Professional Documents
Culture Documents
Chuyên Đề Tác Phẩm Trữ Tình. Ôn Thi CĐ - ĐH
Chuyên Đề Tác Phẩm Trữ Tình. Ôn Thi CĐ - ĐH
TÂY TIẾN
Quang Dũng
MB.
Nhà thơ CLV đã từng tha thiết, vời vợi những nhớ thương với mảnh đất Tây Bắc:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Mỗi mảnh đất đi qua là « nơi máu rỏ » để tâm hồn ta thấm đất, mỗi bước chân là một bước ân tình. Bao
nhiêu kỉ niệm đã ăn sâu vào tiềm thức, những tháng ngày gian nan, lúc băng rừng, vượt thác, khi hào hùng,
lúc mộng mơ...tất cả chỉ bao bọc trong nỗi nhớ, niềm thương của người đại đội trưởng gửi trao những đồng
đội thân yêu. TT là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà QD gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân TT
của mình.
TB.
1. Đề tài: hình tượng người lính trong KCCP.
Có những bức tượng đài đã trở thành bất tử trong văn học viết về người lính: nữ anh hùng thủa bà Trưng,
bà Triệu “cưỡi voi xông trận”, người nông dân nghĩa sĩ với “manh áo vải, ngọn tầm vông” trong văn Nguyễn
Đình Chiểu, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung …Nhưng có một bức tượng đài đẹp như
huyền thoại trong văn học là hình tượng người lính trong KKCP. Chắc chúng ta đã biết đến người nông dân
vác súng lên đường đi chiến đấu trong bài Nhớ của Hồng Nguyên. Người đồng đội thắm thiết ân tình trong
Đồng Chí của Chính Hữu…Một mảnh đất thân quen của văn học đã bao người cày xới. Đã bao cây đại thụ
trưởng thành từ mảnh đất này. Đó là một thử thách không hề nhỏ đối với người cầm bút có ý định viết về
mảng đề tài người lính. Nhưng khó khăn càng lớn càng thôi thúc và đánh thức tài năng. QD đã không ngần
ngại khi lách bút vào kẽ hở của đề tài này và ươm lên một hạt mầm đủ sức vươn cao, trường tồn, bất tử cùng
thời gian. Tây Tiến là một minh chứng hùng hồn khẳng định lao động nghệ thuật đầy trách nhiệm, ý thức và
tình yêu của Quang Dũng.
2, Hoàn cảnh sáng tác.
Một tác phẩm ra đời đôi khi là sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm và ngoại cảnh. Tây Tiến cũng vậy,
là kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương mà QD gửi về cho binh đoàn Tây Tiến máu thịt, thân yêu của
mình.
Đặc điểm của binh đoàn TT:
- Thành phần: Đoàn quân TT được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những chàng trai
trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm
Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Đây là điểm khác biệt rõ nét làm nên chất
lãng mạn và trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người lính trong thơ QD. (so sánh với hình tượng người
lính trong bài Đồng Chí của Chính Hữu)
- Tinh thần: Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời chân lí của thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh.
- Địa bàn hoạt động: Một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu- Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo
sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi nứi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng,
nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.
- Nhiệm vụ: Chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pa-thét Lào
đánh tiêu hao sinh lực địch.
- Cuộc sống chiến đấu: Vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì
thế mà những người kính TT hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều.
Chính vì vậy chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn TT đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng
QD được chuyển sang một đơn vị khác và TT sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi tại dòng sông Đáy
hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh
ra tử lại ùa về. TT được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết QD gửi đến cho đất và người trọn vẹn một
tình yêu.
3, Nhan đề và xuất xứ bài thơ.
1
Tác phẩm văn học có thể coi như đứa con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế đặt tên cho tác
phẩm cũng là nỗi băn khoăn, trăn trở của mỗi tác giả. Có những tác phẩm tên được đặt đi, đặt lại. TT của QD
mới ra đời nó có tên là “Nhớ TT”. Nhưng có lẽ sau này QD hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói
nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ. Đấy mới là cái tài hoa
của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “TT” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là
nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” năm 1948.
Phân tích bài thơ
Bố cục: 4 phần:
1. Hình tượng người lính TT thấp thoáng ẩn hiện trên chặng đường hành quân giữa thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc.
2. Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
3. Chân dung người lính TT.
4. Lời thề gắn bó với binh đoàn TT và mảnh đất miền Tây.
4
Con đường đi với dốc tiếp dốc thì hậu quả tất yếu của nó là con đường ấy cao đến tận mây. Đây là hình ảnh
tô đậm thêm độ cao cũng như sự vất vả gian nan của người lính TT.
Ý 5: Hình ảnh súng ngửi trời.
Một nét vẽ làm câu thơ mềm mại, uyển chuyển thậm chí đánh tan hơi thở hổn hển, mệt mỏi và mang nụ cười
hóm hỉnh đến đặt trên môi những chàng lính trẻ đó chính là hình ảnh “súng ngửi trời”.
- Súng ngửi trời như một lần nữa khẳng định lại vị thế đứng của người lính TT, họ đang đứng trên tầm cao,
nơi đất trời đang giao nhau. Nhưng điều lạ là trước hiện thực ấy, QD không nói súng chạm trời hay súng chọc
trời mà lại là “súng ngửi trời”.
- Nghệ thuật nhân hóa như hé mở tâm hồn đang đùa vui, bốc tếu đầy hóm hỉnh của những chàng lính trẻ.
Những tâm hồn hào hoa, lãng mạn.
- Hình ảnh này còn tôn lên tư thế hiên ngang, đang làm chủ hoàn cảnh, đứng trên đỉnh đèo cao. Con người
mang tầm vóc kì vĩ, lớn lao. Một tư thế hiên ngang như bức tượng đài của người lính thế kỉ XX, người lính
trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ý 6: Đứng trên cao cảm nhận con đường đi.
- Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi
xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như
một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
- Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên hùng vĩ vô cùng. Bên
cạnh đó, QD còn khắc họa lại ngọn núi án ngữ sừng sững con đường đi, hai bên dốc núi nhìn lên cao chót vót
nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- Câu thơ ngắt nhịp 4/3 như bẻ đôi con đường. Hai từ đối lập, trái nghĩa: lên >< xuống khiến người đọc rơi
vào cảm giác bất ngờ, như một làn sương lạnh thốc vào giác quan chứng kiến cảnh vật biến động nhanh đến
choáng váng. Mà như nhà phê bình Trần Đình Sử đã nhận xét: đọc câu thơ mà QD cho người đọc như đang
chơi trò bập bênh đến chóng mặt.
* Ý 7: Câu thơ kết.
- Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo với nhịp thơ như hơi thở dồn dập, tác giả khắc họa cái dữ dội tột đỉnh của
thiên nhiên Tây Bắc. Những thanh bằng với nhạc điệu lâng lâng, mênh mang, QD đã thể hiện ánh mắt vô
cùng thơ mộng của người lính Tây Tiến để tìm thấy vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau khi vượt đèo cao, núi sâu. Họ tạm dừng chân bên
dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua không gian mịt mùng của sương rừng, mưa núi để ngắm nhìn những ngôi
nhà đang thấp thoáng trôi nhẹ nhàng giữa biển mưa. Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa gam màu
nóng trong hội họa dịu lại cả khổ thơ tạo nên một cảm giác êm đềm.
- Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện.
Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của Quang
Dũng, dường như nó lãng mạn hơn, trữ tình hơn. Nhà thơ đầy sáng tạo khi tả mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa
khơi". Nó gợi lên một cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng, tả mưa rừng mà cho người đọc cảm
giác như đang đứng trước biển khơi mênh mang khác nào bậc kì tài Nguyễn Tuân đã dùng lửa để tả nước
trong tùy bút Người lái đò sông Đà của mình.
- Hình ảnh ngôi nhà của ai đó thấp thoáng sau làn sương mù và mây núi thật hư ảo. Nó không chỉ có tác
dụng làm cho những người lính thấy ấm lòng khi tìm thấy cuộc sống quen thuộc nơi núi rừng hoang sơ, hiểm
trở. Mà ngôi nhà thân thương ấy còn là động lực giúp họ bước tiếp trên con đường chiến đấu gian nan đầy
hiểm nguy. Bởi:
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông
- Câu thơ thứ 7 với 8 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra một bức tranh
thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những
dòng thơ trong "Chinh phụ ngâm khúc" xưa:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
5
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
=> 6 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi
tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi
nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và hững người lính nói chung.
3, Bốn câu thơ tiếp:Người lính TT trên chặng đường hành quân.
* 2 câu đầu: sự hi sinh và lí tưởng của người lính TT.
Ý 1: Cách gọi.
Hai từ “anh bạn” cất lên như muốn đùa vui, hóm hỉnh, như một cái vỗ vai nhẹ nhàng người đồng đội thân
quen của mình. Thân thiết biết nhường nào.
Ý 2: Từ láy “dãi dầu”.
Trong dân gian ta có câu thành ngữ “dãi nắng, dầu sương” để chỉ sự vất vả, gian truân. QD đã rút gọn thành
ngữ trong từ láy dãi dầu vừa để gom lại sự nhọc nhằn của những chàng lính TT vừa để khắc họa cuộc sống và
chiến đấu đầy khắc nghiệt. Chữ "dãi dầu" đã lột tả được hết sự khốc liệt của chiến tranh. Bao nhiêu sóng gió,
hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi là những tất yếu.
Ý3: Hiện thực khốc liệt.
- Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt như vậy khiến cuộc hành quân của người lính Tây Tiên vô cùng gian
khổ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng, thấm thía"…không
bước nữa"và "gục lên súng mũ" gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Người lính ấy không rũ bỏ,
quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của họ cũng là điều tất
yếu sao? Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ.
Ý 4: Nghệ thuật miêu tả sự hi sinh.
- Cụm từ ‘bỏ quên đời” trong câu thơ có nhiều cách hiểu. Cũng có thể là người lính TT, trên chặng đường
hành quân mệt mỏi, họ không đi nữa và dừng chân lại nghỉ và giấc ngủ say đến thật nhẹ nhàng. Trong giây
phút ấy người lính như gác lại, để quên những khó khăn, nhọc nhằn của cuộc chiến đấu. Nhưng cũng có thể
hiểu rằng các anh nằm xuống và vĩnh viễn không bao giờ đứng dậy cùng đồng đội tiếp tục cuộc chiến đấu
trường kì được nữa.
- Cái chết của các anh đựơc miêu tả nhẹ nhàng, than thản"bỏ quên đời" bởi nghệ thuật nói giảm, nói tránh. Ba
chữ:"bỏ quên đời" thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ
tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng:"Cổ lai chinh chiến kỉ nhân
hồi"(xưa nay chinh chiến mấy ai trở về). Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc
ngủ mà thôi. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng đứng Việt
Nam":
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
- Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Đây là hình ảnh vừa bi
vừa hùng mang không khí thời đại. Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng: "Quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày trở về giống như một lời ca của một thời: "Đoàn vệ quốc quân 1 lần
ra đi nào có mong chi đâu ngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà quyết không lui".
=>Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến mất mát, hi sinh nhưng vẫn không bị lụy về thái độ
của người hi sinh. Người chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo đựoc khó khăn nhưng họ không chịu khuất phục.
Họ đứng trên cái chết, coi cái chết "nhẹ tựa lông hồng"và sẵn sàng đón nhận nó vì Tổ quốc thân yêu.
* 2 câu sau: Những hiểm nguy ẩn chứa nơi núi rừng.
Bấy nhiêu khắc nghiệt mà người lính phải chịu đựng vẫn chưa phải là tất cả bởi vùng rừng núi miền Tây
ấy còn là nơi ngự trị của âm u, hoang dã, của thác cao, sông sâu, suối dữ. Sự hoang dã ấy không chỉ đựơc mở
ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cả thời gian với những đe dọa khủng khiếp luôn rình rập
con người:
6
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Ý 1: Điệp từ chỉ thời gian.
- Hết chiều chiều lại đến đêm đêm, những hiểm nguy cứ kéo dài, triền miên không dứt. Lúc nào cũng đe dọa
những người lính TT.
Ý 2: Hình ảnh thác gầm thét và cọp trêu người.
- Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều
tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê
rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động những tiếng nói riêng của núi
rừng.
- Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của
núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí. Cảnh hoang vu của núi rừng Tây Bắc đúng
là thử thách ghê gớm đối với người lính Tây Tiến.
- Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian kết hợp với biện pháp nhân hóa "thác gầm
thét","cọp trêu người "đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội, hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn
rình rập đe dọa người lính của núi rừng miền Tây. Đồng thời cho thấy sự đùa vui hóm hỉnh, coi nhẹ những
gian khó hiểm nguy của những chàng lính trẻ.
- Qua cách sử dụng thanh điệu: hai thanh trắc là hai dấu nặng ở hai từ “hịch, cọp” nhà thơ Trần Lê Văn từng
nhận xét "Hai chữ có dấu nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp". Trước đó lại kết hợp với cả hai
thanh bằng đã tạo nên một quá trình rình mồi rồi bất ngờ vồ mồi của loài cọp dữ dội, quyết liệt. Hình ảnh trên
trang giấy được nhà thơ tài tình lưu giữ thành những kỉ niệm gian khổ, khắc nghiệt không thể quên của những
chàng lính chiến.
* 2 câu cuối: Nồng ấm tình quân dân.
Đoạn thơ đã khép lại bằng một cảm xúc thật ấm áp và ngọt ngào
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi
Ý 1: Hình ảnh bát cơm nếp xôi
- Trên đuờng hành quân cheo leo đầy trắc trở đoàn quân dừng lại nghỉ chân nơi bản làng. Một bát cơm nếp
xôi còn nóng đang bốc khói, tỏa hương. Hương vị ngọt ngon của những bát xôi nếp thơm do những bông hoa
của núi rừng Tây Bắc đem tới đã khiến cho các chàng trai hào hoa, phong nhã như quên đi tất cả nỗi vất vả về
thể xác suốt dọc đường để đón nhận tình quân – dân nồng đượm.
Ý 2: Nghệ thuật sử dụng thanh điệu
- Ba thanh trắc với ba dấu sắc của từ “nhớ, Tiến, khói” không chỉ cho người đọc hình dung được làn khói tỏa
ngào ngạt của bát cơm xôi nếp, mà còn như nghe được tiếng suýt xoa của những người lính TT khi đón nhận
bát cơm còn ấm nóng tình người. Hương vị của nếp xôi, hương vị của lòng người. Chiến binh Tây Tiến hào
hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và tình người đằm thắm.
Ý 3: Hình ảnh chủ đạo.
Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những
câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha.
Ý 4: Sử dụng thán từ
Thán từ “nhớ ôi” gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau
một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi
xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp, khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần
bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một
cảnh sinh hoạt tươi vui. Mãi là mảnh tâm hồn của người cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đẹp của anh bộ đội cụ
Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng nagỳ không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
7
=> Đoạn thơ đã cho thấy nét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng câu thơ đỡ câu thơ, hình ảnh đỡ
hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng sự gian lao của hành trình những người lính Tây Tiến vẫn có
phút dừng chân thư thái yên bình những hình ảnh lãng mạn, trữ tình, thơ mộng.
14
một buổi chiều mưa ở Phù Lưu Chanh, khi những kỉ niệm của một thời trận mạc ùa về trong tâm hồn mình,
nốt nhạc đầu tiên ngân vang trong khúc độc hành ca của một thời ấy, Quang Dũng lại đến dòng sông Mã:
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!...”
Và cùng không phải ngẫu nhiên ngày tiễn biệt Quang Dũng, người bạn thân trong bản điếu văn đã thốt lên
rằng:
“Sông Mã gầm lên sông Mã ơi,
Người yêu sông Mã đã qua đời”
Ý 2: Khúc tráng ca của dân tộc.
Sông Mã đã thay mặt đất trời, nhân dân, đất nước gầm lên những khúc bi ai để tiễn biệt các anh về với đất
mẹ. Đó là tiếng khóc trường tồn, bất tử cùng thời gian. Chừng nào sông Mã còn thì dân tộc còn khóc thương
những người chiến sĩ đã hi sinh. Chính vì thế chúng ta hôm nay hiểu rằng vì sao có ngày lễ kỉ niệm 27/07
hàng năm, để nhân dân. Những người còn sống hôm nay thắp một nén hương lòng tưởng nhớ những người
con đã ngã xuông vì đất mẹ thân yêu.
=>Sự rung động của thơ ca bao giờ cũng được đo bằng nhịp đập của con tim. Trích đoạn bình giảng tác
động nhiều vào xúc cảm của bạn đọc đó là bức tượng đài của người lính Tây tiến - những con người đẹp như
chân lí sinh ra. Bởi lẽ chính thời đại đã sinh ra những anh hùng; chính thời đại đã làm nên những tên tuổi.
Đoàn binh TT năm xưa góp phần viết nên huyền thoại của Việt Nam ở thế kỉ XX, đó là huyền thoại của
những con người đáng quý, đáng yêu hơn một lần đi vào trong thơ:
“…Ôi Tổ quốc bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại vuốt hoa
Trong và thực giữa đôi bờ suy tưởng
Mà hiên ngang, nhân ái, chan hoà…”
Đoạn thơ khép lại, QD dựng lên bức tượng đài của người lính Tây tiến: oai phong, lẫm liệt khác hoàn toàn
với hiện thực nhưng ẩn chứa bên trong là một tầm hồn khao khát yêu thương, là một trái tim biết căm thù
quân xâm lược, một trái tim rực lửa anh hùng.
15
VIỆT BẮC
Tố Hữu
1. MB.
Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với
Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hoạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn
nồng, thắm thiết. Cuộc đưa tiễn người chinh phu ra trận trong Chinh phụ ngâm …Và đến văn học Việt
Nam hiện đại người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử của dân tộc giữa hai tập thể người đầy bịn
rịn, lưu luyến, vấn vương. Tất cả được ghi lại trong thước phim quay chậm mà Tố Hữu là người bấm
máy. Từng dòng thơ, từng con chữ đong đầy nhớ thương. Để rồi hôm nay khi ngồi đọc lại Việt Bắc thì
tất cả vẫn còn nóng hổi, vẹn nguyên vừa như mới hôm qua.
2. TB.
a, Hoàn cảnh sáng tác.
- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập
lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954,
các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng
cho cách mạng trong suốt những năm trường kì chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.
– Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị.
Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã từng “chia
ngọt sẻ bùi”. Người ra đi không khỏi bâng khuâng thương nhớ; người ở lại cũng không khỏi bịn rịn,
trống trải, bùi ngùi…
=>Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu – một cán bộ của Đảng, một nhà thơ lớn của
cách mạng đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy làm tên
chung cho cả tập thơ “Việt Bắc”, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của
thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
b, Kết cấu bài thơ:
Một tác phẩm có cuốn hút độc giả hay không tác phẩm ấy cần phải có một kết cấu độc đáo. Tố
Hữu đã xây dựng một kết cấu đặc biệt trong bài thơ Việt Bắc.
16
- Diễn biến tâm trạng của tác giả được phân thân vào hai tuyến nhân vật trữ tình: Người đi và người ở.
Một bên cất lên lời hỏi thì một bên đáp lại khiến người đọc nhớ đến lối đối đáp giao duyên trong ca dao
- dân ca. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng,
bằng cả nỗi nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư
tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
- Cách xưng hô “ta” – “mình” gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca, khiến
cho cuộc chia tay giữa hai tập thể người như một cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn, vấn vương,
thương nhớ như đôi lứa yêu nhau. Lời hỏi đáp như lời thủ thỉ ân tình cứ ngọt ngào thấm sâu vào lòng kẻ
ở người đi.
c, Phân tích.
21
+ Mỗi câu 6 lại hướng tới "mình", những chữ "mình" tiếp nối nhau như một điệp khúc của tình
cảm. Với từ “mình” giữa người ở và người đi dường như không còn khoảng cách, không phải là hai chủ
thể, hai đấy mà như một, mình là ta và ta cũng như mình. Nếu vậy ta mới thấy hết cái nhớ thương, lưu
luyện đến vô cùng của những con người đang đứng trong cuộc chia tay này. Có khác nào:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi hóa dại khờ
+ Khi cuộc chia tay diễn ra cũng là lúc nỗi lòng người ở lại trào dâng sự trống vắng, hẫng hụt, nên tiếng
lòng cứ bật lên gọi mãi, gọi hoài, gọi rồi những vẫn chưa thỏa nên cứ đòi thương, đòi nhớ, đòi yêu qua
điệp từ “mình” đầy thiết tha, sâu lắng.
Ý 2: Cách sử dụng hai từ “về” và “đi”.
- Nghĩa gốc: Bản thân hai từ đi và về là hai từ trái nghĩa nhau, nên với hình thức thì khi Tố Hữu sử dụng
chúng trong các câu thơ 6 tiếng như bản thân nghệ thuật tương phản, đối lập, như tạo nên sự hài hòa cân
xứng.
- Nghĩa trong câu thơ:
+ Ở trong văn cảnh này thì về cũng là đi, đi cũng là về. Điều này đã làm nên sự thay đổi kì diệu trong ý
nghĩa của ngôn từ và trong cuộc chia tay. Nếu người ra đi mà xa thực, thì sự trống trải, hẫng hụt trong
lòng người ở lại sẽ mênh mông nhường nào? Nhưng nếu hiểu đi cũng là về thì sự trở lại, đoàn tụ, sum
họp sẽ ấm áp biết bao? Đó là sự an ủi cho cả người ở và người đi trong cuộc chia ly này.
+ Đi mà là về cũng như một sự ẩn ý đầy sâu xa. 15 năm trước ai đã là người dân Việt Nam hẳn còn nhớ
cuộc chia tay vĩ đại của người dân Hà Thành với thủ đô yêu dấu, thực hiện kế hoạch vườn không nhà
trống để đối phó với Thực dân Pháp mà nhà thơ Chính Hữu đã ghi lại trong bài thơ Ngày về:
Nhớ đêm ra đi đất trời như bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Ngày ra đi đau đớn biết bao thì nay ngày trở về lại hát vang khúc ca khải hoàn. Ta đã chiến thắng,
trở về tiếp quản thủ đô, lấy lại những gì ta đã tạm quên suốt 15 năm kháng chiến. Niềm hân hoan ấy
hạnh phúc và viên mãn đến nhường nào. Cách sử dụng ngôn từ thật tài tình Tố Hữu đã làm giảm chất
sầu bi trong cuộc chia tay, đồng thời còn mở ra trong lòng những con người cách mạng, kháng chiến
một niềm tin, niềm vui mới.
Ý 3: Cách sử dụng câu hỏi tu từ “có nhớ”:
Chữ "mình", chữ "đi" bao giờ cũng kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu luyến kẻ về xuôi
biết bao. Xuất hiện dưới hình thức một câu hỏi tu từ như một lời khẳng định cảm xúc nhớ thương, da
diết, cháy bỏng và nỗi niềm nhạy cảm về sự trống vắng, buồn hiu quạnh, hoang sơ nơi núi rừng khi cán
bộ cách mạng và bộ đội đã về xuôi nên người ở lại cứ đòi thương, đòi nhớ, đòi yêu và tự cho mình
quyền nhắc nhở người ra đi phải luôn nhớ về những kỉ niệm đẹp dù đầy gian khổ đau thương nhưng
cũng không kém phần hào hùng, đằm thắm mà ta và mình đã cùng nhau xây đắp suốt 15 năm.
Ý 4: Cách sử dụng những cụm từ gợi nhắc kỉ niệm:
- Người ở lại nhắc đến “những ngày” của 15 năm khắng chiến ta và mình đã gắn bó, đồng cam cộng
khổ cùng xây dựng chiến khu VB, cùng nhau làm nên cuộc cách mạng thắng lợi.
- Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là một nét vẽ hiện thực trong bức tranh về
thiên nhiên VB. Những khó khăn, khắc nghiệt của mảnh đất núi rừng nơi đây: Mây phủ quanh năm và
sương mù giăng mắc. Dù khó khăn đấy nhung cũng làm nên sự mênh manh hư ảo trong dòng hoài niệm
về VB mỗi khi người ra đi nhớ lại khung cảnh nơi đây.
- Hình ảnh “chiến khu”: Nơi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đã chọn để xây dựng căn cứ địa cách mạng
bao gồm 6 tỉnh độc lập: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà giang, Lạng Sơn. Nơi ấy
trong 15 năm cách mạng chính là thủ đô thứ hai, căn cứ đầu não chứa toàn bộ cơ quan trung ương của
Đảng, chính quyền cách mạng, nơi gắn kết nhân dân và cán bộ cách mạng, nơi tình quân dân thể hiện
thắm thiết nhất.
- Hình ảnh “rừng núi”: Không gian VB với những cánh rừng già đại ngàn hiện lên trong kí ức của
người về xuôi. Những cánh rừng làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc bởi “rừng che bộ đội, rừng vây
quân thù” nên thử hỏi làm sao người ra đi không nhớ không thương.
- Hình ảnh những ngôi nhà thân thương, đơn sơ nhưng thắm đượm ân tình đã nuôi dưỡng che giấu cán
bộ, bộ đội.
22
- Không gian “núi non” trập trùng nơi chiến khu VB cũng là một hình ảnh khắc ghi trong tiềm thức của
người ra đi.
Ý 5: Câu 6 đặc biệt nhất đoạn thơ.
* Sự thay đổi ý nghĩa từ mình.
- "Mình đi mình có nhớ mình" . Một câu thơ sáu tiếng mà tác giả sử dụng đến 3 từ mình, điều mà chúng
ta chưa hề gặp trong ca dao. Nhưng điều đáng nói hơn là từ mình ở đây lại biến ảo vô cùng về ý và tình.
Nếu như người đọc băn khoăn liệu cả 3 từ mình này có chung một ý nghĩa hay không? Đi tìm đáp số
cho câu trả lời trên chúng ta sẽ cùng giả thiết những nội hàm khái niệm của nó.
- Từ mình đầu tiên và thứ hai lại một lần nữa vang lên để khẳng định sự thật là người đi đã đi rồi, đã
chia tay nhân dân VB về xuôi.
- Đến từ mình thứ ba thì ý nghĩa đã có sự thay đổi. Chúng ta có thể hiểu mình ở đây là người ở lại nhưng
đồng thời cũng là người ra đi: Người ở lại nhắn nhủ nhẹ nhàng: mình có đi, có về xuôi liệu còn nhớ
nhân dân VB đã gắn bó ân tình bao ngày tháng, cũng là lời nhắc khéo mình có về thủ đô, chốn phồn hoa
đô hội thì cũng đừng quên những ngày tháng gian khổ nơi chiến khu mà mình đã gồng mình, quân và
dân cùng gánh vác nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, kỉ niệm đó của mình luôn hiển hiện hình bóng ta,
nhó đến mình là cùng nhớ về ta trong năm tháng đó. Mà như chính nhà thơ đã nói rõ ý tình trong một
cặp lục bát ở phần thứ hai của bài thơ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
=> Nếu hiểu theo hai ý trên thì từ mình đã có sự biến ảo về ý nghĩa: Mình cũng là ta, ta cũng như mình,
mình và ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Và người đọc thấy được sự gắn bó keo sơn, thủy
chung son sắt, trước sau như một của ta với mình, dẫu có xa mặt mà không cách lòng.
*Nghệ thuật điệp.
- Từ mình được điệp lại ba lần trong một câu thơ 6 tiếng cho thấy nỗi nhớ của nhân dân VB, những
người ở lại với người ra đi như trào dâng như những lớp sóng lòng, khôn nguôi. Biết mình đi nhưng vẫn
nhắc, vẫn nhớ, vẫn bật lên những tiếng gọi lưu luyến, bịn rịn, nhớ thương.
- Một lần nữa khẳng định tình cảm keo sơn giữa hai thập thể người, quấn quýt không rời.
* Điểm nổi bật của những câu thơ 8 tiếng:
-Đại ý:
+ Nếu những câu thơ 6 tiếng có cấu trúc lặp lại tương tự nhau như lời nhắn nhủ của người ở lại với
người ra đi, hỏi đấy nhưng đâu cần câu trả lời. Thì những câu thơ 8 tiếng đủ sức nặng để trải lòng, để
người ở lại nhắc về những kỉ niệm mà ta với mình đã gắn bó suốt 15 năm. Đó cũng là bức tranh tái hiện
chân thực cuộc sống, chiến đấu của quân dân VB trong cuộc khắng chiến chống Pháp của dân tộc.
+ Những câu thơ 8 tiếng có kết cấu nhịp rất giống nhau:4/4 đều đặn tạo âm hưởng hài hòa, réo rắt, du
dương như tiếng lòng bâng khuâng tha thiết của người ở lại với người ra đi.
Ý1: Câu 8 thứ nhất.
"Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù"
Thiên nhiên VB hiện lên với những nét đặc trưng rất riêng.
- Nét dữ dội, hùng vĩ: Nhà thơ khắc họa thiên nhiên bằng hình ảnh “mưa nguồn”, gợi những trận mưa
rừng xối xả, dữ dội, mạnh mẽ tạo nên những “suối lũ” để tăng thêm uy linh cho thiên nhiên VB: vừa
hùng vĩ, vừa dữ dội. Đó cũng là tác giả gián tiếp khắc họa những khó khăn gian khổ của quân và dân
VB phải đương đầu và trải qua trong cuộc chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc.
- Nét thơ mộng, trữ tình: Thiên nhiên VB không chỉ hùng vĩ mà còn toát lên vẻ đẹp đầy thơ mộng và
trữ tình. Với hai nét vẽ mây và sương mù mà không gian VB thêm hư ảo. Hãy hình dung trước mắt
chúng ta là bạt ngàn một không gian núi rừng bao la, hùng vĩ mây núi cây rừng cứ thấp thoáng ẩn hiện,
sương mây thì trắng, cây lá thì xanh. Người đọc như mãn nhãn với hình ảnh thi trung hữu họa này của
tác giả. Đẹp như chốn bồng lai.
Ý2: Câu 8 thứ hai.
"Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"
- Cuộc sống vật chất: Cuộc sống chiến đấu của quân dân VB được tái hiện chân thực qua hình ảnh thơ
“miếng cơm chấm muối” đã đủ để thấy cái khó khăn gian khổ, đói nghèo của nhân dân VB nói riêng và
23
nhân dân cả nước nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi còn nhớ một câu thơ đau đớn của
những kiếp nghèo trong kháng chiến:
Xưa con khóc đòi cơm chấm muối
Mẹ tìm đâu ra muối con ăn
Đó cũng là một khó khăn, trở ngại cho quân và dân VB. Một miếng cơm chấm muối nhưng vẫn sẻ chia
cùng nhau, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là sức
mạnh giúp quân ta có được quyết tâm: Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
- Cuộc sống tình thần: Gánh nặng lớn nhất quân và dân VB mang trên vai đó chính là mối căm thù
giặc sâu sắc mối thù nặng vai. Nghệ thuật ẩn dụ chuyến đổi cảm giác đã cho người đọc phần nào cảm
nhận được nỗi căm thù ấy. Vốn chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác nhưng qua cách diễn đạt của Tố
Hữu người đọc như đang cùng quân dân VB chung vai vào gánh một mối thù giang sơn là nỗi căm hờn
quân giặc đã xéo gót giày xâm lược, chà đạp lên quyền sống, quyền tự do, dân chủ của nhân dân, dân
tộc ta. Bao nhiêu con người là bấy nhiêu mối thù, bao ngày giặc tàn phá quê hương là bấy nhiêu ngày
đau thương tang tóc. Nên mối thù ấy ngày một lớn lên, nó hiện hữu và đang đè nặng trên vai, đòi hỏi
quân dân cùng đồng lòng, chung sức đập tan mối căm hờn đó.
- Nghệ thuật đối lập, tương phản: Hai vế thơ tương xứng 4/4, với nghệ thuật đối rất chỉnh. Nếu cuộc
sống vật chất của cuộc chiến đấu thiếu thốn, gian khổ bao nhiêu thì nỗi căm hờn với quân thù trong lòng
đầy ắp bấy nhiêu. Khó khăn, gian khổ không làm nguôi ngoai quyết tâm đánh giặc của quân và dân ta,
ngược lại nó còn thôi thúc quân dân VB một lòng, một dạ chung tay chung sức đánh đuổi kẻ thù. Sự
thiếu thốn về vật chất lại làm tăng thêm sức mạnh tinh thần. Bạn đọc hôm nay có lẽ đã tìm ra một chân
lí thật giản đơn về sức mạnh của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của
dân tộc, điều làm nên chiến thắng lẫy lừng của nhân dân ta mà ngay cả các nước đế quốc, thực dân đến
tận ngày hôm nay vẫn không thể hiểu vì sao đất nước Việt Nam nhỏ bé, nhân dân Việt Nam đói nghèo
mà lại có thể đánh bại những đế quốc hùng cường nhất thế giới. Thật đáng trân trọng và tự hào biết bao
truyền thống của dân tộc ta.
Ý3: Câu 8 thứ ba.
- Thiên nhiên VB: Đọc câu thơ "Trám bùi để rụng, măng mai để già" , người đọc đơn thuần tưởng Tố
Hữu miêu tả nét thiên nhiên đặc trưng của núi rừng VB, nhưng tìm vào sâu trong ý tình câu thơ ta như
cảm thấy nỗi ngậm ngùi, nhớ thương.
+ Thiên nhiên VB: Trên những cánh rừng đại ngàn VB thường mọc hai loại cây: trám và măng mai.
Những cây trám thân gỗ đại thụ, làm tăng thêm vẻ uy nghi cho núi rừng VB. Còn những vàn măng mai
bạt ngàn với màu xanh của loài cây họ tre trúc này như tăng thêm sức sống cho cây rừng nơi đây. Đây
còn là hai thực phẩm chính mà núi rừng đã ban tặng cho quân dân VB. Vị trám muối mặn mòi nồng ấm
ân tình mà người dân VB giành cho bộ đội. Cây măng mai, ngọt bùi mà người dân VB đã mất bao công
sức tìm, đào và chế biến trở thành những món ăn thiết yếu cho cuộc sống chiến đấu nơi đây. Mà như
chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi lại:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
=> Miêu tả thiên nhiên nhưng Tố Hữu cũng gián tiếp phản ánh cuộc sống chiến đấu của quân và dân
VB: thiếu thốn, gian khổ mọi đường. Đồng thồi cũng cho thấy tình cảm, sự chăm sóc quan tâm của
nhân dân VB với cán bộ, bộ đội. Họ chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho bộ đội. Với cuộc sống thiếu
thốn đủ đường nhưng người dân VB đã tìm mọi cách khắc phục để đảm bảo điều kiện, sức khỏe cho bộ
đội ta chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.
+ Tình cảm của người VB: Nhà thơ miêu tả một sự thật của thiên nhiên là khi cán bộ, bộ đội cùng ở với
nhân dân thì người đông như kiến, bao nhiêu trám, măng của núi rừng cũng là chưa đủ nuôi quân bởi
trong bài Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Phạm Tiến Duật có viết “hết rau rừng em có lấy măng
không”. Thì giờ đây khi bộ đội về xuôi, những trái trám bùi không có người ăn, những búp măng non,
ngọt không có người lấy nên mới có khung cảnh trám rụng, măng già. Miêu tả cái dư thừa của vật chất
trong thiên nhiên mà nói được cái thiếu thốn vô cùng trong tình cảm của người ở lại khi người ra đi đã
về xuôi. Cái ngút ngàn của rừng trám, vàn măng vốn vô tình nhưng trong câu thơ của Tố Hữu lại bỗng
trở nên có hồn. Một nỗi nhớ vô tận, vô cùng của người dân VB với người ra đi sau cách nói đầy ẩn ý.
Người đi dù đã đi thật nhưng nhân dân VB mỗi khi lên rừng nhìn thấy trám rụng, ra nương thấy măng
24
mai già thì nỗi nhớ lại trào dâng. Khi nào trám hết, măng tàn thì người VB mới nguôi nỗi nhớ thương.
Một cách diễn đạt sâu nặng nghĩa tình.
Ý4: Câu 8 thứ tư.
"Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"
- Cuộc sống vật chất: Thể hiện chân thực qua hình ảnh những ngôi nhà “hắt hiu lau xám”. Những ngôi
nhà nghèo khó, giản đơn của nhân dân VB dựng vội trong cuộc kháng chiến để lấy chỗ ở, chỗ nuôi giấu
cán bộ, bộ đội. Ngôi nhà tranh, vách nứa và lợp bằng cỏ lau đã phản ánh phần nào cuộc sống đầy rẫy
những khó khăn, thiếu thốn của quân và dân ta.
- Cuộc sống tinh thần: Điều ghi lại dấu ấn trong cả lòng người ở và người đi chính là tấm “lòng son”
thắm thiết. Tấm lòng ấy là tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân như cá với nước, mặn nồng như tình
yêu lứa đôi của ta với mình. Nhưng chưa đủ, tình cảm ấy mãi mãi không phai nhòa, thủy chung, trước
sau như một của những con người từng vào sinh ra tử cùng nhau, những con người sẵn sàng ngã xuống
cho tổ quốc thân yêu, sự gắn bó máu thịt vô điều kiện.
- Nghệ thuật đối lập, tương phản: Hai vế câu thơ đối nhau rất chỉnh tạo ra một thế cân bằng cho người
đọc, cũng như chính nhân vật trữ tình trong bài thơ. Cuộc sống vật chất tuy thiếu thốn mọi bề nhưng đổi
lại là tình cảm dạt dào. Đó là sợi tơ vô hình gắn kết quân và dân trong cuộc kháng chiến.
- Từ láy “hắt hiu”: Sự hiu quạnh, trống vắng của nhân dân VB để nói hết được có lẽ không còn ngôn từ
nào đạt hơn khi tác giả chọn từ láy hắt hiu. Nếu ngày trước quân dân cùng nhau gắn bó, sống và chiến
đấu thì chiến khu VB đông vui, nhộn nhịp với không khí khẩn trương, thần tốc. Nhưng nay khi bộ đội
về xuôi thì còn đâu khung cảnh “xóm dưới làng trên, cơm nắm, cơm đùm ríu rít theo nhau”, nên sự
trống trải vô cùng mà người ra đi để cho người ở lại là sự hiu hắt đến vắng lặng trong những ngôi nhà
tranh mà thủa nào sớm tối có nhau.
Ý5: Câu 8 thứ năm.
- Tác giả đã tái hiện thời gian của cuộc kháng chiến mà quân và dân VB đã trải qua: “Nhớ khi kháng
Nhật, thủa còn Việt Minh”. Quãng thời gian suốt từ mùa xuân năm 1941 khi Bác Hồ thân yêu về nước,
dựng căn cứ địa cách mạng trên chiến khu VB, cho đến tận chiến thắng lịch sử của trận Điện Biên Phủ
hào hùng. Trong khoảng thời gian dài suốt 15 năm ấy nhà thơ Tố Hữu không nói toàn bộ lịch sử mà
chọn những mốc son quan trọng.
+ Thời kì kháng Nhật là một bước ngoặt đầy khó khăn trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. Khi thực
dân Pháp còn chưa ra khỏi bờ cõi nước ta, nhưng trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít trên thế giới,
Pháp đã hèn hạ mở cửa nước ta, quỳ gối rước Nhật vào, trong vòng 5 năm từ 1940-1945 chúng đã bán
nước ta hai lần cho Nhật, để nhân dân ta chịu cảnh một cổ ba tròng: Trên một thửa ruộng bọn phong
kiến, địa chủ bắt nộp tô, bọn thực dân bắt đóng thuế, phát xít thì bắt nhổ lúa trồng đay. Đẩy nhân dân ta
rơi vào nạn đói khiến hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Đó là thời kì đầy đau thương của dân tộc. Nhưng
nhân dân cũng đã vượt qua, đập tan chủ nghĩa phát xít, đuổi cổ bọn thực dân lấy lại nền độc lập của dân
tộc.
+ Việt Minh: Việt Nam độc lập đồng minh, còn gọi là Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt
Minh, là liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập vào ngày 19 tháng 5 năm 1941
với mục đích công khai là "Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn
thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập ".
Và kết quả là nhân dân và cách mạng đã giành được thắng lợi. Thủa còn Việt Minh là một thủa hào
hùng, vàng son của dân tộc một đi không trở lại nhưng cả quân và dân VB mãi khắc ghi trong tim như
một khúc tráng ca về độc lập, tự do.
=> Câu thơ tái hiện lại giai đoạn lịch sử khó khăn nhất của dân tộc, nhưng nhân ta đã kiên cường vượt
qua bằng chính sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Giờ đây nhìn lại không chỉ là kỉ niệm mà còn là
niềm tự hào của dân tộc.
Ý6: Câu 8 thứ sáu.
- Lịch sử tái hiện: Câu thơ 8 cuối cùng như thước phim tài liệu quay chậm về cuộc kháng chiến chống
Pháp của dân tộc. Bao chiến thắng lẫy lừng làm vang tên bao địa danh, bao di tích lịch sử mà muôn đời
vẫn còn là niềm tự hào vô bờ bến của nhân dân ta: "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa".
- Nghệ thuật đảo ngữ: Nếu bạn đọc chú ý thì sẽ thấy câu thơ này tác giả đã tách những cụm từ đã
tương đối cố định, đó là "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào" ra như một sự sáng tạo độc đáo của
riêng mình. Viết như Tố Hữu trong câu thơ này người đọc như đang ngấm dần một phong vị của ca
25
dao, dân ca nơi đồng bằng Bắc Bộ. Với không gian vốn đã quen thuộc từ ngàn đời: Cây đa, bến nước,
sân đình.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
Hay:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Phải chăng chính nỗi nhớ thương, quyến luyến đã nâng bước chân, đưa tầm hồn của người ở lại theo
bước chân người ra đi về xuôi cho thỏa nỗi nhớ mong.
=> Nét đặc sắc trong câu 8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật đối. Tố Hữu đã sử
dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất cả các câu 8 ở đây, nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của
đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kỉ niệm. Cả tiểu đối
và trường đối đều được sử dụng hiệu quả. Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như: "Miếng cơm
chấm muối /mối thù nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí giữa nhân dân và cách mạng. Khó
khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với thực dân phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa cuộc
sống gian khổ và lòng người qua những hình ảnh đối chọi nhau "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son".
Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của VB đối với cuộc chia tay "Trám bùi để rụng, măng mai để
già". Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục ngữ, nhưng với Tố Hữu, nghệ thuật đối đã có
những sáng tạo. Ở đây không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế đối. Có lối đối giữa
các vế trong một câu nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối ngay trong một vế câu như "mưa nguồn /
suối lũ" rồi "những mây / cùng mù"; lại có những biến thể lồng chéo tạo nên các vế đối như trong
trường hợp "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa". Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc
điệu được tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.
3 KB.
Thơ Tố Hữu với "Việt Bắc", đặc trưng trữ tình không chỉ hiện ra từ những câu thơ lục bát vốn mang âm
điệu tha thiết mà còn thể hiện ở cấu tứ, ở ngôn ngữ luôn luôn tràn đầy cảm xúc. Vì thế khúc hát mở đầu
cho "Việt Bắc", khúc hát về cuộc chia tay lớn gắn liền với đời sống chính trị của dân tộc, khúc hoài
niệm về những tháng ngày cách mạng mà vẫn có sức lay động tình cảm của người đọc, làm rung động
trái tim mỗi con người Việt Nam ở thời điểm tràn đầy sung sướng và hạnh phúc kia. Với đoạn thơ mở
đầu này, ta cũng đã thấy "Việt Bắc" của Tố Hữu rất giàu chất dân tộc, chất dân gian, giàu nhạc tính.
28
+ Hình ảnh người thương: Bếp lửa ấy vương vấn bóng dáng đi về của người thương. Độc giả tự băn
khoăn người thương được nhắc đến ở đây là ai? Có thể là một người em gái dân tộc nào đó đã để
thương để nhớ cho những anh chàng lính chiến, nên nỗi nhớ gửi về là nỗi nhớ cho đôi lứa yêu nhau.
Nhưng cũng có thể là bóng dáng thân thuộc của bất cứ người dân VB nào đã gắn bó cùng bộ đội suốt 15
năm, giờ đây chia xa ắt hẳn phải để thương để nhớ trong lòng người ra đi.
+ Kết hợp hai hình ảnh: Sự gắn kết hình ảnh người thương và bếp lửa hồng cho thấy tình cảm nồng
ấm của người ra đi với nhân dân VB.
- Nhớ từng rừng nứa bờ tre: Những rừng vầu, tre, nứa là đặc trưng nơi núi rừng VB, rừng che bộ đội,
rừng vây quân thù. Ăn, ở, sinh hoạt, chiến đấu đều trong rừng nên có thể nói sự gắn kết không hề nhỏ,
chính vì thế khi đi xa mới thấy nhớ thương.
-Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy:
+ Những con suối nào đã từng băng qua khi đánh giặc, những con suối ầm ào thác lũ chặn quân thù,
những con suối hiền hòa cho bộ đội tắm mát, những mạch nguồn trong vắt để lấy nước uống…tất cả
cùng lúc hiện về, ùa đầy trong nỗi nhớ của người ra đi về VB thân thương mà oai hùng.
+ Cụm từ “vơi đầy” cho thấy nỗi trong lòng người ra đi đã cố được nén xuống cho vơi, cho nhẹ lòng
nhưng lại cứ dâng lên, cứ đầy ắp dập dềnh những con sóng nhớ thương.
=> Tất cả những hình ảnh trên như vẽ ra một VB trong yên bình của tình yêu và nỗi nhớ đồng thời gợi
những nét nhớ nhung tưởng như nhẹ nhàng mà lại hóa tha thiết, mãnh liệt trong lòng người đi.
Ý 3: Chiều kích của nỗi nhớ: Nỗi nhớ trải dài theo thời gian: sớm, chiều, đêm, ngày; trải rộng khắp
không gian: bản làng, núi rừng, sông suối cho thấy một nỗi nhớ thường trực, da diết, rộng lớn, mênh
mang.
* 12 câu thơ sau. Nhớ khung cảnh Việt Bắc trong kháng chiến:
Ý1: Cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
- Cuộc sống vật chất: Người đi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ tuy thiếu thốn mọi đường.
+ Bữa ăn hàng ngày thật hiếm hoi mới có được bát cơm, chủ yếu là ăn khoai,ăn sắn. Nhưng đâu phải lúc
nào khoai sắn cũng đầy đủ, thế nên mới có cảnh:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bộ đội ta chỉ có củ sắn lùi nướng vội trong bếp để chia nhau cùng ăn cho qua cơn đói.
+ Giấc ngủ hàng đêm trong rừng sâu để chống chọi với những ngày đông tháng giá nơi núi cao lạnh lẽo
đó là tấm chăn làm từ vỏ cây sui đập dập, chẳng đủ ấm đâu nhưng quân dân vẫn cùng nhường nhau tấm
chăn hẹp ấy.
- Cuộc sống tình cảm: Những hình ảnh mới đọc lên người đọc ngỡ tưởng là hình ảnh tượng trưng
nhưng đâu phải. Đó chính là hiện thực trần trụi, gian khó của cuộc chiến đấu: "Chia củ sắn lùi, bát cơm
sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" .
+ Cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng": diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân
dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"...
mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
=>Sự sẻ chia của tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân đã góp thêm sức mạnh cho nhân dân ta
đánh thắng kẻ thù. Cao hơn cả là tinh thần đoàn kết dân tộc, tình hữu ái giai cấp luôn thấp
thoáng ẩn hiện trong những vần thơ.
Ý2: Nhân dân VB hết lòng cho cuộc chiến:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Chỉ bằng hai câu thơ thôi mà cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp và tình nghĩa chan hòa:
+ Thiên nhiên VB: Có lẽ hình ảnh này được nhà thơ chụp lấy trong một khoảnh khắc ngắn ngủi của cái
nắng trưa hè lúc đúng ngọ, khi mặt trời nắng gắt và chói chang nhất, với một không gian thoáng đãng
mênh mông trên nương rẫy cao. Cái vàng chói của nắng hè với màu vàng óng của những bắp ngô già đã
29
bóc áo, phơi khô dười nắng như vàng hơn, làm cái nắng đã chói chang lại thêm rực vàng. Một không
gian lớn lao, kì vĩ và có phần lung linh.
+ Con người VB: Trên nền không gian kì vĩ, khoáng đạt ấy là nền để con người VB xuất hiện. Không
phải một anh hùng lao động hay chiến đấu mà là hình ảnh giản dị, quen thuộc thậm chí là quá đỗi thân
thương: Người mẹ địu con lên rẫy. Nhưng chính khung cảnh ấy đã làm cho người mẹ bình dị kia đẹp
lung linh như một huyền thoại. Hình ảnh thơ này không phải chỉ lần đầu xuất hiện trong thơ TH mà nó
còn được nhắc tên và hát mãi trong Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng vừa địu con vừa bẻ từng bắp ngô gợi người đọc liên
tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu
mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống
kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi .
Ý3: Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết sức tiêu biểu
cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc.
- Nhớ lớp học i tờ: Một không khí, một tinh thần của một thời đi không trở lại. Nếu ai đó lật giở lại
những trang sử của dân tộc sẽ thấy bất ngờ khi một dân tộc có đến 90% dân số mù chữ nhanh chóng
được xóa mù bởi phong trào Bình dân học vụ rộng khắp, học mọi lúc, mọi nơi, người biết nhiều dạy
người biết ít, người biết ít dạy người chưa biết. Những lớp học râm ran tiếng i tờ không chỉ là ý thức tự
vươn lên của mỗi người dân VB mà còn là tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc.
- Nhớ những giờ liên hoan: Sống, lao động, chiến đấu nhưng quân và dân VB không thể quên được
những món ăn tinh thần, đó là nguồn động lực vô cùng cần thiết để nhân dân ta có thể vượt qua mọi khó
khăn thử thách và chiến thắng mọi kẻ thù. Những buổi sinh hoạt, liên hoan văn nghệ tập thể như chất
keo gắn kết tình quân dân, đồng bào, đồng chí diễn ra quây quần bên đống lửa trại dựng giữa cánh đồng.
Người đọc như nhìn thấy những cái nắm tay thật chặt, những điệu nhảy, điệu múa, những tiếng ca rộn rã
theo nhịp chân đung đưa, tất cả toát lên một không khí tưng bừng của đêm hội liên hoan văn nghệ để
mai này khi xa rồi, người về xuôi không khỏi xốn xang khi nhớ về kỉ niệm đó.
- Nhớ những ngày tháng cơ quan: Nghệ thuật tương phản đối lập: Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ,
khó khăn nhưng với tinh thần “tiếng hát át tiếng bom” của một thời oai hùng đã làm cho những khó
khăn đó bỗng chốc vơi đi chỉ còn lại những thanh thản, bình yên trong lòng, chút bình yên của người
chủ động trong cuộc chiến đấu vẫn còn trường kì kia.
- Nhớ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống núi rừng VB:
+ Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều": Tiếng mõ quen thuộc mỗi buổi chiều theo đàn trâu thong thả về
nhà sao bình dị, thân thương đến thế.
+ Tiếng"chày đêm nện cối đều đều suối xa": là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc. Những chiếc cối
giã gạo chạy bằng sức nước cứ đều đặn, miệt mài chảy, giã, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi
rừng và gợi nhớ một thời đã qua. Đó là những âm thanh bí ẩn, thiêng liêng và huyền diệu nơi núi rừng
VB, đã thấm sâu vào trái tim nhà thơ, để giờ đây khi chia xa đã thăng hoa thành những câu thơ ngân nga
rung động lòng người.
30
Phân tích 10 câu thơ tiếp
Bức tranh tứ bình của VB
* Nhận xét chung:
Đoạn thơ này được xem là đặc sắc nhất của Việt Bắc. Mười câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả
âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc.
a, Hai câu thơ đầu:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Y1: Kết cấu hô ứng của cặp lục bát: Câu sáu dùng để hỏi, nhưng hỏi đấy mà đâu cần câu trả lời, câu
tám đã nói lên nỗi lòng như một câu trả lời đầy thỏa mãn. Lối hô ứng vay mượn của ca dao được TH
khai thác triệt để. Nói lòng ta cũng là nói hộ lòng mình, bởi từ trên người đọc đã biết: Ta với mình tuy
hai mà một, mình với ta tuy một mà hai.
Ý 2: Hình ảnh đối xứng: Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh
tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng với con người là hoa của đất. Bởi
vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện
hình người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với
nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Nên bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc.
b. Trước hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc:
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Hình ảnh thơ: Như được chắt lọc qua con mắt tinh tế của thi nhân: rừng xanh và hoa chuối đỏ.
+ Rừng xanh: Hình ảnh thơ truyền thẳng đến người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh
của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngắt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa
chất bao sức mạnh bí ẩn "Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng". Màu xanh núi rừng Việt Bắc:
Rừng giăng thành lũy thép dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
+ Hoa chuối đỏ: Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại
ngàn. Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang
nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa
màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn
một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến
màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh
lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
- Nghệ thuật hội họa trong thơ:
+ Pha màu: Cặp lục bát này chính là một bức tranh tứ bình về mùa đông. Mà không có sức mạnh nào
tạo nên sức sống cho bức họa bằng màu sắc. Tố Hữu đã thể hiện tài năng của mình bằng sự tinh tế của
một họa sĩ tài ba khi phối màu cho bức tranh của mình. Gam màu xanh mát lạnh chỉ làm tăng thêm cái
băng giá của mùa đông, nên để gieo vào một hơi ấm tác giả đã chọn một gam màu nóng sáng, đó là màu
đỏ tươi của hoa chuối rừng. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một
bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.
+ Hiệu ứng:
Sự pha màu đó làm cho bức tranh thêm hài hòa về màu sắc.
Không chỉ vậy mà nó còn gián tiếp miêu tả được khí hậu khắc nghiệt của núi rừng nơi đây.
Bởi chỉ có ai từng sống ở rừng lâu năm mới hiểu được tường tận nét thiên nhiên độc đáo này: Trời phải
lạnh thì hoa chuối rừng mới nở và càng lạnh thì hoa chuối càng có sắc đỏ tươi.
Hai chữ "đỏ tươi" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một
khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như
điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp.
31
Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn xua
tan cái lạnh giá của mùa đông, làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người.
Nên mùa đông thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.
Ý2: Hình ảnh con người: "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".
Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững chãi, tự tin.
- Vị thế, tư thế: Con người đứng trên đỉnh “đèo cao” có tác dụng làm tôn lên tư thế, tầm vóc hào hùng
đứng trên thiên nhiên hòa vào vũ trụ mênh mông bao la, làm chủ cuộc sống. Đây là một quan niệm
nghệ thuật khá độc đáo thường thấy trong thơ TH là khi viết về con người, dù là quân hay dân đều ở thế
chủ động và đi lên phía trước. Nếu là bộ đội thì ở vị trí cao nhất định:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Nếu là dân công thì:
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Và người dân lao động ở đây là vị thế trên đỉnh đèo cao. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng,
đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi
rừng, tự do " Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ
đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang.
- Công việc : Con người xuất hiện trong câu thơ là người lao động bình dị : đi phát nương, làm rẫy, đi
lên rừng hái củi, tìm măng...góp công sức nhỏ bé của mình cho cuộc chiến đấu.
- Khoảnh khắc xuất hiện : Nhà thơ TH đã rất tinh tế khi nắm bắt được khoảnh khắc giao thoa kì diệu
giữa thiên nhiên và con người. Những thép dao để trần được mài sáng loáng gài nơi thắt lưng được ánh
nắng hiếm hoi của mùa đông chiếu vào tạo nên sự phản quang kì lạ, tỏa ra thứ ánh nắng lung linh, lấp
lánh, chói lóa không gian thể hiện qua từ có thần « ánh ». Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng
lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người
ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
=> Câu thơ thể hiện thái độ bao yêu thương, trân trọng, ca ngợi nhân dân lao động của nhà thơ TH. Cứ
nơi nào có con người lao động thì nơi đó tỏa ánh hào quang lấp lánh. Cái lạnh giá của mùa đông cũng
phút chốc được xua tan chỉ còn lại cảm giác ấm áp, vui tươi của lao động.
c. Nỗi nhớ mùa xuân Việt Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Cụm từ chỉ thời gian « ngày xuân » : Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế.
Đó là thái độ ngỡ ngàng, trầm trồ trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời vạn vật khi vào xuân cứ diễn ra, thay
đổi qua từng giây, từng phút, từng ngày để tác giả phải chớp lấy, chọn lấy một hình ảnh có thần nhất vẽ
nên bức tranh mùa xuân nơi núi rừng VB.
- Hình ảnh đặc trưng của mùa xuân « mơ nở trắng rừng » :
+ Sự chuyển gam màu, kéo theo chuyển dịch thời gian : Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang
mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu
trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc
sang xuân. Ngày xuân mơ nở trắng rừng trắng cả không gian "trắng rừng", trắng cả thời gian "ngày
xuân". Không phải là một bông hoa mơ, một cây mơ mà nhất loạt cả rừng mơ bung nở hoa trắng để
mênh mông khắp nứi rừng VB ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, tinh khiết như cái man mác, dịu nhẹ,
ngọt ngào của mùa xuân đầu tiên trên núi rừng VB, đồng thời là hình ảnh đáng nhớ, đầy vấn vương lưu
luyến khi phải chia xa đất và người nơi đây.
+ Ý nghĩa sắc màu: Màu trắng của hoa mơ khởi đầu cho một năm mới cũng như ao ước và khát vọng
đổi thay của nhân dân nơi đây. Cuộc sống nô lệ sẽ thay bằng cuộc sống tràn ngập của hòa bình, tự do.
Ước muốn giản dị nhưng mãnh liệt như sắc trắng của hoa mơ, nhẹ nhàng nhưng không thể nhạt phai.
|+ Liên hệ: Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào
trường ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc trưng của Việt Bắc:
32
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn thờ kẻ đi.
+ Động từ “nở”: Là một động từ mạnh, diễn tả sức sống đang xôn xao, rạo rực, mãnh liệt của những
cây mơ rừng VB hay cũng chính là sức sống bất diệt của nhân dân nơi đây mỗi độ xuân về.
Ý2: Hình ảnh con người:
Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không
nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm
lặng mà cần mẫn tài hoa:
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
- Mùa xuân đáng nhớ:
+ Bình thường: Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội
thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Điều này lại càng đúng hơn trên những vùng núi
rừng chiến khu, nơi của các lễ hội như: Ném còn, hát lượn, hát si, lễ hội lồng tồng (xuống đồng).
+ Sự bất thường: Trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng
giặc thì dù mùa xuân nhưng nhân dân VB đã quên đi niềm vui riêng để miệt mài với, say mê với công
việc, với cuộc kháng chiến: đan nón. Chính sự bất thường này đã làm nên mùa xuân đáng nhớ nơi chiến
khu.
- Phẩm chất con người lao động: Hai chữ "chuốt từng" gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, dường như
bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Câu thơ
như ca ngợi sự khéo léo và tài hoa của con người nơi đây, cũng như con người Việt Nam:
Tay người như có phép tiên
Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ
Cảnh thì mơ mộng, tình thì đượm nồng.
- Tình cảm của con người: Hành động lao động vô cùng giản dị, bình thường ấy nhưng ẩn sâu bên
trong là những tình cảm thiêng liêng của người dân VB giành cho cán bộ và bộ đội. Một chiếc mũ nan,
một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng. Và bao chiến sĩ đã đội
những chiếc mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu, hơn thế nữa chiếc mũ ấy đã trở
thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
=> Hai câu thơ lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân vậy. Tài tình như thế thật hiếm thấy.
d. Nỗi nhớ mùa hè Việt Bắc:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Nét đặc sắc trong bức tranh mùa hè : Nếu như trong bức tranh của hai mùa đông và xuân người
đọc chỉ được mãn nhãn với những đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè tác giả đã đánh thức
giác quan mới trong cảm nhận của người đọc. Thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng
của tiếng ve.
- Âm thanh : Tiếng ve là âm thanh đặc trưng của mùa hè nơi núi rừng đại ngàn. Tiếng ve cũng là dấu
hiệu báo mùa hè đến. Nếu ai đã từng sống trên miền núi rừng sơn cước thì chắc hẳn không quên âm
thanh rộn rã này. Chỉ cần một chú ve đầu đàn tấu lên khúc nhạc là có một dàn hòa tấu độc hành của mùa
hạ, không ngừng, không ngớt.
- Màu sắc : Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Chữ đổ
được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình
từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang.
Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu
râm ran kia nữa cũng trở nên óng ả thêm. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm,
nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ
đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật.
33
Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu
mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ.
- Nghệ thuật ẩn dụ chuyến đổi cảm giác : Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu -
ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự
chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ
hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ
bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi
dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo.
Ý2: Hình ảnh con người:
- Nhân vật trung tâm của bức tranh: Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ
mộng, lãng mạn: "Cô em gái hái măng một mình" nghe ngọt ngào thân thương trìu mến. Nhớ về em, là
nhớ cả một không gian đầy hương sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái
măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm ở hai chữ "một mình" nghe cứ xao xuyến lạ, như
bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa đầy ngọt ngào và vương
vấn.
- Công việc “hái măng”: Một việc tưởng như giản đơn nhưng lại tình nghĩa vô cùng bởi cô đang góp
công sức nhỏ bé của mình cho cuộc cách mạng. Bàn tay thoăn thoắt hái măng kia chính là tình yêu
giành cho bộ đội. Lấy măng để nuôi quân vì đây là nguồn thực phẩm chính của quân dân ta.
- Nghệ thuật sử dụng thanh điệu và điệp phụ âm đầu: Hai thanh trắc liên tiếp “gái-hái” và ba phụ
âm “m”: măng, một, mình liên tiếp xuất hiện khiến người đọc rơi vào một trạng thái đồng cảm cao độ
cùng với tác giả và nhân vật trữ tình ở đây. Người đọc như tận mắt nhìn thấy cô em gái bé nhỏ đang đưa
bàn tay nhanh thoăn thoắt hái những búp măng non, và bàn chân bước nhanh nhẹn hết vàn rừng này đến
vàn rừng khác. Không chỉ có vậy mà khi bàn chân đưa, bàn tay hái thì cô còn cất lên tiếng hát rộn ràng
theo nhịp lao động. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng
dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình
ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm
cảm thông, trân trọng của tác giả.
e. Nỗi nhớ mùa thu Việt Bắc:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời
điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh
huyền ảo.
Ý1: Hình ảnh thiên nhiên:
- Trăng thu:
+ Để miêu tả về mùa thu có lẽ mấy ai không chọn ánh trăng thu. Bởi lẽ trong bốn mùa thì trăng mùa thu
trong nhất, sáng và êm dịu nhất. Chính hình ảnh thơ này đã tạo cho bức trang thu một màu sắc cổ điển.
+ Ánh trăng còn là một biểu tượng của hòa bình chiếu rọi khắp núi rừng bao la, khiến ta cảm nhận như
ánh sáng của hòa bình mát dịu đang tràn ngập khắp chiến khu. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng,
đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta
cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát.
- Rừng thu: Tố Hữu cũng không chọn cách diễn đạt mùa thu mà là rừng thu, với dụng ý nghệ thuật đã
lộ rõ khi miêu tả ánh trăng thu trong khu rừng đại ngàn, rừng già VB để tạo nên bức tranh mùa thu hoàn
mĩ.
- Động từ “rọi”: Là một động từ mạnh, có thần thể hiện rất rõ ánh trăng thu trong vắt, sáng như gương,
chiếu xuống núi rừng, gặp những tán lá cây cổ thụ và giao hòa:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
34
Ánh trăng xuyên qua những tán lá tạo nên bóng rợp và những đốm sáng cứ lung linh như gấm the, tạo
nên tấm phông nền lộng lẫy như gấm thêu, như bức tranh sơn mài huyền ảo.
Ý2: Hình ảnh con người:
- Đại từ phiếm chỉ "ai": đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn
đầy bâng khuâng lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa con người và thiên nhiên.
- Tiếng hát: Dưới ánh trăng thu hòa bình, quân và dân cùng nắm tay ca hát mừng chiến thắng, mừng
hòa bình về trên chiến khu. Đồng thời tiếng hát còn là khúc ca đầy ân tình, ân nghĩa, thủy chung cách
mạng. Tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình người. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng
bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi
rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
=> Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa
kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè,
tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng
mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình
dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.
40
ĐẤT NƯỚC
(Trích: Trường ca Mặt đường khát vọng)
Nguyễn Khoa Điềm
1. MB
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Tình yêu quê hương, đất nước là tình cảm thiêng liêng, cao đẹp trong tâm hồn mỗi con người. Đó luôn là
nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca, nhạc họa từ xưa đến nay. Trong những thi phẩm để đời về chủ đề quê
hương, đất nước thì đoạn trích Đất nước trong Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm
được coi là một trong những đoạn thơ hay nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại, bởi chất triết lí sâu sắc, cảm
nhận mới mẻ và tình yêu sâu lắng, thiết tha.
MB2.
« Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ.
Các anh không về mình mẹ lặng im... ». Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi xốn xang da diết. Nhớ
những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ không
hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua, tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa.
Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Trong
những vần thơ mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nổi bật hơn
41
cả.., bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái
trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận - trữ tình.
2. TB
a, Tác giả Nguyễn Khoa Điềm:
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ sinh ra tại mảnh đất Thừa Thiên Huế năm 1943, và là nhà thơ xuất sắc trong
kháng chiến chống Mĩ. Thơ NKĐ là sự hội tụ tinh tế giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một
người trí thức về đất nước, con người VN.
b, Xuất xứ và cảm hứng:
- Xuất xứ: Trường ca Mặt đường khát vọng được NKĐ hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa
năm 1971, in lần đầu năm 1974. Đoạn trích ĐN là phần đầu của chương 5 trong bản trường ca, là những câu
thơ hay nhất về đề tài đn.
- Cảm hứng: Bản trường ca được khơi nguồn từ mong ước của nhà thơ là thức tỉnh tuổi trẻ vùng đô thị vùng
tạm chiếm của miền Nam hiểu về non sông, đất nước mình, từ đó nhận rõ vai trò, sứ mệnh của mình, nhà thơ
muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong
những năm chống Mĩ cứu nước: xuống đường đấu tranh hòa nhịp chung với cuộc chiến đấu của dân tộc.
c, Nội dung chính: Đoạn thơ thể hiện cái nhìn, cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đn qua những vẻ đẹp được
phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa. Với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái
nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ
mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Đóng góp sâu sắc nhất của nhà thơ là việc
làm sáng tỏ tư tưởng “đn của nhân dân, nhân dân làm ra đn”.
d, Đặc sắc nghệ thuật: Hình thức biểu đạt giàu suy tư qua giọng thơ trữ tình chính trị sâu lắng, tha thiết vì
nói về đn mà mượn lời của một đôi lứa yêu nhau đang thủ thỉ, tâm tình về quê hương đất nước của mình. Đặc
biệt là nhà thơ mượn rất nhiều chất liệu từ trong văn hóa, văn học dân gian, phong tục, tập quán và cuộc sống
đời thường, bình dị của nhân dân từ xưa đến nay.
e, Phân tích.
Phân tích 9 câu thơ đầu
* Đại ý: “Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng ấy,
các nhà thơ - chiến sĩ đã có biết bao bài thơ rất hay về Tổ quốc, đất nước Việt Nam thương yêu. Nếu như các
nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm
nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm, trong phần đầu chương “Đất nước” – trích từ
trường ca “Mặt đường khát vọng”, lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị.
Chín câu thơ đầu trong đoạn trích đã trả lời cho câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ?
a, Câu thơ mở đầu: Có ai tự hỏi chính mình, một câu hỏi lớn đầy băn khoăn rằng đn ta đang sống có từ bao
giờ? Có lẽ để trả lời được câu hỏi ấy không hề dễ dàng, vậy mà NKĐ đã thỏa mãn niềm băn khoăn của chúng
ta bằng một câu thơ thật giản dị.
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Mỗi con người chúng ta, có người may mắn sinh ra có một gia đình trọn vẹn, có mẹ có cha, nhưng cũng có
không ít mảnh đời bất hạnh, không cha không mẹ, không rõ nguồn gốc gia đình của mình, nhưng chắc chắn
không ai sinh ra lại không biết mình là công dân của đn nào. Chính vì thế, ngay khi cất tiếng khóc chào đời ta
đã biết rằng đã có một đn hiện hữu cùng hình hài của mình. Chẳng biết đn ấy có từ bao giờ nhưng khi chúng
ta lớn lên thì đn đã có. Đn như chiếc nôi đã dọn sẵn đợi chúng ta chào đời. Một thực tế hiển nhiên, giản dị đến
vô cùng nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Vậy đn bắt nguồn từ đâu, những câu thơ tiếp theo tác giả đã đi
làm sáng tỏ những điều còn băn khoăn về cội nguồn đn.
b, 7 câu thơ tiếp theo:
“Đất nước”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong những gì thân thương nhất:
từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của
cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà:
* Câu 2:
Ý 1: Văn học dân gian: Văn học dân gian, ngọt ngào, tha thiết và là giai đoạn văn học ấu thơ đẹp nhất của
nhân loại. Và có lẽ một trong những thể loại lấy được nhiều cảm tình nhất của bạn đọc chính là những câu
chuyện cổ tích. Tuổi thơ của ai chắc hẳn cũng được nghe bà, nghe mẹ kể cho những câu chuyện cổ tích thần
tiên mà như nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết trong bài thơ Nói với em:
42
Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện,
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên,
Thấy chú bé đi hài bảy dặm,
Quả thị thơm, cô Tấm rất hiền.
Ý 2: Đn bắt nguồn từ những câu chuyện cổ tích của mẹ:
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”
- Cụm từ ngày xửa ngày xưa đưa người đọc trở về với thế giới huyền bí của những câu chuyện cổ tích, với
những ông bụt, bà tiên tốt bụng mang những phép màu. Với chú bé đi hài bảy dặm, với quả thị thơm mang
trong mình cô Tấm dịu hiền… Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích của mẹ hôm nào,
Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước.
- Vậy là đn đâu có ở đâu xa, ngay các trong câu chuyện cổ tích dân gian, có trong tuổi thơ dịu ngọt của mỗi
con người, cứ đằm thắm, thấm sâu mà da diết như chính những câu chuyện ấy đã vô tình qua tháng năm in
đậm trong tâm hồn chúng ta. Đn thân thương, gần gũi là thế.
* Câu 3:
Ý 1: Điểm khác biệt của NKĐ: Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự
nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô
Đại Cáo”:
44
Đn hóa thân vào hạt gạo với mồ hôi nước mắt của con người, với muối mặn phù sa của đất mẹ, của nắng
sương trong vũ trụ, đất trời để rồi mất bao công xay, giã, giần, sàng nữa mới trở thành hạt gạo dẻo thơm trong
bát cơm ta ăn nuôi ta lớn hàng ngày.
=> Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém
phần thi vị, độc đáo, làm lay động trái tim ngay cả những độc giả khó tính.
* Câu 9: Đất nước có từ ngày đó…
Cuối đoạn thơ là một lời đúc kết giản dị nhưng chắc chắn. Với những câu thơ trên, trong suốt không gian,
thời gian, văn hóa, phong tục của dân tộc, nhân dân đn đã hình thành, hiện hữu để từ đó ta có dải đất thân yêu
hình chữ S mang tên VN. Ngày đó là ngày nào, ta không thể khẳng định chính xác chỉ biết rằng đn gắn bó
trong cuộc đời của mỗi con người, gần gũi trong sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày, giản dị nhưng thân
thương.
* Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ:
Ý 1: Cách sử dụng cấu trúc câu: Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất
nước đã có”, “Đất nước bắt đầu”, “Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ” đã giúp cho ta hình dung được cả quá
trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt
Nam qua bao thế hệ. Đn không đứng yên mà luôn vận động, phát triển, trường tồn qua các thời kì lịch sử của
dân tộc.
Ý 2: Sử dụng từ vựng: Trường từ vựng: ông, bà, cha, mẹ gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương. Đó
cũng là khởi nguồn cho đất nước, là cội nguồn của mọi tình cảm. Bởi nói như chú Năm “con sông gia đình
cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta” (Những đứa con trong gia đình).
=> Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu văn hoá dân gian, truyền
thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được một ý niệm về đất nước
thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị
thân quen với cuộc sống nhân dân hàng ngày. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm
sâu thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại. đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng
những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu
tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử; Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu
trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ
khác.
46
những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể,
còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta.
b, 5 câu tiếp:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Tác giả tiếp tục định nghĩa đn không chỉ trên phương diện tyêu đôi lứa, mà còn là không gian địa lý, thờ gian
lịch sử:
Câu 1: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
- Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng
bay về hòn núi bạc mang phong vị dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cuả tác giả. Đất Nước
mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người
đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Con người Việt Nam là như thế,
lúc nào cũng hướng về quê hương, nguồn cội.
- Câu thơ còn gợi nhớ đến tích truyện cây khế với chim ăn trái trả vàng, với người em hiền lành, tốt bụng,
chịu thương chịu khó, được trả ơn xứng đáng với núi vàng núi bạc. Có vậy mới hiểu niềm tự hào của tác giả
với tổ quốc VN giàu đẹp, nghĩa tình.
Câu 2: Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
- Câu ca dao miền trung không chỉ gợi nên con người chung thủy, nghĩa tình mà còn ta niềm tự hào sâu sắc
bởi biển khơi lắm tôm nhiều cá, bụng quẫy như bạc rơi thoi. Đất nước VN giàu đẹp, trù phú, nuôi dưỡng sự
sống và tâm hồn nhân dân.
3 câu tiếp:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Ý 1: Không gian địa lý và thời gian lịch sử: Ba câu thơ nhưng NKĐ đã đưa người đọc đi suốt chiều dài lịch
sử 4000 năm của dân tộc, và đi dọc dải đất cong cong hình chữ S thân thương. Với hai từ láy đằng đẵng,
mênh mông cho thấy cái miên man của thời gian, vô tận của không gian. Trong không gian và thời gian ấy
nhân dân ta cùng hội tụ, chung sống.
Ý 2: Nơi nhân dân đoàn tụ:
- Cụm từ dân mình: Cho thấy tình cảm đồng bào gắn kết, son sắt. Thật đơn giản nhưng nếu đặt câu thơ
trong hoàn cảnh bom đạn chiến tranh lúc bấy giờ thì lại có ý nghĩa lớn lao vô cùng để cổ vũ tinh thần đoàn kết
của nhân dân.
- Cụm từ đoàn tụ: Đã bật tả khối đại đoàn kết của nhân dân ta. Đó cũng là cội nguồn sức mạnh của dân tộc
ta. Khối đại đòan kết ấy không chỉ là giữa những con người cùng thời đại mà còn là sự kết nối giữa các thế
hệ, là truyền thống cao đẹp của nhân dân ta từ nghìn đời.
=> Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn
của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ.
4 câu thơ tiếp:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
- Ý 1: Niềm tự hào tổ quốc. Hai câu thơ đầu gợi nhắc lại hai câu thành ngữ: Đất lành chim đậu, nước thiêng
rồng ở. Nếu hiểu như vậy thì một chân lí giản đơn là niềm tự hào về tổ quốc thân yêu: ĐN ta là nơi đất lành
và nước thiêng liêng.
-Ý 2: Cội nguồn của nhân dân. Hai câu thơ sau đã nhắc lại cội nguồn của nhân dân với truyền thuyết Lạc
Long Quân và Âu Cơ. Với tích bọc trăm trứng và rồi để chia ra 50 con theo cha xuống biển, 50 theo mẹ lên
non. Qua đó như một lời giải thích vì sao nhân dân mình sinh sống trên tất cả các miền địa hình và một điều
quan trọng hơn cả là tác giả muốn nhắc nhở cho dân ta biết rằng, chúng ta dù là 54 dân tộc, 54 bản sắc, mỗi
dân tộc một chữ viết, tiếng nói và phong tục tập quán nhưng chúng ta đều từ một cha một mẹ sinh ra. Mà
47
cùng cha mẹ thì là anh em, nên hãy đối xử với nhau như “thủ túc”, và nhớ lấy câu ca “gà cùng một mẹ chớ
hoài đá nhau”.
=> Những câu thơ như thôi thúc lòng đoàn kết thương yêu, đùm bọc của nhân dân ta. Đó là bức thông điệp
xanh nhà thơ muốn gửi đến bạn đọc.
7 câu thơ tiếp:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Ý 1 : Truyền thống của nhân dân.
- Thế hệ này nối tiếp thế hệ sau, những người đi trước đã khuất và những người mai sau – hai thế hệ :quá khứ
và hiện tại. Vậy người đọc tự hỏi nhịp cầu nào nối hai thế hệ trên? Phải chăng đó chính là những người đang
sống hiện tại. Họ phải làm gì để nối tiếp và phát huy truyền thống đó?
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Nghĩa vụ thiêng liêng của nhân dân Từ niềm băn khoăn đấy tác giả đã cho thế hệ trẻ hiện tại thấy rõ những
nghĩa vụ thiêng liêng họ phải làm được.
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Người đọc ngỡ ngàng với điều tưởng chừng như giản đơn ấy mà NKĐ lại cho rằng đó là nghĩa vụ của nhân
dân. Nếu như chúng ta nhìn nhận vấn đề mang tính thời sự thì thấy nhà thơ đã sâu sắc vô cùng khi đã đi trước
thời đại, cho đến tận hôm nay vấn đề này vẫn còn mang tính chất nóng hổi.
- Yêu nhau và sinh con đẻ cái, vốn như một quyền lợi thiêng liêng của mỗi con người lại là nghĩa vụ của
công dân đối với đất nước. Nếu không có tình yêu lứa đôi, kết hoa thành tình cảm gia đình và cho trái quả
ngọt là những đứa con thân yêu thì một dân tộc liệu có thể trường tồn hay không, hay nó sẽ đứng trên bờ vực
của sự lụi tàn. Một chân lí quá đỗi giản đơn nhưng mấy ai hiểu thấu, NKĐ đã đánh thức trách nhiệm, nghĩa
vụ và quyền lợi thiêng liêng này của nhân dân để tạo nên sức mạnh của dân tộc.
- Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau:
+ Đây là trách nhiệm cầu nối, là sự gắn kết quá khứ và tương lai của những người đang sống trong hiện tại.
Họ sẽ là những người làm nốt những công việc còn dang dở của thế hệ đi trước. Và phải dặn dò, khuyên bảo
con cháu, những thế hệ mai sau hãy tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha anh, làm cho
những truyền thống ấy ngày càng trường tồn, phát triển.
+ Gắn kết vào thời điểm hiện tại thì dân tộc ta đang trong cuộc chiến chống Mĩ, những thế hệ cha ông đã bao
người đổ máu, đã ngã xuống cho độc lập tự do của tổ quốc, nhưng cho đến thời điểm đó công cuộc này còn
đang dang dở, thậm chí tình hình cuộc chiến đang trong thế nước sôi, lửa bỏng. Vậy nên điều NKĐ muốn nói
với thế hệ trẻ thanh niên của miền Nam hãy đứng lên, tiếp bước cha anh, đứng lên đánh đuổi quân thù để
không phải hổ thẹn với cha anh. Đồng thời nếu họ ngã xuống khi tuổi đời còn xanh, khi nhiệm vụ chưa hoàn
thành thì họ hãy yên tâm, bởi hậu thế mai sau sẽ tiếp bước làm nốt những việc còn dang dở.
=> Một dòng chảy lịch sử của dân tộc đang tuôn chảy trong từng câu từ, đang thấm dần vào tâm hồn thế hệ
trẻ, và chúng ta tin rằng họ đã được đánh thức, vì kết qủa cuộc kháng chiến đã là minh chứng hùng hồn cho
điều đó, bới không có minh chứng nào hùng hồn hơn thực tế lịch sử.
Ý 3 : Cách thức.
- Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ.
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Phải chăng điều nhà thơ muốn nhắc nhở mọi người là nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào,
người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình. Nhắc đến chuyện
xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở, không khác nào câu ca:
Dù ai đi ngược về xuôi
48
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Nhớ về nguồn cội quê hương, dân tộc cũng chính là cốt lõi sức mạnh trong tâm khảm mỗi con người. Đó là
tình cảm thiêng liêng làm cho chúng ta trưởng thành.
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
=>Vậy là những người đọc hôm nay đã hiểu phải làm gì, làm như thế nào và làm như vậy sẽ được kết quả gì.
Những điều tưởng như quá khô khan, lớn lao và cứng nhắc của vấn đề chính trị nhưng đã được NKĐ mềm
hóa qua những vần thơ giản dị, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người. Chất trữ tình chính trị cứ ngọt ngào và lắng
sâu tạo nên sức truyền cảm cho bản trường ca về ĐN.
9 câu thơ tiếp.
Ý 1: Đn có trong mỗi chúng ta . Câu thơ như lời bộc bạch của đôi lứa khi cảm nhận thấy tình yêu đn cháy
bỏng, đang chảy trong máu xương cốt tủy của mình :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc... luôn là những khái niệm
trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi,
thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong ca dao, dân ca có không ít những câu hát như thế:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là nơi ta yêu tha thiết. Song, cái mới ở khổ
thơ của Nguyễn Khoa Điềm là Đất Nước ở trong mỗi một con người, Đất Nước ở trong ta: Trong anh và
em ... Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm... Nhưng điều tinh tế mà tác giả diễn đạt trong ý thơ đầy
sâu sắc. Trong anh và em chỉ có một phần của đn, và ở mỗi người cũng chỉ có một phần nào trong đó thôi.
Ý 2 : Đn trong sự gắn kết của mọi người. Nên để đn ấy trọn vẹn thì :
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
- Đn hài hòa nồng thắm trong tình yêu của đôi lứa, và vì trong anh với em đều có một phần của đn nên khi
anh cầm tay em đn sẽ đẹp hơn.
- Nhưng chưa thể đủ để hình hài một đn được trọn vẹn, muốn thế thì anh và em phải cầm tay mọi người, để
mỗi cá nhân là một mảnh ghép trong bức tranh toàn diện về đn, khi tất cả mọi người cầm tay nhau thì đn ấy
sẽ vẹn tròn, to lớn. Khi các thành viên trong gia đình yêu thương nhau, gia đình này gắn kết gia đình kia, làng
quê này gắn bó với làng quê khác thì đn ấy tự nhiên sẽ vẹn tròn, to lớn. Để hiểu hết ý nghĩa của cụm từ: vẹn
tròn, to lớn có lẽ ta sẽ thấy vai trò không hề nhỏ của mỗi cá nhân với đn mình. Đn có hùng cường, mạnh mẽ,
phát triển được hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ lực của cá nhân mỗi người. Từ đó mỗi người hiểu
được trách nhiệm của mình.
- Hai câu thơ (bốn dòng) được cấu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của câu có điều kiện trong văn xuôi hay
lời nói thông thường: Khi... Đất Nước. Hai câu thơ cũng là những lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức)
về một chân lý. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay diễn tả sự
thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ (hài hoà, nồng
thắm, vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có sức
nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa thứ hai, tác giả không trực tiếp nói
ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất
nước là một thực thể sống và sự sống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ
ràng, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con người với đất nước.
Ý 3: Ước mơ về tương lai tươi sáng của dân tộc.
Mai này con ta lớn lên
49
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
- Hai từ lớn lên thể hiện ước nguyện của tuổi trẻ hôm nay và mai sau sẽ trưởng thành toàn vẹn cả về ngoại
hình và trí tuệ, có kiến thức, trí tuệ, đủ sức, đử tài để tiếp cận những KHKT tiên tiến của nhân loại, góp công
sức mình cho sự phát triển của dân tộc. Để cho đn tiến xa hơn nữa trên xa lộ phát triển của thế giới. Thực hiện
ước mong của vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc, đưa đn « bước lên đài vinh quang, sánh vai với các
cường quốc, năm châu ».
- Cụm từ đi xa, những tháng ngày mơ mộng như một ẩn dụ nói lên khát vọng chính đáng về sự lớn mạnh,
trường tồn, phát triển của đn trong tương lai.
Ý 4: Lời nhắn nhủ thế hệ trẻ.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
- Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất nước là ... nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, phải biết...
phải biết... để làm nên ... Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết.
- Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hoá thân, dáng hình, muôn đời.
Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định Đất nước là máu xương của mình.
Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu
trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự
sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự
sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ.
+ Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ.
+San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực
thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng.
+ Hoá thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thời
chiến, người ta có thể dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc
hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia
làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời!
=> Những câu thơ in đậm chất duy lý (khá chặt chẽ, logic) cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết
tha, thúc giục lòng người. Nhà thơ đã thể hiện những suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng
trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện về đất nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng
liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân tộc, hẳn
người ta phải biết làm gì cho Tổ quốc, giang sơn.
50
Đn yêu thương, niềm tự hào vô tận của mỗi cá nhân. Còn với NKĐ đã thể hiện tyêu của mình với quê hương
thật đặc sắc qua những vần thơ đầy tự hào khi nhắc tên những địa danh, những danh lam thắng cảnh của tổ
quốc thân yêu dọc theo chiều dài đn từ Bắc vào Nam.
Ý 1: Biện pháp nghệ thuật điệp kê liên tiếp những địa danh, những danh làm thắng cảnh đẹp lộnglaayx
và nổi tiếng của đn VN như : núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, trăm ao đầm, Đất tổ Hùng Vương, núi Bút non
Nghiên, Hạ Long...Tất cả những danh lam thắng cảnh này là do bàn tay của tạo hóa, của mưa nắng thiên
nhiên tạo thành. Nhưng bằng tyêu quê hương đn của mình, qua con mắt nhà thơ, những địa danh, những danh
lam thắng cảnh đó được hun đúc và tạo nên từ chính cuộc đời, phẩm chất của những người dân VN qua
nghìn thế hệ. Do nhân dân hóa thân mà thành.
+ Núi Vọng Phu là bóng dáng nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến hóa đá. Do vậy nó được tạo nên từ phẩm
chất thủy chung của hàng nghìn người phụ nữ VN chờ chồng đi chinh chiến.
+ Hòn Trống Mái ven biển Sầm Sơn Thanh Hóa là bóng hình của cặp cợ chồng yêu nhau, gắn bó không nỡ
rời xa tạo thành. Như minh chứng cho nghĩa chồng vợ son sắt, thủy chung, bền chặt, keo sơn.
+ Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua khi đánh đuổi giặc Ân, nhổ tre Đằng Ngà rồi bay lên trời còn để lại trăm
ao đầm trên khắp các dải đất.
+ Đứng trên đền Thượng của đền Hùng, nhìn ra xa ta sẽ thấy có vô số những ngọn núi nhỏ như quây quần,tụ
hội, chụm đầu vào ngôi đền trung tâm. Và người xưa cònhắc đó chính là 99 con voi chầu phục về đất tổ
thiêng liêng, nơi thờ các vua Hùng, những người đã có công dựng lên đn.
+ Những con rồng nằm im góp mình làm thành dòng sông xanh thẳm, miên man với những bãi biền, những
miệt vườn xanh mướt cây cỏ và chở nặng phù sa cho Đồng Bằng Sông Cửu Long trở thành một vựa lúa lớn
nhất nước ta.
+ Người học trò nghèo khó nhưng với bản chất hiếu học đã góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên,
ngự trên vùng đất Quảng Ngãi gian khổ mà kiên cường.
+ Con cóc, con gà, những loại vật nuôi vô cùng gần gũi với người dân VN đã hóa mình cùng góp cho Hạ
Long thành thắng cảnh nổi tiếng.
+ Những người dân lao động vì đất nước họ đã đóng góp cho dân tộc trọn cuộc đời mình nên tên của họ đã
trở thành những sơn danh, những địa danh ở Nam Bộ : Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Ý 2 : Sự hóa thân từ những phẩm chất tốt đẹp và từ chính cuộc đời của nhân ta được tác giả thể hiện qua
hàng loạt các động từ mạnh : góp cho, góp nên, để lại, góp mình, hóa để thể hiện sự tự nguyện dâng hiến và
dâng hiến trọn vẹn cho đn mà không có bất kì sự toan tính nào.
Ý 3 : ý nghĩa :` NKĐ viết trường ca này năm 1971, khi đn ta đang bị chia cắt làm hai miền, nỗi đau của một
dân tộc không có sự thống nhất, chưa có độc lập tự do. Nhưng một điều người đọc nhận thấy rằng, con mắt
của nhà thơ đã đi dọc chiều dài đn, không bỏ qua một vùng miền nào : Bắc – Trung – Nam. Phải chăng bức
thông điệp xanh nhà thơ muốn gửi đến bạn đọc cũng như điều nhà thơ Tố Hữu gửi gắm trong những câu thơ
sau :
Chúng ta là con một cha nhà một nóc
Thịt với xương tim óc dính liền
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn vững là dân cụ Hồ
Chính vì vậy cuối đoạn thơ nhà thơ khẳng định :
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Mỗi danh lam thắng cảnh ở mỗi một miền quê dưới con mắt của nhà thơ không phải là những địa danh vô tri
vô giác, mà nó chính là dáng hình, ao ước, lối sống ông cha. Những hóa thân của nhân dân trải qua bốn
nghìn năm lịch sử mà thành.
b, Đoạn thơ cuối:
6 câu thơ đầu :
Lời thơ về đn mà ngọt ngào quá qua tiếng gọi thân thương của đôi lứa yêu nhau :
51
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
- Nhà thơ hướng người đọc vào chiều dài rất xa của bốn nghìn năm lịch sử dân tộc. Trong bốn nghìn năm đấy
là những trang sử hào hùng của một dân tộc mà chủ yếu là đấu tranh giữ nước,và còn lại là thời gian ngắn
ngủi để xây dựng tổ quốc.
- Từ láy người người lớp lớp cho thấy sự nối tiếp của các thế hệ trên con đường xây dựng quê hương đn. Một
lực lượng hùng hậu trong nhân dân suốt lịch sử suốt 4000 năm ấy. Đồng thời cho thấy tâm thế háo hức, sôi
động, khẩn trương của những con người sẵn sàng xả thân vì đn.
- Họ là ai trong nhân dân suốt 4000 năm đó ? Chính là những người Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta –
thế hệ trẻ của đn. Họ sáng ngời với phẩm chất cần cù, chăm chỉ lao động. Và vì thế họ lại trở thành anh hùng
lao động trong thời chiến và những công dân tích cực trong thời bình, nỗ lực hết mình cho công cuộc xây
dựng đn.
3 câu thơ tiếp :
- Trong thời bình những người dân là anh hùng lao động, nhưng khi có chiến tranh, có giặc xâm lăng thì họ
lập tức trở thành anh hùng chiến đấu.
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
- Từ thủa xưa truyền thống hào hùng này của dân tộc đã được phát huy cao độ. Những người nông dân nghĩa
sĩ trong văn tế của Nguyễn Đình Chiểu họ sẵn sàng từ bỏ làng quê, công việc cuốc cày quen thuộc để vào
trận. Những đồng chí trong thơ Chính Hữu cũng để ruộng nương gửi bạn thân cày, những chiến sĩ Tây Tiến
cũng sẵn sàng gác bút nghiên lên đường đi chiến đấu khi tổ quốc cần. Có cái nhìn bao quát như vậy người
đọc mới thấy hết không khí hào hùng của ngày người con trai ra trận.
- Hậu phương của họ là những người phụ nữ dứt lòng bịn rịn, đau đớn khi chia xa người cha, người anh,
người chồng, người yêu ra trận chiến đấu. Như nhà thơ Nguyễn Mĩ đã ghi lại rất đậm nét qua những vần thơ
cháy bỏng trong Cuộc chia ly màu đỏ :
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa...
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Để rồi cuối cùng mầu đỏ ấy cô gửi theo với bóng hình người chồng ra trận chiến và :
Như không hề có cuộc chia ly...
Rồi họ lặng lẽ trở về và nuôi cái cùng con, để những người cầm súng chiến đấu vững dạ, yên tâm chắc tay
súng. Không chỉ làm hậu phương vững chắc, nếu một ngày có giặc ngoại xâm đến thì họ sằn sàng vùng lên :
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Thế mới có những nữ anh hùng như chị Út tịch với câu nói nổi tiếng : còn cái lai quần cũng đánh.
Đó là phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ VN, ba đảm đang, xứng đáng với 8 chữ vàng mà Bác Hồ đã
tặng : anh hùng , bất khuất, trung hậu, đảm đang. Và chính họ đã góp phần làm nên đn.
9 câu thơ tiếp :
- Những anh hùng hữu danh: NKĐ đã đưa ra một chân lí giản đơn khi điểm danh lại bao thế hệ nhân dân
đã xả thân vì đn.
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Họ là những anh hùng mà cả nhân dân, dân tộc mãi đời đời khắc ghi. Đó là thời của các vua Hùng, thời Bà
Trưng bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Võ Thị Sáu, Tô Vĩnh Diệm, Lê Văn Tám...
- Những anh hùng vô danh :Nhưng còn có bao anh hùng vô danh, họ đã vĩnh viễn nằm xuống, xả thân cho
đn mà không cần được vinh danh và ghi nhớ, không cần lưu lại tên tuổi.
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
52
Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
=> Cả những anh hùng vô danh và hữu danh, những con người đã đổ máu xương của mình xuống cho đất mẹ
thân yêu, để rồi hôm nay trong hình đn có dáng hình của họ. Và tác giả khẳng định : họ đã làm ra Đất Nước.
7 câu thơ tiếp :
- Tác giả ca ngợi nhân dân anh hùng trong lĩnh vực văn hóa.
Nhân dân là người lưu giữ những truyền thống văn hóa của dân tộc. Cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần mang
những nét riêng đặc trưng của dân tộc VN.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
- Biện pháp nghệ thuật điệp từ « họ » để thể hiện công lao vô bờ bến, trùng trùng, điệp điệp của nhân dân
trong công cuộc giữ gìn và dựng xây đn.
- Họ lưu giữ những giá trị vật chất cho muôn đời sau.
+ Đó là hạt lúa, cây trồng chính của một đn với nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Là thực phẩm thiết yếu
hàng ngày nuôi sống bao thế hệ nhân dân. Gìn giữ nguồn sống ấy không ai khác chính là những người nông
dân vô danh và bình dị.
+ Đó là ngọn lửa hồng được chuyền từ nhà này sang nhà khác. Hình ảnh thơ gợi người đọc nhớ đến những
tình cảm xóm làng đùm bọc, gắn bó và sống nghĩa tình, bởi từ xưa nhân dân ta đã quan niệm « bán anh em
xa mua láng giêng gần, vì hàng xóm là những người tối lửa tắt đèn có nhau.
- Họ lưu giữ những giá trị tinh thần cho muôn đời sau.
+ Chiến tranh khốc liệt với bao cuộc di dân chạy loạn, tránh đạn bom, nhưng khi di cư, người dân không
quên mang theo tên xã tên làng, bởi đó chính là nguồn cội họ cần nhớ về, cần lưu giữ. Văn hóa của người
phương Đông nói riêng và người VN nới riêng là nếp sống duy tình, lá rụng về cội. Người ta có thể bôn ba
quá nửa đời nơi đất khách quê người, nhưng khi về già ai cũng trở về quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của
mình. Hoặc nếu có ở lại quê người thì họ cũng sẽ giữ những tên làng, tên xã cho con cháu họ mai sau.
+ Họ đắp đập be bờ, tạo dựng những giá trị vật chất nhưng những thế hệ mai sau lại được hưởng những thành
quả tinh thần là những trái quả ngọt ngào. Phải chăng đó là hình ảnh ẩn dụ mà NKĐ muốn người đời sau
hiểu rằng, có cuộc sống tự do, có hạnh phúc ngọt bùi ngày hôm nay chính là do công sức bao thế hệ cha anh
đã bỏ ra để tạo ra thành quả đó. Nên khi ăn trái hãy nhớ về người vun đất, chăm cây.
+ Cao hơn nữa là tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược trong bao cuộc kháng chiến của dân tộc. Với
tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh khi có giặc xâm lăng để bảo vệ tổ quốc, và khi
có nội thù họ cũng sẵn sàng vùng lên đánh bại để lấy lại cuộc sống yên bình. Nhân dân ta anh dũng, kiên
cường là thế.
6 câu thơ tiếp : Lời khẳng định vai trò của nhân dân :
Với tất cả những công lao trên của nhân dân, đến đây tác giả đã đủ cơ sở để đưa ra kết luận đầy sức thuyết
phục :
Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Từ xưa đến nay có biết bao triều đại có tư tưởng yêu nước, yêu dân : Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân ; làm lật
thuyền mới thấy dân như nước, quan nhất thời, dân vạn đại... Và hôm nay đến NKĐ vẫn nối tiếp tư tưởng
của cha ông nhưng lai có điểm đổi mới, sáng tạo hơn là đn ấy còn là đn của ca dao thần thoại. Đây là một
quan niệm chính xác của tác giả. Bởi văn học dân gian chính là nụ cười nước mắt của dân, là tâm tư tình cảm
của nhân dân. Và cũng từ văn học dân gian ta nhận thấy vẻ đẹp muôn đời của nhân dân. Những con người
giàu tình yêu thương và thắm thiết tình yêu đôi lứa.
Dạy anh biết "yêu em từ thở trong nôi"
53
Những con người ân tình, ân nghĩa, đề cao tình cảm chứ không đề cao những giá trị vật chất :
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Những con người có một lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm đánh giặc :
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
=> Đọc những câu thơ mà người đọc được trở về với những câu ca dao quen thuộc thủa xưa mẹ hay hát,
những câu chuyện dân gian đầy triết lí nhân sinh. Với tình yêu lứa đôi
Yêu em từ thủa trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru
Hay :
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng
Rồi truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, cùng với câu ca dao
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què
4 câu thơ kết : Khúc ca mong ước của nhà thơ.
Không phải ngẫu nhiên nhà thơ chọn hình ảnh kết thúc đoạn thơ là hình ảnh dòng sông với đầy những ẩn ý.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Dòng sông ngàn năm vẫn trôi chảy như đn vẫn ngàn đời phát triển. Không biết rõ dòng sông bắt nguồn từ
đâu cũng như không ai hiểu rõ cặn kẽ cội nguồn đn, nhưng chỉ hiểu rằng khi về đn mình thì bắt lên câu hát,
có niềm say hoan lạc, vui ca. Tiếng hát ấy ngân nga trong giọng hát của người chèo đò, kéo thuyền vượt thác,
để rồi đn theo khúc hát ngân nga gợi lên trăm sắc màu trên trăm dáng sông xuôi đang ngày đêm miệt mài
chảy.
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Trăm sắc màu lộng lẫy trên dòng sông của dân tộc, phải chăng đó là những phẩm chất, truyền thống tốt đẹp
của người dân VN đang tỏa sáng lung linh. Chính điều này tạo nên vẻ đẹp, sức mạnh và sự cuốn hút của dân
tộc VN trong niềm tự hào vô bờ của nhà thơ.
3. KB
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đề tài Đất nước . Từ những
cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng
vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn
khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại. Mỗi tiếng thơ vang lên là một
lời thúc giục mỗi cá nhân hãy ra sức cống hiến hết mình cho đn. Đó là trách nhiệm, nghĩa vụ nhưng cũng là
tình cảm cao cả thiêng liêng trong mỗi con người mà nhà thơ NKĐ đã dạy cho chúng ta.
SÓNG
Xuân Quỳnh
1MB: Một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: “Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi.” Thật vậy, từ
ngàn đời nay tình yêu luôn là điều bí ẩn, là đề tài vô tận của văn chương. Nhiều văn nhân thi sĩ đã mượn văn
chương để lí giải tình yêu nhưng chẳng ai cắt nghĩa trọn vẹn hai mĩ từ ấy. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng ví von
54
“Yêu là chết trong lòng một ít”, Đỗ Trung Quân cũng từng thốt lên rằng “Anh đã thấy một điều mong manh
nhất – Là tình yêu, là tình yêu ngát hương” và cũng không quên nhắc đến “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh.
“Sóng” là nơi gửi gắm những tâm tư sâu kín, những trạng thái phức tạp tinh vi của tâm hồn người thiếu nữ
khi nói về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
2TB:
a, Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ.
XQ viết rất nhiều và rất hay về tình yêu. Chị đã để lại cho đời nhiều bài thơ hay và xúc động lòng người như
Thuyền và biển, Tự hát, Thơ tình cuối mùa thu…Nhưng có lẽ hay và sâu lắng nhất là Sóng. Bài thơ được viết
trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ khốc liệt. Một lần nữ sĩ đi công tác tại vùng biển Diêm Điền,
đứng trước biển chị mới nhận thấy rằng sóng là phần động nhất của biển, là gương mặt của biển, luôn ào ạt,
trào dâng vô hồi vô tận giống với nhịp đập của con tim bồi hồi, xao xuyến của tình yêu lứa đôi. Chính vì vậy
chị đã mượn hình ảnh sóng để nói hộ tình yêu trong trái tim của người con gái. Bài thơ được viết năm 1967
và được in trong tập Hoa dọc chiến hào năm 1968.
b, Ý nghĩa nhan đề.
- Chủ đề sóng trong thơ xưa: Trong thơ xưa người ta đã biết mượn hình ảnh sóng để nới về tình yêu, nói hộ
tình yêu. Ca da có câu:
Sóng xình xịch lưng chừng ngoài bể bắc
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên
Em muốn nằm lơ đi mà ngủ, ngủ cũng không yên
Bởi sóng to nước cả biết tấp con thuyền tình nơi đâu
Hay như trong Truyện Kiều, ND có viết:
Sóng tình dường đã siêu siêu
Nghe trong ong bườm có chiều lả lơi
Và Xuân Diệu cũng viết:
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
- Điều mới mẻ khi xây dựng hình tượng sóng của XQ: Thế nhưng những nhà thơ xưa thường nói chung
chung, khái quát, đến XQ, với tâm hồn tinh tế trái tim nhạy cảm, chị đã mượn tất cả hình ảnh, những gương
mặt, trạng thái, tính cách cuả sóng để nới hộ tyêu và kết cấu lặp đi lặp lại. Hình tượng sóng xuyên suốt bài thơ
trở thành hình ảnh ẩn dụ biểu tượng ẩn dụ để song hành cùng hình tượng em. Có lúc sóng và em tách nhau ra
để soi chiếu vào nhau, làm nổi bật nhiều cung bậc cảm xúc trong tyêu. Có lúc sóng và em lại hòa vào nhau để
cộng hưởng làm tăng những xúc cảm mãnh liệt của tyêu đang trào dâng trong lòng.
- Thể thơ năm chữ bổ sung ý nghĩa cho hình tượng sóng: Cùng với hình tượng sóng thể thơ năm chữ, mỗi
khổ thơ lại có 4 câu tạo nhịp thơ nhanh, mạnh, gấp gáp, nối tiếp nhau diễn tả những đợt sóng biển đang trào
dâng ào ạt cũng như những lớp sóng lòng đang cuộn lên trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Phân tích bài thơ
1. Khổ thơ thứ nhất: Sóng có những mặt phong phú đối lập.
a, Vai trò của khổ thơ đầu: Cả bài thơ khổ nào, câu nào cũng hay nhưng có thể nói khổ thơ đầu tập trung
cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ và cảm hứng thẩm mĩ của bài thơ. Sóng như một sự hóa thân của người con
gái, đặc biệt là trái tim của người con gái khi yêu. Ngay từ những câu thơ đầu tiên XQ đã đưa người đọc đến
với thế giới ào ạt của sóng.
b, Phân tích:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
* Hai câu đầu: Những cung bậc của sóng.
- Nghệ thuật liệt kê: Với phép tu từ liệt kê, nhà thơ đã truyền cho người đọc thêm những cảm nhận về đặc
điểm của sóng trên biển khơi, rất phong phú, đa dạng, muôn hình muôn vẻ. Lúc thì sóng dữ dội, ồn ào khi
bão tố hay sóng gió nổi lên, lúc thì dịu êm, lặng lẽ như mặt biển những ngày lặng gió, hay mỗi lúc bình minh
khi ban mai tỏa rạng.
- Từ láy tượng hình được tg sử dụng liên tiếp gợi ra trước mắt người đọc những đợt sóng biển liên tiếp thay
đổi những cung bậc trạng thái.
55
-Phép đối lập tương phản: Dù sóng có rất nhiều cung bậc, trạng thái khái nhau nhưng được XQ quy về hai
mặt đối lập: Khi dữ dội, ồn ào, lúc lại dịu êm, lặng lẽ. Đó chính là quy luật muôn đời của sóng ngoài biển
khơi.
- Nghệ thuật ẩn dụ: XQ không chỉ đơn thuần miêu tả các cung bậc vốn có của sóng biển, mà còn qua đó
muốn ẩn chỉ những xúc cảm của em trong tình yêu bởi chính chị đã tìm thấy những nét tương đồng giữa sóng
và tình yêu của em, đang xao xuyến, xốn xang khi tyêu đã trào dâng trong lòng. Cũng như trong bài thơ
Thuyền và biển XQ có viết.
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thì thầm gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Nhưng ngay sau đó lại là:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thủa
Có bao giờ đứng yên
Với trái tim nhạy cảm, tinh tế, với XQ tyêu của em có nhiều những cung bậc, trạng thái, cảm xúc đối lập
nhau. Cũng giống như nhà thơ Ta go đã nói về tình yêu:
“Nỗi vui sướng và khổ đau của nó là vô biên
Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu”
- Điểm đổi mới của XQ:
+ Tyêu của người phụ nữ trong xh xưa: Trong hàng nghìn năm XHPK, người con gái VN chịu ảnh hưởng
nặng nề của tư tưởng pk, họ không dám bộc bạch tâm hồn của mình, luôn giữ nét kín đáo, e ấp nên có yêu họ
cũng không dám nói:
Yêu anh chẳng dám nói ra
Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời
+ Tyêu người PN trong thơ XQ: với những vần thơ táo bạo này XQ là nhà thơ nữ đầu tiên dám nói về tình
yêu của chính mình, của trái tim người phụ nữ đang rạo rực tyêu. Thế nhưng dù nói hộ tâm hồn những người
pn đang yêu nhưng không hề thô ráp mà vẫn giữ lại vẹn nguyên nét nữ tính, dịu dàng vì điểm đến cuối cùng
trong cung bậc cảm xúc tyêu là sự êm đềm, bình yên nên không phải ngẫu nhiên XQ lại để các cung bậc cảm
xúc rất nhẹ nhàng ở cuồi mỗi câu thơ “dịu êm, lặng lẽ”. Đó cũng là lúc người con gái lại thu mình trở về với
chất nữ tính đáng yêu, họ lặng lẽ, dịu êm ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm:
Có những tình yêu không thể nói bằng lời
Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt
Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất
Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên
(Đinh Thu Hiền)
* Hai câu sau: Hành trình của sóng.
- Chính vì sóng có những cung bậc cảm xúc vô cùng phong phú và đối lập nên sóng không chấp nhận một
không gian nhỏ hẹp là dòng sông. Vì khi ở lại với sông sóng không bộc lộ được mình, nên sóng đã tự mình
làm một cuộc hành trình táo bạo, vất vả, gian lao ra tận bể lớn. Nơi ấy sóng sẽ tha hồ được vùng vẫy để được
thể hiện hết mình.
- Cũng như sóng tình yêu của em không chịu sự thỏa hiệp trong không gian nhỏ hẹp nên luôn khát khao vươn
tới những chân trời rộng lớn. Vì vậy em cũng không bao giờ chấp nhận một tình yêu trói buộc, ích kỉ thì tyêu
đó sẽ chết. Muốn nó vĩnh cửu, vĩnh hằng thì phải để nó vươn tới chân trời tự do, rộng lớn của tyêu nhân loại
để tìm được tình yêu đích thực của mình. Chỉ có đến với tyêu ấy em mới được sống là chính mình, được bộc
lộ mình một cách tự nhiên và đầy đủ nhất. Như thế mới thỏa lòng hạnh phúc.
-> Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ
thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá
không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm
tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Sóng không cam chịu một cuộc sống đời sông chật
hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Tình yêu của Xuân Quỳnh
56
cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên
trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung.
->Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại. Có thấy ngày xưa quan
niệm tình yêu cổ hủ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” để rồi bao cô gái đã phải cất lên lời than van ai oán:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Từ đó ta mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh: Người phụ nữ chủ động
tìm đến với tình yêu để được sống với chính mình.
=> XQ thật khéo léo khi mượn hình ảnh sóng để hóa thân và bộc bạch kín đáo tyêu, nỗi lòng vốn khó nói
nhất của người phụ nữ, tế nhị nhất nhưng cũng đầy đủ và không kém phần táo bạo. Ngay trong khổ thơ đầu ta
thấy sóng trào dâng nhiều trạng thái và tyêu của em cũng mang nhiều cung bậc, phong phú đấy nhưng đối
lập, đối lập nhưng lại thống nhất trong trái tim thổn thức yêu đương của em.
2. Khổ thơ thứ hai: Tính vĩnh hằng muôn thủa của sóng.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
* Hai câu đầu: Quy luật của biển khơi.
- Thán từ ôi: Từ “Ôi!” cảm thán như tiếng lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Đồng thời cũng
thể hiện sự xúc động của nữ sĩ khi khám phá ra quy luật của biển khơi: Sóng là bộ mặt của biển, có biển là có
sóng, sóng mãi vĩnh hằng và ngự trị ở nơi đây.
- Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau”: càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng, như một quy
luật muôn đời, bất biến chẳng thể đổi thay. Sóng là thế muôn đời vẫn thế vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ
như tình yêu tuổi trẻ có bao giờ đứng yên.
* Hai câu sau: Quy luật của tình yêu.
- Thật đơn giản như một phép so sánh tương đồng: có biển là có sóng, cũng như vậy có tuổi trẻ là có tyêu.
Bởi tình yêu tuổi trẻ luôn khát vọng luôn khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi hồi khát khao và nhung nhớ
bởi:
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
Hay:
“Bắt chim bướm thả vào vườn tình ái”
(Xuân Diệu)
Và chính nữ sĩ XQ của chúng ta cũng từng viết:
Tiếng yêu từ những ngày xưa
Trải bao năm tháng bây giờ đến ta
Tiếng yêu từ những ngày qua
Vượt bao cay đắng vẫn là vẹn nguyên
-> Quan niệm của nhà thơ là nói về tyêu của nhân loại nói chung, cứ truyền từ đời này qua đời khác không
bao giờ mai một. Thời nào thì tyêu vẫn cứ vẹn nguyên, nóng hổi, đắm say, ngọt ngào trong trái tim của con
người.
- Tình yêu không giới hạn ở một độ tuổi nào, nhưng XQ lại nhận thấy tyêu rạo rực, đắm say và mãnh liệt nhất
trong lứa tuổi trẻ. Chính vì thế nhà thơ không viết là ước vọng mà là khát vọng như muốn nói rằng khao khát
yêu đương ấy không chỉ là trong suy nghĩ, trong ước mơ mà nó sẽ thể hiện ra bằng hành động để biến ước
mơ trở thành hiện thực. Tình yêu làm điên đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn, những cồn cào da diết
như lời thơ Xuân Quỳnh đã từng viết
“Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu mong nhớ”
Còn nhà thơ Xuân Diệu lại đưa ra một chân lí giản đơn của tyêu như một tất yếu của cuộc sống:
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tyêu
57
Có yêu nhau mới thấy được cồn cào của vị nhớ, mùi ái ân, mới thấy được thế nào là bồi hồi, xao xuyến của
tyêu trong lồng ngực trẻ.
=>Nếu sóng vĩnh hằng muôn thủa là nhịp đập trong lồng ngực biển khơi thì tyêu là bất biến, là nhịp đập
mạnh mẽ và mãnh liệt nhất trong lồng ngực trẻ.
3. Khổ thơ thứ ba, thứ tư: Tính bí ẩn, khó lí giải:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
-Tình yêu là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu cầu tự nhận thức, tự
phân tích, lí giải, nhưng lại không thể cắt nghĩa nổi của tình yêu. Tình yêu cũng như sóng biển, gió trời vậy
thôi, nó tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên.
- Điệp ngữ liên tiếp em nghĩ về :Người phụ nữ băn khoăn, trăn trở về cội nguồn của sóng biển và khởi
nguồn của tình yêu rồi bộc bạch một cách hồn nhiên, chân thành sự bất lực không lý giải được câu hỏi muôn
đời ấy trong tình yêu:
“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Đây là một cách cắt nghĩa về tình yêu rất Xuân Quỳnh, một cách cắt nghĩa giàu nữ tính, rất trực cảm. Lí giải
được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi « Sóng bắt đầu từ gió » nhưng để hiểu « Gió bắt đầu từ đâu » thì thi
nhân lại ấp úng « Em cũng không biết nữa ». Cũng như tình yêu của anh và em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên
bởi « Tình yêu đến trong đời không báo động ». Câu thơ « Em cũng không biết nữa » như một cái lắc đầu
nhè nhẹ, bâng khuâng và phân vân. Đến câu hỏi « Khi nào ta yêu nhau » thì đúng là nữ sĩ đang bâng khuâng
và băn khoăn. Kì lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ ? Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải
nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa.
Xuân Diệu – ông hoàng của thi ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu :
Đố ai định nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người
đi tìm và khám phá. Tình yêu không có tuổi cũng như « xuân không ngày tháng ». Tình yêu là một ẩn số giữa
hai thế giới tâm hồn chứa đầy bí mật.
Dù tin tưởng chung một đời một mộng
Anh là anh mà em vẫn là em
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Những tâm hồn bí mật ấy luôn khao khát giao hòa, khao khát khám phá nhưng lại không lý giải nổi tình yêu.
Ta-go nhà thơ Ấn Độ cũng từng nói lên nhũng bí ẩn muôn thủa của tình yêu :
Cuộc đời anh ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu
Bởi tình yêu là bài toán chưa có lời giải đáp, tình yêu như bài thơ chưa có hồi kết. Vì thế tình yêu luôn đẹp,
luôn mới và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã lắc đầu, cái lắc đầu chấp nhận đầy nữ tính và rất XQ :
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
4. Khổ thơ thứ năm: Nỗi nhớ trong tyêu.
- Nỗi nhớ tyêu được nhắc nhiều trong thơ xưa : Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ – một trong những gam
màu chủ đạo của tình yêu, là tín hiệu của tình yêu. Bao kẻ nhớ người mình yêu mà đảo điên:
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em
58
(Xuân Diệu)
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
(Ca dao)
- Nỗi nhớ tyêu của XQ :
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Những con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
- Hình thức đặc biệt của khổ thơ : Hòa cùng những con sóng: sóng thơ, sóng lòng, ta tìm về cõi sâu kín của
tâm hồn thi sĩ và cũng là của muôn kiếp “má hồng”. Bài thơ “Sóng” ra đời khi những con sóng lòng dâng lên
dữ dội, những con sóng nhớ thương, thao thức của một tâm hồn đang yêu. Cả bài thơ là những đợt sóng nối
nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và nhân vật em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm,
những tâm tư. Đây là một khổ thơ vô cùng đặc biệt bởi trong bài thơ chỉ duy nó có sáu câu. Sáu câu thơ trải
dài như nỗi thao thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong đêm. Hay điều XQ muốn nói là : Nếu khổ thơ thứ 5
này là trọng tâm của bài thơ Sóng thì nỗi nhớ chính là trọng tâm của tyêu. Sáu câu thơ trải dài như nỗi thao
thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong đêm.
- Quy luật của sóng biển :
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước”
- Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo
nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại
dương nhưng cũng có con sóng cuộn trào trong lòng biển cả. Con sóng ngầm còn mãnh liệt hơn cả con sóng
trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Sóng là em, em là sóng. Cũng như
sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm khi nồng nàn dữ dội,
nhưng thế nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ôm trong lòng một nỗi nhớ thương không dứt. Cũng như
sóng kia thôi, dù dịu êm hay dữ dội thì:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ khi
yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ sóng thôi không vỗ, có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thôi ngừng
hành trình đến với bờ dù muôn vời cách trở. Sóng chẳng còn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã
được Xuân Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo “không ngủ được”. Sóng là vậy, dù lặng yên dưới
lòng biển hay dữ dội trên mặt đại dương thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ
thì nhớ thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ “bởi hôn mãi ngàn năm không thỏa/ Bởi
yêu bờ lắm lắm em ơi”. Nên con sóng đã hành trình vượt qua không gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất
chấp cả thời gian “ngày đêm không ngủ được” để quyết tâm hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ.
- Quy luật của tyêu :
Và nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh. Đó âu cũng là quy luật của tình yêu.
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Xuân Quỳnh dùng chữ “lòng” rất tinh tế. Nếu những câu thơ trước em không hiện hữu mà mượn sóng nói
hộ lòng mình thì đến lúc này khi bao xúc cam trào dâng, em không thể kìm nén nên đã xô đi cái vẻ ngoài vay
mượn của sóng để rồi tự bộc bạch nối lòng mình. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con người. Nơi bí mật
thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói “lòng em nhớ” nghĩa là chị đã phơi bày tất cả gan
ruột của mình để dốc hết yêu thương mà gửi về người mình yêu. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian
được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong
cách nói nghịch lý “cả trong mơ còn thức”.
Câu thơ “cả trong mơ còn thức” lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm đảo lộn nhịp sống bởi “tình yêu
luôn làm cho con người khó thức ngủ theo giấc giờ điều độ”. Nỗi nhớ không chỉ làm lòng em “bổi hổi bồi
hồi, như đứng đống lửa như ngồi trong than” nó còn làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong giấc
59
ngủ. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực, da diết, nó ăn sâu vào tiềm thức, len lỏi cả vào miền vô thức, trong giấc
ngủ mỗi đêm. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca
hiện đại Việt Nam.
5. Khổ thơ thứ sáu: Lòng thủy chung.
Sóng và em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang
theo lớp lớp tâm tình của em:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
- Từ dẫu được nhác lại đến hai lần trong hai câu thơ như những giả thiết trong cuộc đời. Phải chăng điều XQ
muốn nói dù cuộc đời này có thiên biến vạn hóa, có thay đổi bãi bể nương dâu thì tình yêu của em cũng
không bao giờ thay đổi.
- Cách diễn đạt mới mẻ: Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, không khoanh vùng
địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy
bằng tất cả sự nhạy cảm của lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho một cái tôi của con người luôn vững tin ở
tình yêu. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói “Xuôi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xuân Quỳnh lại nói
“Xuôi Bắc, ngược Nam” là cách nói ngược. Phải chăng cuộc đời là những khó khăn trắc trở và tình yêu thì
luôn đối mặt với thử thách. Thậm chí trong tyêu là những phút xao lòng nhưng nhờ có la bàn tyêu mà con tim
em không bao giờ bị lệch hướng. Phải chăng tình yêu đã làm cho con người bị đảo lộn phương hướng ?
Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không thể nào nguôi nhớ đó là phương anh:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” về phương anh:
Chỉ riêng điều được sống cùng anh
Niềm mơ ước trong em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh
Thế mới biết tình yêu của chị nồng nàn, mãnh liệt thế nào. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời
khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã là “hệ qui chiếu” của đời
em. Cuộc đời này dẫu bốn phương tám hướng, thì trái tim em chỉ hướng về nơi duy nhất với “phương anh”.
Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn
không có giới hạn. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của chị:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
Một trái tim của người phụ nữ đầy yêu thương.
- XQ thật tinh tế khi phát hiện ra lòng thủy chung chính là chất keo gắn kết, là nguồn nuôi dưỡng tyêu, đặc
biệt là những tyêu trong xa cách. Như những vần thơ của một nhà thơ Nga tôi vẫn nhớ:
Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà khi em xa anh
Đời vẫn xanh vời vợi
Trong cuộc sống đầy biến động của ngày nay khi tình cảm chân thành trở nên xa lạ thì có lẽ những vần thơ
này đáng để cho thế hệ trẻ hôm nay suy ngẫm.
6. Khổ thơ thứ bảy: Niềm tin và hi vọng.
Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt, những nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ
này nhà thơ lại thể hiện những băn khoăn, lo lắng. Đó cũng là trực cảm của tình yêu.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
- Ba từ “Ở ngoài kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về khơi xa nơi trăm ngàn con sóng
ngày đêm không không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian thăm thẳm muôn vời cách trở để hướng
60
vào bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Dù con sóng có phải gồng mình vượt qua một chặng đường xa từ đại dương
ngoài kia, vượt qua muôn vời cách trở thì nó cũng sẽ làm mọic cách để đến với bờ. Đó là niềm tin, một lòng
một dạ của sóng. Chính niềm tin này đã tạo động lực cho sóng cập bến bờ yêu thương.
- Niềm tin của em: “Em” cũng muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình
yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn
cội yêu thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc
trọn vẹn của lứa đôi. Bởi em biết rằng tyêu có gặp muôn vời những cách trở như chính chị đã từng nói:
Tyêu như hàng cây
Đã qua mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên mùa thác lũ
thì chỉ với niềm tin tyêu ấy sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Bởi tyêu không chấp nhận những kẻ hèn nhát cơ
hội, những kẻ ghen tuông mù quáng. Tyêu cần lắm một niềm tin chân thành.
7. Khổ thơ thứ tám: Nỗi lo âu, trăn trở.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
- Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn
khoăn của chị. Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo.
Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất
cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng
tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu:
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi
Hay:
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình ai có đổi thay
Nhưng đồng thời XQ cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến vói
bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé
sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản,
đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu.
8. Khổ thơ thứ chín: Khát vọng dâng hiến.
- Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của
mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng
hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong
quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của
một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất
khiêm nhường : trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Nhà
thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa
mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố
Hữu).. Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh ? Vâng! Đó không chỉ là
tinh thần của con người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tấm lòng luôn tha thiết với sự sống,
với tình yêu.
- Người đọc so sánh câu thơ của XQ với một câu thơ của XD sẽ thấy ngay cái mãnh liệt và chung thủy đến
muôn đời của tyêu trong trái tim người phụ nữ. XD cũng nói tyêu như con sóng biển hôn bờ thật dào dạt
nhưng rồi cũng lặng yên trong kết thúc viên mãn:
Đã hôn rồi hôn lại
61
Hôn mãi đến muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
Nhưng sóng tyêu của XQ một khi đã hòa vào biển lớn tyêu của nhân loại thì nó còn vỗ bờ cho đến mãi ngàn
năm.
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai
đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc
đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng
thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.
3. KB:
Bài thơ Sóng là bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Thành công của bài thơ là nhờ vào thủ pháp nghệ
thuật nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, đối lập… nhất là thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp
điệu của tâm hồn. Tất cả đã làm hiện lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh giàu trắc ẩn suy tư và khát vọng trong tình
yêu. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người
luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu
lứa đôi, chị đã làm phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà.
62
ĐÀN GHI TA CỦA LOR – CA
Thanh Thảo
1. MB : Là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kì gian khổ nhưng
Thanh Thảo không viết nhiều về thời kì kháng chiến. Có lẽ ông thực sự để lại tên tuổi của mình với những bài
thơ thời hậu chiến. Sở trường của nhà thơ đó là khắc họa chân dung của những người nghệ sĩ và một trong
những bức chân dung thành công nhất của Thanh Thảo đó chính là chân dung G. Lor-ca trong bài thơ "Đàn
ghi ta của Lor-ca”, một người nghệ sĩ nổi tiếng của Tây Ban Nha nói riêng và của Châu Âu nói chung trong
cuộc chiến tranh TG lần thứ 2. Tác phẩm được xem là linh hồn của tập thơ “Khối vuông ru-bích” xuất bản
năm 1985. Bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" được xem như bản điếu văn bằng thơ rất đẹp mà Thanh Thảo đã
dành tặng Lor-ca. Thông qua đó, Thanh Thảo đã thể hiện sự đồng điệu trong tâm hồn mình, sự phá cách đối
với thơ ca giai đoạn thời kì hậu chiến.
2. TB :
a. Nhà thơ Thanh Thảo:
Một trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại. Muốn cuộc sống được cảm nhận và thể
hiện ở chiều sâu nên luôn khước từ lối biểu đạt dễ dãi; đào sâu vào cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu
đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, giải phóng mọi ràng buộc nhằm mở đường cho một cơ chế liên tưởng
phóng khoáng, xoá những khuôn sáo bằng những nhịp điệu bất thường, đem đến cho thơ một mĩ cảm hiện
đại bằng hệ thống hình ảnh và ngôn từ mới mẻ. Kiểu tư duy: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc
cảm và nhuốm màu sắc tượng trưng siêu thực.
- Tượng trưng: tìm vào trạng thái tâm hồn với những linh cảm được khơi dậy từ vô thức, cho rằng hiện tượng
trong vũ trụ tồn tại như những dấu hiệu tượng trưng cho bản chất huyền bí của tạo vật mà chỉ riêng nhà thơ
mới có những thiên bẩm kì diệu để thâm nhập và biểu đạt được những hình ảnh tượng trưng ấy. Thơ là một
thứ “siêu cảm giác”, không thể giải thích được. Không cần có hình tượng rõ nét, thơ được quan niệm như một
bản hoà âm hoàn hảo. Dường như có nét tương đồng giữa sinh sôi của tạo hoá với sự sáng tạo thơ ca.
- Siêu thực: Hướng tới một hiện thực cao hơn thực tại. Thế giới siêu thực chỉ có thể cảm thấy trong giấc mơ,
trong tiềm thức, lúc đãng trí, thần kinh suy nhược, rối loạn. Khám phá thế giới ấy, nghệ sĩ sẽ phát hiện ra
những điều sâu kín mà thiêng liêng, bí ẩn mà chính xác trong cuộc sống con người. Đề cao yếu tố tâm linh và
sự ngẫu hứng, sáng tác thường được cấu thành bởi những dòng liên tưởng tiềm thức rời rạc, không thể khắc
hoạ được những bức tranh thực tại toàn vẹn.
b. Phê-đê-ri-cô Ga-xi-a Lor-ca (1898-1936)
Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha. Trước một Tây Ban Nha - dưới sự
cai trị của chế độ độc tài- đã trở nên phản động về chính trị và già cỗi về nghệ thuật, Lor-ca đã nồng nhiệt cổ
vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng đồng thời cũng khởi xướng và thúc
dẩy mạnh mẽ những cách tân trong lĩnh vực nghệ thuật. Lor-ca đã tự nguyện làm người du ca đi lang thang
với cây đàn ghita hát lên những bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi bày nôĩ đau buồn và niềm khát vọng yêu
thương của nhân dân. Ông đã bị chế độ phản động cực quyền thân phát xít bắt giam và bắn chết. Cái chết
thảm khốc của Lor-ca đã dâng lên một làn sóng phẫn nộ hết sức mạnh mẽ trên thế giới với bè lũ Phờ-răng-cô.
Tên tuổi của Lor-ca trở thành biểu tượng chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân
loại.
c. Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác bài thơ “Đàn ghita của Lorca”
* Hoàn cảnh:
- Được viết liền mạch trong khoảng thời gian rất ngắn, sau khi ngồi chơi và đàn đạo về thơ Lor-ca với những
người bạn tâm đắc -> kết quả của ấn tượng và nhận thức sâu sắc của Lor-ca.
- Lor-ca là nhà thơ mà Thanh Thảo rất ngưỡng mộ. Cả thơ ca, cuộc đời và cái chết của Lor-ca đã gây cho tác
giả những xúc cảm và ấn tượng. Chính những hình ảnh và nhạc điệu trong nhiều bài thơ của Lor-ca đã dẫn
dắt Thanh Thảo khi viết “Đàn ghita của Lor- ca”
=> Kết quả của cuộc gặp gỡ về cảm xúc, giọng điệu và hình ảnh (sự gặp gỡ của hồn thơ)
- Từng được biết đến Tây Ban Nha qua những tác phẩm của Hê-ming-uê- một nhà văn Mĩ, lại đọc thơ Lor-ca
từ khi còn trẻ, hình ảnh Tây Ban Nha và hình ảnh trong những câu thơ Lor-ca đã lặn sâu vào tâm trí và trở
thành một ám ảnh để khi viết bài thơ, nó bật ra một cách hoàn toàn tự nhiên.
63
=> kết quả sự thăng hoa của vô thức và ám ảnh về con người, cuộc đời và thơ Lor-ca - một con hoạ mi Tây
Ban Nha.
* Mục đích:
Bài thơ được viết như một khúc tưởng niệm Lor-ca, làm sống dậy hình ảnh Lor-ca và thể hiện sự tri âm, đồng
cảm và ngưỡng vọng một người nghệ sĩ tài hoa có cốt cách anh hùng và số phận bi thương.
* Nhan đề và đề từ:
- Đàn ghi-ta - còn gọi là Tây Ban cầm- gắn liền với đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp và hào phóng, rực lửa và
mê đắm với những trận đấu bò và vũ điệu Fla-men-cô, cùng gắn liền với Phê-đê-ri-cô Ga-xi-a Lor-ca- một
nhà thơ nhân dân, một người chiến sĩ cống phát xít- một người nghệ sĩ đã dùng tiếng đàn ghita cất lên lời ca
tranh đấu chống chủ nghĩa phát xít vừa gắn với nền văn hoá Tây Ban Nha vừa gắn với cuộc đời và khát vọng
Lor-ca.
- “Đàn ghita của Lor-ca”: tiếng nói nghệ thuật của riêng Lor-ca - không thuần tuý chỉ là âm thanh, giai đỉệu
mà còn là toàn bộ con người Lor-ca với tinh thần đấu tranh và khát vọng đổi mới nghệ thuật. Trong trường
hợp này, cây đàn ghi-ta đã gắn bó và biểu hiện tâm hồn nghệ sĩ của Lor-ca - tình yêu cuộc sống và khí phách
kiên cường của người chiến sĩ yêu tự do, hoà nhập trái tim mình với quần chúng nhân dân.
- Câu thơ của Lor-ca “Nếu tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”: ước nguyện của Lor-ca gắn với cây đàn. Trong
cuộc sống, Lor-ca đã dùng cây đàn ghita cất lên lời ca tranh đấu thì khi đi vào cõi chết, ông vẫn muốn mang
theo cây đàn để tiếp tục hát lên những lời ca tranh đâú thì khi đi vào cõi chết, ông vẫn muốn mang theo cây
đàn để tiếp tục hát lên những bài ca của tình yêu và khát vọng tự do. Tiếng đàn ghita sẽ là sự sống, là niềm
tin, là hi vọng, là sức mạnh đấu tranh vượt lên cái chết. Sử dụng câu thơ này làm đề từ, Thanh Thảo có lẽ
muốn khẳng định rằng Lor-ca sẽ bất tử cùng với tiếng đàn, cây đàn sẽ kéo dài sự sống, nối dài khát vọng của
Lor-ca.
Phân tích bài thơ
1. Khổ thơ thứ nhất: Lor- ca, con người tự do, người nghệ sĩ cách tân trên khung cảnh văn hóa và
chính trị của TBN.
Bài thơ có lối diễn đạt không viết hoa đầu dòng tạo nên một sự liền mạch như một dòng chảy của cảm xúc
không có điểm dừng. Sự tài hoa của Thanh Thảo còn làm ta liên tưởng bài thơ như một bản đàn ngân vang
với âm thanh “li-la” mênh mang, dìu dặt vút cao chắp cánh đưa người nghệ sĩ bay vút lên trên tất cả bạo tàn
và chết chóc.
a, Lor-ca nhà cách tân của TBN qua cảm quan của Thanh Thảo.
* Câu 1. những tiếng đàn bọt nước
- Hình ảnh biểu tượng : Câu thơ là sự kết hợp của những hình ảnh nằm trong dòng liên tưởng : Tiếng đàn –
bọt nước.
+ Âm thanh tiếng đàn tài hoa, tuyệt diệu, tiếng đàn, cây đàn huyền thoại của đất nước TBN và của Lor-ca.
Nhưng đó cũng là hình ảnh hoán dụ cho sự nghiệp, tiếng thơ, tiếng lòng của chính nghệ sĩ Lor ca, và thậm chí
là cả cuộc đời của người nghệ sĩ tài ba này. Tất cả được làm sáng tỏ thông qua hình ảnh thứ 2.
+ Hình ảnh bọt nước : Là một thi ảnh thường xuất hiện trong thơ của Lor-ca, là thế giới nghệ thuật trở đi trở
lại trong thơ Lor-ca :
Sóng ơi sóng về đâu
Cứ cười và trôi đi
Đến những bờ biển cả
Tới những miền mênh mông
(Sóng ơi sóng về đâu)
@ Câu thơ gợi hình ảnh những bọt nước nhỏ bé trong đại dương mênh mông hay chính là cái cô đơn, nhỏ bé
của nhà thơ trong dòng đời mênh mông. Những bọt nước nhỏ bé, chơi vơi bất định như muốn tan biến vào
đại dương mênh mông. Cho thấy một khát khao, khát vọng vô cùng thi vị của một nghệ sĩ muốn hòa tan vào
thế giới mênh mông, thế giới của tự do.
@ Những bọt nước nhỏ bé trên mặt nước mênh mông cứ xuất hiện rồi thoáng chốc lại tan vỡ, vụt biến. Cũng
như cuộc đời và số phận ngắn ngủi của Lor-ca khi anh bị bọn thân phát xít bắt và hãm hại. Một sự tồn tại
ngắn ngủi của cuộc đời một con người với bao khát khao hi vọng đã dừng lại ở tuổi 38. Đây cũng chính là bi
kịch cuộc đời của Lor-ca.
* Câu 2. Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
64
- Câu thơ gợi nên hình ảnh truyền thống của đn TBN với những đấu trường đấu bó tót nổi tiếng trên thế
giới không lẫn với bất cứ quốc gia nào, mang đậm màu sắc TBN.
- Chứ gắt là bổ ngữ đã trực tiếp miêu tả những đấu trường bò tót quyết liệt nhưng cũng gián tiếp miêu tả
khung cảnh đn TBN đang nổi lên những xung đột xã hội dữ dội.
+ Trong nghệ thuật : Sự xung đột mới-cũ, hiện đại-bảo thủ mà L là người nghệ sĩ đi đầu trong công cuộc
cách tân nghệ thuật.
+ Trong chính trị, xã hội : Mâu thuẫn, xung đột không cân sức giữa một bên là nhân dân TBN lao động yêu
tự do, hòa bình và một bên là bè lũ độc tài phản động thân PX Phờ răng cô mà L là một chiến sĩ tiên phong
trong cuộc đấu tranh đòi tự do cho nhân dân, đn TBN.
-> Nếu câu thơ thứ nhất gợi sinh mệnh ngắn ngủi thì câu thơ thứ hai lại là sứ mệnh khao khát đổi mới TBN
của L nhưng cuối cùng anh cũng hi sinh ở tuổi 38 và Thanh Thảo phát hiện mối quan hệ nhân quả thiêng
liêng giữa sứ mệnh cao cả và sinh mệnh ngắn ngủi thông qua hệ thống hình ảnh biểu tượng của thơ tượng
trưng siêu thực.
Những câu thơ mở đầu giàu sức gợi mang đến một trường liên tưởng về một đất nước đẹp tươi với tiếng ghi
ta làm mê say lòng người, những vũ nữ Di-gan với làn da rám nắng và vũ khúc Fla-men-co cháy bỏng,
những trận đấu bò rực lửa và danh dự của người kiếm sĩ và không thể thiếu những miền thảo nguyên bao la
xanh bóng nắng. Giữa nắng và gió, giữa bao la thiên địa, L hiện lên ngời sáng trong thơ. Sự chuyển đổi cảm
giác từ thính giác sang thị giác tạo nên « tiếng đàn bọt nước » đầy biến ảo, khi tròn to, khi phập phồng thổn
thức, khi vỡ ra tức tưởi như một « thiên bạc mệnh » có tính dự báo về những chông gai, trắc trở mà số phận
người nghệ sỹ sẽ phải đón nhận ở phía trước. Và màu «áo choàng đỏ gắt» tiếp theo sau tiếng đàn bọt nước ấy
chính là những trận đấu bò sinh tử. Nhưng đấu trường bò tót ngay trong sự chuyển gam của Thanh Thảo đã
trở thành một đấu trường chính trị khổng lồ, ngột ngạt, căng thẳng, đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó. Màu
áo của kiếm sĩ « đỏ gắt » lên hay nền chính trị độc tài thân phát xít đang thiêu đốt tự do dân chủ và kiềm hãm
sự phát triển của một nền nghệ thuật đang già cỗi. Đây là một trận chiến lớn giữa một bên là khát vọng dân
chủ của nhân dân nói chung, của Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh vực nghệ thuật, đó
là cuộc xung đột giữa khát vọng cách tân của nhà thơ với nền nghệ thuật già nua. Xét ở phương diện nào thì L
cũng là một chiến sĩ đơn độc đáng thương.
* Câu 3. li-la, li-la, li-la
- Qua cảm nhận trược cảm về âm thanh thì không có âm thanh nào thân thuộc hơn với người nghệ sĩ chơi đàn
ghi ta là âm thanh của tiếng đàn. Nếu hai câu thơ đầu là khúc dạo thì câu thơ thứ 3 với những chuỗi hợp âm
tạo ra những nốt đàn buông, khoảng lặng để ca khúc bắt đầu. Giữa lúc trận đấu đang căng thẳng thì bỗng
vang lên âm thanh du dương, bổng trầm của tiếng đàn: li-la, li-la, li-la một thanh âm trong trẻo, thanh tao
quyện hòa mùi hương hoa Li-la dìu dịu, lan tỏa với những cánh hoa màu tím nồng nàn đầy sức sống giữa
khung cảnh bạo tàn và chết chóc. Đấu trường khốc liệt nhường chỗ cho sự thăng hoa của nghệ thuật. Ai nói
nghệ thuật không có sức mạnh. Không! Nghệ thuật chính là sức mạnh vô địch có thể hóa giải mọi hận thù.
Và chàng nghệ sỹ của chúng ta đang thăng hoa trong bản hòa tấu ghi-ta đầy lãng mạn. Nghệ thuật điệp với
cấu trúc nhịp 2/2/2 như âm thanh da diết vô cùng của một niềm yêu, niềm kiên nhẫn vô cùng của những khát
khao và cách tân đổi mới.
* Câu 4. đi lang thang về miền đơn độc
- Không gian của đn TBN gợi nên qua hình ảnh miền đơn độc như vẽ ra trước mắt người đọc những thảo
nguyên xanh mênh mông của TBN. Cả câu thơ hầu hết là các thanh với từ láy lang thang mở ra một không
gian mênh mông, rộng lớn. Từ láy đơn độc gợi ra những miền không gian hoang vắng, những miền ít dấu
chân người.
- Hình ảnh người nghệ sĩ: Trên khung cảnh không gian là những miền đơn độc là bi kịch của người nghệ sĩ L:
người nghệ sĩ vĩ đại, con người khái phá luôn đơn độc trên chặng đường đi tìm đổi mới cho đn TBN.
* Câu 5. Với vầng trăng chếnh choáng
- Vầng trăng xuất hiện trong thơ L như một biểu tượng của cái đẹp với những vầng trăng đỏ, vầng trăng đen.
Người đọc như đang dõi mắt theo từng bước chân lãng tử của người nghệ sỹ trên hành trình «lang thang về
miền đơn độc» cùng với «vầng trăng – yên ngựa». Đây là một hệ thống thi ảnh thường bắt gặp trong thơ
Lorca, chàng kị sỹ một mình trên lưng «con ngựa đen/ vầng trăng đỏ » với những bản đàn ghita phiêu bồng
cùng giấc mơ tranh đấu.
- Trong thơ Thanh Thảo, L hiện lên với dáng điệu «chuếnh choáng». Đây là một hình ảnh mang cái hồn say
của người nghệ sỹ, không phải cái say tầm thường của những cốc rượu vang đỏ mà là say trong tranh đấu,
65
say trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu như chàng Đôn-ki-hô-tê trong trang văn của Xec-van-tec mải miết với
giấc mơ hiệp sĩ thì L mãi « mỏi mòn » trong hành trình chống lại tộc ác của bè lũ Phờ-răng-cô. Từ láy mỏi
mòn cho cảm nhận về thời gian dằng dặc của những hành trình không có điểm dừng. Nhưng đồng thời cũng
ẩn chứa cái vô thức trong cái tôi của L: phải chăng cũng có lúc người nghệ sĩ, chiến sĩ ấy thi thoảng vẫn còn
sự ám ảnh của những phút chùn lòng đâu đó tự nhiên quay trở về. Nhưng đáng thương thay, trong hành trình
khát vọng ấy, L là một nghệ sĩ cô đơn trong sáng tạo nghệ thuật và cô độc trong chiến đấu. Nhưng không vì
thế « con họa mi của xứ Granada lại ngừng hót ». Chàng vẫn « Mãnh liệt như trăm ngàn sư tử/ Vững chắc
như cẩm thạch » (Thơ L). Chính vì thế với hai câu thơ này dù nhìn ở góc độ nào ta cũng thấy người nghệ sĩ L
với tâm hồn luôn khát khao sáng tao nghệ thuật, hướng tới cái đẹp nhưng luôn bị cô đơn.
2. Khổ thơ thứ hai, thứ ba: Hình ảnh L trong cái chết bi tráng.
* 6 câu thơ đầu:
- 2 câu đầu:
TBN
hát nghêu ngao
- Nghệ thuật hoán dụ nói TBN thay vì L bởi lẽ
+ TBN là đn của những nét văn hóa đặc sắc không chỉ với những đấu trường bò tót, với cây đàn ghi ta
truyền thống huyền thoại mà còn biết đến với nghệ thuật vũ đạo đặc sắc flamenco. Một loại hình ghệ thuật ra
đời từ thế kỉ XVI, có sự ca hát, nhảy múa với âm thanh tiếng đàn ghi ta da diết và vũ đạo hoặc đắm say, hoặc
bốc lửa. Đặc biệt là những khú hát dân ca ngọt ngào say đắm của xứ sở An-đa-lu-xi-a.
+ Nghệ sĩ L quen thuộc với nhân dân và đn TBN với hình ảnh một con người luôn dùng cây đàn ghi ta của
mình vừa sáng tác thơ, phổ nhạc, hát, đệm đàn. Những lời ca, tiếng hát, vần thơ thể hiện tình yêu với đn, con
người, quê hương TBN. Và ông đã mượn chất liệu của văn học dân gian fla-men-co và An-đa-lu-xi-a. Nên
nghệ thuật của L là nghệ thuật tiêu biểu sâu đậm cho đn, con người TBN.
-> Nghệ thuật hoán dụ đã nới rộng tầm vóc tiếng hát, tiếng thơ, tiếng lòng của L.
-hát nghêu ngao.
+ Từ láy nghêu ngao: mang sắc thái biểu cảm vừa có tác dụng xóa mờ đi đặc tính trang trọng của nhạc thính
phòng phương tây đồng thời làm tăng thêm phần dân gian cho âm nhạc và nghệ thuật của L, làm cho L gần
hơn với những cuộc đời, nẻo đường, dòng sông, đồng cỏ của đn TBN. Nhưng nó cũng mang sắc thái gợi
hình, một hình ảnh chàng ca sĩ hát rong thật thơ trẻ, trong sáng, hồn nhiên, thánh thiện. Chàng ca sĩ một mình
một ngựa lang thang trên những nẻo đường chưa có dấu chân ai và cất lên tiếng hát ca ngợi những dòng sông,
đồng cỏ, cánh đồng, vầng trăng và đn, nhân dân TBN.
-> Vẻ đẹp tâm hồn L đại diện cho đn TBN hiện ra đầy đủ và rõ nét nhất. Hai câu thơ đầu với những thanh
bằng gợi cảm giác phiêu du thanh thản nhưng càng chiến đấu, Lorca càng say mê, càng “hát nghêu ngao» thì
bỗng dưng, phũ phàng thay « đường chỉ tay đã đứt », định mệnh đã khiến chàng nghệ sĩ du ca của chúng ta
phải dở dang hành trình khát vọng.
- 2 câu sau:
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
+ Câu 3: Nếu coi bài thơ là một bản đàn, bản nhạc ghi ta miên man thì câu thơ thứ ba trong đoạn thơ này như
một nhịp đảo phách, một khoảng lặng, một nỗi đau. Dù con người ngay từ khi sinh ra mang trong mình sự
sống đã hiểu một lẽ rằng một ngày cái chết cũng đến, nhưng bản thân L luôn dự cảm của mình luôn tiên đoán
về cái chết trong bài “Di chúc sớm” nhưng đến khi đối mặt với cái chết con người vẫn kinh hoàng và câu thơ
thứ ba đã nói hết những kinh hoàng ấy. Phát súng của bọn phát xít đã đánh hạ L đáng thương. Thanh Thảo
thốt lên sững sờ «bỗng kinh hoàng ». Như không tin vào mắt mình nữa.
+ Câu 4: Cả dân tộc Tây Ban Nha bàng hoàng, cả thế giới nín lặng, bản giao hưởng chùng xuống rồi lại vút
cao lên theo « máu anh phun như lửa đạn cầu vồng ». Thanh Thảo tạo dựng cái chết đầy bi phẫn của người
anh hùng một cách tức tưởi bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa niềm tin, tình yêu và lạc quan,
khát vọng « hát nghêu ngao » với sự thật phũ phàng « áo choàng bê bết đỏ ». Đó là màu máu của L làm tấm
áo choàng đỏ gắt càng thêm «bê bết đỏ». Đối với L, anh luôn dự cảm về cái chết nhưng anh cũng không thể
ngờ rằng cái chết lại đến với mình nhanh đến thế. Anh đã từng thốt lên «Tôi không muốn nhìn thấy máu ! ».
Nhưng máu đã đổ. Người kiếm sĩ muốn một cái chết vinh quang giữa đấu trường cùng với đôi kiếm sắc
nhưng lại bị kẻ thù hành hình một cách lén lút bất minh. Nhưng L chấp nhận như người cách mạng đã chấp
nhận «Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa».
66
- 2 câu cuối:
+ Câu 5: L bị điệu về bãi bắn
Câu thơ sử dụng hàng loạt những thanh trắc như những bước chân nặng nề của L và có phần bị động khi bị
quân giặc bắt và đem đi xử tử.
+ Câu 6: Và vì chấp nhận, người anh hùng đã ung dung, bình thản ra giữa pháp trường «chàng đi như người
mộng du». Câu thơ chủ yếu là những thanh bằng và những âm tiết mở, nhẹ nhàng, trầm bổng, du dương. Với
một tâm thế đầy chủ động khi lấy lại được tinh thần sau những phút kinh hoàng ập đến. L như không bận tâm
trước họng súng quân thù, cái chết mà vẫn mải miết theo đuổi khát vọng đến cùng. Một cảm giác phiêu diêu
ở khổ thơ thứ nhất đã dần trở lại, L đang dang lang, đi phiêu diêu cùng đồng cỏ, dòng sông, với vầng trăng,
yên ngựa… Phải chăng Thanh Thảo muốn gợi lại sự trong trắng thơ trẻ trong tâm hồn người nghệ sĩ L, người
nghệ sĩ chỉ biết yêu cuộc đời. Mộng du là trạng thái của tâm hồn đã rời thể xác nhưng không có nghĩa là biến
mất khỏi thể xác. Tâm hồn và tinh thần của L đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước chân mộng du
đã hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao nhiêu chúng ta lại càng căm
phẫn tội ác bấy nhiêu. Và L đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có
thể hủy diệt được thân xác của L nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh đang bung nở giữa bản
hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng Ghita nồng nàn vi diệu.
* 6 câu thơ sau:
tiếng ghi -ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi -ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
- Điệp khúc tiếng ghi ta dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn
trong bản ghi ta bi tráng! Tôi gọi đây là khúc biến tấu của tiếng đàn, nó thay màu chuyển gam rất lẹ, biến ảo
không ngừng và đặc biệt luôn sinh sôi nảy nở, giọt này vỡ đi, giọt kia lại trào ra không dứt. Đó chính là sức
sống! Thanh Thảo sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh hoạt khi miêu tả tiếng đàn.
+ Màu nâu xuất hiện suy tư, trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn, màu nâu của đất đai, màu
nâu của làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Digan bốc lửa. Trước giây phút từ li, chàng đã ngước
nhìn lên bầu trời xanh tha thiết ”bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng, bầu trời yêu thương nơi có
bóng hình nàng Maria thủy chung.
+ Đối lập với màu nâu trầm tĩnh là màu xanh của "tiếng ghita lá xanh biết mấy”. Màu xanh là sự hóa thân
của L và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây: màu xanh của những vườn cam, màu xanh của
thảo nguyên và những rặng Oliu hay hàng bạch dương nơi L đang yên nghỉ. Hai tiếng biết mấy nằm ở cuối
câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp của tuổi trẻ L –
vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.
+ Tiếng đàn không chỉ mang sắc màu biến tấu mà còn mang hình khối, đường nét như hình hài của sinh
mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ òa, cũng biết nói tiếng nói của sự căm phẫn bạo tàn. Hay nói đúng hơn đó là tiếng
kêu cứu của nghệ thuật khi bị đẩy đến bờ vực của sự tuyệt diệt.
tiếng ghi -ta tròn
bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
+ Hai tiếng vỡ tan, vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn thức của tiếng đàn. Nó đã cất lên
lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài, hủy diệt cái đẹp. Và vì thế bản ghita bi tráng đẩy đến
độ cao trào của sự bi phẫn, nó ròng ròng máu chảy, nó uất nghẹn, tức tưởi đến bật máu thành từng dòng đau
thương trong một bản đàn giao hưởng hào sảng. Nỗi đau của tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi
khát vọng chưa thành. Ta cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
”Một cung gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Nỗi đau của Kiều khi hầu đàn Hồ Tôn
Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và tâm hồn của người sinh
ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh.
3. Ba khổ thơ còn lại:
a, Khổ thơ thứ nhất.
- Với thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng, Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian sinh tồn đầy
sức sống mãnh liệt.
67
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
* Hai câu đầu.
+ Không ai chôn cất tiếng đàn hay không ai có thể chôn cất được tiếng đàn ? Có lẽ nên hiểu theo cách thứ
hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm của tinh thần được kết tinh từ hương sắc cuộc
đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống mãnh liệt và hoang dại của nó như loài cỏ mọc hoang
không gì có thể ngăn nổi chúng. Đây chính là sự bất tử, sự vĩnh hằng của nghệ thuật. Dù L hi sinh nhưng sản
phẩm tinh thần mà ông để lại đó chính là tâm hồn mình, nghệ thuật của mình. Những bài ca tranh đấu của L
vẫn đồng hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang
trong lòng của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
+ Hình ảnh cỏ mọc hoang cũng có thể hiểu sau khi L chết, nền nghệ thuật của đn TBN không có người dẫn
đầu nên nó như cỏ mọc hoang. Như vậy ta mới hiểut hết được vai trò của người nghệ sĩ tiên phong trong cuộc
cách tân, đổi mới nền nghệ thuật TBN của L và sự ngưỡng mộ của Thanh Thảo và nhân dân TBN đối với
nghệ sĩ anh hùng này.
+ Nếu liên hệ câu thơ này với lời đề từ của bài thơ: Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn thì ta thấy rằng tâm
nguyện của L chưa được thực hiện nên có một cảm giác chua xót. Bởi hậu thế không dám chôn cất tiếng đàn
của L, những đổi mới nghệ thuật nên đã vô hình chung đã chôn vùi những cách tân đổi mới của L.
-> Cả hai nét ghĩa tồn tại đồng thời trong câu thơ này mà không hề đối lập. Vì nó mang quy luật của cuộc
sống: quy luật phủ định. Vì sự sống là đổi mới không ngừng đổi thay. Nhưng nó không phủ định hoàn toàn
mà là sự kế thừa và phát triển . Phủ định nhưng không xóa bỏ, vượt qua nhưng không lãng quên.
* Hai câu sau.
- Tính gián đoạn của câu thơ thể hiện đậm nét: Các liên kết trong câu thơ bị xóa mờ, như một đặc điểm
của thơ tượng trưng, siêu thực. Nhà thơ không chỉ đảo lộn thi pháp mà còn đảo lộn cả ngữ pháp bởi ta có rất
nhiều cách kết hợp từ ngữ trong hai câu thơ trên:
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
hoặc:
giọt nước mắt long lanh
vầng trăng trong đáy giếng
- Không chỉ bất tử, tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt vầng trăng. Một
hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của nghệ thuật được kết tinh
từ những giọt mồ hôi, từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ thuật chân chính qua bao thời gian công sức
đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài của giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết. Hay đó chính là
vẻ đẹp của cuộc đời L đã hóa thân thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng giữa đời. Bất ngờ thay, nơi đáy
giếng tối tăm và lạnh lẽo, nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp được linh hồn và thể xác của người công
dân L, lại là nơi tỏa sáng tâm hồn anh. Trước sự ra đi của L, trước những công lao của L thì nhân dân TBN,
và hậu thế cũng như nhân dân tiến bộ trên thế giới đã, đang và sẽ khóc thương L.
b, Hai khổ thơ cuối: suy tư về sự giải thoát của L.
Ở khổ cuối của bài thơ, Thanh Thảo đưa người đọc vào thế giới suy tư về sự giải thoát của L:
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghita màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Digan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la, li-la, li-la
- Hai khổ thơ tiềm ẩn những hình ảnh mang sắc thái tương phản đậm nét. đường chỉ tay đã đứt ><dòng
sông rộng vô cùng như số phận con người ngắn ngủi với cuộc đời mênh mông. lá bùa>< xoáy nước : sự
may mắn, hi vọng với nỗi kinh hoàng, bất hạnh. tim mình>< lặng yên : tình yêu và sự sống với tịch mịch, hư
68
vô của cõi chết. Tất cả như một lần nữa khẳng định một cuộc đời, sinh mệnh ngắn ngủi của một con người,
hay của chính L trước sự khắc nghiệt của định mệnh.
- Khi cuối cùng chàng nghệ sĩ của chúng ta đã dừng bước giang hồ trước dòng sông của định mệnh và chủ
động trước số phận cuộc đời khi đường chỉ tay đã đứt. Sinh mệnh chấm dứt. Chàng rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian
để trở về cõi vĩnh hằng. Dòng sông vô hình dung là dòng sông cuộc đời, dòng sông của số phận và cũng là
đường ranh giới ngăn cách giữa sự sống và cõi chết. Trên dòng sông ấy, L đang bơi sang ngang cùng di vật
đàn ghita. Màu bạc của cây đàn là sự biến ảo từ màu nâu trầm tĩnh sang xanh thiết tha hi vọng và cuối cùng là
màu của sự hư ảo trong cõi siêu sinh. L đang bơi trên con thuyền thi ca mà cây đàn chính là con thuyền bàng
bạc chở tình yêu và nỗi nhớ của chàng đang trôi dần vào bến bờ bất tử. Chàng dứt khoát rũ bỏ mọi hệ lụy trần
gian ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim vào cõi lặng yên. Xoáy nước là cuộc tranh đấu hay sự hiểm
nguy trên dòng sông của định mệnh ? Cõi lặng yên phải chăng là phút giây mà trái tim người nghệ sĩ ngừng
đập? Có lẽ ta không cần phải lí giải về nó. Bởi L đã về nơi an nghỉ cuối cùng. Chỉ còn vang vọng nơi đây âm
vọng của tiếng đàn li-la, li-la, li-la như bản nhạc thiết tha, thấm đẫm hương thơm của loài hoa Lila – tử đinh
hương đưa người nghệ sĩ – chiến sĩ về với cõi vĩnh hằng với bao niềm tiếc thương vô hạn. Tôi chợt nhớ tới
bài thơ Ghi nhớ của anh:
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi
cùng với cây đàn dưới lớp cát hàng bạch dương
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi giữa rặng cây cam
và đám bạc hà.
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi, tôi xin các người đó,
nơi một chiếc chong chóng gió.
Có lẽ ở một nơi nào đó, chàng nghệ sĩ nhân dân đang được sống giữa những sự yên vui và đầy ánh nắng của
tự do nơi đó không có bạo tàn và chết chóc.
3. KB. Bài thơ đã rất thành công khi tạo dựng một tượng đài L bằng ngôn ngữ của thơ và âm nhạc. Với lối
thơ không viết hoa đầu dòng, cảm xúc liền mạch, Thanh Thảo đã mang đến cho người đọc một mĩ cảm hiện
đại giàu tính sáng tạo. Sự trộn lẫn giữa trường phái tượng trưng siêu thực và sức sáng tạo của Thanh Thảo đã
cho ra đời một tuyệt bút đầy ngẫu hứng giàu chất nhạc. Trên hết là nhà thơ đã mang đến cho người đọc một
tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát xít bạo tàn. Bất kỳ một cuộc chiến nào cũng có người
chiến thắng và kẻ bại trận nhưng những người biết hi sinh vì mọi người luôn luôn là người anh hùng với
chiến thắng vĩ đại nhất. Gac-xi-a Lor-ca là một người như thế.
69