật tương phản, đối lập: Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là nghệ thuật tương phản, đối lập
đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
37
+ Hình ảnh thơ vừa mang nghĩa tả thực và nghĩa biểu trưng: Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc
chiến đấu của nhân dân, bộ đội rất gian khổ, bí mật thường phải chiến đấu trong đêm tối nên cần đốt
đuốc, soi đèn. Nhưng đồng thời nó cũng mang ý nghĩa biểu tượng thông qua nghệ thuật tương phản, đối
lập.
+ Thời kì nô lệ tăm tối: Cụm từ thời gian “nghìn đêm” như quay lại cả một thời kì dài đất nước ta
chìm trong ách nô lệ, tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Thế nên nhà thơ mới miêu tả
bằng hình ảnh “thăm thẳm sương dày”, để thấy cái hun hút, chưa biết điểm kết của cuộc chiến, đồng
thời là muôn vàn những cản trở, thử thách, khó khăn như màn sương mù dày đặc đang bao phủ trong
đêm đen.
+ Tương lai tươi sáng: Nghìn đêm qua đi để ta có “ngày mai”, một ngày mới của chặng đường trong
tương lai. Ngày mai ấy sẽ có ánh đèn pha bật sáng cho đến khi hừng đông ló rạng, soi đường, dẫn bước
và chỉ lối nhân dân ta. Ánh sáng đó chỉ có thể là ánh sáng của tự do, xua tan cái tăm tối, khổ đau của
đêm trường nô lệ.
=> Nghệ thuật tương phản đã thể hiện khát vọng và niềm tin cháy bỏng của nhân dân ta vào chiến thắng
của cuộc kháng chiến.
c, Yếu tố thiên thời:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với
Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương
cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.
Ý 1: Hình ảnh Trung ương Chính phủ:
- Hiện lên thật tươi sáng: Khi quyết định rời thủ đô HN, thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống thì
đồng thời cơ quan đầu não của TƯ đảng và chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu VB
nên mới có khung cảnh:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng như nốt luyến láy đầy vấn vương.
“Ai” là người đi, đồng thời cũng là nhân dân VB, nển câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết của
cả quân và dân khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió ngàn.
+ Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội VN tuyên truyền GPQ cũng là lúc lá cờ đỏ sao
vàng được lấy làm quốc kì của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng gió,
phải chăng đó là hang Pắc Pó, nơi lãnh tụ HCM kính yêu của chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này
không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí quyết tâm cao
độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
+ Ánh nắng mặt trời rực rỡ: Khung cảnh VB nơi chiến khu hiện lên rực sáng bởi sự xuất hiện ánh
nắng chói chang của mặt trời. Hãy nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm
thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị của ánh nắng mặt trời khi chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều
nhà thơ TH muốn nói thật giản dị: nơi nào có Đảng, có chính phủ nơi đó có ánh sáng mặt trời, có sự
sống, có độc lập tự do. Đó là chân lí mà chàng thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Kim Thành đã nhận ra từ tuổi
đôi mươi.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
=> Tất cả khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm phông nền tươi sáng cho
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
38
Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mĩ hơn ánh sáng lí tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn
gió của tự do đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả soi đường chỉ lối cho những quyết định mỗi
khi hạ lệnh tổng tiến công được sáng suốt để mang lại hiệu quả cao nhất. Thời cơ cách mạng không bao
giờ lộ ra, mà đòi hỏi sự nhận định và phân tích tình hình nhạy bén và sắc sảo, chính xác của chính phủ
kháng chiến. Đó là yếu tố quan trọng thứ ba quyết định thắng lợi của cách mạng.
Ý 2: Đường lối chỉ đạo chung:
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
- Tiền tuyến: Trận chiến đấu nào cũng có hai bộ phận hậu phương và tiền tuyến. Và hai bộ phận này
phải phối hợp với nhau thật nhịp nhàng. TƯ đảng đã điều động tiền tuyến và phát động chiến dịch thu,
đông trong một sự chỉ đạo thống nhất quyết tâm: Ðiều quân chiến dịch thu đông.
- Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương phải tập trung cao độ cho sản
xuất để hoàn thành vai trò tiếp viện cho chiến trường.
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu
Nông thôn phát động bao phong trào để thi đua sản xuất: ba tốt, ba đảm đang, chị hai năm tấn…và sự
chỉ đạo còn cụ thể đến cả những việc: Giữ đê, phòng hạn, thu lương để kịp thời chi viện cho tiền tuyến.
- Một nhân tố kết nối hậu phương, tiền tuyến chính là bộ phận dân công, vận tải: giao thông mở
đường, để đảm bảo sự thông suốt. Vậy là không một khâu nào chính phủ bỏ qua không bao quản, đôn
đốc. Vũ khí, lương thực, sức người, sức của liên tục được đáp ứng cho chiến khu : Gửi dao miền ngược,
thêm trường các khu.
=> Sự chỉ đạo sáng suốt của TƯ đảng đã làm cho guồng máy cách mạng của quân ta hoạt nhịp nhàng
giữa tất cả các bộ phận để phát huy cao nhất tiềm lực vốn có.
d, Kết quả cuộc kháng chiến:
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Kết quả tất yếu của trận chiến khi có sự hội tụ đủ cả ba nhân tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa là thắng lợi
rực rỡ. Và cứ thế tin vui thắng trận dồn dập ùa về. Các địa danh được nhắc đến qua phép liệt kê liên tiếp
như những thắng lợi. Mà có lẽ điều này cũng được chính chủ tịch HCM viết trong bài thơ Báo tiệp của
mình.
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ, “ ’
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giác thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Niềm vui nối tiếp những niềm vui, và đặc biệt những địa danh ấy khi nhắc đến là sự hoài niệm về những
kí ức nơi chiến khu của người ra đi.
e, Vai trò của Bác Hồ và chiến khu VB:
Ý 1: Vai trò của BH:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Biện pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật vai trò của vị lãnh tụ kính yêu và tài ba của dân tộc. Bóng tối
và sự u ám của quân thù không thể lấn át được ánh sáng tỏa rạng từ Cụ Hồ. Đó không chỉ đơn thuần là
ánh sáng của vị lãnh tụ mà còn là linh hồn, trái tim của cuộc chiến đấu nuôi dưỡng niềm tin của cả dân
tộc. Giống như chính TH viết về Bác, giản dị mà bao la :
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn cỏ mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ lụa tặng già
39
Ý 2: Vai trò của VB :
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
- Chiến khu VB được nhắc đến qua nghệ thuật đối lập:
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Khi giống nòi dân tộc đang quằn quại, đau khổ dưới ách nô lệ lầm than, hãy hướng trái tim, niềm tin về
chiến khu VB, nơi hội tụ cội nguồn sức mạnh. Qua biện pháp nghệ thuật này người đọc càng thấy được
vai trò của VB, cũng như tình yêu của nhà thơ giành cho VB, cũng như vị trí VB trong trái tim và tình
yêu của người ra đi.
- Chiến khu trong hoài niệm : Thời gian mười lăm năm được nhắc lại lần thứ hai trong đầy ắp ân tình
và kỉ niệm. Và một sự khẳng định như lời thề son sắt :
Mười lăm năm ấy ai quên
Nhưng điều quan trọng là khi cuộc kháng chiến đi qua mới thấy hết vai trò tiên quyết của VB trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc – cái nôi của cách mạng:
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà.
- Khúc hoàn ca : Tiếng ân ca tha thiết của khúc hát giao duyên của ta và mình lại cất lên như lời thủy
lời chung :
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào
Mình và ta lại quấn quýt giao hòa trong nỗi nhớ thương. Đây cũng chính là câu trả lời của người ra đi
cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình” của người ở lại. Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt
Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy
phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng. Và một lần nữa những địa danh thiêng liêng được nhắc
lại :
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào
Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề
chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần
một này.
Kết bài:
“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến.
Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình
cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài
thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều
nét cách tân. Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm
thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng sưốt được biểu hiện
bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người. Cảm ơn người con của xứ
Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc.

40
ĐẤT NƯỚC
(Trích: Trường ca Mặt đường khát vọng)
Nguyễn Khoa Điềm
1. MB
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Tình yêu quê hương, đất nước là tình cảm thiêng liêng, cao đẹp trong tâm hồn mỗi con người. Đó luôn là
nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca, nhạc họa từ xưa đến nay. Trong những thi phẩm để đời về chủ đề quê
hương, đất nước thì đoạn trích Đất nước trong Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm
được coi là một trong những đoạn thơ hay nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại, bởi chất triết lí sâu sắc, cảm
nhận mới mẻ và tình yêu sâu lắng, thiết tha.
MB2.
« Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ.
Các anh không về mình mẹ lặng im... ». Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi xốn xang da diết. Nhớ
những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ không
hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua, tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa.
Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Trong
những vần thơ mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nổi bật hơn

41
cả.., bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái
trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận - trữ tình.
2. TB
a, Tác giả Nguyễn Khoa Điềm:
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ sinh ra tại mảnh đất Thừa Thiên Huế năm 1943, và là nhà thơ xuất sắc trong
kháng chiến chống Mĩ. Thơ NKĐ là sự hội tụ tinh tế giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một
người trí thức về đất nước, con người VN.
b, Xuất xứ và cảm hứng:
- Xuất xứ: Trường ca Mặt đường khát vọng được NKĐ hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa
năm 1971, in lần đầu năm 1974. Đoạn trích ĐN là phần đầu của chương 5 trong bản trường ca, là những câu
thơ hay nhất về đề tài đn.
- Cảm hứng: Bản trường ca được khơi nguồn từ mong ước của nhà thơ là thức tỉnh tuổi trẻ vùng đô thị vùng
tạm chiếm của miền Nam hiểu về non sông, đất nước mình, từ đó nhận rõ vai trò, sứ mệnh của mình, nhà thơ
muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong
những năm chống Mĩ cứu nước: xuống đường đấu tranh hòa nhịp chung với cuộc chiến đấu của dân tộc.
c, Nội dung chính: Đoạn thơ thể hiện cái nhìn, cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đn qua những vẻ đẹp được
phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa. Với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái
nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ
mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Đóng góp sâu sắc nhất của nhà thơ là việc
làm sáng tỏ tư tưởng “đn của nhân dân, nhân dân làm ra đn”.
d, Đặc sắc nghệ thuật: Hình thức biểu đạt giàu suy tư qua giọng thơ trữ tình chính trị sâu lắng, tha thiết vì
nói về đn mà mượn lời của một đôi lứa yêu nhau đang thủ thỉ, tâm tình về quê hương đất nước của mình. Đặc
biệt là nhà thơ mượn rất nhiều chất liệu từ trong văn hóa, văn học dân gian, phong tục, tập quán và cuộc sống
đời thường, bình dị của nhân dân từ xưa đến nay.
e, Phân tích.
Phân tích 9 câu thơ đầu
* Đại ý: “Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng ấy,
các nhà thơ - chiến sĩ đã có biết bao bài thơ rất hay về Tổ quốc, đất nước Việt Nam thương yêu. Nếu như các
nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm
nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm, trong phần đầu chương “Đất nước” – trích từ
trường ca “Mặt đường khát vọng”, lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị.
Chín câu thơ đầu trong đoạn trích đã trả lời cho câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ?
a, Câu thơ mở đầu: Có ai tự hỏi chính mình, một câu hỏi lớn đầy băn khoăn rằng đn ta đang sống có từ bao
giờ? Có lẽ để trả lời được câu hỏi ấy không hề dễ dàng, vậy mà NKĐ đã thỏa mãn niềm băn khoăn của chúng
ta bằng một câu thơ thật giản dị.
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Mỗi con người chúng ta, có người may mắn sinh ra có một gia đình trọn vẹn, có mẹ có cha, nhưng cũng có
không ít mảnh đời bất hạnh, không cha không mẹ, không rõ nguồn gốc gia đình của mình, nhưng chắc chắn
không ai sinh ra lại không biết mình là công dân của đn nào. Chính vì thế, ngay khi cất tiếng khóc chào đời ta
đã biết rằng đã có một đn hiện hữu cùng hình hài của mình. Chẳng biết đn ấy có từ bao giờ nhưng khi chúng
ta lớn lên thì đn đã có. Đn như chiếc nôi đã dọn sẵn đợi chúng ta chào đời. Một thực tế hiển nhiên, giản dị đến
vô cùng nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Vậy đn bắt nguồn từ đâu, những câu thơ tiếp theo tác giả đã đi
làm sáng tỏ những điều còn băn khoăn về cội nguồn đn.
b, 7 câu thơ tiếp theo:
“Đất nước”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong những gì thân thương nhất:
từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của
cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà:
* Câu 2:
Ý 1: Văn học dân gian: Văn học dân gian, ngọt ngào, tha thiết và là giai đoạn văn học ấu thơ đẹp nhất của
nhân loại. Và có lẽ một trong những thể loại lấy được nhiều cảm tình nhất của bạn đọc chính là những câu
chuyện cổ tích. Tuổi thơ của ai chắc hẳn cũng được nghe bà, nghe mẹ kể cho những câu chuyện cổ tích thần
tiên mà như nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết trong bài thơ Nói với em:

42
Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện,
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên,
Thấy chú bé đi hài bảy dặm,
Quả thị thơm, cô Tấm rất hiền.
Ý 2: Đn bắt nguồn từ những câu chuyện cổ tích của mẹ:
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”
- Cụm từ ngày xửa ngày xưa đưa người đọc trở về với thế giới huyền bí của những câu chuyện cổ tích, với
những ông bụt, bà tiên tốt bụng mang những phép màu. Với chú bé đi hài bảy dặm, với quả thị thơm mang
trong mình cô Tấm dịu hiền… Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích của mẹ hôm nào,
Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước.
- Vậy là đn đâu có ở đâu xa, ngay các trong câu chuyện cổ tích dân gian, có trong tuổi thơ dịu ngọt của mỗi
con người, cứ đằm thắm, thấm sâu mà da diết như chính những câu chuyện ấy đã vô tình qua tháng năm in
đậm trong tâm hồn chúng ta. Đn thân thương, gần gũi là thế.
* Câu 3:
Ý 1: Điểm khác biệt của NKĐ: Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự
nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô
Đại Cáo”:

“Như nước Đại Việt ta từ thuở trước


Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc – Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương”
mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Ý 2: Câu chuyện dân gian: Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ đời vua Hùng
dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son. Về câu chuyện Tấm Cám với
miếng trầu têm cánh phượng để rồi vua nhận ra đón Tấm về cung trong niềm vui hạnh phúc sum vầy.
Ý 3: Phong tục, văn hóa của người Việt:
- Câu thơ còn đưa người đọc trở về với một nét đẹp của văn hóa dân tộc ta một thời: phong tục ăn trầu nhuộm
răng của dân tộc ta. Mà như nhà thơ Hoàng Cầm có viết:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
- Truyền thống của người VN là hiếu khách, mến khách, mỗi khi khách đến chơi nhà là pha trà, mời trầu, bởi
nhân dân ta quan niệm: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, đây là nét đẹp văn hóa không thể thiếu của người
dân VN.
- Trong phong tục cưới hỏi của người VN, không bao giờ vắng mặt hai lễ vật trầu cau. Nó thể hiện cho sự
gắn kết, thắm thiết giữa tình yêu đôi lứa và hôn nhân. Thế nên ca dao mới có những hình ảnh về trầu cau đẹp
đến nao lòng:
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Khi nào cao nọ lớn lên
Trầu kia ra lá thì nên vợ chồng
=> Vậy là đn có trong tình anh em, nghĩa vợ chồng, tình yêu đôi lứa, trong những phong tục đẹp của
người dân VN. Đn thật gần gũi biết bao.
* Câu 4: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Ý 1: Bằng hình ảnh thơ quen thuộc trồng tre mà đánh giặc, câu thơ gợi nhớ đến truyền thuyết xa xưa, về
chàng Thánh Gióng nhổ tre Đằng ngà đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân, là
tình yêu quê hương đất nước bùng cháy đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
43
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
Đồng thời cũng gợi người đọc nhớ về câu ca dao:
“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què”
Ý 2: Hình ảnh cây tre thân thuộc biết bao với người dân dân tộc VN. Hình ảnh lũy tre quen thuộc thân
thương muôn thủa trở thành linh hồn của làng quê VN. Từ lâu nó đã trở thành biểu tượng của nhân dân anh
dũng, kiên cường mà giản dị. Đúng như Nguyễn Duy đã viết:
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
Và ngay cả trong tùy bút “Tre Việt Nam” của Thép Mới cũng có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về cây tre VN.
Trong cuộc sống hòa bình tre tỏa bóng mát những trưa hè cho chúng ta quây quần những câu chuyện kể bên
nhau. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày tre là vật dụng thân thuộc không thể thiếu: đũa tre, chõng tre…, khi
có giắc ngoại xâm thì “Gậy tre, chông tre kiên cường chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe
tăng đại bác…Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”.
* Câu 5: Tóc mẹ thì bới sau đầu.
Đất nước còn có trong phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ
bao đời nay:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
(ca dao cổ)
Như vẻ đẹp của sự dịu dàng, nữ tính nhưng cũng thể hiện sự trưởng thành, đảm đang của người phụ nữ Việt
ngàn đời.
* Câu 6: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Đất nước Việt Nam mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tình nghĩa đậm đà, thuỷ chung son sắt của
cha mẹ. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Nghĩa vợ chồng từ thủa “tao khang chi thê” không bao giờ thay đổi cho dù có khó khăn, gian khổ.
* Câu 7: Cái kèo cái cột thành tên
Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo với mái lá nhà tranh
nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm na, dân dã; có khi lấy từ tên những bộ phận
của ngôi nhà tre gỗ của chính mình đang ở “cái kèo, cái cột”…Đn không ở đâu xa, mà hiện hữu ngay trong
ngôi nhà thân thương che chở ta hàng ngày, trong tên gọi những đứa con rất đỗi thân yêu.
* Câu 8: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần
thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo
trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng, phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, “dầm mưa dãi nắng” nhân dân ta mới làm
ra được hạt ngọc quý giá ấy. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở
nào:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

44
Đn hóa thân vào hạt gạo với mồ hôi nước mắt của con người, với muối mặn phù sa của đất mẹ, của nắng
sương trong vũ trụ, đất trời để rồi mất bao công xay, giã, giần, sàng nữa mới trở thành hạt gạo dẻo thơm trong
bát cơm ta ăn nuôi ta lớn hàng ngày.
=> Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém
phần thi vị, độc đáo, làm lay động trái tim ngay cả những độc giả khó tính.
* Câu 9: Đất nước có từ ngày đó…
Cuối đoạn thơ là một lời đúc kết giản dị nhưng chắc chắn. Với những câu thơ trên, trong suốt không gian,
thời gian, văn hóa, phong tục của dân tộc, nhân dân đn đã hình thành, hiện hữu để từ đó ta có dải đất thân yêu
hình chữ S mang tên VN. Ngày đó là ngày nào, ta không thể khẳng định chính xác chỉ biết rằng đn gắn bó
trong cuộc đời của mỗi con người, gần gũi trong sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày, giản dị nhưng thân
thương.
* Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ:
Ý 1: Cách sử dụng cấu trúc câu: Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất
nước đã có”, “Đất nước bắt đầu”, “Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ” đã giúp cho ta hình dung được cả quá
trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt
Nam qua bao thế hệ. Đn không đứng yên mà luôn vận động, phát triển, trường tồn qua các thời kì lịch sử của
dân tộc.
Ý 2: Sử dụng từ vựng: Trường từ vựng: ông, bà, cha, mẹ gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương. Đó
cũng là khởi nguồn cho đất nước, là cội nguồn của mọi tình cảm. Bởi nói như chú Năm “con sông gia đình
cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta” (Những đứa con trong gia đình).
=> Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu văn hoá dân gian, truyền
thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được một ý niệm về đất nước
thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị
thân quen với cuộc sống nhân dân hàng ngày. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm
sâu thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại. đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng
những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu
tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử; Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu
trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ
khác.

Phân tích đoạn thơ


“Đất là nơi anh đến trường…
Nững cuộc đời đã hóa núi sông ta”
* Trong đoạn thơ chính này tác giả đã nêu định nghĩa về đn.
- Trong đoạn thơ đã thể hiện sự sáng tạo độc đáo của NKĐ. Nhưng có lẽ một sáng tạo độc đáo nhất là tác giả
tách cụm từ đn ra thành hai yếu tố nhỏ là đất và nước. Xây dựng và hình thành từng khái niệm rồi sau đó tổng
hợp và đúc kết thành khái niệm đn theo kiểu quy nạp. Nên kiểu câu tác sử dụng là điệp cấu trúc: đất là, nước
là và đất nước là. Các câu định nghĩa vắt dòng như tràn ra trên những trang thơ, và người đọc thì ngỡ ngàng,
thú vị khi được tác giả đưa đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, mỗi dòng thơ là một định nghĩa mới mẻ trong
cảm nhận của nhà thơ. Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể
mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi
lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là
đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật
duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái
niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh. Khám phá đn trên nhiều bình diện để từ đó người
đọc có cái nhìn đa chiều, đa diện về đn.
- Tác giả không chỉ làm mới vấn đề đã tưởng như đã cũ- chủ đề đn, bằng cách tách hai khái niệm đn. Bài thơ
được viết với mong mỏi thức tỉnh thế hệ thanh niên ở đô thị miền Nam để họ nhận thấy vai trò của mình
trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc. Hiểu rõ đối tượng mà tác phẩm hướng đến, NKĐ đã chọn một lối viết
độc đáo cho tác phẩm của mình. Đó là mượn lời thủ thỉ tâm tình của một đôi trai gái yêu nhau để nói về vấn
đề này. Còn sự lay động nào hơn đến với tuổi trẻ bằng tình yêu lứa đôi, có lẽ chính điều này đã tạo nên hiệu
quả bất ngờ cho bản trường ca.
a, 4 câu đầu:
45
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải
khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm .
Ý 1: câu 1. Đất là nơi anh đến trường
Đất của con đường dưới bàn chân quen thuộc ngày ngày nâng bước chân anh tới trường. Tưởng như giản đơn
nhưng nhà thơ đã tái hiện lại dân tộc VN trong một bề dày của lịch sử truyền thống. Từ hàng ngàn năm
phong kiến những chàng trai của dân tộc ta đã có ước mơ đến trường để học hành thi cử , đỗ đạt, ghi danh
bảng vàng, thỏa nguyện chí nam nhi tang bồng hồ thỉ. Vậy là đất có trong khát vọng của những kẻ làm trai.
Ý 2: câu 2. Nước là nơi em tắm
- Không gian thiêng liêng, yên bình của một làng quê hiện ra như trong cổ tích. Một giêng nước nơi gốc đa
đầu làng, một bến sông quê thanh bình, một dải kênh xanh nơi cánh đồng bát ngát là nơi lí tưởng để các cô
thôn nữ ngồi quây quần tụ họp bên nhau gánh nước, tắm mát, rửa chân…và cùng ngồi kể cho nhau nghe
những câu chuyện lòng.
- Câu thơ còn gợi chúng ta nhớ đến câu chuyện Chử Đồng Tử, với một bến sông quê đẹp dịu hiền, nàng công
chúa Tiên Dung đã chọn chốn nước non thanh vắng mà hữu tình này để quây màn bát tiên và tắm, rồi từ đó
kết nên mối lương duyên trời định.
Ý 3: câu 3. Đất Nước là nơi ta hò hẹn
- Khái niệm đn được hình thành ngay trong tình yêu lứa đôi của anh và em. Đn không ở đâu xa mà ngay
trong không gian tình yêu - nơi ta hò hẹn. Không gian thơ mộng, lãng mạn và trữ tình hiện ra, một khóm tre
đầu làng trong một đêm trăng sáng nơi anh cất tiếng hỏi giao duyên :
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?
Hay một không gian lao động hàng ngày nhưng cũng gợi ra những xúc cảm của tình yêu đôi lứa.
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
- Câu thơ này cũng là không gian lí tưởng giống như nơi Chử Đồng Tử và Tiên Dung không hẹn mà nên
duyên vợ chồng. Đó là bờ cát trắng anh vùi mình, và bến nước sông trong vắt em tắm mát. Không hò hẹn với
nhau nhưng mối lương duyên lại được se kết như hò hẹn của đất trời. Đất nước ngọt ngào và hiền hòa như thế
trong sự gắn kết của tình yêu lứa đôi.
Ý 4: câu 4. Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
- Hình ảnh chiếc khăn thương như vật bất li thân của các cô gái xưa, là người bạn tri âm tri kỉ cùng chia sẻ
bao vui buồn, là kỉ vật trong tình yêu đôi lứa. Bởi :
Mỗi khi khăn mở trầu trao
Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình
Hay :
Gửi khăn gửi áo gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa
- Câu thơ còn gợi nhắc bài ca dao Khăn thương nhớ ai với nỗi nhớ bâng khuâng nhưng không kém phần cháy
bỏng, da diết những vẫn dịu dàng, nữ tính.
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt....
Một lần nữa, NKĐ lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu
thương say đắm.
=> Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời
gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ

46
những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể,
còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta.
b, 5 câu tiếp:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Tác giả tiếp tục định nghĩa đn không chỉ trên phương diện tyêu đôi lứa, mà còn là không gian địa lý, thờ gian
lịch sử:
Câu 1: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
- Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng
bay về hòn núi bạc mang phong vị dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cuả tác giả. Đất Nước
mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người
đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Con người Việt Nam là như thế,
lúc nào cũng hướng về quê hương, nguồn cội.
- Câu thơ còn gợi nhớ đến tích truyện cây khế với chim ăn trái trả vàng, với người em hiền lành, tốt bụng,
chịu thương chịu khó, được trả ơn xứng đáng với núi vàng núi bạc. Có vậy mới hiểu niềm tự hào của tác giả
với tổ quốc VN giàu đẹp, nghĩa tình.
Câu 2: Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
- Câu ca dao miền trung không chỉ gợi nên con người chung thủy, nghĩa tình mà còn ta niềm tự hào sâu sắc
bởi biển khơi lắm tôm nhiều cá, bụng quẫy như bạc rơi thoi. Đất nước VN giàu đẹp, trù phú, nuôi dưỡng sự
sống và tâm hồn nhân dân.
3 câu tiếp:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Ý 1: Không gian địa lý và thời gian lịch sử: Ba câu thơ nhưng NKĐ đã đưa người đọc đi suốt chiều dài lịch
sử 4000 năm của dân tộc, và đi dọc dải đất cong cong hình chữ S thân thương. Với hai từ láy đằng đẵng,
mênh mông cho thấy cái miên man của thời gian, vô tận của không gian. Trong không gian và thời gian ấy
nhân dân ta cùng hội tụ, chung sống.
Ý 2: Nơi nhân dân đoàn tụ:
- Cụm từ dân mình: Cho thấy tình cảm đồng bào gắn kết, son sắt. Thật đơn giản nhưng nếu đặt câu thơ
trong hoàn cảnh bom đạn chiến tranh lúc bấy giờ thì lại có ý nghĩa lớn lao vô cùng để cổ vũ tinh thần đoàn kết
của nhân dân.
- Cụm từ đoàn tụ: Đã bật tả khối đại đoàn kết của nhân dân ta. Đó cũng là cội nguồn sức mạnh của dân tộc
ta. Khối đại đòan kết ấy không chỉ là giữa những con người cùng thời đại mà còn là sự kết nối giữa các thế
hệ, là truyền thống cao đẹp của nhân dân ta từ nghìn đời.
=> Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn
của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ.
4 câu thơ tiếp:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
- Ý 1: Niềm tự hào tổ quốc. Hai câu thơ đầu gợi nhắc lại hai câu thành ngữ: Đất lành chim đậu, nước thiêng
rồng ở. Nếu hiểu như vậy thì một chân lí giản đơn là niềm tự hào về tổ quốc thân yêu: ĐN ta là nơi đất lành
và nước thiêng liêng.
-Ý 2: Cội nguồn của nhân dân. Hai câu thơ sau đã nhắc lại cội nguồn của nhân dân với truyền thuyết Lạc
Long Quân và Âu Cơ. Với tích bọc trăm trứng và rồi để chia ra 50 con theo cha xuống biển, 50 theo mẹ lên
non. Qua đó như một lời giải thích vì sao nhân dân mình sinh sống trên tất cả các miền địa hình và một điều
quan trọng hơn cả là tác giả muốn nhắc nhở cho dân ta biết rằng, chúng ta dù là 54 dân tộc, 54 bản sắc, mỗi
dân tộc một chữ viết, tiếng nói và phong tục tập quán nhưng chúng ta đều từ một cha một mẹ sinh ra. Mà
47
cùng cha mẹ thì là anh em, nên hãy đối xử với nhau như “thủ túc”, và nhớ lấy câu ca “gà cùng một mẹ chớ
hoài đá nhau”.
=> Những câu thơ như thôi thúc lòng đoàn kết thương yêu, đùm bọc của nhân dân ta. Đó là bức thông điệp
xanh nhà thơ muốn gửi đến bạn đọc.
7 câu thơ tiếp:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Ý 1 : Truyền thống của nhân dân.
- Thế hệ này nối tiếp thế hệ sau, những người đi trước đã khuất và những người mai sau – hai thế hệ :quá khứ
và hiện tại. Vậy người đọc tự hỏi nhịp cầu nào nối hai thế hệ trên? Phải chăng đó chính là những người đang
sống hiện tại. Họ phải làm gì để nối tiếp và phát huy truyền thống đó?
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Nghĩa vụ thiêng liêng của nhân dân Từ niềm băn khoăn đấy tác giả đã cho thế hệ trẻ hiện tại thấy rõ những
nghĩa vụ thiêng liêng họ phải làm được.
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Người đọc ngỡ ngàng với điều tưởng chừng như giản đơn ấy mà NKĐ lại cho rằng đó là nghĩa vụ của nhân
dân. Nếu như chúng ta nhìn nhận vấn đề mang tính thời sự thì thấy nhà thơ đã sâu sắc vô cùng khi đã đi trước
thời đại, cho đến tận hôm nay vấn đề này vẫn còn mang tính chất nóng hổi.
- Yêu nhau và sinh con đẻ cái, vốn như một quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người lại là nghĩa vụ của
công dân đối với đất nước. Nếu không có tình yêu lứa đôi, kết hoa thành tình cảm gia đình và cho trái quả
ngọt là những đứa con thân yêu thì một dân tộc liệu có thể trường tồn hay không, hay nó sẽ đứng trên bờ vực
của sự lụi tàn. Một chân lí quá đỗi giản đơn nhưng mấy ai hiểu thấu, NKĐ đã đánh thức trách nhiệm, nghĩa
vụ và quyền lợi thiêng liêng này của nhân dân để tạo nên sức mạnh của dân tộc.
- Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau:
+ Đây là trách nhiệm cầu nối, là sự gắn kết quá khứ và tương lai của những người đang sống trong hiện tại.
Họ sẽ là những người làm nốt những công việc còn dang dở của thế hệ đi trước. Và phải dặn dò, khuyên bảo
con cháu, những thế hệ mai sau hãy tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha anh, làm cho
những truyền thống ấy ngày càng trường tồn, phát triển.
+ Gắn kết vào thời điểm hiện tại thì dân tộc ta đang trong cuộc chiến chống Mĩ, những thế hệ cha ông đã bao
người đổ máu, đã ngã xuống cho độc lập tự do của tổ quốc, nhưng cho đến thời điểm đó công cuộc này còn
đang dang dở, thậm chí tình hình cuộc chiến đang trong thế nước sôi, lửa bỏng. Vậy nên điều NKĐ muốn nói
với thế hệ trẻ thanh niên của miền Nam hãy đứng lên, tiếp bước cha anh, đứng lên đánh đuổi quân thù để
không phải hổ thẹn với cha anh. Đồng thời nếu họ ngã xuống khi tuổi đời còn xanh, khi nhiệm vụ chưa hoàn
thành thì họ hãy yên tâm, bởi hậu thế mai sau sẽ tiếp bước làm nốt những việc còn dang dở.
=> Một dòng chảy lịch sử của dân tộc đang tuôn chảy trong từng câu từ, đang thấm dần vào tâm hồn thế hệ
trẻ, và chúng ta tin rằng họ đã được đánh thức, vì kết qủa cuộc kháng chiến đã là minh chứng hùng hồn cho
điều đó, bới không có minh chứng nào hùng hồn hơn thực tế lịch sử.
Ý 3 : Cách thức.
- Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ.
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Phải chăng điều nhà thơ muốn nhắc nhở mọi người là nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào,
người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình. Nhắc đến chuyện
xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở, không khác nào câu ca:
Dù ai đi ngược về xuôi
48
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Nhớ về nguồn cội quê hương, dân tộc cũng chính là cốt lõi sức mạnh trong tâm khảm mỗi con người. Đó là
tình cảm thiêng liêng làm cho chúng ta trưởng thành.
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

=>Vậy là những người đọc hôm nay đã hiểu phải làm gì, làm như thế nào và làm như vậy sẽ được kết quả gì.
Những điều tưởng như quá khô khan, lớn lao và cứng nhắc của vấn đề chính trị nhưng đã được NKĐ mềm
hóa qua những vần thơ giản dị, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người. Chất trữ tình chính trị cứ ngọt ngào và lắng
sâu tạo nên sức truyền cảm cho bản trường ca về ĐN.
9 câu thơ tiếp.
Ý 1: Đn có trong mỗi chúng ta . Câu thơ như lời bộc bạch của đôi lứa khi cảm nhận thấy tình yêu đn cháy
bỏng, đang chảy trong máu xương cốt tủy của mình :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc... luôn là những khái niệm
trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi,
thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong ca dao, dân ca có không ít những câu hát như thế:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là nơi ta yêu tha thiết. Song, cái mới ở khổ
thơ của Nguyễn Khoa Điềm là Đất Nước ở trong mỗi một con người, Đất Nước ở trong ta: Trong anh và
em ... Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm... Nhưng điều tinh tế mà tác giả diễn đạt trong ý thơ đầy
sâu sắc. Trong anh và em chỉ có một phần của đn, và ở mỗi người cũng chỉ có một phần nào trong đó thôi.
Ý 2 : Đn trong sự gắn kết của mọi người. Nên để đn ấy trọn vẹn thì :
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
- Đn hài hòa nồng thắm trong tình yêu của đôi lứa, và vì trong anh với em đều có một phần của đn nên khi
anh cầm tay em đn sẽ đẹp hơn.
- Nhưng chưa thể đủ để hình hài một đn được trọn vẹn, muốn thế thì anh và em phải cầm tay mọi người, để
mỗi cá nhân là một mảnh ghép trong bức tranh toàn diện về đn, khi tất cả mọi người cầm tay nhau thì đn ấy
sẽ vẹn tròn, to lớn. Khi các thành viên trong gia đình yêu thương nhau, gia đình này gắn kết gia đình kia, làng
quê này gắn bó với làng quê khác thì đn ấy tự nhiên sẽ vẹn tròn, to lớn. Để hiểu hết ý nghĩa của cụm từ: vẹn
tròn, to lớn có lẽ ta sẽ thấy vai trò không hề nhỏ của mỗi cá nhân với đn mình. Đn có hùng cường, mạnh mẽ,
phát triển được hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ lực của cá nhân mỗi người. Từ đó mỗi người hiểu
được trách nhiệm của mình.
- Hai câu thơ (bốn dòng) được cấu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của câu có điều kiện trong văn xuôi hay
lời nói thông thường: Khi... Đất Nước. Hai câu thơ cũng là những lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức)
về một chân lý. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay diễn tả sự
thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ (hài hoà, nồng
thắm, vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có sức
nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa thứ hai, tác giả không trực tiếp nói
ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất
nước là một thực thể sống và sự sống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ
ràng, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con người với đất nước.
Ý 3: Ước mơ về tương lai tươi sáng của dân tộc.
Mai này con ta lớn lên
49
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
- Hai từ lớn lên thể hiện ước nguyện của tuổi trẻ hôm nay và mai sau sẽ trưởng thành toàn vẹn cả về ngoại
hình và trí tuệ, có kiến thức, trí tuệ, đủ sức, đử tài để tiếp cận những KHKT tiên tiến của nhân loại, góp công
sức mình cho sự phát triển của dân tộc. Để cho đn tiến xa hơn nữa trên xa lộ phát triển của thế giới. Thực hiện
ước mong của vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc, đưa đn « bước lên đài vinh quang, sánh vai với các
cường quốc, năm châu ».
- Cụm từ đi xa, những tháng ngày mơ mộng như một ẩn dụ nói lên khát vọng chính đáng về sự lớn mạnh,
trường tồn, phát triển của đn trong tương lai.
Ý 4: Lời nhắn nhủ thế hệ trẻ.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
- Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất nước là ... nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, phải biết...
phải biết... để làm nên ... Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết.
- Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hoá thân, dáng hình, muôn đời.
Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định Đất nước là máu xương của mình.
Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu
trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự
sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự
sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ.
+ Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ.
+San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực
thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng.
+ Hoá thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thời
chiến, người ta có thể dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc
hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia
làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời!
=> Những câu thơ in đậm chất duy lý (khá chặt chẽ, logic) cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết
tha, thúc giục lòng người. Nhà thơ đã thể hiện những suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng
trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện về đất nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng
liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân tộc, hẳn
người ta phải biết làm gì cho Tổ quốc, giang sơn.

Phân tích đoạn thơ còn lại


Những người vợ nhớ chồng...trăm dáng sông xuôi
Đoạn thơ chính là lời khẳng định cho tư tưởng đn của nhân dân, nd làm ra đn.
a, Đoạn thơ đầu:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

50
Đn yêu thương, niềm tự hào vô tận của mỗi cá nhân. Còn với NKĐ đã thể hiện tyêu của mình với quê hương
thật đặc sắc qua những vần thơ đầy tự hào khi nhắc tên những địa danh, những danh lam thắng cảnh của tổ
quốc thân yêu dọc theo chiều dài đn từ Bắc vào Nam.
Ý 1: Biện pháp nghệ thuật điệp kê liên tiếp những địa danh, những danh làm thắng cảnh đẹp lộnglaayx
và nổi tiếng của đn VN như : núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, trăm ao đầm, Đất tổ Hùng Vương, núi Bút non
Nghiên, Hạ Long...Tất cả những danh lam thắng cảnh này là do bàn tay của tạo hóa, của mưa nắng thiên
nhiên tạo thành. Nhưng bằng tyêu quê hương đn của mình, qua con mắt nhà thơ, những địa danh, những danh
lam thắng cảnh đó được hun đúc và tạo nên từ chính cuộc đời, phẩm chất của những người dân VN qua
nghìn thế hệ. Do nhân dân hóa thân mà thành.
+ Núi Vọng Phu là bóng dáng nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến hóa đá. Do vậy nó được tạo nên từ phẩm
chất thủy chung của hàng nghìn người phụ nữ VN chờ chồng đi chinh chiến.
+ Hòn Trống Mái ven biển Sầm Sơn Thanh Hóa là bóng hình của cặp cợ chồng yêu nhau, gắn bó không nỡ
rời xa tạo thành. Như minh chứng cho nghĩa chồng vợ son sắt, thủy chung, bền chặt, keo sơn.
+ Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua khi đánh đuổi giặc Ân, nhổ tre Đằng Ngà rồi bay lên trời còn để lại trăm
ao đầm trên khắp các dải đất.
+ Đứng trên đền Thượng của đền Hùng, nhìn ra xa ta sẽ thấy có vô số những ngọn núi nhỏ như quây quần,tụ
hội, chụm đầu vào ngôi đền trung tâm. Và người xưa cònhắc đó chính là 99 con voi chầu phục về đất tổ
thiêng liêng, nơi thờ các vua Hùng, những người đã có công dựng lên đn.
+ Những con rồng nằm im góp mình làm thành dòng sông xanh thẳm, miên man với những bãi biền, những
miệt vườn xanh mướt cây cỏ và chở nặng phù sa cho Đồng Bằng Sông Cửu Long trở thành một vựa lúa lớn
nhất nước ta.
+ Người học trò nghèo khó nhưng với bản chất hiếu học đã góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên,
ngự trên vùng đất Quảng Ngãi gian khổ mà kiên cường.
+ Con cóc, con gà, những loại vật nuôi vô cùng gần gũi với người dân VN đã hóa mình cùng góp cho Hạ
Long thành thắng cảnh nổi tiếng.
+ Những người dân lao động vì đất nước họ đã đóng góp cho dân tộc trọn cuộc đời mình nên tên của họ đã
trở thành những sơn danh, những địa danh ở Nam Bộ : Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Ý 2 : Sự hóa thân từ những phẩm chất tốt đẹp và từ chính cuộc đời của nhân ta được tác giả thể hiện qua
hàng loạt các động từ mạnh : góp cho, góp nên, để lại, góp mình, hóa để thể hiện sự tự nguyện dâng hiến và
dâng hiến trọn vẹn cho đn mà không có bất kì sự toan tính nào.
Ý 3 : ý nghĩa :` NKĐ viết trường ca này năm 1971, khi đn ta đang bị chia cắt làm hai miền, nỗi đau của một
dân tộc không có sự thống nhất, chưa có độc lập tự do. Nhưng một điều người đọc nhận thấy rằng, con mắt
của nhà thơ đã đi dọc chiều dài đn, không bỏ qua một vùng miền nào : Bắc – Trung – Nam. Phải chăng bức
thông điệp xanh nhà thơ muốn gửi đến bạn đọc cũng như điều nhà thơ Tố Hữu gửi gắm trong những câu thơ
sau :
Chúng ta là con một cha nhà một nóc
Thịt với xương tim óc dính liền
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn vững là dân cụ Hồ
Chính vì vậy cuối đoạn thơ nhà thơ khẳng định :
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Mỗi danh lam thắng cảnh ở mỗi một miền quê dưới con mắt của nhà thơ không phải là những địa danh vô tri
vô giác, mà nó chính là dáng hình, ao ước, lối sống ông cha. Những hóa thân của nhân dân trải qua bốn
nghìn năm lịch sử mà thành.
b, Đoạn thơ cuối:
6 câu thơ đầu :
Lời thơ về đn mà ngọt ngào quá qua tiếng gọi thân thương của đôi lứa yêu nhau :

51
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
- Nhà thơ hướng người đọc vào chiều dài rất xa của bốn nghìn năm lịch sử dân tộc. Trong bốn nghìn năm đấy
là những trang sử hào hùng của một dân tộc mà chủ yếu là đấu tranh giữ nước,và còn lại là thời gian ngắn
ngủi để xây dựng tổ quốc.
- Từ láy người người lớp lớp cho thấy sự nối tiếp của các thế hệ trên con đường xây dựng quê hương đn. Một
lực lượng hùng hậu trong nhân dân suốt lịch sử suốt 4000 năm ấy. Đồng thời cho thấy tâm thế háo hức, sôi
động, khẩn trương của những con người sẵn sàng xả thân vì đn.
- Họ là ai trong nhân dân suốt 4000 năm đó ? Chính là những người Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta –
thế hệ trẻ của đn. Họ sáng ngời với phẩm chất cần cù, chăm chỉ lao động. Và vì thế họ lại trở thành anh hùng
lao động trong thời chiến và những công dân tích cực trong thời bình, nỗ lực hết mình cho công cuộc xây
dựng đn.
3 câu thơ tiếp :
- Trong thời bình những người dân là anh hùng lao động, nhưng khi có chiến tranh, có giặc xâm lăng thì họ
lập tức trở thành anh hùng chiến đấu.
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
- Từ thủa xưa truyền thống hào hùng này của dân tộc đã được phát huy cao độ. Những người nông dân nghĩa
sĩ trong văn tế của Nguyễn Đình Chiểu họ sẵn sàng từ bỏ làng quê, công việc cuốc cày quen thuộc để vào
trận. Những đồng chí trong thơ Chính Hữu cũng để ruộng nương gửi bạn thân cày, những chiến sĩ Tây Tiến
cũng sẵn sàng gác bút nghiên lên đường đi chiến đấu khi tổ quốc cần. Có cái nhìn bao quát như vậy người
đọc mới thấy hết không khí hào hùng của ngày người con trai ra trận.
- Hậu phương của họ là những người phụ nữ dứt lòng bịn rịn, đau đớn khi chia xa người cha, người anh,
người chồng, người yêu ra trận chiến đấu. Như nhà thơ Nguyễn Mĩ đã ghi lại rất đậm nét qua những vần thơ
cháy bỏng trong Cuộc chia ly màu đỏ :
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa...
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Để rồi cuối cùng mầu đỏ ấy cô gửi theo với bóng hình người chồng ra trận chiến và :
Như không hề có cuộc chia ly...
Rồi họ lặng lẽ trở về và nuôi cái cùng con, để những người cầm súng chiến đấu vững dạ, yên tâm chắc tay
súng. Không chỉ làm hậu phương vững chắc, nếu một ngày có giặc ngoại xâm đến thì họ sằn sàng vùng lên :
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Thế mới có những nữ anh hùng như chị Út tịch với câu nói nổi tiếng : còn cái lai quần cũng đánh.
Đó là phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ VN, ba đảm đang, xứng đáng với 8 chữ vàng mà Bác Hồ đã
tặng : anh hùng , bất khuất, trung hậu, đảm đang. Và chính họ đã góp phần làm nên đn.
9 câu thơ tiếp :
- Những anh hùng hữu danh: NKĐ đã đưa ra một chân lí giản đơn khi điểm danh lại bao thế hệ nhân dân
đã xả thân vì đn.
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Họ là những anh hùng mà cả nhân dân, dân tộc mãi đời đời khắc ghi. Đó là thời của các vua Hùng, thời Bà
Trưng bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Võ Thị Sáu, Tô Vĩnh Diệm, Lê Văn Tám...
- Những anh hùng vô danh :Nhưng còn có bao anh hùng vô danh, họ đã vĩnh viễn nằm xuống, xả thân cho
đn mà không cần được vinh danh và ghi nhớ, không cần lưu lại tên tuổi.
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
52
Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
=> Cả những anh hùng vô danh và hữu danh, những con người đã đổ máu xương của mình xuống cho đất mẹ
thân yêu, để rồi hôm nay trong hình đn có dáng hình của họ. Và tác giả khẳng định : họ đã làm ra Đất Nước.
7 câu thơ tiếp :
- Tác giả ca ngợi nhân dân anh hùng trong lĩnh vực văn hóa.
Nhân dân là người lưu giữ những truyền thống văn hóa của dân tộc. Cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần mang
những nét riêng đặc trưng của dân tộc VN.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
- Biện pháp nghệ thuật điệp từ « họ » để thể hiện công lao vô bờ bến, trùng trùng, điệp điệp của nhân dân
trong công cuộc giữ gìn và dựng xây đn.
- Họ lưu giữ những giá trị vật chất cho muôn đời sau.
+ Đó là hạt lúa, cây trồng chính của một đn với nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Là thực phẩm thiết yếu
hàng ngày nuôi sống bao thế hệ nhân dân. Gìn giữ nguồn sống ấy không ai khác chính là những người nông
dân vô danh và bình dị.
+ Đó là ngọn lửa hồng được chuyền từ nhà này sang nhà khác. Hình ảnh thơ gợi người đọc nhớ đến những
tình cảm xóm làng đùm bọc, gắn bó và sống nghĩa tình, bởi từ xưa nhân dân ta đã quan niệm « bán anh em
xa mua láng giêng gần, vì hàng xóm là những người tối lửa tắt đèn có nhau.
- Họ lưu giữ những giá trị tinh thần cho muôn đời sau.
+ Chiến tranh khốc liệt với bao cuộc di dân chạy loạn, tránh đạn bom, nhưng khi di cư, người dân không
quên mang theo tên xã tên làng, bởi đó chính là nguồn cội họ cần nhớ về, cần lưu giữ. Văn hóa của người
phương Đông nói riêng và người VN nới riêng là nếp sống duy tình, lá rụng về cội. Người ta có thể bôn ba
quá nửa đời nơi đất khách quê người, nhưng khi về già ai cũng trở về quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của
mình. Hoặc nếu có ở lại quê người thì họ cũng sẽ giữ những tên làng, tên xã cho con cháu họ mai sau.
+ Họ đắp đập be bờ, tạo dựng những giá trị vật chất nhưng những thế hệ mai sau lại được hưởng những thành
quả tinh thần là những trái quả ngọt ngào. Phải chăng đó là hình ảnh ẩn dụ mà NKĐ muốn người đời sau
hiểu rằng, có cuộc sống tự do, có hạnh phúc ngọt bùi ngày hôm nay chính là do công sức bao thế hệ cha anh
đã bỏ ra để tạo ra thành quả đó. Nên khi ăn trái hãy nhớ về người vun đất, chăm cây.
+ Cao hơn nữa là tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược trong bao cuộc kháng chiến của dân tộc. Với
tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh khi có giặc xâm lăng để bảo vệ tổ quốc, và khi
có nội thù họ cũng sẵn sàng vùng lên đánh bại để lấy lại cuộc sống yên bình. Nhân dân ta anh dũng, kiên
cường là thế.
6 câu thơ tiếp : Lời khẳng định vai trò của nhân dân :
Với tất cả những công lao trên của nhân dân, đến đây tác giả đã đủ cơ sở để đưa ra kết luận đầy sức thuyết
phục :
Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Từ xưa đến nay có biết bao triều đại có tư tưởng yêu nước, yêu dân : Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân ; làm lật
thuyền mới thấy dân như nước, quan nhất thời, dân vạn đại... Và hôm nay đến NKĐ vẫn nối tiếp tư tưởng
của cha ông nhưng lai có điểm đổi mới, sáng tạo hơn là đn ấy còn là đn của ca dao thần thoại. Đây là một
quan niệm chính xác của tác giả. Bởi văn học dân gian chính là nụ cười nước mắt của dân, là tâm tư tình cảm
của nhân dân. Và cũng từ văn học dân gian ta nhận thấy vẻ đẹp muôn đời của nhân dân. Những con người
giàu tình yêu thương và thắm thiết tình yêu đôi lứa.
Dạy anh biết "yêu em từ thở trong nôi"

53
Những con người ân tình, ân nghĩa, đề cao tình cảm chứ không đề cao những giá trị vật chất :
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Những con người có một lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm đánh giặc :
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
=> Đọc những câu thơ mà người đọc được trở về với những câu ca dao quen thuộc thủa xưa mẹ hay hát,
những câu chuyện dân gian đầy triết lí nhân sinh. Với tình yêu lứa đôi
Yêu em từ thủa trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru
Hay :
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng
Rồi truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, cùng với câu ca dao
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què
4 câu thơ kết : Khúc ca mong ước của nhà thơ.
Không phải ngẫu nhiên nhà thơ chọn hình ảnh kết thúc đoạn thơ là hình ảnh dòng sông với đầy những ẩn ý.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Dòng sông ngàn năm vẫn trôi chảy như đn vẫn ngàn đời phát triển. Không biết rõ dòng sông bắt nguồn từ
đâu cũng như không ai hiểu rõ cặn kẽ cội nguồn đn, nhưng chỉ hiểu rằng khi về đn mình thì bắt lên câu hát,
có niềm say hoan lạc, vui ca. Tiếng hát ấy ngân nga trong giọng hát của người chèo đò, kéo thuyền vượt thác,
để rồi đn theo khúc hát ngân nga gợi lên trăm sắc màu trên trăm dáng sông xuôi đang ngày đêm miệt mài
chảy.
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Trăm sắc màu lộng lẫy trên dòng sông của dân tộc, phải chăng đó là những phẩm chất, truyền thống tốt đẹp
của người dân VN đang tỏa sáng lung linh. Chính điều này tạo nên vẻ đẹp, sức mạnh và sự cuốn hút của dân
tộc VN trong niềm tự hào vô bờ của nhà thơ.
3. KB
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đề tài Đất nước . Từ những
cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng
vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn
khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại. Mỗi tiếng thơ vang lên là một
lời thúc giục mỗi cá nhân hãy ra sức cống hiến hết mình cho đn. Đó là trách nhiệm, nghĩa vụ nhưng cũng là
tình cảm cao cả thiêng liêng trong mỗi con người mà nhà thơ NKĐ đã dạy cho chúng ta.

SÓNG
Xuân Quỳnh
1MB: Một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: “Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi.” Thật vậy, từ
ngàn đời nay tình yêu luôn là điều bí ẩn, là đề tài vô tận của văn chương. Nhiều văn nhân thi sĩ đã mượn văn
chương để lí giải tình yêu nhưng chẳng ai cắt nghĩa trọn vẹn hai mĩ từ ấy. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng ví von
54
“Yêu là chết trong lòng một ít”, Đỗ Trung Quân cũng từng thốt lên rằng “Anh đã thấy một điều mong manh
nhất – Là tình yêu, là tình yêu ngát hương” và cũng không quên nhắc đến “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh.
“Sóng” là nơi gửi gắm những tâm tư sâu kín, những trạng thái phức tạp tinh vi của tâm hồn người thiếu nữ
khi nói về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
2TB:
a, Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ.
XQ viết rất nhiều và rất hay về tình yêu. Chị đã để lại cho đời nhiều bài thơ hay và xúc động lòng người như
Thuyền và biển, Tự hát, Thơ tình cuối mùa thu…Nhưng có lẽ hay và sâu lắng nhất là Sóng. Bài thơ được viết
trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ khốc liệt. Một lần nữ sĩ đi công tác tại vùng biển Diêm Điền,
đứng trước biển chị mới nhận thấy rằng sóng là phần động nhất của biển, là gương mặt của biển, luôn ào ạt,
trào dâng vô hồi vô tận giống với nhịp đập của con tim bồi hồi, xao xuyến của tình yêu lứa đôi. Chính vì vậy
chị đã mượn hình ảnh sóng để nói hộ tình yêu trong trái tim của người con gái. Bài thơ được viết năm 1967
và được in trong tập Hoa dọc chiến hào năm 1968.
b, Ý nghĩa nhan đề.
- Chủ đề sóng trong thơ xưa: Trong thơ xưa người ta đã biết mượn hình ảnh sóng để nới về tình yêu, nói hộ
tình yêu. Ca da có câu:
Sóng xình xịch lưng chừng ngoài bể bắc
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên
Em muốn nằm lơ đi mà ngủ, ngủ cũng không yên
Bởi sóng to nước cả biết tấp con thuyền tình nơi đâu
Hay như trong Truyện Kiều, ND có viết:
Sóng tình dường đã siêu siêu
Nghe trong ong bườm có chiều lả lơi
Và Xuân Diệu cũng viết:
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
- Điều mới mẻ khi xây dựng hình tượng sóng của XQ: Thế nhưng những nhà thơ xưa thường nói chung
chung, khái quát, đến XQ, với tâm hồn tinh tế trái tim nhạy cảm, chị đã mượn tất cả hình ảnh, những gương
mặt, trạng thái, tính cách cuả sóng để nới hộ tyêu và kết cấu lặp đi lặp lại. Hình tượng sóng xuyên suốt bài thơ
trở thành hình ảnh ẩn dụ biểu tượng ẩn dụ để song hành cùng hình tượng em. Có lúc sóng và em tách nhau ra
để soi chiếu vào nhau, làm nổi bật nhiều cung bậc cảm xúc trong tyêu. Có lúc sóng và em lại hòa vào nhau để
cộng hưởng làm tăng những xúc cảm mãnh liệt của tyêu đang trào dâng trong lòng.
- Thể thơ năm chữ bổ sung ý nghĩa cho hình tượng sóng: Cùng với hình tượng sóng thể thơ năm chữ, mỗi
khổ thơ lại có 4 câu tạo nhịp thơ nhanh, mạnh, gấp gáp, nối tiếp nhau diễn tả những đợt sóng biển đang trào
dâng ào ạt cũng như những lớp sóng lòng đang cuộn lên trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Phân tích bài thơ
1. Khổ thơ thứ nhất: Sóng có những mặt phong phú đối lập.
a, Vai trò của khổ thơ đầu: Cả bài thơ khổ nào, câu nào cũng hay nhưng có thể nói khổ thơ đầu tập trung
cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ và cảm hứng thẩm mĩ của bài thơ. Sóng như một sự hóa thân của người con
gái, đặc biệt là trái tim của người con gái khi yêu. Ngay từ những câu thơ đầu tiên XQ đã đưa người đọc đến
với thế giới ào ạt của sóng.
b, Phân tích:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
* Hai câu đầu: Những cung bậc của sóng.
- Nghệ thuật liệt kê: Với phép tu từ liệt kê, nhà thơ đã truyền cho người đọc thêm những cảm nhận về đặc
điểm của sóng trên biển khơi, rất phong phú, đa dạng, muôn hình muôn vẻ. Lúc thì sóng dữ dội, ồn ào khi
bão tố hay sóng gió nổi lên, lúc thì dịu êm, lặng lẽ như mặt biển những ngày lặng gió, hay mỗi lúc bình minh
khi ban mai tỏa rạng.
- Từ láy tượng hình được tg sử dụng liên tiếp gợi ra trước mắt người đọc những đợt sóng biển liên tiếp thay
đổi những cung bậc trạng thái.

55
-Phép đối lập tương phản: Dù sóng có rất nhiều cung bậc, trạng thái khái nhau nhưng được XQ quy về hai
mặt đối lập: Khi dữ dội, ồn ào, lúc lại dịu êm, lặng lẽ. Đó chính là quy luật muôn đời của sóng ngoài biển
khơi.
- Nghệ thuật ẩn dụ: XQ không chỉ đơn thuần miêu tả các cung bậc vốn có của sóng biển, mà còn qua đó
muốn ẩn chỉ những xúc cảm của em trong tình yêu bởi chính chị đã tìm thấy những nét tương đồng giữa sóng
và tình yêu của em, đang xao xuyến, xốn xang khi tyêu đã trào dâng trong lòng. Cũng như trong bài thơ
Thuyền và biển XQ có viết.
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thì thầm gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Nhưng ngay sau đó lại là:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thủa
Có bao giờ đứng yên
Với trái tim nhạy cảm, tinh tế, với XQ tyêu của em có nhiều những cung bậc, trạng thái, cảm xúc đối lập
nhau. Cũng giống như nhà thơ Ta go đã nói về tình yêu:
“Nỗi vui sướng và khổ đau của nó là vô biên
Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu”
- Điểm đổi mới của XQ:
+ Tyêu của người phụ nữ trong xh xưa: Trong hàng nghìn năm XHPK, người con gái VN chịu ảnh hưởng
nặng nề của tư tưởng pk, họ không dám bộc bạch tâm hồn của mình, luôn giữ nét kín đáo, e ấp nên có yêu họ
cũng không dám nói:
Yêu anh chẳng dám nói ra
Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời
+ Tyêu người PN trong thơ XQ: với những vần thơ táo bạo này XQ là nhà thơ nữ đầu tiên dám nói về tình
yêu của chính mình, của trái tim người phụ nữ đang rạo rực tyêu. Thế nhưng dù nói hộ tâm hồn những người
pn đang yêu nhưng không hề thô ráp mà vẫn giữ lại vẹn nguyên nét nữ tính, dịu dàng vì điểm đến cuối cùng
trong cung bậc cảm xúc tyêu là sự êm đềm, bình yên nên không phải ngẫu nhiên XQ lại để các cung bậc cảm
xúc rất nhẹ nhàng ở cuồi mỗi câu thơ “dịu êm, lặng lẽ”. Đó cũng là lúc người con gái lại thu mình trở về với
chất nữ tính đáng yêu, họ lặng lẽ, dịu êm ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm:
Có những tình yêu không thể nói bằng lời
Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt
Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất
Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên
(Đinh Thu Hiền)
* Hai câu sau: Hành trình của sóng.
- Chính vì sóng có những cung bậc cảm xúc vô cùng phong phú và đối lập nên sóng không chấp nhận một
không gian nhỏ hẹp là dòng sông. Vì khi ở lại với sông sóng không bộc lộ được mình, nên sóng đã tự mình
làm một cuộc hành trình táo bạo, vất vả, gian lao ra tận bể lớn. Nơi ấy sóng sẽ tha hồ được vùng vẫy để được
thể hiện hết mình.
- Cũng như sóng tình yêu của em không chịu sự thỏa hiệp trong không gian nhỏ hẹp nên luôn khát khao vươn
tới những chân trời rộng lớn. Vì vậy em cũng không bao giờ chấp nhận một tình yêu trói buộc, ích kỉ thì tyêu
đó sẽ chết. Muốn nó vĩnh cửu, vĩnh hằng thì phải để nó vươn tới chân trời tự do, rộng lớn của tyêu nhân loại
để tìm được tình yêu đích thực của mình. Chỉ có đến với tyêu ấy em mới được sống là chính mình, được bộc
lộ mình một cách tự nhiên và đầy đủ nhất. Như thế mới thỏa lòng hạnh phúc.
-> Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ
thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá
không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm
tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Sóng không cam chịu một cuộc sống đời sông chật
hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Tình yêu của Xuân Quỳnh

56
cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên
trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung.
->Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại. Có thấy ngày xưa quan
niệm tình yêu cổ hủ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” để rồi bao cô gái đã phải cất lên lời than van ai oán:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Từ đó ta mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh: Người phụ nữ chủ động
tìm đến với tình yêu để được sống với chính mình.
=> XQ thật khéo léo khi mượn hình ảnh sóng để hóa thân và bộc bạch kín đáo tyêu, nỗi lòng vốn khó nói
nhất của người phụ nữ, tế nhị nhất nhưng cũng đầy đủ và không kém phần táo bạo. Ngay trong khổ thơ đầu ta
thấy sóng trào dâng nhiều trạng thái và tyêu của em cũng mang nhiều cung bậc, phong phú đấy nhưng đối
lập, đối lập nhưng lại thống nhất trong trái tim thổn thức yêu đương của em.
2. Khổ thơ thứ hai: Tính vĩnh hằng muôn thủa của sóng.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
* Hai câu đầu: Quy luật của biển khơi.
- Thán từ ôi: Từ “Ôi!” cảm thán như tiếng lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Đồng thời cũng
thể hiện sự xúc động của nữ sĩ khi khám phá ra quy luật của biển khơi: Sóng là bộ mặt của biển, có biển là có
sóng, sóng mãi vĩnh hằng và ngự trị ở nơi đây.
- Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau”: càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng, như một quy
luật muôn đời, bất biến chẳng thể đổi thay. Sóng là thế muôn đời vẫn thế vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ
như tình yêu tuổi trẻ có bao giờ đứng yên.
* Hai câu sau: Quy luật của tình yêu.
- Thật đơn giản như một phép so sánh tương đồng: có biển là có sóng, cũng như vậy có tuổi trẻ là có tyêu.
Bởi tình yêu tuổi trẻ luôn khát vọng luôn khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi hồi khát khao và nhung nhớ
bởi:
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
Hay:
“Bắt chim bướm thả vào vườn tình ái”
(Xuân Diệu)
Và chính nữ sĩ XQ của chúng ta cũng từng viết:
Tiếng yêu từ những ngày xưa
Trải bao năm tháng bây giờ đến ta
Tiếng yêu từ những ngày qua
Vượt bao cay đắng vẫn là vẹn nguyên
-> Quan niệm của nhà thơ là nói về tyêu của nhân loại nói chung, cứ truyền từ đời này qua đời khác không
bao giờ mai một. Thời nào thì tyêu vẫn cứ vẹn nguyên, nóng hổi, đắm say, ngọt ngào trong trái tim của con
người.
- Tình yêu không giới hạn ở một độ tuổi nào, nhưng XQ lại nhận thấy tyêu rạo rực, đắm say và mãnh liệt nhất
trong lứa tuổi trẻ. Chính vì thế nhà thơ không viết là ước vọng mà là khát vọng như muốn nói rằng khao khát
yêu đương ấy không chỉ là trong suy nghĩ, trong ước mơ mà nó sẽ thể hiện ra bằng hành động để biến ước
mơ trở thành hiện thực. Tình yêu làm điên đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn, những cồn cào da diết
như lời thơ Xuân Quỳnh đã từng viết
“Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu mong nhớ”
Còn nhà thơ Xuân Diệu lại đưa ra một chân lí giản đơn của tyêu như một tất yếu của cuộc sống:
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tyêu
57
Có yêu nhau mới thấy được cồn cào của vị nhớ, mùi ái ân, mới thấy được thế nào là bồi hồi, xao xuyến của
tyêu trong lồng ngực trẻ.
=>Nếu sóng vĩnh hằng muôn thủa là nhịp đập trong lồng ngực biển khơi thì tyêu là bất biến, là nhịp đập
mạnh mẽ và mãnh liệt nhất trong lồng ngực trẻ.
3. Khổ thơ thứ ba, thứ tư: Tính bí ẩn, khó lí giải:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
-Tình yêu là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu cầu tự nhận thức, tự
phân tích, lí giải, nhưng lại không thể cắt nghĩa nổi của tình yêu. Tình yêu cũng như sóng biển, gió trời vậy
thôi, nó tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên.
- Điệp ngữ liên tiếp em nghĩ về :Người phụ nữ băn khoăn, trăn trở về cội nguồn của sóng biển và khởi
nguồn của tình yêu rồi bộc bạch một cách hồn nhiên, chân thành sự bất lực không lý giải được câu hỏi muôn
đời ấy trong tình yêu:
“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Đây là một cách cắt nghĩa về tình yêu rất Xuân Quỳnh, một cách cắt nghĩa giàu nữ tính, rất trực cảm. Lí giải
được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi « Sóng bắt đầu từ gió » nhưng để hiểu « Gió bắt đầu từ đâu » thì thi
nhân lại ấp úng « Em cũng không biết nữa ». Cũng như tình yêu của anh và em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên
bởi « Tình yêu đến trong đời không báo động ». Câu thơ « Em cũng không biết nữa » như một cái lắc đầu
nhè nhẹ, bâng khuâng và phân vân. Đến câu hỏi « Khi nào ta yêu nhau » thì đúng là nữ sĩ đang bâng khuâng
và băn khoăn. Kì lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ ? Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải
nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa.
Xuân Diệu – ông hoàng của thi ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu :
Đố ai định nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người
đi tìm và khám phá. Tình yêu không có tuổi cũng như « xuân không ngày tháng ». Tình yêu là một ẩn số giữa
hai thế giới tâm hồn chứa đầy bí mật.
Dù tin tưởng chung một đời một mộng
Anh là anh mà em vẫn là em
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Những tâm hồn bí mật ấy luôn khao khát giao hòa, khao khát khám phá nhưng lại không lý giải nổi tình yêu.
Ta-go nhà thơ Ấn Độ cũng từng nói lên nhũng bí ẩn muôn thủa của tình yêu :
Cuộc đời anh ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu
Bởi tình yêu là bài toán chưa có lời giải đáp, tình yêu như bài thơ chưa có hồi kết. Vì thế tình yêu luôn đẹp,
luôn mới và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã lắc đầu, cái lắc đầu chấp nhận đầy nữ tính và rất XQ :
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
4. Khổ thơ thứ năm: Nỗi nhớ trong tyêu.
- Nỗi nhớ tyêu được nhắc nhiều trong thơ xưa : Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ – một trong những gam
màu chủ đạo của tình yêu, là tín hiệu của tình yêu. Bao kẻ nhớ người mình yêu mà đảo điên:
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em
58
(Xuân Diệu)
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
(Ca dao)
- Nỗi nhớ tyêu của XQ :
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Những con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
- Hình thức đặc biệt của khổ thơ : Hòa cùng những con sóng: sóng thơ, sóng lòng, ta tìm về cõi sâu kín của
tâm hồn thi sĩ và cũng là của muôn kiếp “má hồng”. Bài thơ “Sóng” ra đời khi những con sóng lòng dâng lên
dữ dội, những con sóng nhớ thương, thao thức của một tâm hồn đang yêu. Cả bài thơ là những đợt sóng nối
nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và nhân vật em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm,
những tâm tư. Đây là một khổ thơ vô cùng đặc biệt bởi trong bài thơ chỉ duy nó có sáu câu. Sáu câu thơ trải
dài như nỗi thao thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong đêm. Hay điều XQ muốn nói là : Nếu khổ thơ thứ 5
này là trọng tâm của bài thơ Sóng thì nỗi nhớ chính là trọng tâm của tyêu. Sáu câu thơ trải dài như nỗi thao
thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong đêm.
- Quy luật của sóng biển :
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước”
- Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo
nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại
dương nhưng cũng có con sóng cuộn trào trong lòng biển cả. Con sóng ngầm còn mãnh liệt hơn cả con sóng
trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Sóng là em, em là sóng. Cũng như
sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm khi nồng nàn dữ dội,
nhưng thế nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ôm trong lòng một nỗi nhớ thương không dứt. Cũng như
sóng kia thôi, dù dịu êm hay dữ dội thì:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ khi
yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ sóng thôi không vỗ, có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thôi ngừng
hành trình đến với bờ dù muôn vời cách trở. Sóng chẳng còn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã
được Xuân Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo “không ngủ được”. Sóng là vậy, dù lặng yên dưới
lòng biển hay dữ dội trên mặt đại dương thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ
thì nhớ thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ “bởi hôn mãi ngàn năm không thỏa/ Bởi
yêu bờ lắm lắm em ơi”. Nên con sóng đã hành trình vượt qua không gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất
chấp cả thời gian “ngày đêm không ngủ được” để quyết tâm hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ.
- Quy luật của tyêu :
Và nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh. Đó âu cũng là quy luật của tình yêu.
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh dùng chữ “lòng” rất tinh tế. Nếu những câu thơ trước em không hiện hữu mà mượn sóng nói
hộ lòng mình thì đến lúc này khi bao xúc cam trào dâng, em không thể kìm nén nên đã xô đi cái vẻ ngoài vay
mượn của sóng để rồi tự bộc bạch nối lòng mình. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con người. Nơi bí mật
thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói “lòng em nhớ” nghĩa là chị đã phơi bày tất cả gan
ruột của mình để dốc hết yêu thương mà gửi về người mình yêu. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian
được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong
cách nói nghịch lý “cả trong mơ còn thức”.
Câu thơ “cả trong mơ còn thức” lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm đảo lộn nhịp sống bởi “tình yêu
luôn làm cho con người khó thức ngủ theo giấc giờ điều độ”. Nỗi nhớ không chỉ làm lòng em “bổi hổi bồi
hồi, như đứng đống lửa như ngồi trong than” nó còn làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong giấc
59
ngủ. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực, da diết, nó ăn sâu vào tiềm thức, len lỏi cả vào miền vô thức, trong giấc
ngủ mỗi đêm. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca
hiện đại Việt Nam.
5. Khổ thơ thứ sáu: Lòng thủy chung.
Sóng và em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang
theo lớp lớp tâm tình của em:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
- Từ dẫu được nhác lại đến hai lần trong hai câu thơ như những giả thiết trong cuộc đời. Phải chăng điều XQ
muốn nói dù cuộc đời này có thiên biến vạn hóa, có thay đổi bãi bể nương dâu thì tình yêu của em cũng
không bao giờ thay đổi.
- Cách diễn đạt mới mẻ: Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, không khoanh vùng
địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy
bằng tất cả sự nhạy cảm của lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho một cái tôi của con người luôn vững tin ở
tình yêu. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói “Xuôi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xuân Quỳnh lại nói
“Xuôi Bắc, ngược Nam” là cách nói ngược. Phải chăng cuộc đời là những khó khăn trắc trở và tình yêu thì
luôn đối mặt với thử thách. Thậm chí trong tyêu là những phút xao lòng nhưng nhờ có la bàn tyêu mà con tim
em không bao giờ bị lệch hướng. Phải chăng tình yêu đã làm cho con người bị đảo lộn phương hướng ?
Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không thể nào nguôi nhớ đó là phương anh:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” về phương anh:
Chỉ riêng điều được sống cùng anh
Niềm mơ ước trong em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh
Thế mới biết tình yêu của chị nồng nàn, mãnh liệt thế nào. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời
khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã là “hệ qui chiếu” của đời
em. Cuộc đời này dẫu bốn phương tám hướng, thì trái tim em chỉ hướng về nơi duy nhất với “phương anh”.
Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn
không có giới hạn. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của chị:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
Một trái tim của người phụ nữ đầy yêu thương.
- XQ thật tinh tế khi phát hiện ra lòng thủy chung chính là chất keo gắn kết, là nguồn nuôi dưỡng tyêu, đặc
biệt là những tyêu trong xa cách. Như những vần thơ của một nhà thơ Nga tôi vẫn nhớ:
Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà khi em xa anh
Đời vẫn xanh vời vợi
Trong cuộc sống đầy biến động của ngày nay khi tình cảm chân thành trở nên xa lạ thì có lẽ những vần thơ
này đáng để cho thế hệ trẻ hôm nay suy ngẫm.
6. Khổ thơ thứ bảy: Niềm tin và hi vọng.
Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt, những nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ
này nhà thơ lại thể hiện những băn khoăn, lo lắng. Đó cũng là trực cảm của tình yêu.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
- Ba từ “Ở ngoài kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về khơi xa nơi trăm ngàn con sóng
ngày đêm không không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian thăm thẳm muôn vời cách trở để hướng
60
vào bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Dù con sóng có phải gồng mình vượt qua một chặng đường xa từ đại dương
ngoài kia, vượt qua muôn vời cách trở thì nó cũng sẽ làm mọic cách để đến với bờ. Đó là niềm tin, một lòng
một dạ của sóng. Chính niềm tin này đã tạo động lực cho sóng cập bến bờ yêu thương.
- Niềm tin của em: “Em” cũng muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình
yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn
cội yêu thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc
trọn vẹn của lứa đôi. Bởi em biết rằng tyêu có gặp muôn vời những cách trở như chính chị đã từng nói:
Tyêu như hàng cây
Đã qua mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên mùa thác lũ
thì chỉ với niềm tin tyêu ấy sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Bởi tyêu không chấp nhận những kẻ hèn nhát cơ
hội, những kẻ ghen tuông mù quáng. Tyêu cần lắm một niềm tin chân thành.
7. Khổ thơ thứ tám: Nỗi lo âu, trăn trở.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
- Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn
khoăn của chị. Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo.
Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất
cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng
tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu:
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi
Hay:
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình ai có đổi thay
Nhưng đồng thời XQ cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến vói
bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé
sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản,
đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu.
8. Khổ thơ thứ chín: Khát vọng dâng hiến.
- Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của
mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng
hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong
quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của
một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất
khiêm nhường : trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Nhà
thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa
mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố
Hữu).. Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh ? Vâng! Đó không chỉ là
tinh thần của con người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tấm lòng luôn tha thiết với sự sống,
với tình yêu.
- Người đọc so sánh câu thơ của XQ với một câu thơ của XD sẽ thấy ngay cái mãnh liệt và chung thủy đến
muôn đời của tyêu trong trái tim người phụ nữ. XD cũng nói tyêu như con sóng biển hôn bờ thật dào dạt
nhưng rồi cũng lặng yên trong kết thúc viên mãn:
Đã hôn rồi hôn lại
61
Hôn mãi đến muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
Nhưng sóng tyêu của XQ một khi đã hòa vào biển lớn tyêu của nhân loại thì nó còn vỗ bờ cho đến mãi ngàn
năm.
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai
đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc
đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng
thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.
3. KB:
Bài thơ Sóng là bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Thành công của bài thơ là nhờ vào thủ pháp nghệ
thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, đối lập… nhất là thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp
điệu của tâm hồn. Tất cả đã làm hiện lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh giàu trắc ẩn suy tư và khát vọng trong tình
yêu. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người
luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu
lứa đôi, chị đã làm phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà.

62
ĐÀN GHI TA CỦA LOR – CA
Thanh Thảo
1. MB : Là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kì gian khổ nhưng
Thanh Thảo không viết nhiều về thời kì kháng chiến. Có lẽ ông thực sự để lại tên tuổi của mình với những bài
thơ thời hậu chiến. Sở trường của nhà thơ đó là khắc họa chân dung của những người nghệ sĩ và một trong
những bức chân dung thành công nhất của Thanh Thảo đó chính là chân dung G. Lor-ca trong bài thơ "Đàn
ghi ta của Lor-ca”, một người nghệ sĩ nổi tiếng của Tây Ban Nha nói riêng và của Châu Âu nói chung trong
cuộc chiến tranh TG lần thứ 2. Tác phẩm được xem là linh hồn của tập thơ “Khối vuông ru-bích” xuất bản
năm 1985. Bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" được xem như bản điếu văn bằng thơ rất đẹp mà Thanh Thảo đã
dành tặng Lor-ca. Thông qua đó, Thanh Thảo đã thể hiện sự đồng điệu trong tâm hồn mình, sự phá cách đối
với thơ ca giai đoạn thời kì hậu chiến.
2. TB :
a. Nhà thơ Thanh Thảo:
Một trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại. Muốn cuộc sống được cảm nhận và thể
hiện ở chiều sâu nên luôn khước từ lối biểu đạt dễ dãi; đào sâu vào cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu
đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, giải phóng mọi ràng buộc nhằm mở đường cho một cơ chế liên tưởng
phóng khoáng, xoá những khuôn sáo bằng những nhịp điệu bất thường, đem đến cho thơ một mĩ cảm hiện
đại bằng hệ thống hình ảnh và ngôn từ mới mẻ. Kiểu tư duy: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc
cảm và nhuốm màu sắc tượng trưng siêu thực.
- Tượng trưng: tìm vào trạng thái tâm hồn với những linh cảm được khơi dậy từ vô thức, cho rằng hiện tượng
trong vũ trụ tồn tại như những dấu hiệu tượng trưng cho bản chất huyền bí của tạo vật mà chỉ riêng nhà thơ
mới có những thiên bẩm kì diệu để thâm nhập và biểu đạt được những hình ảnh tượng trưng ấy. Thơ là một
thứ “siêu cảm giác”, không thể giải thích được. Không cần có hình tượng rõ nét, thơ được quan niệm như một
bản hoà âm hoàn hảo. Dường như có nét tương đồng giữa sinh sôi của tạo hoá với sự sáng tạo thơ ca.
- Siêu thực: Hướng tới một hiện thực cao hơn thực tại. Thế giới siêu thực chỉ có thể cảm thấy trong giấc mơ,
trong tiềm thức, lúc đãng trí, thần kinh suy nhược, rối loạn. Khám phá thế giới ấy, nghệ sĩ sẽ phát hiện ra
những điều sâu kín mà thiêng liêng, bí ẩn mà chính xác trong cuộc sống con người. Đề cao yếu tố tâm linh và
sự ngẫu hứng, sáng tác thường được cấu thành bởi những dòng liên tưởng tiềm thức rời rạc, không thể khắc
hoạ được những bức tranh thực tại toàn vẹn.
b. Phê-đê-ri-cô Ga-xi-a Lor-ca (1898-1936)
Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha. Trước một Tây Ban Nha - dưới sự
cai trị của chế độ độc tài- đã trở nên phản động về chính trị và già cỗi về nghệ thuật, Lor-ca đã nồng nhiệt cổ
vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng đồng thời cũng khởi xướng và thúc
dẩy mạnh mẽ những cách tân trong lĩnh vực nghệ thuật. Lor-ca đã tự nguyện làm người du ca đi lang thang
với cây đàn ghita hát lên những bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi bày nôĩ đau buồn và niềm khát vọng yêu
thương của nhân dân. Ông đã bị chế độ phản động cực quyền thân phát xít bắt giam và bắn chết. Cái chết
thảm khốc của Lor-ca đã dâng lên một làn sóng phẫn nộ hết sức mạnh mẽ trên thế giới với bè lũ Phờ-răng-cô.
Tên tuổi của Lor-ca trở thành biểu tượng chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân
loại.
c. Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác bài thơ “Đàn ghita của Lorca”
* Hoàn cảnh:
- Được viết liền mạch trong khoảng thời gian rất ngắn, sau khi ngồi chơi và đàn đạo về thơ Lor-ca với những
người bạn tâm đắc -> kết quả của ấn tượng và nhận thức sâu sắc của Lor-ca.
- Lor-ca là nhà thơ mà Thanh Thảo rất ngưỡng mộ. Cả thơ ca, cuộc đời và cái chết của Lor-ca đã gây cho tác
giả những xúc cảm và ấn tượng. Chính những hình ảnh và nhạc điệu trong nhiều bài thơ của Lor-ca đã dẫn
dắt Thanh Thảo khi viết “Đàn ghita của Lor- ca”
=> Kết quả của cuộc gặp gỡ về cảm xúc, giọng điệu và hình ảnh (sự gặp gỡ của hồn thơ)
- Từng được biết đến Tây Ban Nha qua những tác phẩm của Hê-ming-uê- một nhà văn Mĩ, lại đọc thơ Lor-ca
từ khi còn trẻ, hình ảnh Tây Ban Nha và hình ảnh trong những câu thơ Lor-ca đã lặn sâu vào tâm trí và trở
thành một ám ảnh để khi viết bài thơ, nó bật ra một cách hoàn toàn tự nhiên.
63
=> kết quả sự thăng hoa của vô thức và ám ảnh về con người, cuộc đời và thơ Lor-ca - một con hoạ mi Tây
Ban Nha.
* Mục đích:
Bài thơ được viết như một khúc tưởng niệm Lor-ca, làm sống dậy hình ảnh Lor-ca và thể hiện sự tri âm, đồng
cảm và ngưỡng vọng một người nghệ sĩ tài hoa có cốt cách anh hùng và số phận bi thương.
* Nhan đề và đề từ:
- Đàn ghi-ta - còn gọi là Tây Ban cầm- gắn liền với đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp và hào phóng, rực lửa và
mê đắm với những trận đấu bò và vũ điệu Fla-men-cô, cùng gắn liền với Phê-đê-ri-cô Ga-xi-a Lor-ca- một
nhà thơ nhân dân, một người chiến sĩ cống phát xít- một người nghệ sĩ đã dùng tiếng đàn ghita cất lên lời ca
tranh đấu chống chủ nghĩa phát xít vừa gắn với nền văn hoá Tây Ban Nha vừa gắn với cuộc đời và khát vọng
Lor-ca.
- “Đàn ghita của Lor-ca”: tiếng nói nghệ thuật của riêng Lor-ca - không thuần tuý chỉ là âm thanh, giai đỉệu
mà còn là toàn bộ con người Lor-ca với tinh thần đấu tranh và khát vọng đổi mới nghệ thuật. Trong trường
hợp này, cây đàn ghi-ta đã gắn bó và biểu hiện tâm hồn nghệ sĩ của Lor-ca - tình yêu cuộc sống và khí phách
kiên cường của người chiến sĩ yêu tự do, hoà nhập trái tim mình với quần chúng nhân dân.
- Câu thơ của Lor-ca “Nếu tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”: ước nguyện của Lor-ca gắn với cây đàn. Trong
cuộc sống, Lor-ca đã dùng cây đàn ghita cất lên lời ca tranh đấu thì khi đi vào cõi chết, ông vẫn muốn mang
theo cây đàn để tiếp tục hát lên những lời ca tranh đâú thì khi đi vào cõi chết, ông vẫn muốn mang theo cây
đàn để tiếp tục hát lên những bài ca của tình yêu và khát vọng tự do. Tiếng đàn ghita sẽ là sự sống, là niềm
tin, là hi vọng, là sức mạnh đấu tranh vượt lên cái chết. Sử dụng câu thơ này làm đề từ, Thanh Thảo có lẽ
muốn khẳng định rằng Lor-ca sẽ bất tử cùng với tiếng đàn, cây đàn sẽ kéo dài sự sống, nối dài khát vọng của
Lor-ca.
Phân tích bài thơ
1. Khổ thơ thứ nhất: Lor- ca, con người tự do, người nghệ sĩ cách tân trên khung cảnh văn hóa và
chính trị của TBN.
Bài thơ có lối diễn đạt không viết hoa đầu dòng tạo nên một sự liền mạch như một dòng chảy của cảm xúc
không có điểm dừng. Sự tài hoa của Thanh Thảo còn làm ta liên tưởng bài thơ như một bản đàn ngân vang
với âm thanh “li-la” mênh mang, dìu dặt vút cao chắp cánh đưa người nghệ sĩ bay vút lên trên tất cả bạo tàn
và chết chóc.
a, Lor-ca nhà cách tân của TBN qua cảm quan của Thanh Thảo.
* Câu 1. những tiếng đàn bọt nước
- Hình ảnh biểu tượng : Câu thơ là sự kết hợp của những hình ảnh nằm trong dòng liên tưởng : Tiếng đàn –
bọt nước.
+ Âm thanh tiếng đàn tài hoa, tuyệt diệu, tiếng đàn, cây đàn huyền thoại của đất nước TBN và của Lor-ca.
Nhưng đó cũng là hình ảnh hoán dụ cho sự nghiệp, tiếng thơ, tiếng lòng của chính nghệ sĩ Lor ca, và thậm chí
là cả cuộc đời của người nghệ sĩ tài ba này. Tất cả được làm sáng tỏ thông qua hình ảnh thứ 2.
+ Hình ảnh bọt nước : Là một thi ảnh thường xuất hiện trong thơ của Lor-ca, là thế giới nghệ thuật trở đi trở
lại trong thơ Lor-ca :
Sóng ơi sóng về đâu
Cứ cười và trôi đi
Đến những bờ biển cả
Tới những miền mênh mông
(Sóng ơi sóng về đâu)
@ Câu thơ gợi hình ảnh những bọt nước nhỏ bé trong đại dương mênh mông hay chính là cái cô đơn, nhỏ bé
của nhà thơ trong dòng đời mênh mông. Những bọt nước nhỏ bé, chơi vơi bất định như muốn tan biến vào
đại dương mênh mông. Cho thấy một khát khao, khát vọng vô cùng thi vị của một nghệ sĩ muốn hòa tan vào
thế giới mênh mông, thế giới của tự do.
@ Những bọt nước nhỏ bé trên mặt nước mênh mông cứ xuất hiện rồi thoáng chốc lại tan vỡ, vụt biến. Cũng
như cuộc đời và số phận ngắn ngủi của Lor-ca khi anh bị bọn thân phát xít bắt và hãm hại. Một sự tồn tại
ngắn ngủi của cuộc đời một con người với bao khát khao hi vọng đã dừng lại ở tuổi 38. Đây cũng chính là bi
kịch cuộc đời của Lor-ca.
* Câu 2. Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

64
- Câu thơ gợi nên hình ảnh truyền thống của đn TBN với những đấu trường đấu bó tót nổi tiếng trên thế
giới không lẫn với bất cứ quốc gia nào, mang đậm màu sắc TBN.
- Chứ gắt là bổ ngữ đã trực tiếp miêu tả những đấu trường bò tót quyết liệt nhưng cũng gián tiếp miêu tả
khung cảnh đn TBN đang nổi lên những xung đột xã hội dữ dội.
+ Trong nghệ thuật : Sự xung đột mới-cũ, hiện đại-bảo thủ mà L là người nghệ sĩ đi đầu trong công cuộc
cách tân nghệ thuật.
+ Trong chính trị, xã hội : Mâu thuẫn, xung đột không cân sức giữa một bên là nhân dân TBN lao động yêu
tự do, hòa bình và một bên là bè lũ độc tài phản động thân PX Phờ răng cô mà L là một chiến sĩ tiên phong
trong cuộc đấu tranh đòi tự do cho nhân dân, đn TBN.
-> Nếu câu thơ thứ nhất gợi sinh mệnh ngắn ngủi thì câu thơ thứ hai lại là sứ mệnh khao khát đổi mới TBN
của L nhưng cuối cùng anh cũng hi sinh ở tuổi 38 và Thanh Thảo phát hiện mối quan hệ nhân quả thiêng
liêng giữa sứ mệnh cao cả và sinh mệnh ngắn ngủi thông qua hệ thống hình ảnh biểu tượng của thơ tượng
trưng siêu thực.
Những câu thơ mở đầu giàu sức gợi mang đến một trường liên tưởng về một đất nước đẹp tươi với tiếng ghi
ta làm mê say lòng người, những vũ nữ Di-gan với làn da rám nắng và vũ khúc Fla-men-co cháy bỏng,
những trận đấu bò rực lửa và danh dự của người kiếm sĩ và không thể thiếu những miền thảo nguyên bao la
xanh bóng nắng. Giữa nắng và gió, giữa bao la thiên địa, L hiện lên ngời sáng trong thơ. Sự chuyển đổi cảm
giác từ thính giác sang thị giác tạo nên « tiếng đàn bọt nước » đầy biến ảo, khi tròn to, khi phập phồng thổn
thức, khi vỡ ra tức tưởi như một « thiên bạc mệnh » có tính dự báo về những chông gai, trắc trở mà số phận
người nghệ sỹ sẽ phải đón nhận ở phía trước. Và màu «áo choàng đỏ gắt» tiếp theo sau tiếng đàn bọt nước ấy
chính là những trận đấu bò sinh tử. Nhưng đấu trường bò tót ngay trong sự chuyển gam của Thanh Thảo đã
trở thành một đấu trường chính trị khổng lồ, ngột ngạt, căng thẳng, đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó. Màu
áo của kiếm sĩ « đỏ gắt » lên hay nền chính trị độc tài thân phát xít đang thiêu đốt tự do dân chủ và kiềm hãm
sự phát triển của một nền nghệ thuật đang già cỗi. Đây là một trận chiến lớn giữa một bên là khát vọng dân
chủ của nhân dân nói chung, của Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh vực nghệ thuật, đó
là cuộc xung đột giữa khát vọng cách tân của nhà thơ với nền nghệ thuật già nua. Xét ở phương diện nào thì L
cũng là một chiến sĩ đơn độc đáng thương.
* Câu 3. li-la, li-la, li-la
- Qua cảm nhận trược cảm về âm thanh thì không có âm thanh nào thân thuộc hơn với người nghệ sĩ chơi đàn
ghi ta là âm thanh của tiếng đàn. Nếu hai câu thơ đầu là khúc dạo thì câu thơ thứ 3 với những chuỗi hợp âm
tạo ra những nốt đàn buông, khoảng lặng để ca khúc bắt đầu. Giữa lúc trận đấu đang căng thẳng thì bỗng
vang lên âm thanh du dương, bổng trầm của tiếng đàn: li-la, li-la, li-la một thanh âm trong trẻo, thanh tao
quyện hòa mùi hương hoa Li-la dìu dịu, lan tỏa với những cánh hoa màu tím nồng nàn đầy sức sống giữa
khung cảnh bạo tàn và chết chóc. Đấu trường khốc liệt nhường chỗ cho sự thăng hoa của nghệ thuật. Ai nói
nghệ thuật không có sức mạnh. Không! Nghệ thuật chính là sức mạnh vô địch có thể hóa giải mọi hận thù.
Và chàng nghệ sỹ của chúng ta đang thăng hoa trong bản hòa tấu ghi-ta đầy lãng mạn. Nghệ thuật điệp với
cấu trúc nhịp 2/2/2 như âm thanh da diết vô cùng của một niềm yêu, niềm kiên nhẫn vô cùng của những khát
khao và cách tân đổi mới.
* Câu 4. đi lang thang về miền đơn độc
- Không gian của đn TBN gợi nên qua hình ảnh miền đơn độc như vẽ ra trước mắt người đọc những thảo
nguyên xanh mênh mông của TBN. Cả câu thơ hầu hết là các thanh với từ láy lang thang mở ra một không
gian mênh mông, rộng lớn. Từ láy đơn độc gợi ra những miền không gian hoang vắng, những miền ít dấu
chân người.
- Hình ảnh người nghệ sĩ: Trên khung cảnh không gian là những miền đơn độc là bi kịch của người nghệ sĩ L:
người nghệ sĩ vĩ đại, con người khái phá luôn đơn độc trên chặng đường đi tìm đổi mới cho đn TBN.
* Câu 5. Với vầng trăng chếnh choáng
- Vầng trăng xuất hiện trong thơ L như một biểu tượng của cái đẹp với những vầng trăng đỏ, vầng trăng đen.
Người đọc như đang dõi mắt theo từng bước chân lãng tử của người nghệ sỹ trên hành trình «lang thang về
miền đơn độc» cùng với «vầng trăng – yên ngựa». Đây là một hệ thống thi ảnh thường bắt gặp trong thơ
Lorca, chàng kị sỹ một mình trên lưng «con ngựa đen/ vầng trăng đỏ » với những bản đàn ghita phiêu bồng
cùng giấc mơ tranh đấu.
- Trong thơ Thanh Thảo, L hiện lên với dáng điệu «chuếnh choáng». Đây là một hình ảnh mang cái hồn say
của người nghệ sỹ, không phải cái say tầm thường của những cốc rượu vang đỏ mà là say trong tranh đấu,
65
say trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu như chàng Đôn-ki-hô-tê trong trang văn của Xec-van-tec mải miết với
giấc mơ hiệp sĩ thì L mãi « mỏi mòn » trong hành trình chống lại tộc ác của bè lũ Phờ-răng-cô. Từ láy mỏi
mòn cho cảm nhận về thời gian dằng dặc của những hành trình không có điểm dừng. Nhưng đồng thời cũng
ẩn chứa cái vô thức trong cái tôi của L: phải chăng cũng có lúc người nghệ sĩ, chiến sĩ ấy thi thoảng vẫn còn
sự ám ảnh của những phút chùn lòng đâu đó tự nhiên quay trở về. Nhưng đáng thương thay, trong hành trình
khát vọng ấy, L là một nghệ sĩ cô đơn trong sáng tạo nghệ thuật và cô độc trong chiến đấu. Nhưng không vì
thế « con họa mi của xứ Granada lại ngừng hót ». Chàng vẫn « Mãnh liệt như trăm ngàn sư tử/ Vững chắc
như cẩm thạch » (Thơ L). Chính vì thế với hai câu thơ này dù nhìn ở góc độ nào ta cũng thấy người nghệ sĩ L
với tâm hồn luôn khát khao sáng tao nghệ thuật, hướng tới cái đẹp nhưng luôn bị cô đơn.
2. Khổ thơ thứ hai, thứ ba: Hình ảnh L trong cái chết bi tráng.
* 6 câu thơ đầu:
- 2 câu đầu:
TBN
hát nghêu ngao
- Nghệ thuật hoán dụ nói TBN thay vì L bởi lẽ
+ TBN là đn của những nét văn hóa đặc sắc không chỉ với những đấu trường bò tót, với cây đàn ghi ta
truyền thống huyền thoại mà còn biết đến với nghệ thuật vũ đạo đặc sắc flamenco. Một loại hình ghệ thuật ra
đời từ thế kỉ XVI, có sự ca hát, nhảy múa với âm thanh tiếng đàn ghi ta da diết và vũ đạo hoặc đắm say, hoặc
bốc lửa. Đặc biệt là những khú hát dân ca ngọt ngào say đắm của xứ sở An-đa-lu-xi-a.
+ Nghệ sĩ L quen thuộc với nhân dân và đn TBN với hình ảnh một con người luôn dùng cây đàn ghi ta của
mình vừa sáng tác thơ, phổ nhạc, hát, đệm đàn. Những lời ca, tiếng hát, vần thơ thể hiện tình yêu với đn, con
người, quê hương TBN. Và ông đã mượn chất liệu của văn học dân gian fla-men-co và An-đa-lu-xi-a. Nên
nghệ thuật của L là nghệ thuật tiêu biểu sâu đậm cho đn, con người TBN.
-> Nghệ thuật hoán dụ đã nới rộng tầm vóc tiếng hát, tiếng thơ, tiếng lòng của L.
-hát nghêu ngao.
+ Từ láy nghêu ngao: mang sắc thái biểu cảm vừa có tác dụng xóa mờ đi đặc tính trang trọng của nhạc thính
phòng phương tây đồng thời làm tăng thêm phần dân gian cho âm nhạc và nghệ thuật của L, làm cho L gần
hơn với những cuộc đời, nẻo đường, dòng sông, đồng cỏ của đn TBN. Nhưng nó cũng mang sắc thái gợi
hình, một hình ảnh chàng ca sĩ hát rong thật thơ trẻ, trong sáng, hồn nhiên, thánh thiện. Chàng ca sĩ một mình
một ngựa lang thang trên những nẻo đường chưa có dấu chân ai và cất lên tiếng hát ca ngợi những dòng sông,
đồng cỏ, cánh đồng, vầng trăng và đn, nhân dân TBN.
-> Vẻ đẹp tâm hồn L đại diện cho đn TBN hiện ra đầy đủ và rõ nét nhất. Hai câu thơ đầu với những thanh
bằng gợi cảm giác phiêu du thanh thản nhưng càng chiến đấu, Lorca càng say mê, càng “hát nghêu ngao» thì
bỗng dưng, phũ phàng thay « đường chỉ tay đã đứt », định mệnh đã khiến chàng nghệ sĩ du ca của chúng ta
phải dở dang hành trình khát vọng.
- 2 câu sau:
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
+ Câu 3: Nếu coi bài thơ là một bản đàn, bản nhạc ghi ta miên man thì câu thơ thứ ba trong đoạn thơ này như
một nhịp đảo phách, một khoảng lặng, một nỗi đau. Dù con người ngay từ khi sinh ra mang trong mình sự
sống đã hiểu một lẽ rằng một ngày cái chết cũng đến, nhưng bản thân L luôn dự cảm của mình luôn tiên đoán
về cái chết trong bài “Di chúc sớm” nhưng đến khi đối mặt với cái chết con người vẫn kinh hoàng và câu thơ
thứ ba đã nói hết những kinh hoàng ấy. Phát súng của bọn phát xít đã đánh hạ L đáng thương. Thanh Thảo
thốt lên sững sờ «bỗng kinh hoàng ». Như không tin vào mắt mình nữa.
+ Câu 4: Cả dân tộc Tây Ban Nha bàng hoàng, cả thế giới nín lặng, bản giao hưởng chùng xuống rồi lại vút
cao lên theo « máu anh phun như lửa đạn cầu vồng ». Thanh Thảo tạo dựng cái chết đầy bi phẫn của người
anh hùng một cách tức tưởi bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa niềm tin, tình yêu và lạc quan,
khát vọng « hát nghêu ngao » với sự thật phũ phàng « áo choàng bê bết đỏ ». Đó là màu máu của L làm tấm
áo choàng đỏ gắt càng thêm «bê bết đỏ». Đối với L, anh luôn dự cảm về cái chết nhưng anh cũng không thể
ngờ rằng cái chết lại đến với mình nhanh đến thế. Anh đã từng thốt lên «Tôi không muốn nhìn thấy máu ! ».
Nhưng máu đã đổ. Người kiếm sĩ muốn một cái chết vinh quang giữa đấu trường cùng với đôi kiếm sắc
nhưng lại bị kẻ thù hành hình một cách lén lút bất minh. Nhưng L chấp nhận như người cách mạng đã chấp
nhận «Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa».
66
- 2 câu cuối:
+ Câu 5: L bị điệu về bãi bắn
Câu thơ sử dụng hàng loạt những thanh trắc như những bước chân nặng nề của L và có phần bị động khi bị
quân giặc bắt và đem đi xử tử.
+ Câu 6: Và vì chấp nhận, người anh hùng đã ung dung, bình thản ra giữa pháp trường «chàng đi như người
mộng du». Câu thơ chủ yếu là những thanh bằng và những âm tiết mở, nhẹ nhàng, trầm bổng, du dương. Với
một tâm thế đầy chủ động khi lấy lại được tinh thần sau những phút kinh hoàng ập đến. L như không bận tâm
trước họng súng quân thù, cái chết mà vẫn mải miết theo đuổi khát vọng đến cùng. Một cảm giác phiêu diêu
ở khổ thơ thứ nhất đã dần trở lại, L đang dang lang, đi phiêu diêu cùng đồng cỏ, dòng sông, với vầng trăng,
yên ngựa… Phải chăng Thanh Thảo muốn gợi lại sự trong trắng thơ trẻ trong tâm hồn người nghệ sĩ L, người
nghệ sĩ chỉ biết yêu cuộc đời. Mộng du là trạng thái của tâm hồn đã rời thể xác nhưng không có nghĩa là biến
mất khỏi thể xác. Tâm hồn và tinh thần của L đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước chân mộng du
đã hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao nhiêu chúng ta lại càng căm
phẫn tội ác bấy nhiêu. Và L đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có
thể hủy diệt được thân xác của L nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh đang bung nở giữa bản
hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng Ghita nồng nàn vi diệu.
* 6 câu thơ sau:
tiếng ghi -ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi -ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
- Điệp khúc tiếng ghi ta dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn
trong bản ghi ta bi tráng! Tôi gọi đây là khúc biến tấu của tiếng đàn, nó thay màu chuyển gam rất lẹ, biến ảo
không ngừng và đặc biệt luôn sinh sôi nảy nở, giọt này vỡ đi, giọt kia lại trào ra không dứt. Đó chính là sức
sống! Thanh Thảo sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh hoạt khi miêu tả tiếng đàn.
+ Màu nâu xuất hiện suy tư, trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn, màu nâu của đất đai, màu
nâu của làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Digan bốc lửa. Trước giây phút từ li, chàng đã ngước
nhìn lên bầu trời xanh tha thiết ”bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng, bầu trời yêu thương nơi có
bóng hình nàng Maria thủy chung.
+ Đối lập với màu nâu trầm tĩnh là màu xanh của "tiếng ghita lá xanh biết mấy”. Màu xanh là sự hóa thân
của L và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây: màu xanh của những vườn cam, màu xanh của
thảo nguyên và những rặng Oliu hay hàng bạch dương nơi L đang yên nghỉ. Hai tiếng biết mấy nằm ở cuối
câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp của tuổi trẻ L –
vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.
+ Tiếng đàn không chỉ mang sắc màu biến tấu mà còn mang hình khối, đường nét như hình hài của sinh
mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ òa, cũng biết nói tiếng nói của sự căm phẫn bạo tàn. Hay nói đúng hơn đó là tiếng
kêu cứu của nghệ thuật khi bị đẩy đến bờ vực của sự tuyệt diệt.
tiếng ghi -ta tròn
bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
+ Hai tiếng vỡ tan, vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn thức của tiếng đàn. Nó đã cất lên
lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài, hủy diệt cái đẹp. Và vì thế bản ghita bi tráng đẩy đến
độ cao trào của sự bi phẫn, nó ròng ròng máu chảy, nó uất nghẹn, tức tưởi đến bật máu thành từng dòng đau
thương trong một bản đàn giao hưởng hào sảng. Nỗi đau của tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi
khát vọng chưa thành. Ta cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
”Một cung gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Nỗi đau của Kiều khi hầu đàn Hồ Tôn
Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và tâm hồn của người sinh
ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh.
3. Ba khổ thơ còn lại:
a, Khổ thơ thứ nhất.
- Với thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng, Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian sinh tồn đầy
sức sống mãnh liệt.
67
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
* Hai câu đầu.
+ Không ai chôn cất tiếng đàn hay không ai có thể chôn cất được tiếng đàn ? Có lẽ nên hiểu theo cách thứ
hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm của tinh thần được kết tinh từ hương sắc cuộc
đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống mãnh liệt và hoang dại của nó như loài cỏ mọc hoang
không gì có thể ngăn nổi chúng. Đây chính là sự bất tử, sự vĩnh hằng của nghệ thuật. Dù L hi sinh nhưng sản
phẩm tinh thần mà ông để lại đó chính là tâm hồn mình, nghệ thuật của mình. Những bài ca tranh đấu của L
vẫn đồng hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang
trong lòng của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
+ Hình ảnh cỏ mọc hoang cũng có thể hiểu sau khi L chết, nền nghệ thuật của đn TBN không có người dẫn
đầu nên nó như cỏ mọc hoang. Như vậy ta mới hiểut hết được vai trò của người nghệ sĩ tiên phong trong cuộc
cách tân, đổi mới nền nghệ thuật TBN của L và sự ngưỡng mộ của Thanh Thảo và nhân dân TBN đối với
nghệ sĩ anh hùng này.
+ Nếu liên hệ câu thơ này với lời đề từ của bài thơ: Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn thì ta thấy rằng tâm
nguyện của L chưa được thực hiện nên có một cảm giác chua xót. Bởi hậu thế không dám chôn cất tiếng đàn
của L, những đổi mới nghệ thuật nên đã vô hình chung đã chôn vùi những cách tân đổi mới của L.
-> Cả hai nét ghĩa tồn tại đồng thời trong câu thơ này mà không hề đối lập. Vì nó mang quy luật của cuộc
sống: quy luật phủ định. Vì sự sống là đổi mới không ngừng đổi thay. Nhưng nó không phủ định hoàn toàn
mà là sự kế thừa và phát triển . Phủ định nhưng không xóa bỏ, vượt qua nhưng không lãng quên.
* Hai câu sau.
- Tính gián đoạn của câu thơ thể hiện đậm nét: Các liên kết trong câu thơ bị xóa mờ, như một đặc điểm
của thơ tượng trưng, siêu thực. Nhà thơ không chỉ đảo lộn thi pháp mà còn đảo lộn cả ngữ pháp bởi ta có rất
nhiều cách kết hợp từ ngữ trong hai câu thơ trên:
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
hoặc:
giọt nước mắt long lanh
vầng trăng trong đáy giếng
- Không chỉ bất tử, tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt vầng trăng. Một
hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của nghệ thuật được kết tinh
từ những giọt mồ hôi, từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ thuật chân chính qua bao thời gian công sức
đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài của giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết. Hay đó chính là
vẻ đẹp của cuộc đời L đã hóa thân thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng giữa đời. Bất ngờ thay, nơi đáy
giếng tối tăm và lạnh lẽo, nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp được linh hồn và thể xác của người công
dân L, lại là nơi tỏa sáng tâm hồn anh. Trước sự ra đi của L, trước những công lao của L thì nhân dân TBN,
và hậu thế cũng như nhân dân tiến bộ trên thế giới đã, đang và sẽ khóc thương L.
b, Hai khổ thơ cuối: suy tư về sự giải thoát của L.
Ở khổ cuối của bài thơ, Thanh Thảo đưa người đọc vào thế giới suy tư về sự giải thoát của L:
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghita màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Digan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la, li-la, li-la
- Hai khổ thơ tiềm ẩn những hình ảnh mang sắc thái tương phản đậm nét. đường chỉ tay đã đứt ><dòng
sông rộng vô cùng như số phận con người ngắn ngủi với cuộc đời mênh mông. lá bùa>< xoáy nước : sự
may mắn, hi vọng với nỗi kinh hoàng, bất hạnh. tim mình>< lặng yên : tình yêu và sự sống với tịch mịch, hư
68
vô của cõi chết. Tất cả như một lần nữa khẳng định một cuộc đời, sinh mệnh ngắn ngủi của một con người,
hay của chính L trước sự khắc nghiệt của định mệnh.
- Khi cuối cùng chàng nghệ sĩ của chúng ta đã dừng bước giang hồ trước dòng sông của định mệnh và chủ
động trước số phận cuộc đời khi đường chỉ tay đã đứt. Sinh mệnh chấm dứt. Chàng rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian
để trở về cõi vĩnh hằng. Dòng sông vô hình dung là dòng sông cuộc đời, dòng sông của số phận và cũng là
đường ranh giới ngăn cách giữa sự sống và cõi chết. Trên dòng sông ấy, L đang bơi sang ngang cùng di vật
đàn ghita. Màu bạc của cây đàn là sự biến ảo từ màu nâu trầm tĩnh sang xanh thiết tha hi vọng và cuối cùng là
màu của sự hư ảo trong cõi siêu sinh. L đang bơi trên con thuyền thi ca mà cây đàn chính là con thuyền bàng
bạc chở tình yêu và nỗi nhớ của chàng đang trôi dần vào bến bờ bất tử. Chàng dứt khoát rũ bỏ mọi hệ lụy trần
gian ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim vào cõi lặng yên. Xoáy nước là cuộc tranh đấu hay sự hiểm
nguy trên dòng sông của định mệnh ? Cõi lặng yên phải chăng là phút giây mà trái tim người nghệ sĩ ngừng
đập? Có lẽ ta không cần phải lí giải về nó. Bởi L đã về nơi an nghỉ cuối cùng. Chỉ còn vang vọng nơi đây âm
vọng của tiếng đàn li-la, li-la, li-la như bản nhạc thiết tha, thấm đẫm hương thơm của loài hoa Lila – tử đinh
hương đưa người nghệ sĩ – chiến sĩ về với cõi vĩnh hằng với bao niềm tiếc thương vô hạn. Tôi chợt nhớ tới
bài thơ Ghi nhớ của anh:
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi
cùng với cây đàn dưới lớp cát hàng bạch dương
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi giữa rặng cây cam
và đám bạc hà.
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi, tôi xin các người đó,
nơi một chiếc chong chóng gió.
Có lẽ ở một nơi nào đó, chàng nghệ sĩ nhân dân đang được sống giữa những sự yên vui và đầy ánh nắng của
tự do nơi đó không có bạo tàn và chết chóc.
3. KB. Bài thơ đã rất thành công khi tạo dựng một tượng đài L bằng ngôn ngữ của thơ và âm nhạc. Với lối
thơ không viết hoa đầu dòng, cảm xúc liền mạch, Thanh Thảo đã mang đến cho người đọc một mĩ cảm hiện
đại giàu tính sáng tạo. Sự trộn lẫn giữa trường phái tượng trưng siêu thực và sức sáng tạo của Thanh Thảo đã
cho ra đời một tuyệt bút đầy ngẫu hứng giàu chất nhạc. Trên hết là nhà thơ đã mang đến cho người đọc một
tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát xít bạo tàn. Bất kỳ một cuộc chiến nào cũng có người
chiến thắng và kẻ bại trận nhưng những người biết hi sinh vì mọi người luôn luôn là người anh hùng với
chiến thắng vĩ đại nhất. Gac-xi-a Lor-ca là một người như thế.

69

You might also like