Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Tự luận chương 6

Câu 1: dân tộc(2 xu hướng)


1. Hai xu hướng phát triển của dân tộc:
- Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ
nghĩa tư bản V.I. Lênin đã phát hiện 2 xu hướng khách quan:

2. + Xu hướng thức tỉnh ý thức dân tộc hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này thể hiện nổi bật trong giai đoạn đầu của CNTB đưa đến sự ra đời
của các dân tộc. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xu hướng này biểu hiện
thành phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức.
3. + Xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc (Liên hiệp giữa các dân tộc). Do
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu kinh
tế và văn hoá trong xã hội tư bản làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn
cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia, quốc tế giữa các dân tộc
làm cho các dân tộc xích lại gần nhau.

- Xét trong phạm vi các quốc gia XHCN có nhiều dân tộc:
4. + Xu hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và
phồn vinh của bản thân dân tộc mình
5. + Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng
đồng quốc gia xích lại gần nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời
sống. ở các quốc gia XHCN, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc
gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.

- Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện
rất nổi bật. Bởi vì:
6. + Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xoá bỏ ách
đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân
tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển
của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những
mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại
7. – mục tiêu độc lập dân tộc. Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải
phóng dân tộc thành sức mạnh chống CNĐQ và chính sách của chủ nghĩa thực
dân mới dưới mọi hình thức. Xu hướng này cũng biểu hiện trong cuộc đấu
tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc, phân biệt
chủng tộc, đang bị coi là đối tượng của chính sách đồng hoá cưỡng bức ở nhiều
nước tư bản.

1
8. - Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần nhau để trở
lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình
thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh
được hình thành trên những cơ sở lợi ích chung nhất định.
2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng - Các dân tộc đều có nghĩa
vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ xã hội cũng như quan hệ quốc tế.
Không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc khác.
9. - Trong một quốc gia nhiều dân tộc sự bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội...giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được
thể hiện sinh động trong thực tế.
10.- Trên phạm vi quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh, gắn
liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức bóc
lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
11.- Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc và là mục tiêu phấn đấu
của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng. Nó là cơ sở để thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc. b. Các
dân tộc được quyền tự quyết
12. - Thực chất là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh
của dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc)
khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất
nước tiến lên theo con đường tiến bộ xã hội.
13.+ Quyền dân tộc tự quyết trước hết là tự quyết về chính trị: Quyền thành lập
một quốc gia dân tộc độc lập (quyền phân lập). Quyền các dân tộc tự nguyện
liên hợp lại thành một liên bang trên cơ sở bình đẳng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
(quyền liên hiệp).
14. + Xem xét và giải quyết quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập
trường quan điểm của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân
tộc tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức.
Kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và
bọn phản động quốc tế lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước cũng như giúp đỡ các thế lực phản động, thế lực
dân tộc chủ nghĩa đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo
của chủ nghĩa thực dân mới, của CNTB. - Quyền dân tộc tự quyết là một quyền
cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xoá bỏ sự hiềm khích, thù hằn giữa các dân
tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các dân tộc; phát huy tiềm năng
của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại. c. Liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc: - Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung cơ bản
nhất trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phản ánh bản chất
2
quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào giải phóng dân
tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. - Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách
giải quyết quyền dân tộc tự quýêt, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời nó là
yếu tố đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ
thù của mình. - Đoàn kết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở vững
chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã
hội. Vì vậy nội dung liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết
cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Cương lĩnh dân tộc của
ĐCS là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản
và Nhà nước XHCN. 3. Liên hệ thực tế địa phương * Thực trạng vấn đề dân tộc
- Biểu hiện hai xu hướng ...(chỉ ra mặt tích cực, hạn chế) - Thực trạng việc giải
quyết vấn đề DT (chỉ ra những gì đã làm tốt, những gì còn hạn chế) • * Đề xuất
giải pháp để giải quyết những hạn chế...

Câu 2: tôn giáo


1. Tín ngưỡng là gì, tôn giáo là gì?
2. Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi
gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh
thần cho cá nhân và cộng đồng.
3. Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động
bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức
(Khoản 1 và 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016).
Câu 3: phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, mê tín, dị đoan.
Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có
sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành
hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại
hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức
Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe
bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.
Sự giống nhau thứ hai giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tôn giáo và
tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa
cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ
3
sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ
trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
1.2. Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật
và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là
người sáng lập ra tôn giáo ấy (Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su
sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…); giáo lý là
những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội
soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những
người tự nguyện theo tôn giáo đó[1].
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể
có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác
nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày
mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự
như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng
Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,…
Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín
ngưỡng chỉ có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn (đối
với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu). Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ
kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo
Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các
dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ
Mẫu không phải là kinh điển.
Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt
đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách
chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những
người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ,
nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít). Còn trước đây, những ông Đám của làng có 1 năm ra
đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy
không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.
2. Sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
2.1. Sự giống nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
Giống như sự giống nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng dân gian, tức là đều tin vào
những điều mà mắt mình không trông rõ, tai mình không nghe thấy thân hình và
giọng nói của đấng thiêng liêng và của đối tượng thờ cúng; hạ là, những tín điều của
tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa
con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành
vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo và noi theo
tấm gương sáng của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình
tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.
2.2.Sự khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
4
Một là, xét về mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của
đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích
kiếm tiền là chính. Người hoạt động trong lĩnh vực này chỉ làm việc với khách hàng
khi có tiền.
Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp
hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt
động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ
nghiệp bằng nghề này.
Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, từ đường, miếu,…) thì
những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó
của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư
gia.
Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở
thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm âm lịch hàng tháng ra đình làm lễ Thánh; hàng
năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín
dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà
có việc bất thường xảy ra (mất của, chết đuối, ốm đau, hỏa hoạn,…), còn bình thường,
có lẽ họ chẳng gặp thầy bói làm gì.
Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì
hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình.
3. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan
Như trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê tín dị
đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng. Chính từ
những điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó
thể hiện ở các phương diện sau:
Trước hết, các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để
tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín
ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức
hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,…
Hai là, đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những
người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo (chủ yếu là của Phật giáo) và cơ
sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ
tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của họ
đối với khách hàng có thể được nâng cao
Ba là, một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ
Thành hoàng) dựa vào sự thiếu hiểu biết của người dân đã sử dụng một số thủ thuật
của nghề mê tín dị đoan để tăng thêm sự huyền bí của một số lễ thức ngoài tôn giáo
và tín ngưỡng (chẳng hạn, lễ thức xin âm dương, rút thẻ,…) mà tôn giáo, tín ngưỡng
nào đó vay mượn. Mặt khác, người hành nghề mê tín dị đoan cũng học được ở các
pháp sư Phật giáo một số thế tay bắt quyết để họ hành nghề trừ tà ma,…

5
Bốn là, những người hành nghề mê tín dị đoan hoạt động tại các cơ sở thờ tự tôn giáo
và cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng,
và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.
Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm giống và
khác nhau và chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này được tạo ra
bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống
nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để góp phần
phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng và khắc phục mặt tiêu cực của của
chúng

Tự luận(chương 7)
Câu 1:khái niệm.
Gia đình: là một hình thức cộng đồng người đặc biệt, được hình thành, duy trì và
củng cố chủ yếu dự trên cơ sở: hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng,
cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
quan hệ hôn nhân là cơ sở hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ
sở pháp lí cho sự tồn tại mỗi gia đình.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cung 1 giòng máu nảy sinh từ quan
hệ hôn nhân, là mối quan hệ tự nhiên là yếu tố gắn kết mạnh mẽ nhất giữa các thành
viên trong gia đình.
Quan hệ nuôi dưỡng là hình thức chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình cả về
vật chất lẫn tinh thần.
Câu 2: vị trí của gia đình trong xã hội
1. gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có 1vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố
tồn tại và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội.
Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển
được. Chính vì vật, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản
chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất
lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội

6
2. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc sự hài hòa trong đời sống cá
nhân của mỗi thành viên:
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của
mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối
quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cáiGia đình là
nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh phúc gia
đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội.
Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ
tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã
hội tốt hơn”
3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội:
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ
bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng
đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia
đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể
các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có
những quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà
còn là thành viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia
đình đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá
nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá
nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư
tưởng, đạo đức, lối sống
Câu 3: chức năng cơ bản của gia đình.
1. Chức năng tái sản xuất con người:
Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Chức
năng này sẽ góp phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ
hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện
chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội vừa đáp
ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi
quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau. Ví dụ:
Ở Việt Nam, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2
con vừa đảm bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được chất lượng về cuộc
sống cho gia đình và có điều kiện chăm sóc, dạy bảo các con.

7
2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục:

Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách
của con người, dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công
dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là
những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:” Cha mẹ có nghĩa vụ
và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục
để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con
hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.. ”

Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội Gia đình là
môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người và là chủ thể của sự giáo dục. Như
khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường hình thành
ngay từ thời thơ ấu. Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý niệm đầu tiên để lí giải
thế giới sự vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện và cái ác, dạy cho trẻ con
hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị mà gia
đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó.

Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối
sống thuần phong mĩ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý
đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý
thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…

3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:


Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất,
là chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm
no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng này bao quát về nhu
cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình
nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.
Để có kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngoài
những thành viên đang còn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở độ
tuổi lao động cần có một công việc, một mức thu nhập ổn định. Ngoài ra còn
cần có nguồn thu nhập thêm để có thêm nguồn thu chi trả cho những chi phí lặt
vặt hàng ngày

4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình☹(phụ)
Ngoài ba chức năng cơ bản trên thì gia đình còn có chức năng thoả mãn nhu
cầu tinh thần, tình cảm và chăm sóc sức khỏe. Đây là chức năng có ý nghĩa
8
quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn bó giữa các thành viên của
gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia đình vừa là điểm
xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội,
đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng
gió cuộc đời. Càng về cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát
tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong
sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo cho việc
chăm sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.

You might also like