NCKH Vinn

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

1

XANH HÓA CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG

Nguyễn Thành Vinh – K23CLC-KTA


Học viện Ngân hàng

Tóm tắt
Vấn đề phát triển xanh, bền vững đã và đang trở thành một xu hướng không thể thiếu trong
sự phát triển chung về kinh tế, xã hội. Trong đó, hoạt động ngân hàng đóng một vai trò trung tâm
trong điều tiết nguồn tài trợ cho các hoạt động kinh tế, ảnh hưởng sâu rộng tới quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Dưới xu thế phát triển xanh mạnh mẽ của thời đại, ngành ngân hàng
với vai trò trụ cột cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Bởi lẽ, bằng một cách trực tiếp hay gián
tiếp, các ngân hàng cũng góp phần vào sự phát thải chung của các hoạt động kinh tế. Mặc dù
những tác động đến từ việc sử dụng điện, giấy của ngân hàng là không đáng kể tới môi trường, việc
ngân hàng cung cấp tín dụng cho các khách hàng trực tiếp phác thải như những dự án khai khoáng,
xây dựng, giao thông lại góp phần lớn vào việc gây ra ô nhiễm môi trường. Qua đó, ý tưởng ngân
hàng xanh được ra đời nhằm khuyến khích và ưu tiên cung cấp tín dụng cho những dự án đầu tư
cho môi trường và cam kết giảm thải. Ngân hàng xanh ra đời chứng tỏ nỗ lực mạnh mẽ của hệ
thống các ngân hàng với cam kết phục hồi môi trường thiên nhiên và phát triển bền vững, đồng thời
đem lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế và xã hội.
Từ khóa: ngân hàng xanh, phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường

1
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm ngân hàng xanh
Tại nhiều nước trên thế giới nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng
xanh là một khái niệm mới mẻ mới chỉ được biết đến trong những năm gần đây do sự tập trung vào
sự phát triển kinh tế mà chưa đề cao những vấn đề môi trường. Tuy nhiên cùng với những biến động
kinh tế toàn cầu như cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 2008 hay gần đây là suy thoái kinh tế do
tác động của đại dịch Covid-19, vấn đề phát triển bền vững, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
xã hội ngày càng trở lên quan trọng. Trong đó, ngân hàng xanh nổi lên như một ngọn gió mới cho sự
phát triển của hệ thống ngân hàng trong tương lai.
Theo Kanak và Ritesh (2015), Ngân hàng xanh là thay đổi cách thức cung ứng và hệ thống
dịch vụ của ngân hàng nhằm tài trợ và khuyến khích cung cấp tín dụng cho các hoạt động ưu tiên tới
bảo vệ môi trường, giảm xả thải và tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nói cách khác, ngân
hàng xanh là những ngân hàng hoạt động với mục tiêu phát triển xanh, bền vững, thể hiện qua việc
cung cấp những dịch vụ ưu tiên cho trách nhiệm môi trường, xã hội. Điều đó được thể hiện bằng
cách cả hai yếu tố là cung cấp các dịch vụ xanh trong ngắn hạn và đưa ra những chiến lược kinh
doanh bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội trong dài hạn, qua đó phát triển một hệ thống tài
chính bền vững và làm trung tâm cho xu hướng phát triển xanh của toàn thể xã hội.
1.2. Mô hình ngân hàng xanh
Theo Kaeufer (2010), ngân hàng xanh có thể chia ra thành năm cấp độ. Với cấp độ 1, các
ngân hàng ít có sự tác động đến vấn đề môi trường nhất và nhiều ngân hàng đang tham gia ở mức độ
này nhất, ngân hàng chỉ tham gia các hoạt động cộng đồng về môi trường và tài trợ cho các sự kiện
này. Cấp độ 2: cung cấp thêm những dịch vụ xanh, sản phẩm xanh đi cùng với những dịch vụ truyền
thống của ngân hàng. Cấp độ 3 là nơi các hoạt động của ngân hàng trở nên có hệ thống, các sản
phẩm, hoạt động của ngân hàng đều đặt mục tiêu xanh hóa lên hàng đầu. Cơ cấu của ngân hàng
được thiết kế lại, cung cấp hỗ trợ xanh dựa trên con người, quy trình, nguyên tắc và mục đích. Ở cấp
độ 4, hoạt động của các ngân hàng được liên minh và mở rộng qua các mạng lưới, hệ sinh thái xanh,
hướng tới những mục tiêu phát triển bền vững. Cuối cùng, cấp độ 5 là nơi ngân hàng chủ động sáng
tạo ra những giá trị mới về môi trường, chủ động cung cấp những sáng kiến bảo vệ môi trường,
hướng tới sự tự nhận thức và phát triển lâu dài. Qua đề xuất trên, ta có thể thấy ngân hàng xanh có
thể có những hoạt động bao quát rộng lớn, có thể từ khuyến khích nhân viên tham gia những sự kiện
vì môi trường cho tới việc tạo điều kiện cho vay vốn tới những dự án về môi trường hay là việc phát
triển những nghiệp vụ ngân hàng số, tăng cường làm việc tại nhà giúp giảm lượng tài nguyên điện,

1
giấy tiêu thụ. Ngân hàng xanh phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên mọi khía cạnh, góp phần thúc
đẩy phong trào chuyển dịch xanh cho toàn xã hội.
1.3. Lợi ích của ngân hàng xanh
1.3.1. Tài trợ vốn cho các dự án xanh
Mục tiêu cơ bản của ngân hàng xanh là cung cấp những khoản tài trợ vốn cho những dự án
bảo vệ môi trường, gắn với trách nhiệm xã hội. Những dự án đảm bảo môi trường có thể kể đến như
xây dựng nhà máy xử lý rác thải, phát triển năng lượng sạch, những dự án tiết kiệm năng lượng,
hoặc có những cam kết hạn chế tác động tới môi trường. Các dự án này không chỉ hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận mà còn đảm bảo cho sự phát triển bền vững cho tương lai.
1.3.2. Phát triển kinh tế, xã hội cho địa phương
Ngân hàng xanh có thể gắn kết với địa phương, đóng vai trò trung tâm và cầu nối cho sự
phát triển kinh tế, xã hội sở tại, nhất là những vùng kém phát triển hơn so những khu vực khác.
Ngân hàng xanh tại địa phương sẽ cung cấp một nguồn tài trợ đầy đủ và kịp thời cho các dự án phát
triển xanh tại nơi đó như các dự án về kinh tế xanh, giáo dục và an sinh xã hội.
1.3.3. Cung cấp các dịch vụ xanh qua kênh trực tuyến
Cùng với quá trình chuyển đổi số ngành ngân hàng, xanh hoá hệ thống ngân hàng góp phần
mạnh mẽ cho việc đưa các ngân hàng lên các nền tảng trực tuyến. Hiện nay, hình thức ngân hàng di
động (mobile banking) đang phát triển mạnh mẽ tại các ngân hàng. Ở đó, những hoạt động giao
dịch, nghiệp vụ của ngân hàng đều được đưa lên ứng dụng di động. Khách hàng có thể kiểm tra số
dư tài khoản, chuyển khoản ngay tại nhà thông qua ứng dụng smartbanking trên điện thoại thông
minh của mình một cách nhanh chóng và bảo mật. Ngoài ra, người dùng có thể tự mở thẻ, tài khoản
thanh toán và sử dụng các dịch vụ ngân hàng bình thường như thanh toán hoá đơn, sao kê tài
khoản… ngay trên điện thoại của mình mà không cần ra điểm giao dịch. Những tiện ích đó góp phần
làm giảm lượng xả thải ra môi trường thông qua việc hạn chế việc tham gia giao thông đến điểm
giao dịch, hạn chế lượng giấy tờ ngân hàng sử dụng cho những nghiệp vụ hằng ngày, các ngân hàng
có thể cắt giảm việc sử dụng giấy tờ, điện của các chi nhánh, tiến tới cắt giảm số nhân viên, chi
nhánh để tập trung nguồn lực cho những dự án quan trọng. Từ đó, một lượng tài nguyên không cần
thiết được tiết kiệm đáng kể qua hoạt động ngân hàng số của các ngân hàng xanh. Những xu hướng
mới về công nghệ thông tin cũng được mở rộng thông qua nhu cầu phát triển của ngân hàng xanh,
góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.

2
1.3.4. Thúc đẩy sự phát triển chung cho xã hội
Ngân hàng truyền thống cung cấp các khoản vay cho các dự án, đóng vai trò trung tâm cho
sự phát triển đa ngành của toàn bộ nền kinh tế. Đối với ngân hàng xanh, những dự án được thẩm
định một cách nghiêm ngặt hơn nhằm đáp ứng những cam kết tới môi trường và xã hội của chủ đầu
tư. Vì vậy, những dự án được ngân hàng xanh thẩm định sẽ có hiệu quả tín dụng cao hơn, gián tiếp
thúc đẩy sự phát triển bền vững của các ngành và sự đảm bảo về môi trường của các dự án. Ngoài
ra, nhu cầu phát triển ngân hàng số cũng tạo ra động lực phát triển đa ngành của lĩnh vực công nghệ
thông tin như việc đảm bảo nguồn cung nhân lực chất lượng cao trong lập trình phần mềm, xử lý dữ
liệu, bảo mật thông tin. Ngoài ra, ngân hàng xanh xuất phát từ một vấn đề có tính đạo đức cao như
bảo vệ môi trường và đảm bảo trách nhiệm xã hội, với vị trí trung tâm và vai trò lan toả trong nền
kinh tế, sự phát triển của ngân hàng xanh tạo ra những tác động tích cực với sự phát triển của đạo
đức xã hội. Ở xã hội đó, đạo đức kinh doanh được đề cao và những giá trị lâu dài về tự nhiên, con
người được đảm bảo.
1.4. Lịch sử phát triển và thực trạng xây dựng ngân hàng xanh trên thế giới
1.4.1. Lịch sử phát triển
Trên thế giới, ngân hàng xanh bắt đầu phát triển vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ
20 dưới áp lực của các tổ chức phi chính phủ. Khoảng 200 tổ chức tài chính toàn cầu đã ký kết
những văn kiện đầu tiên để gia tăng sự bảo vệ cũng như sự thống nhất của những cơ chế tài chính thị
trường đến môi trường tự nhiên. Ngân hàng đầu tiên có những bước đầu trong việc nhận thức về tài
trợ cho các dự án liên quan đến môi trường có thể kể đến như Eximbank vào năm 1991. Tiếp đến,
những ngân hàng có sức ảnh hưởng toàn cầu như Deutsche bank, Standard Chartered, HSBC cũng
đã điều chỉnh những chính sách hoạt động của mình để thực hiện những cam kết được nêu ra trong
hiệp định thư Kyoto năm 1997. Đơn vị môi trường thuộc công ty tài chính quốc tế (IFC) được thành
lập vào năm 1991 nhằm nghiên cứu những dự án đánh giá môi trường. Cơ quan này đã cũng một số
ngân hàng bắt đầu đưa ra những nguyên tắc chung có tên là nguyên tắc xích đạo (The Equator
Principles), nó bao gồm những chuẩn mực mang tính chất tự nguyện liên quan đến việc đánh giá,
quyết định, quản lý các dự án có rủi ro về môi trường và phúc lợi xã hội. Hiện nay, bộ chuẩn mực
này đã được 141 tổ chức tài chính ở 38 quốc gia tiêu biểu như ngân hàng ABN AMRO bank, Bank
of America, Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, HSBC, … Vào năm 2006, giải thưởng “ngân hàng
bền vững” đã được thời báo tài chính và IFC khởi xướng góp phần thúc đẩy xu hướng phát triển
ngân hàng xanh trên toàn thế giới.

3
1.4.2. Thực trạng phát triển
Tại Anh, Ngân hàng đầu tư xanh (Green Investment Bank) thành lập vào năm 2010 đã giúp
cung cấp vốn và mở rộng những dự án môi trường, tăng cường tính hiệu quả kinh tế và chia sẻ thông
tin của những dự án này. Những dự án được ngân hàng cung cấp nguồn tài chính cần thiết để giảm
những tác động tiêu cực của thị trường tự do và có hoạt động hiệu quả tới môi trường có thể kể đến
như dự án về năng lượng gió biển, sử dụng nguồn năng lượng nhập khẩu, và phát triển công nghệ xử
lý rác thải. Những dự án này góp phần làm tăng nguồn năng lượng tái tạo và giảm lượng phát thải
CO2 ra ngoài môi trường tự nhiên. Các phân tích cho thấy, thông qua sự can thiệp của ngân hàng
đầu tư xanh GIB, những dự án về môi trường nhưng có rủi ro về hiệu quả được cung cấp nguồn tài
trợ để hoạt động hiệu quả hơn, thúc đẩy tính minh bạch thị trường và khơi thông dòng vốn đầu tư
vào những dự án phát triển bền vững
Tại Hoa Kỳ, ngay khi chưa xuất hiện những mô hình ngân hàng xanh chuyên biệt, các ngân
hàng tại Hoa Kỳ đã có những bước đi trước nhằm đáp ứng lời kêu gọi cho các dự án môi trường cấp
bách. Cụ thể, năm 2007, ngân hàng Bank of America đã cung cấp hơn 96 tỷ đô la cho các dự án phát
thải thấp và có cam kết bền vững với môi trường. Con số này của năm 2013 là hơn 70 tỷ đô. Luật
Ngân hàng xanh được nước ngày thông qua vào năm 2005 thông qua hạ viện,.Ngân hàng xanh đầu
tiên được thành lập là Ngân hàng xanh Connecticut (Connecticut Green Bank) (2010) với mục tiêu
thúc đẩy việc triển khai các dự án năng lượng sạch và hiệu quả sử dụng năng lượng. Ngân hàng
xanh này được vốn hóa bởi một khoản phụ thu 0,001 đô la/kWh đối với các hộ gia đình trong hóa
đơn điện (tương đương khoảng 10 đô la/năm cho mỗi hộ gia đình) và cung cấp các sản phẩm tài
chính như trái phiếu năng lượng sạch, vv…Ngoài ra, nước này còn cung cấp những bộ tiêu chuẩn
giúp đánh giá mức độ hoạt động của các ngân hàng xanh và được công bố thường xuyên nhằm thúc
đẩy phát triển những dịch vụ xanh giữa các ngân hàng.
Tại một quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, tín dụng xanh và ngân hàng xanh đóng
vai trò quan trọng trong việc kiểm soát và cung cấp tín dụng cho các dự án đầu tư, đặt trong bối
cảnh một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh và sự phát triển công nghiệp ồ ạt đã tạo ra nhiều hệ lụy
nghiêm trọng đối với môi trường. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra những chính sách tín dụng xanh
để hạn chế tác động tới môi trường của hoạt động công nghiệp hoá bằng cách hạn chế cung cấp tín
dụng cho các dự án đe dọa tới môi trường. Theo đó, ngân hàng xem xét quy mô, loại hình doanh
nghiệp, cũng như khả năng kiểm soát ô nhiễm để cung cấp các khoản vay với lãi suất, thời hạn khác
nhau. Các dự án ưu tiên khả năng phục hồi môi trường, nghiên cứu năng lượng tái tạo có thể nhận

4
được khoản vay với lãi suất thấp, với thủ tục nhanh chóng. Trong khi các dự án có ảnh hưởng xấu
đến môi trường phải nhận các khoản vay hạn chế với lãi suất cao.
Qua đó chúng ta có thể thấy được sự phát triển sôi động của các ngân hàng xanh trên thế
giới, các ngân hàng đã khẳng định được một chỗ đứng không thể thiếu trong hệ thống tín dụng của
quốc gia, một vị thế dẫn đầu xu hướng và đảm bảo sự phát triển lâu dài của xã hội.
2. Phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam
2.1. Thực trạng phát triển
Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã chứng kiến một tốc độ tăng trưởng nhanh và nền công
nghiệp đã có những đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nước ta cũng phải đối
mặt với nhiều thách thức về môi trường do nền công nghiệp gây ra, như làm giảm lượng chất thải và
ô nhiễm môi trường. Từ đó đặt ra yêu cầu cần có những biện pháp cấp bách nhằm giải quyết vấn đề
trên, cụ thể trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến
lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Lần đầu tiên, khái
niệm ngân hàng xanh và tài chính xanh lần đầu được đưa ra và tạo ra những bước đầu phát triển cho
ngân hàng xanh tại Việt Nam. Qua đó, Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch
hành động thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh của ngành ngân hàng. Tiếp đó, năm 2016, điểm
nhấn đáng lưu ý là cam kết INDC của Việt Nam thực thi Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu.
Ngân hàng Nhà nước được giao phối hợp với các bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ đẩy nhanh việc áp
dụng các công cụ tài chính như chương trình tín dụng xanh, trái phiếu xanh, quỹ đầu tư xanh và theo
đó có bộ tiêu chí về dự án xanh. Ngân hàng nhà nước đã có những bước khởi đầu trong việc xây
dựng chính sách phát triển ngân hàng xanh, cụ thể như việc ban hành chỉ thị thúc đẩy tăng trưởng tín
dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cung cấp tín dụng. Năm 2020, Ngân
hàng Nhà nước hợp tác với IFC và tham gia Nguyên tắc Xích đạo (Equator Principles) nhằm đưa ra
bộ hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường và xã hội cho các tổ chức tín dụng và ngân hàng tại Việt
Nam. Để thúc đẩy ngân hàng xanh tại Việt Nam, Ngân hàng nhà nước đã ban hành Đề án 1064
nhằm mục tiêu nâng cao ý thức và trách nhiệm của các ngân hàng trong việc bảo vệ môi trường và
ứng phó với biến đổi khí hậu. Đề án này cũng nhằm hướng dẫn các ngân hàng xanh hóa hoạt động
tín dụng, tài trợ các dự án xanh và đẩy mạnh các ngành kinh tế xanh và bền vững. Theo đề án, đến
năm 2025, tất cả các ngân hàng phải có quy định nội bộ và thực hiện đánh giá rủi ro môi trường xã
hội cho các hoạt động cấp tín dụng; áp dụng các tiêu chuẩn môi trường cho các dự án được vay vốn;
tích hợp rủi ro môi trường vào rủi ro tín dụng. Ít nhất 10-12 ngân hàng phải có đơn vị/ bộ phận

5
chuyên về rủi ro môi trường, xã hội; 60% ngân hàng phải có nguồn vốn xanh và cho vay các dự án
tín dụng xanh.
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của chính phủ và Ngân hàng nhà nước, phát triển ngân hàng xanh
trong bối cảnh hiện tại được coi như một vấn đề quan trọng và cấp thiết của hệ thống các ngân hàng
tại Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Anh Tú, Ngô Anh Phương và Nguyễn Thị
Nhung (2021), các ngân hàng tại Việt Nam đang trải qua mức độ phát triển thứ ba trong thang 5 cấp
độ của Kaeufer (2010). Ở đó, hoạt động kinh doanh có hệ thống, hầu hết các quy trình, sản phẩm
của ngân hàng đều dựa trên nguyên tắc bảo vệ môi trường, cơ cấu tổ chức được thiết kế để hỗ trợ tác
động “xanh” trên 4 giác độ: con người, quy trình, nguyên tắc và mục đích. Điều này phần nào phản
ánh đúng thực trạng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Thực tế là, tại Việt Nam vẫn chưa có
một ngân hàng nào được coi là ngân hàng xanh mà chỉ có các dịch vụ xanh và các khoản vay có cam
kết về môi trường của các ngân hàng. Nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đã áp dụng các dịch
vụ ngân hàng điện tử như Mobile Banking, Internet Banking song song với các hoạt động ngân hàng
truyền thống. Ngoài ra, các ngân hàng cung cấp dịch cụ đánh giá yếu tố môi trường, xã hội trong
hoạt động cung cấp tín dụng. Các nghiệp vụ và quá trình đổi mới này đã thể hiện sự phát triển nền
tảng của ngân hàng xanh ở Việt Nam. Tuy nhiên các dịch vụ này chưa được phổ biến và chiến lược
hóa trong các ngân hàng tại nước ta.
Một số ngân hàng thương mại đã vận dụng chuẩn mực của IFC và nguyên tắc xích đạo để
xây dựng những chuẩn mực riêng phù hợp với bản sắc và mục tiêu của ngân hàng. Có thể kể đến ví
dụ của Sacombank. Vào năm 2012, ngân hàng này đã trở thành ngân hàng thương mại cổ phần đầu
tiên tại Việt Nam áp dụng hệ thống quản lý trách nhiệm với môi trường và xã hội của IFC nhằm
nâng cao khả năng quản trị những dự án đầu tư rủi ro tới môi trường và cấp tín dụng dự án. Tiếp
đến, vào năm 2016, Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam và ngân hàng Công thương Việt Nam cũng đã
triển khai hoạt động tương tự nhằm tài trợ các dự án tiết kiệm năng lượng và cam kết hạn chế xả thải
ra môi trường của các dự án đầu tư vừa và nhỏ tại Việt Nam. Ngân hàng Agribank đã phát triển gói
tín dụng xanh để hỗ trợ đầu tư vào các hoạt động nông nghiệp Ngoài ra, nhằm cung cấp nguồn vốn
hỗ trợ cho các dự án đầu tư xanh và khuyến khích phát triển những sản phẩm thân thiện với môi
trường dành cho cộng đồng, các ngân hàng Techcombank, ACB, VIB đã hỗ trợ thẩm định tài chính
và cung cấp quỹ tín dụng cho các sự án này. Nhiều ngân hàng đã có hoạt động đánh giá rủi ro tín
dụng đối với sự bền vững của môi trường tự nhiên và đời sống xã hội trong hoạt động cấp vốn. Ví
dụ như ngân hàng Vietcombank chỉ phê duyệt những dự án đã có đánh giá ảnh hưởng tới môi
trường, ngân hàng BIDV cũng chỉ cấp thuận cung cấp vốn cho dự án được đưa vào quy hoạch. Mặc

6
dù mức độ xanh hoá các ngân hàng tại Việt Nam chỉ ở mức trung bình (mức độ 3), tuy nhiên có thể
thấy, các ngân hàng thương mại ở nước ta đã có nhận thức về tầm quan trọng và thực hiện nhiều
hoạt động tích cực và sôi động trong việc phát triển ngân hàng xanh.
2.2. Cơ hội và thách thức trong quá trình triển khai áp dụng ngân hàng xanh tại Việt Nam
2.2.1. Cơ hội
Trong thời đại toàn cầu hoá về mọi mặt, sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng xanh trên
khắp thế giới đã thúc đẩy sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Các nhà hoạch
định chính sách nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng xanh và tài chính xanh trong định
hướng phát triển chung của hệ thống ngân hàng. Từ đó đưa những đường lối, chiến lược, hoạch định
đúng đắn về tầm nhìn và chiến lược phát triển của ngân hàng xanh, từ đó đưa ra những quyết định,
đề án nhằm tạo điều kiện và tăng cường phát triển loại hình tín dụng này. Có thể kể đến việc chính
phủ tạo điều kiện cho ngân hàng nhà nước áp dụng các quy định về tài chính xanh vào các văn bản
pháp luật và triển khai nó trong các ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước được Ngân hàng thế
giới và các tổ chức nước ngoài hỗ trợ trong quá trình học hỏi, áp dụng kiến thức từ các quốc gia có
kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng xanh.
2.2.2. Khó khăn
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Huệ (2016) về vay vốn tín dụng xanh của doanh
nghiệp, dù các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất lớn, một phần lớn trong số đó (66%) doanh
nghiệp chưa từng nhắc đến những dự án xanh trong việc vay vốn. Nguyên nhân chủ yếu là do những
thủ tục phức tạp và sự khó khăn trong việc thẩm định các dự án xanh. Việc thẩm định dự án thường
gây tốn kém chi phí và yêu cầu trình độ chuyên môn cao, tuy nhiên tại thời điểm hiện tại, chưa thể
thực sự đánh giá được, liệu những dự án an toàn ở hiện tại liệu có không gây ra ô nhiễm trong tương
lai. Khung pháp lý ưu đãi về các dự án ưu tiên môi trường còn chưa thực sự rõ ràng, đồng bộ, rườm
rà giữa các ngành khiến cho doanh nghiệp còn e ngại phát triển. Ngoài ra, nhu cầu vốn cho các dự
án xanh còn chưa nhỏ và manh mún, có thể gây ra thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng
khi áp dụng những nghiệp vụ mới này
3. Giải pháp xây dựng ngân hàng xanh ở Việt Nam
Một số khuyến nghị nhằm phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, để khuyến khích ngân hàng xanh phát triển, cần có hệ thống luật pháp và quy định
về ngân hàng xanh, bao gồm các chính sách ưu đãi và cơ chế hỗ trợ. Ví dụ như ưu tiên được tái cấp
vốn, giảm thuế, hỗ trợ lãi suất… Bởi dịch vụ ngân hàng xanh là một dịch vụ còn mới ở nước ta, nhu
cầu sử dụng chưa cao nên những ngân hàng áp dụng có thể chịu nhiều thiệt hại về doanh thu. Bên

7
cạnh đó cần khuyến khích phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, tạo điều kiện phát triển cho mobile
banking, tăng cường bảo mật tín dụng và hỗ trợ người dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa
tiếp cận với dịch vụ ngân hàng điện tử
Thứ hai, ban hành quy định bắt buộc các tổ chức tín dụng trong hệ thống áp dụng các nguyên
tắc chung quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng và đầu tư để phát triển tín
dụng xanh, nhất là trong những ngành kinh tế có tính rủi ro cao.
Thứ ba, thành lập một bộ phận trong mỗi ngân hàng để thẩm định các dự án bảo vệ môi
trường, nhằm xác định mức độ rủi ro môi trường khi đánh giá khách hàng vay, từ đó giảm thiểu các
khoản vay cho hoạt động gây hại môi trường. Áp dụng công nghệ 4.0 vào công tác thẩm định, đánh
giá rủi ro với các dự án trên. Đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên viên đánh giá thẩm định
các dự án có mức độ rủi ro cao như công nghệ mới, phát triển năng lượng tái tạo… Bên cạnh đó
tăng cường nhận thức cho nhân viên về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, tín dụng xanh, ngân
hàng xanh, nhằm giúp cho đội ngũ nhân viên hiểu được tầm quan trọng về quản lý rủi ro cho môi
trường và xã hội, tuyên truyền cho khách hàng hiểu hơn về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng xanh…

8
Kết luận
Có thể nói, ngân hàng xanh ở Việt Nam mới chỉ bước những bước đi đầu tiên và chưa được
quy định rõ ràng bởi pháp luật, chưa thực sự bắt kịp với sự phát triển của thế giới. Khung pháp lý
cho các hoạt động của ngân hàng xanh còn chưa thực sự rõ ràng và thiếu đi tính ràng buộc pháp lý
cũng như nhận thức của đại bộ phận người dân về ngân hàng xanh còn mơ hồ. Vì vậy, để hỗ trợ tăng
trưởng xanh, không chỉ Chính phủ phải ban hành hệ thống luật pháp thúc đẩy ngân hàng xanh và tín
dụng xanh, mà cả hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng phải tự chủ động xây dựng chiến
lược và triển khai các hoạt động ngân hàng xanh cho khách hàng, vì sự phát triển bền vững chung
của cả môi trường và xã hội.

9
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Hữu Huân (2014). Xây dựng Ngân hàng xanh tại Việt Nam, từ Output file
(uef.edu.vn)
[2]. Trịnh Chi Mai, Nguyễn Xuân Tiệp, Lê Trần Hà Trang, Các nhân tố tác động đến nhận
thức về “Ngân hàng xanh” trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, từ Bia He Thong Tai
Chinh_fileIN (vnu.edu.vn)
[3]. Nguyễn Hữu Huân, Xây dựng ngân hàng xanh tại Việt Nam, từ Bia He Thong Tai
Chinh_fileIN (vnu.edu.vn)
[4]. Trần Thị Anh Tú, Ngô Anh Phương, Nguyễn Thị Nhung, Nghiên cứu thực nghiệm cấp
độ phát triển và các nhân tố ảnh hưởng ngân hàng xanh tại Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc gia,
từ KY_20211101001329.pdf (vnu.edu.vn)
[5]. Nguyễn Thị Đoan Trang (2017), Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam - trách nhiệm
xã hội trong bảo vệ môi trường, từ Bài của ThS.Nguyễn Thị Đoan Trang.pdf (hvnh.edu.vn)
[6]. PGS.TS. Trần Thị Thanh Tú, ThS. Trần Thị Hoàng Yến (2016), Đánh giá thực tiễn
ngân hàng xanh ở Việt NAm theo thông lệ quốc tế
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/apph/tcnh/tcnh_chitiet?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV244244&rightWidth=
0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop=17128675839455828
[7]. Phương Linh (2019), Tín dụng ngân hàng với mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh
https://sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV401058&rightWidth=
0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop=17128819074150828
[8]. Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của Thủ tướng Chính
phủ
Quyết định số 1393/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược quốc gia về
tăng trưởng xanh (chinhphu.vn)
[9]. Phùng Thị Thu Hương (2021), Tài chính xanh dưới tác động của ngân hàng trung ương
cơ hội và thách thức cho Việt Nam - VNU
KY_20211101001757.pdf (vnu.edu.vn)

10

You might also like