Professional Documents
Culture Documents
Chuong 9
Chuong 9
Chuong 9
Sinh lý máu
Từ khoá: Máu, hemoglobin, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, nhóm máu.
Tài liệu trong Thư viện điện tử ĐH Khoa học Tự nhiên có thể được sử dụng cho mục
đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép, in ấn phục
vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp thuận của nhà xuất bản và tác giả.
Mục lục
Chương 9
SINH LÝ MÁU
Lấy máu, chống đông rồi cho vào ống nghiệm và li tâm, ta thấy máu được phân thành hai
phần rõ rệt:
Phần trên trong, màu vàng nhạt chiếm 55-60% thể tích, đó là huyết tương.
Phần dưới đặc, mầu đỏ thẫm, chiếm 40-45% thể tích, đó là các tế bào máu.
Trong các tế bào máu thì số lượng chủ yếu là hồng cầu, còn bạch cầu và tiểu cầu chiếm tỷ
lệ rất thấp (hình 9.1).
Hình 9.1
Tách huyết tương và tế bào máu bằng phương pháp ly tâm
có hàm lượng đường glucose 180g/l (1 phân tử gam) và một dung dịch có hàm lượng ure
60g/l (1 phân tử gam) thì có áp suất thẩm thấu bằng nhau. Nhưng một dung dịch có hàm
lượng muối ăn NaCl 58,5g/l lại có áp suất thẩm thấu lớn gấp 2 lần. Sở dĩ như vậy là do NaCl
trong dung dịch phân ly hoàn toàn thành Na+ và Cl- và mỗi ion có giá trị như 1 mol.
Áp suất thẩm thấu được tính bằng công thức:
C
πω = K T
M
Trong đó: πω là áp suất thẩm thấu
C là nồng độ tính bằng g/l
M là trọng lượng phân tử
T là nhiệt độ tuyệt đối
Đơn vị áp suất thẩm thấu là osmol (OsM) tương đương với 22,4 atmosphe, đơn vị dưới là
miliosmol (mOsM) 1/1000 OsM hoặc bằng 1/1000 mol/lít nước.
Để tính chính xác người ta phải tính nồng độ từng loại ion hoặc vật chất hoà tan (mg/l)
rồi chia cho trọng lượng phân tử hay mol của nó để biết áp suất thẩm thấu của từng loại. Tổng
các áp suất thẩm thấu thành phần trong dung dịch là áp suất thẩm thấu chung của dung dịch.
Người ta tính được áp suất thẩm thấu của huyết tương là 300-310 mOsM.
Trong thực tế việc tính toán áp suất thẩm thấu theo nồng độ mol của các thành phần rất
phức tạp nên người ta đo áp suất thẩm thấu bằng phương pháp gián tiếp thông qua độ hạ băng
o
điểm (∆t). Độ hạ băng điểm của máu là 0,56 đến 0,58 C. Khi một dung dịch có chứa một
phân tử gam trong một lít thì có độ hạ băng điểm là 1,86oC, cho nên có thể suy ra nồng độ phân
tử gam của máu là 0,3.
Áp dụng công thức tính của Clapeyron:
P = CRT
Trong đó: P là áp suất thẩm thấu
C là nồng độ phân tử gam
R là hằng số khí (tương đương 0,082 lít - atmotphe)
T là nhiệt độ tuyệt đối.
o
Nhiệt độ cơ thể người là 37 C thì:
P = 0,3 x 0,082 x 310 = 7,6 atmotphe
Giá trị áp suất thẩm thấu của máu người dao động trong khoảng 7,6-8,1 atmotphe. Giá trị
này chủ yếu do các muối vô cơ hoà tan (phần chính là muối ăn NaCl) tạo thành. Một phần
nhỏ do các protein hoà tan tạo ra được gọi là áp suất keo loại (hay áp suất thẩm thấu thể keo).
áp suất này chiếm khoảng 20-30 mmHg (tương đương 1/30 atm).
Trong thành mạch máu có các thụ quan nhạy cảm với sự thay đổi của áp suất thẩm thấu.
Nếu trị số thay đổi, lập tức một phản xạ hình thành để tự điều chỉnh, giữ cho áp suất thẩm
thấu luôn luôn hằng định. Tính hằng định này đảm bảo sự tồn tại bình thường của hồng cầu
trong máu, cho sự ổn định của dịch thể, cho các quá trình sinh học diễn ra thuận lợi.
7
Người ta ứng dụng tính chất này để chế tạo ra các dung dịch có áp suất thẩm thấu tương
đương áp suất thẩm thấu của máu, gọi là dung dịch sinh lý, nhằm:
Tiếp nước và các thành phần muối hoà tan cho cơ thể khi cơ thể mất nước, khi tiến hành
phẫu thuật.
Làm dung dịch nuôi các chế phẩm khi tiến hành các thí nghiệm cấp diễn hoặc lau rửa các
vết thương.
Bảng 9.1
Thành phần của cỏc dung dịch sinh lý mỏu (đơn vị tính g/lít)
Ringer
Thành phần Động vật đồng nhiệt Động vật biến Lock Tyrod
nhiệt
NaCl 8,5 - 9 6 - 6,6 9,0 8,0
KCl 0,2 0,1 0,2 0,2
CaCl2 0,2 0,1 0,2 0,2
NaHCO3 0,2 0,1 0,15 1,0
MgCl2 - - 0,15 1,0
NaH2PO4 - - 0,15 0,05
Glucose - - 1,0 1,0
Những dung dịch như trong bảng trên gọi là các dung dịch đẳng trương. Những dung
dịch có thành phần các muối cao hơn gọi là dung dịch ưu trương. Còn những dung dịch có
thành phần thấp hơn gọi là dung dịch nhược trương.
Pha loãng máu bằng dung dịch đẳng trương, các tế bào máu tồn tại bình thường. Trái lại,
trong dung dịch ưu trương tế bào bị teo lại và phá hủy vì nước thấm qua màng ra ngoài. Còn
trong dung dịch nhược trương, nước lại thấm vào trong làm cho tế bào hồng cầu căng phồng,
và đến một mức độ nhất định sẽ phá hủy màng, giải phóng hemoglobin ra dung dịch, làm cho
dung dịch có màu đỏ son, gọi là hiện tượng huyết tiêu (hemolyse). Vì hồng cầu có mức độ
non già khác nhau nên độ bền của màng cũng khác nhau. Người ta có thể xác định được độ
bền tối thiểu và tối đa của màng hồng cầu ở người bình thường. Đây là một chỉ tiêu sinh lý
quan trọng để xét nghiệm chức năng của hồng cầu.
9.2.3.4 Độ pH của máu
Độ pH phản ánh sự cân bằng toan – kiềm (hay còn gọi là cân bằng acid - base) của máu.
Duy trì sự ổn định của độ pH hay là sự điều hoà cân bằng toan – kiềm của máu và các dịch
thể có ý nghĩa sống còn đối với mọi hoạt động sống của cơ thể, bởi vì tất cả quá trình sống chỉ
được thực hiện và tồn tại với sự ổn định của độ pH.
Để nghiên cứu độ pH người ta phải tìm hiểu ion đồ tức là xem xét đến sự cân bằng của
các cation và anion trong dung dịch. Người ta dùng đơn vị Equivalent (Eq = đương lượng) và
mEq (miliequivalent) để tính.
Hàm lượng ion của huyết tương giữa anion và cation là bằng nhau và đạt khoảng 155
mEq. Điều này chứng tỏ huyết tương luôn cân bằng về điện tích. Thường anion được gọi là
thành phần toan, còn cation là thành phần kiềm. Thực sự thì hàm lượng ion H+ ([H+]) là yếu
tố quyết định của độ pH, cho nên cần bằng toan – kiềm chính là sự cân bằng hàm lượng ion
H+ trong máu. Hàm lượng ion H+ trong máu là 4.10-8 Eq/l = 0,00000004. Thông thường người
ta dùng khái niệm pH để chỉ hàm lượng ion H và tính theo công thức:
1
pH = log hay pH = - log [H+]
[H ]
+
8
Bảng 9. 2
Các loại protein có trong huyết tương người
Loại Protein Trọng lượng g/1000ml Tỷ lệ % so với
huyết tương protein toàn phần
Protein toàn 68-72 100
phần
Albumin 42 60
Globulin toàn 24 35
phần
Globulin ỏ1 3,5 5
Globulin ỏ2 5 7
Globulin õ 8 11
Globulin ó 7,5 11
Fibrinogen 2-4 4-5
Bảng 9.3
Các loại protein có trong huyết tương động vật
Loài Albumin (%) Globulin (%)
+ -
Na 300-540 Cl 360-390
+ --
K 18-20 PO4 9,5-10,5
++ --
Ca 10 SO4 2,2-4,5
++ --
Mg 2,5 HCO3 160
++
Cu 1,8-2,0 Iod 0,007
++
Zn 0,3
++
Fe 0,1
Hình 9.2
Các tế bào máu: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu
Số lượng của hồng cầu trong máu rất nhiều. Trong sinh lý, người ta dùng phương pháp
pha loãng một thể tích máu nhất định (bằng ống trộn hồng cầu) rồi đếm hồng cầu trên một
phòng đếm có kích thước xác định để tính ra số lượng hồng cầu trong 1mm3 máu. Đây là một
chỉ tiêu sinh lý quan trọng. ở người vào khoảng 4,5 – 5,5 triệu / 1mm3. Số lượng hồng cầu
của người Việt Nam là:
Nam 5,11 ± 0,3 triệu/ 1mm3. Nữ 4,6 ± 0,25 triệu/ 1mm3.
Bảng 9. 5
Số lượng hồng cầu của một số loài động vật (theo số liệu của sinh lý gia súc *)
Loài Hồng cầu Loài Hồng cầu
3 3
(triệu/mm ) (triệu/mm )
Lợn lớn * 5,0 Bò sữa 7,2
Lợn con * 4,7 - 5,8 Dê 14,0
Trâu * 4,5 - 5,3 Cừu 8,1
Nghé * 5,6 - 6,3 Chó 6,5
Thỏ 5,8 Gà 3,5
Ở trẻ sơ sinh số lượng hồng cầu khoảng 6 triệu, sau khi sinh hai tuần giảm xuống 5 triệu,
rồi 4,5 triệu. Đến tuổi dậy thì hơi tăng lên. Số lượng hồng cầu cũng hơi tăng sau bữa ăn, mùa
lạnh, lao động nặng, ở độ cao từ 700m so với mặt biển trở lên và khi mất nhiều mồ hôi, đái
nhiều. Số lượng hồng cầu giảm khi uống nhiều, cuối kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ. Trường hợp
bệnh lý, hồng cầu tăng khi bị ngạt. Hồng cầu giảm khi bị xuất huyết, chứng bệnh thiếu máu...
9.4.3 Độ bền thẩm thấu của màng hồng cầu và tốc độ lắng hồng cầu
Xem phần tỷ trọng và áp suất thẩm thấu ở trên
9.4.4.2
Hình 9.3
Cấu trúc của phân tử hemoglobin
Dùng huyết sắc kế Shali với dung dịch HCl N/10 và nước cất, có thể dễ dàng và nhanh
chóng định lượng Hemoglobin có trong máu.
Hàm lượng hemoglobin của máu người bình thường trưởng thành nam giới là 15
gam/100 ml máu (g%) và nữ giới là 13,5 (g%). Hàm lượng này ở các loài động vật như sau:
ngựa 13,6g; bò cái 11g; lợn 10,6g.
Hemoglobin của các loài thú đều có lượng sắt giống nhau khoảng 0,33%. Cứ một nguyên
tử gam sắt kết hợp được tối đa với một phân tử gam O2. Như vậy một gam hemoglobin kết
hợp được 1,34 ml O2 và 15 gam Hb trong 100 ml máu kết hợp được 20 ml O2, một lít máu có
200ml O2. Lượng O2 này đủ đảm bảo cho nhu cầu bình thường của cơ thể.
Hình 9.4
Phá huỷ hồng cầu bởi các đại thực bào của mô
9.5.1.1 Cấu tạo và hình dạng của bạch cầu (hình 9.2)
Bạch cầu là những tế bào máu có kích thước lớn hơn hồng cầu, trung bình vào khoảng 5-
25 micromet đường kính, nhưng số lượng thì ít hơn nhiều lần so với hồng cầu. Hình dáng của
bạch cầu không cố định, chúng có khả năng di động theo kiểu amib và có khả năng chui ra
khỏi thành mạch.
Bạch cầu không chỉ tồn tại trong máu mà còn có mặt trong dịch bạch huyết, dịch não tủy,
các hạch bạch huyết và tổ chức liên kết...
Bạch cầu là những tế bào có nhân, và chia làm hai nhóm:
17
Một nhóm nhân tròn lớn, trong bào tương có các bào quan và không có các hạt bắt màu
đặc trưng.
Một nhóm nhân thường chia thành nhiều thùy và có các hạt bắt màu đặc trưng trong bào
tương.
Trong thành phần cấu tạo ngoài nước, bạch cầu có nhiều lipid như cholesterol, lecithin,
mỡ trung tính và acid béo. Sự giầu lipid có liên quan với chức năng chống nhiễm trùng của
bạch cầu. Bạch cầu còn có acid ascorbic (vitamin C), các hạt glycogen và các enzym như
oxydase, peroxydase, catalase, lipase, amilase, protease. Ngoài ra còn một số chất diệt trùng.
9.5.1.2 Số lượng bạch cầu
Số lượng hồng cầu thay đổi theo loài, lứa tuổi và một số trạng thái sinh lý khác nhau
(bảng 9.7).
3
Ở người, trong máu lưu thông có khoảng 7000-8000/mm . Trẻ em sơ sinh số lượng bạch
3
cầu lớn, khoảng 20.000/mm , sau đó giảm dần, một tuổi còn 10.000/ mm3 và ổn định ở tuổi
12. Sau khi ăn, lao động nặng, tháng cuối thời kỳ có thai ở phụ nữ, sau khi đẻ bạch cầu hơi
tăng. Khi đói, lạnh bạch cầu hơi giảm. Các hormon thyroxin, insulin làm giảm bạch cầu, còn
adrenalin, folliculin lại làm tăng.
Bảng 9. 6.
Số lượng bạch cầu của các loài động vật
Bạch cầu Bạch cầu
Loài Loài
(ngàn/mm3) (ngàn/mm3)
Lợn lớn (1) 20.000 Cừu 8.200
Lợn con (1) 15.000 Chó 9.400
Trâu (1) 13.000 Thỏ 8.000
Nghé (1) 12.000 Gà 30.000
Dê 9.600 Ngan 30.800
Hình 9.5.
Các loại bạch cầu
Đó là những bạch cầu mà trong bào tương có các hạt bắt màu đặc trưng và nhân chia ra
nhiều thùy. Bạch cầu nhóm này chiếm khoảng 2/3 tổng số bạch cầu trong máu. Căn cứ vào sự
bắt màu của các hạt, chúng được chia ra:
- Bạch cầu trung tính
Bạch cầu trung tính chiếm khoảng 65% tổng số bạch cầu. Kích thước khoảng 10-15
micromet. Nhân chia ra 3, 4 hoặc 5 thùy. Nhuộm giemsa, các hạt bắt màu đỏ nâu.
Chỉ sau thời gian rất ngắn lao động nặng bạch cầu trung tính đã tăng lên rõ rệt. Ngưng lao
động một giờ, số lượng bạch cầu này trở lại bình thường. Khi cơ thể bị tổn thương vì bất cứ lý
do gì và ở đâu bạch cầu trung tính đều tăng. Trong bệnh ung thư có thể tăng lên từ 4500-
3
15000 hay hơn nữa trong 1mm máu. Các trường hợp xuất huyết nhẹ trong ổ bụng, hay cấp
tính, ngộ độc, phẫu thuật, tiêm protein lạ vào cơ thể, cơn giật động kinh bạch cầu trung tính
đều tăng. Chức năng chính là thực bào.
- Bạch cầu ưa acid
Bạch cầu ưa acid có nhân phân đoạn như bạch cầu trung tính, nhưng hạt bắt màu hồng
đỏ. Số lượng ít hơn bạch cầu trung tính, chiếm khoảng 9% tổng số bạch cầu. Kích thước trung
bình khoảng 10-15 micromet.
Bạch cầu ưa acid tăng trong bệnh nhiễm ký sinh trùng đường ruột.
Chức năng của bạch cầu ưa acid còn được biết ít. Nhưng chức năng rõ nhất đã biết là khử
độc protein, do đó số lượng tăng trong trường hợp dị ứng và tập trung ở nơi xảy ra phản ứng
kháng nguyên - kháng thể. Niêm mạc ruột và phổi cũng có nhiều bạch cầu này, vì đó là các
địa điểm mà protein lạ xâm nhập cơ thể.
- Bạch cầu ưa kiềm
Số lượng loại bạch cầu này rất ít, vào khoảng 0-1% tổng số. Nhân phân 2-3 thùy, hạt bắt
màu xanh tím khi nhuộm giemsa. Kích thước trung bình khoảng 10-15 micromet. Bạch cầu
ưa kiềm tăng trong bệnh viêm mạn tính và giai đoạn phục hồi sau viêm. Chức năng chung còn
chưa được rõ.
b) Bạch cầu không hạt, đơn nhân
Nhóm bạch cầu này chiếm khoảng 1/3 tổng số bạch cầu. Trong bào tương không có hạt
và nhân không phân thùy. Được chia làm hai loại:
- Bạch huyết bào
Bạch huyết bào hay còn gọi Lympho bào, chiếm khoảng 25% tổng số bạch cầu. Kích
thước trung bình khoảng 5-15 micromet. Nhân tròn hoặc hình hạt đậu, khối lượng lớn chiếm
gần hết phần nội bào, bắt màu đậm. Bào tương ít, tạo thành lớp mỏng xung quanh giữa nhân
và màng. Người ta phân biệt Lympho T do tuyến ức sản sinh và Lympho B do hạch bạch
huyết sản sinh ra. Chức năng chủ yếu là bảo vệ cơ thể bằng các phản ứng miễn dịch. Lympho
bào tăng có thể tới vài ngàn đến trăm ngàn trong một số bệnh, ví dụ ho gà, nhiễm trùng, nhiễm
độc.
Lympho bào có khả năng chuyển thành bạch cầu đơn nhân lớn (monocyt). Cũng còn có
khả năng trở lại tủy xương biến thành tế bào không biệt hóa, để rồi biến thành hồng cầu và
bạch cầu có hạt.
- Bạch cầu đơn nhân lớn
19
Công thức bạch cầu là một chỉ tiêu sinh lý, nó luôn được ổn định trong cơ thể và đối với
từng loài. Lập công thức bạch cầu để chẩn đoán bệnh.
9.5.1.4 Đời sống bạch cầu
a) Sự sinh sản bạch cầu
Trong giai đoạn bào thai, bạch cầu được sinh ra từ lá trung phôi. Ở cơ thể trưởng thành
thì các loại bạch cầu được sinh ra từ các cơ quan khác nhau:
Bạch cầu có hạt, đa nhân tạo thành trong tủy xương.
Ở tủy xương tế bào bạch cầu được hình thành từ một tế bào của tổ chức lưới, rồi trở thành
myeloblast và tiếp theo là promyeloblast. Lúc này nó phân thành 3 loại bạch cầu non
(myelocyte) là trung tính, ưa acid và ưa base. Sau khi trải qua một vài dạng trung gian, ví dụ:
metamyelocyte, 3 loại bạch cầu trưởng thành và vào máu.
Bạch cầu Lympho sinh ra từ tổ chức lưới của lách và ống tiêu hóa. Từ tế bào lưới phân
hóa thành tế bào Lymphoblast, rồi trưởng thành thành Lympho bào.
Bạch cầu đơn nhân lớn chưa có nguồn gốc rõ ràng.
Người ta cho rằng chúng được sinh ra từ hệ võng mạc nội mô. Tuy nhiên, khi bị cắt lách,
tủy xương cũng có thể sản xuất bạch cầu mono.
Sự sinh sản bạch cầu đòi hỏi một số chất như các vitamin, các acid amin. Thiếu acid
folic, vitamin nhóm B sự trưởng thành của bạch cầu bị cản trở.
20
Tiểu cầu tăng khi thức ăn giàu đạm, khi chảy máu và khi bị dị ứng. Tiểu cầu giảm khi bị
thiếu máu ác tính, khi bị nhiễm phóng xạ...
9.5.2.2 Các tính chất của tiểu cầu
Tiểu cầu có các tính chất:
Tiểu cầu có khả năng dính kết vào các tiểu phần khác, vào vi khuẩn lạ.
Tiểu cầu có khả năng ngưng kết, tạo thành từng đám không có hình dạng nhất định.
Tiểu cầu dễ vỡ và giải phóng một số chất như thromboplastin, serotonin.
9.5.2.3 Các chức năng của tiểu cầu
Với những tính chất đó, tiểu cầu có các chức năng chính như sau:
- Chức năng co mạch: khi mạch máu bị thương tổn, chất serotonin do tiểu cầu giải
phóng tham gia vào quá trình làm co mạch.
- Chức năng đông máu: Chất thromboplastin do tiểu cầu giải phóng là yếu tố quan
trọng tham gia vào quá trình đông máu, biến protein fibrinogen hoà tan thành
dạng sợi fibrin, rồi thành cục máu đông bịt kín vết thương.
- Chức năng làm co cục máu đông: Tiểu cầu có khả năng tiết ra một chất làm cho
cục máu đông co lại, củng cố sự cầm máu khi bị thương.
9.5.2.4 Đời sống tiểu cầu
Ở trong tủy xương và có thể cả ở phổi, tiểu cầu được tạo thành từ các tế bào nhân khổng
lồ có đường kính khoảng 40-100 micromet. Các tế bào này vận động bằng giả túc kiểu amib.
Các giả túc này bất thường teo lại rồi đứt ra thành từng đoạn. Các đoạn này tạo thành tiểu cầu
trong máu.
Tiểu cầu bị phá hủy ở lách. Đời sống của tiểu cầu khó xác định chính xác, ước lượng là
khoảng 9-11 ngày.
- Giai đoạn III: thrombin hình thành có tác dụng như một enzym tham gia chuyển
protein huyết tương là fibrinogen dạng hoà tan thành các sợi fibrin không hoà tan
và tạo thành mạng lưới để giữ các tế bào máu, hình thành cục máu bịt kín vết
thương.
9.6.2 Các yếu tố tham gia vào quá trình đông máu
Theo qui ước quốc tế, các yếu tố tham gia quá trình đông máu được đánh số La mã I-
XIII, không có yếu tố VI (bảng 9.9).
Bảng 9.7. Các yếu tố tham gia vào quá trình đông máu
23
Các yếu tố Tên thường gọi Các yếu tố Tên thường gọi
Yếu tố I Fibrinogen Yếu tố X Yếu tố Stuart
Yếu tố II Prothrombin Yếu tố XI Tiền thromboplastin
Yếu tố III Thromboplastin mô huyết tương (PTA),
Yếu tố IV Ion calci chống hemophilie C
Yếu tố V Proaccelerin; Ac-globulin Yếu tố XII Yếu tố Hageman (HF)
Yếu tố VII Proconvertin Yếu tố XIII Yếu tố ổn định
fibrin (FSF)
Yếu tố VIII Yếu tố chống hemophilie
Yếu tố IX Yếu tố Christmas, chống
hemophilie B
Yếu tố I Fibrinogen: là một protein huyết tương. Trọng lượng phân tử là 450.000. Hàm
lượng là 300mg/100ml huyết tương. Fibrinogen do gan sản xuất là chính, một phần nhỏ do
lưới nội mô.
Yếu tố II Prothrombin: là một protein huyết tương, thuộc loại 2α-globulin. Trọng lượng
phân tử khoảng 140.000. Hàm lượng trong máu 20-40mg/100ml. Prothrombin chuyển thành
thrombin dưới tác dụng của thromboplastin có trong huyết tương và do mô tiết ra với sự có
mặt của ion calci và một yếu tố khác của máu. Prothrombin do gan sản xuất ra (bệnh về gan
làm giảm sự sản xuất prothrombin, ảnh hưởng đến khả năng đông máu). Vitamin K rất cần
thiết cho quá trình sản xuất prothrombin của gan. Nếu rối loạn hấp thu vitamin K ở đường tiêu
hóa sẽ làm giảm prothrombin.
Hệ vi khuẩn trong đường tiêu hóa tham gia tổng hợp phần lớn vitamin K cho cơ thể. Khi
dùng nhiều kháng sinh, hệ vi khuẩn bị phá hủy sẽ làm giảm prothrombin. Vitamin K tan trong
mỡ, nên rối loạn hấp thu lipid cũng làm giảm hấp thu vitamin K. Các thuốc chống đông có tác
dụng kháng vitamin K.
Yếu tố III thromboplastin do mô tiết ra hay còn gọi thromboplastin ngoại sinh. Đó là một
hợp chất do sự kết hợp phức tạp của các protein chịu và không chịu nhiệt. Trọng lượng phân
tử cao, do phổi, não và một số mô tiết ra.
Sự giảm thromboplastin thường đi kèm với sự giảm yếu tố VIII, IX, XI trong các bệnh ưa
chảy máu (máu lỏng), cổ điển (A), và ưa chảy máu B, C.
Yếu tố IV Calci. Calci có nồng độ bình thường trong máu khoảng 9-11 mg/ 100 ml, trong
++
đó một nửa ở dạng ion hóa (Ca ). Ion calci rất cần cho nhiều giai đoạn của quá trình đông
máu:
+ Cùng yếu tố V và X: hoạt hóa thromboplastin.
+ Giai đoạn thành lập fibrin.
+ Cùng thromboplastin hoạt động chuyển prothrombin thành thrombin.
Tuy nhiên, calci cần cho quá trình đông máu với một lượng rất ít, cho nên thiếu calci vừa
ít khi gây rối loạn cho đông máu. Song nếu máu chống đông bằng citrat, oxalat... mà được
truyền nhiều, calci kết hợp với những yếu tố này sẽ gây ảnh hưởng đến đông máu. Trong một
số bệnh như tăng globulin hoặc loạn globulin huyết, calci sẽ kết hợp với các globulin lạ làm
giảm calci ảnh hưởng đến đông máu.
Yếu tố V Proaccelerin là một globulin tan trong nước và không bền khi có mặt oxalat, do
gan sản xuất. Yếu tố này cần cho giai đoạn cuối của sự hình thành thromboplastin. Trong
24
huyết thanh sau đông máu không còn yếu tố này. Sự giảm yếu tố V có thể do bẩm sinh hoặc
mắc phải. Bệnh bẩm sinh biểu hiện ở trường hợp những người bị cận ưa chảy máu có các biểu
hiện như xuất huyết niêm mạc, hay chảy máu cam, kinh nguyệt kéo dài ở phụ nữ... Bệnh mắc
phải khi bị bệnh gan nặng hoặc do máu có quá nhiều chất chống đông.
Yếu tố VII Proconvertin: là một protein do gan sản xuất. Yếu tố này có thể chuyển thành
prothrombin bởi gan, và cần có vai trò của vitamin K. Yếu tố VII chỉ hoạt động khi có mặt
yếu tố III. Thiếu yếu tố này máu đông chậm hoặc không đông, nó hoạt hóa thromboplastin
ngoại sinh và thúc đẩy sự tạo thành thrombin từ prothrombin.
Yếu tố VII bị giảm do bệnh bẩm sinh hay mắc phải. Bệnh bẩm sinh thiếu proconvertin dễ
gây xuất huyết ở da và niêm mạc như trường hợp ở trẻ em sơ sinh bị ỉa ra máu, da có vết tím
bầm. Bệnh mắc phải do bị bệnh gan nặng, ví dụ xơ gan, do thiếu vitamin K, do dùng nhiều
kháng sinh, hoặc sau khi dùng nhiều chất chống đông coumarin.
Yếu tố VIII chống hemophilie A hay chống ưa chảy máu. Là một globulin do lách và có
thể cả lưới nội mô sản xuất. Yếu tố này có vai trò quan trọng cho sự tạo thành thromboplastin
nội sinh. Nó mất hoạt tính bởi thrombin và fibrinolysin.
Khi yếu tố này bị giảm, máu vẫn đông nhưng cục máu rất mềm, dễ di động.
Yếu tố IX Christmas: là một protein. Nó cần thiết cho sự tạo thành thromboplastin, nó
được hoạt hóa ngay trong quá trình đông máu và khi huyết tương tiếp xúc với thủy tinh. Thiếu
bẩm sinh yếu tố IX trong bệnh ưa chảy máu B hay bệnh Christmas. Thiếu nó trong bệnh thiếu
vitamin K, hay bệnh gan nặng.
Yếu tố X Stuart là yếu tố tương đối bền vững, nhưng chỉ hoạt động trong môi trường có
pH thích hợp từ 6-9. Có tác dụng cho sự tạo thành thromboplastin nội sinh và ngọai sinh, và
quá trình chuyển prothrombin thành thrombin.
Giảm yếu tố X là một bệnh di truyền hoặc do bệnh gan, thiếu vitamin K.
Yếu tố XI tiền thromboplastin huyết tương là một beta-globulin, rồi chuyển thành
thromboplastin nội sinh do yếu tố XII Hageman hoạt hóa. Nó còn có vai trò tập trung tiểu cầu
trong đông máu. Thiếu yếu tố XI gây bệnh ưa chảy máu nhẹ và ưa chảy máu C.
Yếu tố XII Hageman được hoạt hóa khi máu tiếp xúc với thủy tinh.
Yếu tố XIII: yếu tố ổn định fibrin là một globulin huyết tương do thrombin hoạt hóa. Tác
dụng củng cố sợi fibrin bằng cách giống như một enzym làm chắc thêm các cầu nối hydro
giữa các chuỗi polypeptid và các cầu disulfit.
Yếu tố XIII bị thiếu khi mắc bệnh gan. Nếu thiếu do bẩm sinh có thể gây xuất huyết ở
cuống rốn khi sơ sinh.
9.6.3.1 Giai đoạn 1: Sự hình thành và giải phóng thromboplastin ngoại sinh và nội
sinh
a) Thromboplastin ngoại sinh (yếu tố III)
Thromboplastin ngoại sinh do mô, tổ chức của cơ thể tiết ra. Đó là một lipoprotein. Khi
tổ chức bị thương tổn gây chảy máu, sự tiếp xúc của máu với các tổ chức nơi thương tổn là sự
cần thiết cho quá trình đông máu bắt đầu. Nếu máu chảy mà không có sự tiếp xúc này, máu
25
rất chậm đông. Tiêm tinh chất tổ chức vào tĩnh mạch gây đông máu làm tắc mạch dẫn đến tử
vong.
Quá trình hoạt hóa thromboplastin do tổ chức tiết ra khi bị tổn thương để trở thành dạng
hoạt động tích cực, đòi hỏi sự tham gia của một số yếu tố. Có thể tóm tắt trong sơ đồ sau
(hình 9.6):
b) Thromboplastin nội sinh (yếu tố XI)
Cho dù máu chảy ra khỏi mạch không tiếp xúc với mô thương tổn, nhưng để yên sau một
thời gian, máu vẫn đông. Nếu diện tiếp xúc của máu với bề mặt bình đựng càng rộng và càng
ráp máu càng đông nhanh (nếu cho máu vào bình có thành nhẵn, hoặc tráng parafin máu đông
rất chậm). Sở dĩ như vậy vì huyết tương với sự có mặt của tiểu cầu đã giải phóng ra
thromboplastin nội sinh.
Sự tạo thành thromboplastin nội sinh cũng đòi hỏi sự tham gia của các yếu tố khác. Có
thể tóm tắt trong sơ đồ hình 9.7.
Hình 9.6.
Sự hình thành thrombplastin ngoại sinh
Hình 9.7.
Sự hình thành thromboplastin nội sinh
26
Hình 9.8.
Sự hình thành thrombin hoạt động
Như vậy, thông qua thromboplastin và một số yếu tố khác đã hình thành một enzym
Prothrombinase. Đến lượt mình enzym này tham gia tạo thành thrombin hoạt động.
9.6.3.3 Giai đoạn III: sự tạo thành sợi fibrin từ fibrinogen
Thrombin hoạt động hình thành ở giai đoạn II tham gia chuyển fibrinogen hoà tan trong
huyết tương thành dạng sợi fibrin không hoà tan. Quá trình có sự tham gia tích cực của một số
yếu tố khác. Có thể tóm tắt giai đoạn này bằng sơ đồ như hình 9.9:
F ib rin o g e n (y Õ u tè I)
T h ro m b in Io n C a (y Õ u tè IV )
ho ¹t ®éng
C hÊt keo Io n C a
F ib rin trï n g h î p h o µ ta n
Y Õ u tè æ n ® Þn h fib rin
(y Õ u tè X III, F S F ) Io n C a
S î i fib rin k h « n g h o µ ta n
Hình 9.9.
Sự hình thành sợi fibrin không hoà tan
Khi sợi fibrin hình thành, chúng kết thành mạng lưới và giữ các tế bào máu trong đó tạo
thành cục máu (bợn máu) bịt kín vết thương để cầm máu. Sau khi cục máu hình thành một
thời gian, sẽ co lại và trên mặt cục máu đông có dịch trong, màu vàng nhạt gọi là huyết thanh.
Huyết thanh là huyết tương không có fibrinogen và một số yếu tố đông máu khác. Trong
huyết thanh có nhiều thrombin, khi nhỏ huyết thanh này vào máu khác sẽ gây đông rất nhanh.
27
Cục máu sau một thời gian từ vài giờ đến vài ngày sẽ tan. Sở dĩ vậy vì trong huyết tương
còn có plasminogen. Giai đoạn đầu plasminogen ở dạng không hoạt động, về sau chuyển
thành dạng hoạt động plasmin. Plasmin có tác dụng phân hủy các protein như fibrin,
fibrinopeptid, prothrombin (cắt cầu nối arginin-lisin), do đó cục máu đông bị tan ra.
Trong hệ mạch, máu luôn ở thể lỏng là do trong máu có các chất chống đông tự nhiên và
do cấu tạo của thành mạch.
Lớp nội mô trong thành mạch luôn trơn nhẵn, tiểu cầu không bị phá hủy, không bám vào
thành từng đám, và do đó không có thromboplastin nội sinh trong máu.
Trên bề mặt lớp nội mô còn có một lớp protein rất mỏng mang điện tích âm có khả năng
ngăn cản tiểu cầu dính vào nội mô.
Trong máu có các chất chống đông tự nhiên:
Chất kháng thromboplastin: Chất này làm chậm sự hình thành thromboplastin huyết
tương và trung hoà những thromboplastin huyết tương đã được hình thành. Chúng gắn vào
yếu tố VIII (chống hemophilie) và cả yếu tố IX (Christmas) làm giảm hiệu quả của các yếu tố
này trong sự tạo thành thromboplastin ở giai đoạn I nói trên.
Chất kháng thrombin: Sau khi đông, lượng thrombin còn lại sẽ gắn vào fibrin mà không
khuếch tán sang phần máu chưa đông.
Fibrin gọi là kháng thrombin I. Chất kháng thrombin II giống như Heparin. Chất kháng
thrombin III dưới hình thức metathrombin. Chất kháng thrombin IV ức chế hoạt động của
prothrombin.
Heparin: là một mucopolysaccharid do các tế bào tuyến tiết ra. Các tế bào này có mặt ở
mao mạch phổi, gan. Hàm lượng heparin trong máu là 0,01 mg/100ml máu. Heparin tạo hợp
chất với proaccelerin làm cho proaccelerin tự do giảm bớt. Thiếu proaccelerin (yếu tố V) sẽ
cản trở quá trình chuyển prothrombin thành thrombin.
Các chất chống đông khác:
Dùng muối oxalat, citrat... Để khử ion Ca có tác dụng chống đông. Cần lưu ý rằng tuy
citrat không độc, nhưng nếu người nhận máu chống đông bằng citrat bị yếu gan, hoặc truyền
quá nhanh làm cho citrat không tiêu hủy kịp, đồng thời giảm ion Ca, sẽ gây co cứng (co
tetanos), có khi nguy hiểm.
I hay O Không α, β
II hay A A β
III hay B B α
IV hay AB AB không
Tỉ lệ phần trăm nhóm máu thay đổi theo các chủng tộc khác nhau (bảng 9.11).
Bảng 9.9.
Tỷ lệ các nhóm máu ở người Việt Nam
Nhóm máu Người Kinh Người Mường Người Tày
O 48,35 33,56 30,73
A 19,46 14,20 32,46
B 27,94 45,54 35,93
AB 4,24 6,68 0,86
Phản ứng ngưng kết hồng cầu thực chất là sự tương tác miễn dịch giữa kháng nguyên -
kháng thể. Ngưng kết nguyên A, B là các kháng nguyên có bản chất là các polysaccharid. Còn
ngưng kết tố α và β là các kháng thể IgM có bản chất là globulin.
Trong thực hành truyền máu khi chỉ truyền một lượng ít khoảng dưới 0,25 lít (1 đơn vị
truyền máu), người ta cho phép chỉ chú ý đến hồng cầu người cho và huyết tương người nhận.
Sở dĩ như vậy vì với khối lượng ít của huyết tương máu người cho và được truyền rất chậm,
khi vào cơ thể người nhận có thể hoà đồng với khối lượng lớn của máu nhận. Tuy nhiên, hồng
cầu người cho không được đối kháng với huyết tương người nhận. Do vậy, có thể thực hiện
truyền máu theo bảng 9.12.
Bảng 9.10.
Sự tương tác giữa huyết tương máu nhận và hồng cầu máu cho
Huyết tương máu nhận I II III IV
α, β α, β α, β O
Hồng cầu máu cho
I–O - - - -
II – A + - + -
III – B + + - -
IV – AB + + + -
Hình 9.10.
Khả năng truyền máu giữa các nhóm máu thuộc hệ nhóm máu ABO khi truyền 1 đơn vị
Tuy truyền với khối lượng ít và về lý thuyết là cho phép, nhưng cũng ít khi thực hiện.
Ngay trong trường hợp truyền máu cùng nhóm cũng cần thiết phải làm phản ứng chéo lần
cuối cùng trước khi truyền. Phương pháp là rạch nhẹ trên da tay người được truyền để máu
chảy ra, rồi nhỏ trực tiếp một vài giọt máu định truyền lên vết rạch và quan sát.
9.7.2 Hệ thống Rh
Landsteiner và Wiener (1940) còn nhận thấy huyết tương máu thỏ được miễn dịch bởi
máu loài khỉ vàng (Macacus rhesus) có khả năng ngưng kết hồng cầu của khỉ vàng, đồng thời
cả hồng cầu người. Đã phát hiện yếu tố Rh trong máu khỉ và trong máu người.
+
Những người có yếu tố Rh trong máu gọi là rhesus dương (Rh ), còn những người không
–
có gọi là rhesus âm (Rh ).
+
Kháng thể chống Rh không có sẵn như ỏ và õ trong huyết tương, mà nó chỉ hình thành ở
- +
những người Rh sau khi đã nhận nhiều lần một lượng máu có kháng nguyên Rh . Kháng thể
+
này được ký hiệu là rh, nó phát triển chậm, thường 2-3 tháng sau khi nhận kháng nguyên Rh
nó mới có phản ứng. Khi đã được tạo ra, tính đồng miễn dịch sẽ tồn tại nhiều năm.
+
Trường hợp nguy hiểm nhất do ngưng kết nguyên Rh tạo ra là khi kết hôn người cha Rh
– +
còn mẹ Rh . Khi mẹ có thai, thai nhi theo cha mang Rh . Rh sẽ có mặt trong tất cả các tế bào
của thai nhi mà không phải chỉ riêng ở hồng cầu. Khi các tế bào và hồng cầu thai nhi bị thoái
biến, yếu tố Rh được giải phóng vào dịch thể thai nhi. Từ dịch thể thai nhi Rh sẽ khuếch tán
–
qua màng nhau thai sang cơ thể mẹ. Vì mẹ là Rh nên trong máu mẹ xuất hiện kháng thể rh
chống Rh. Ở lần chửa đầu, lượng kháng thể rh trong máu mẹ còn ít, nhưng từ lần chửa thứ hai
trở đi, lượng rh tăng lên và qua máu mẹ khuếch tán sang thai nhi gây ra phản ứng ngưng kết
hồng cầu ở thai nhi. Do vậy từ lần chửa thứ hai trở đi rất dễ bị sẩy thai, đẻ non hoặc thậm chí
thai nhi chết trong bụng mẹ. Trẻ đẻ non rất ốm yếu và rất dễ tử vong.
9.7.3 Các hệ thống nhóm máu khác
Ngoài hệ ABO và Rh, trong máu người còn rất nhiều hệ khác như kháng nguyên Kell,
kháng nguyên Fya, kháng nguyên S (thuộc hệ thống MNSs).
Người ta cũng còn phát hiện các kháng thể của hệ thống Kidds, các kháng thể chống M,
N, P, Lea, Leb...
31
Trong truyền máu thông thường các hệ thống này ít nguy hiểm, nhưng chúng có ý nghĩa
khi nghiên cứu di truyền huyết học, ứng dụng trong pháp y.
Ở các loài động vật cũng có nhiều hệ. Ví dụ: ở bò có tới 70 loại nhưA, B, C, D, J... mà
quan trọng nhất là hệ B có tới 27 kháng thể (ngưng kết tố) khác nhau. Ở ngựa có 10; lợn có
19, cừu có 6 ngưng kết nguyên...
Trong thực tế cấy ghép cơ quan và mô, phản ứng của kháng thể với protein lạ là nguyên
nhân gây ra hiện tượng loại trừ sinh học. Chính phản ứng ngưng kết của máu cũng tham gia
quá trình này.
Xét nghiệm ngưng kết nguyên và ngưng kết tố là một phương pháp để xác minh nguồn
gốc huyết thống của những trường hợp nghi vấn, bởi vì chúng đều mang tính di truyền.