ChỦ ĐỀ 4 - TRỒNG RỪNG

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


…..…..

BÁO CÁO BÀI TẬP NHÓM


HỌC PHẦN: KINH TẾ CÔNG

CHỦ ĐỀ 4: TRỒNG RỪNG

Giáo viên hướng dẫn :Lê Trung Hiếu

Sinh viên thực hiện :Nguyễn Thị Lưu Ly


:Tô Thị Hà
:Nguyễn Thị Minh Huệ
:Trần Thị Ngân
:Trần Lê Đoan Thanh
:Lê Thị Xuân Hiên

Đà Nẵng, tháng 11 năm 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Thực trạng về ngành lâm nghiệp Việt Nam hiện nay.............................................................2
2. Thành công và hạn chế..........................................................................................................5
2.1 Thành công....................................................................................................................5
2.2 Hạn chế..........................................................................................................................8
3. So sánh với một vài quốc gia trên thế giới.............................................................................9
3.1 Hoạt động trồng rừng tại Việt Nam...............................................................................9
3.2 So sánh với một số nước trên thế giới.........................................................................10
4. Những tác động tích cực của hoạt động trồng rừng tới kinh tế, xã hội và môi trường.......11
4.1 Kinh tế.........................................................................................................................11
4.2 Xã hội...........................................................................................................................13
4.3 Môi trường..................................................................................................................13
5. Chính phủ cần có giải pháp gì để nâng cao độ che phủ của rừng và thực hiện hiệu quả
“Chương trình trồng 1 tỷ cây xanh” do Chính phủ phát động?...................................................14
5.1 Chính phủ cần có giải pháp gì để nâng cao độ che phủ của rừng................................14
5.2 Chính phủ cần có giải pháp gì để thực hiện hiệu quả “Chương trình trồng 1 tỷ cây
xanh” do Chính phủ phát động?..............................................................................................16
KẾT LUẬN...............................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................22
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tổng diện tích rừng Việt Nam 2008-2020.............................................6
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ che phủ rừng 2008-2020 (%)........................................................6
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 4.1: Quảng Bình thực hiện trồng rừng kết hợp chăn nuôi...............................12
Hình 4.2: Lâm nghiệp Yên Bái.................................................................................12
Hình 5.1: Vườn quốc gia Bạch Mã...........................................................................16
Hình 5.2: Lễ phát động trồng 10 triệu cây xanh trên địa bàn tỉnh Bến Tre..............17
Hình 5.3: Trồng rừng bằng máy bay không người lái..............................................17
Hình 5.4: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự Tết trồng cây hưởng ứng Chương trình
trồng 1 tỷ cây xanh "Vì một Việt Nam xanh" tại tỉnh Tuyên Quang........................18
Hình 5.5: Chính sách khen thưởng ở Yên Bái..........................................................20

i
LỜI MỞ ĐẦU
Cây cối là loài sinh vật sống lâu nhất trên hành tính và là nguồn tài nguyên
thiên nhiên lớn nhất trên Trái Đất. Chúng cung cấp cho ta không khí sạch, chống
xói mòn, sạt lở đất ở vùng núi, đồi có độ dốc lớn cũng như cải thiện chất lượng đất
làm tơi xốp, giữ độ ẩm vừa đủ cho bề mặt, giữ nước cùng các chất dinh dưỡng khác
trong mặt đất. Bên cạnh đó cũng cung cấp thực phẩm, dược phẩm cho con người và
vật liệu cho những công trình xây dựng, ngoài ra còn tô điểm cho cảnh quan môi
trường sống xung quanh con người trở nên đẹp hơn.

Chính vì thế chúng ta cần tích cực hơn nữa trong việc trồng và bảo vệ cây
xanh. Nhưng hiện nay một thực trạng nghiêm trong đang xảy ra là cây xanh ở
những cánh rừng đang bị tàn phá nặng nề để làm nương rẫy, làm nơi cư trú cho con
người. Dẫn đến tình trạng thiếu cây xanh, điều này gây ảnh hưởng to lớn đến cuộc
sống con người như vấn đề kinh tế xã, mất cân bằng sinh thái, ô nhiêm môi trường
gia tăng, động vật hoang dã mất nơi sinh sống…

Để khắc phục tình trạng này, mỗi cá nhân ngay từ bây giờ phải có những
hành động thiết thực để bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường rừng. Bên cạnh đó, nhà
nước phải tích cực tuyên truyền, vận động người dân hiểu được lợi ích của cây
xanh, từ đó khuyến khích mọi người trồng cây, cải tạo môi trường sống. Đồng thời
phải xử lý nghiêm đối với những hành vi vi phạm tàn phá cây xanh, tàn phá môi
trường rừng. Mỗi người một hành động nhỏ sẽ tạo nên ý nghĩa to lớn.

1
1. Thực trạng về ngành lâm nghiệp Việt Nam hiện nay
Những năm qua, mặc dù có nhiều khó khăn và đặc biệt là ảnh hưởng của
dịch Covid-19 nhưng ngành Lâm nghiệp Việt Nam đã nỗ lực vượt khó, chính phủ
đã đề ra nhiều chính sách hiệu quả đưa Lâm nghiệp đạt được những thành tựu đáng
tự hào trong công tác bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp, đóng góp quan
trọng cho sự phát triển chung của toàn ngành Nông nghiệp.

Trong công tác trồng cây gây rừng, mặc dù trong điều kiện còn nhiều khó
khăn, song việc gia tăng diện tích rừng đã có nhiều chuyển biến tích cực, được cộng
đồng xã hội quan tâm sâu sắc hơn; chủ trương xã hội hóa nghề rừng được hiện thực,
góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người làm nghề
rừng. Cơ chế, chính sách từng bước được sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới, thu hút
các thành phần kinh tế tham gia bảo vệ và phát triển rừng.

Công tác bảo vệ rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng tiếp tục có nhiều tiến
bộ, tình trạng vi phạm pháp luật về lâm nghiệp đã giảm. Trong năm 2021, số vụ vi
phạm bảo vệ rừng và diện tích rừng bị thiệt hại cơ bản đều giảm so với năm 2020.
Cụ thể, đã phát hiện 2.653 vụ vi phạm các quy định về bảo vệ rừng, giảm 411 vụ,
tương ứng giảm 13% so với cùng kỳ năm 2020; diện tích thiệt hại 852 ha, giảm 6%
(56 ha) so với cùng kỳ.

Ngoài ra, trong quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, toàn ngành Lâm
nghiệp đã chỉ đạo, đôn đốc các địa phương triển khai xây dựng các phương án quản
lý hiệu quả tích cực. Nhiều giống cây lâm nghiệp mới có năng suất cao, chất lượng
tốt đã được chọn và đưa vào phát triển trong sản xuất. Nhiều tiến bộ kỹ thuật về
thâm canh rừng, quản lý rừng bền vững, quy trình công nghệ, thiết bị, nguyên liệu
phụ trợ tiên tiến trong khai thác, bảo quản, chế biến gỗ, lâm sản ngoài gỗ đã chuyển
giao vào sản xuất và mang lại hiệu quả thiết thực. Đến nay, đã có đã có 199 chủ
rừng là tổ chức đã xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án quản lý
rừng bền vững với tổng diện tích 3,1 triệu ha. 6 Vườn quốc gia thuộc Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn có tổng diện tích 299.467 ha đã được Bộ phê duyệt
phương án quản lý rừng bền vững. Tổng diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý
rừng bền vững còn hiệu lực đến nay là 314.205 ha tại 27 địa phương.

2
Hiện ngành lâm nghiệp cũng đã triển khai ứng dụng công nghệ cao, công
nghệ viễn thám trong xây dựng bản đồ hiện trạng rừng cho 39 tỉnh, thành phố; điều
tra, kiểm kê rừng toàn quốc và đã xây dựng hệ thống bản đồ, bộ số liệu gắn với bản
đồ kiểm kê rừng; xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên rừng; dự báo, cảnh báo lửa
rừng, sâu bệnh hại rừng; nghiên cứu hiệu quả gắn với từng khâu sản xuất, chế biến,
từng sản phẩm, dịch vụ môi trường rừng…

Bên cạnh đó, để có nguồn nguyên liệu bảo đảm cho xuất khẩu, ngành lâm
nghiệp đang tập trung xây dựng và đi vào sản xuất các vùng nguyên liệu gỗ và lâm
sản theo quy hoạch, bảo đảm chứng chỉ rừng quốc gia. Nhiều mô hình phát triển
kinh tế hợp tác và liên doanh, liên kết trong sản xuất lâm nghiệp đã được các địa
phương phát triển. Điển hình như, mô hình liên kết giữa công ty tiêu thụ sản phẩm
đồ gỗ (Tập đoàn IKEA) với công ty chế biến, sản xuất sản phẩm đồ gỗ (công ty chế
biến gỗ); liên kết giữa NAFOCO với các hộ trồng rừng Yên Bái; liên kết giữa Công
ty Woodsland với các hộ trồng rừng Tuyên Quang; liên kết giữa Công ty Scansia
Pacific với các hộ trồng rừng Quảng Trị; liên doanh, liên kết giữa công ty chế biến
gỗ và người dân tại các tỉnh Quảng Nam; Quảng Ninh,...

Không chỉ đảm bảo các chỉ tiêu về bảo vệ và phát triển rừng, hiện nay kinh tế
lâm nghiệp cũng đã có nhiều khởi sắc. Trị giá xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tăng
từ 6,79 tỷ USD năm 2015 lên 10,64 tỷ USD năm 2019. Lâm sản Việt Nam được
xuất khẩu tới hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ với các thị trường xuất khẩu chính
gồm: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU và Hàn Quốc, chiếm trên 80% tổng giá
trị xuất khẩu lâm sản. Việt Nam hiện đứng thứ năm thế giới, đứng thứ hai châu Á,
thứ nhất Đông Nam Á về xuất khẩu lâm sản. Đến nay, nguồn nguyên liệu gỗ trong
nước đã đáp ứng được hơn 70% nhu cầu cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Đặc biệt
trong năm 2019, mặc dù chịu tác động của dịch Covid-19 gây ảnh hưởng đến sản
xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm gỗ và lâm sản, song kim ngạch xuất khẩu của
toàn ngành nông, lâm, thủy sản đạt gần 16 tỷ USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra
với 14 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2020, xuất siêu cả năm đạt gần 13 tỷ USD,
tăng 21% so với năm 2020. Trong đó, giá trị xuất khẩu lâm sản đã chiếm trên 30%
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành hàng nông lâm thủy sản cả nước; chiếm
4,7% kim ngạch xuất khẩu toàn quốc và là 1 trong 7 mặt hàng có giá trị xuất khẩu

3
trên 10 tỷ USD. Giá trị xuất siêu lâm sản lớn nhất trong nhóm các ngành nông lâm
thủy sản, đóng góp quan trọng vào giá trị xuất siêu của ngành.

Tuy nhiên, dù việc triển khai và áp dụng các chính sách bảo vệ và phát triển
rừng đã thu được những thành quả nhất định, các chuyên gia cho rằng, các chính
sách đầu tư trong lâm nghiệp trong thời gian qua còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế
nhất định. Đặc biệt phải kể đến là việc hiện nay các chính sách về lâm nghiệp đang
được quy định tại nhiều văn bản khác nhau, có các mức đầu tư và hỗ trợ cho các đối
tượng còn sự khác biệt lớn.

Theo thống kê, hiện diện tích rừng cả nước chủ yếu tập trung ở địa bàn vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, khu vực biên giới, rừng đầu nguồn lưu vực các
con sông, suối lớn. Song thực tế cho thấy ở khu vực này, đồng bào dân tộc thiểu số
chưa thể dựa vào rừng để đảm bảo sinh kế có thu nhập và sống ổn định từ rừng. Do
vậy, công tác bảo vệ, phát triển rừng và chi trả các chi phí liên quan còn chưa thực
sự đem lại hiệu quả.

Bên cạnh đó, mặc dù đã có chính sách giao đất giao rừng đi kèm với hướng
dẫn quy định về nguồn lực tài chính, định mức chi trả cho khoanh nuôi, bảo vệ và
chi trả dịch vụ môi trường rừng, tuy nhiên các định mức chi trả đó còn thấp nên
chưa tạo động lực để người dân chủ động tự giác bảo vệ, phát triển rừng.

Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu khoa học lâm nghiệp thời gian qua mới chỉ
tập trung cho ứng dụng và triển khai góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành, các
nghiên cứu cơ bản còn ít được quan tâm nên chưa tạo được nền tảng cơ sở khoa học
cho một số lĩnh vực như: Hệ sinh thái rừng tự nhiên, công nghệ cao trong chọn tạo
giống, chế biến và bảo quản lâm sản…; Cơ cấu cây trồng, giống cây trồng lâm
nghiệp chưa được đa dạng hóa; tiềm năng sản xuất nông lâm kết hợp chưa được tận
dụng và khai thác tốt để nâng cao giá trị gia tăng của rừng...

Công tác quy hoạch, phát triển rừng thiếu đồng bộ với quy hoạch sử dụng đất
và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều dự án phát triển kinh tế như thủy
điện, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch… có chuyển đổi mục đích sử dụng rừng
làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, suy giảm diện tích rừng, đặc biệt là rừng
tự nhiên.

4
Công tác quản lý giống cây trồng lâm nghiệp chưa đảm bảo, không đủ nguồn
giống có năng suất, chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu sản xuất, xuất khẩu; vẫn
còn tình trạng sử dụng giống kém chất lượng; việc ứng dụng công nghệ nuôi cấy
mô phục vụ cho công tác trồng rừng còn hạn chế, người dân chưa tiếp cận được
nhiều với giống cây trồng sản xuất bằng công nghệ cao, có chất lượng. Hiệu quả
hoạt động lực lượng kiểm lâm còn thấp, công tác phối hợp với các địa phương,
ngành chưa thật sự đồng bộ, thiếu thường xuyên đã ảnh hưởng đến công tác quản
lý, bảo vệ rừng.

Về thị trường lâm sản có nhiều vấn đề lớn, thị trường này hoạt động còn
“nhộn nhạo“, tự do, chưa có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về số lượng, chất
lượng, giá cả dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực. Các kênh phân phối sản phẩm lâm
nghiệp cũng rất hỗn độn không phân theo những cấp bậc cụ thể dẫn đến việc kiểm
soát, thống kê của Nhà nước vô cùng khó khăn, gây thất thoát không nhỏ cho nguồn
thu hàng năm của Nhà nước. Có sự cạnh tranh mạnh mẽ của một số thị trường, sản
phẩm khác. Ví dụ như: thay vì việc dùng bàn ghế gỗ, người ta sẽ dùng bàn ghế nhựa
vừa rẻ hơn lại đẹp và có thể còn bền hơn…

Đặc biệt là ảnh hưởng của dịch covid-19 gây đứt gãy chuỗi cung ứng hàng
hóa; cháy rừng, tác động của biến đổi khí hậu gây bão lũ khiến trên 141.000 ha rừng
bị thiệt hại; cạnh tranh thương mại toàn cầu quyết liệt, đặc biệt là những cảnh báo từ
thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ như Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Ngành vẫn còn
tồn tại những điểm nóng về phá rừng, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép tại
một số địa phương, nhất là khu vực Tây Nguyên vẫn diễn ra phức tạp, gây bức xúc
trong dư luận và nhân dân.

2. Thành công và hạn chế


2.1 Thành công
Triển khai, áp dụng các chính sách về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đang
phát huy hiệu quả. Đạt được những thành tựu tích cực, góp phần bảo vệ và phát
triển bền vững vốn rừng hiện có, cải thiện đời sống những người làm nghề rừng,
nhất là các hộ nghèo cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập.

5
Chủ trương xã hội hóa nghề rừng được hiện thực, góp phần tạo việc làm. Cơ
chế, chính sách từng bước được sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới, thu hút các thành
phần kinh tế tham gia bảo vệ và phát triển rừng.

Biểu đồ 2.1: Tổng diện tích rừng Việt Nam 2008-2020

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ che phủ rừng 2008-2020 (%)


Nguồn: Tổng cục Thống kê,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

6
Kết quả thống kê cho thấy, tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc tăng từ 40,84% năm
2015 lên 41,89% năm 2019, ước năm 2020 đạt khoảng 42%. Đến cuối năm 2019,
tổng diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững toàn quốc đạt 269,1 nghìn
ha trên địa bàn 24 tỉnh. Diện tích được cấp mới chứng chỉ quản lý rừng bền vững
trong năm 2019 là gần 43 nghìn ha. Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng có chứng chỉ
quản lý rừng bền vững đạt 2,0 triệu m3.

Công tác bảo vệ rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng tiếp tục có nhiều tiến
bộ, tình trạng vi phạm pháp luật về lâm nghiệp đã giảm rõ rệt. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, năm ngoái, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính
đạt 273,6 nghìn ha; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 81,1 triệu cây; sản lượng
củi khai thác đạt 19,5 triệu ste; sản lượng gỗ khai thác đạt 16,1 triệu m3. 6 tháng
đầu năm 2020, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 106,3 nghìn ha, tăng
0,2% so với cùng kỳ năm 2019; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 44,5 triệu cây;
sản lượng gỗ khai thác đạt 7.526 nghìn m3; sản lượng củi khai thác đạt 9,85 triệu
ste.

Ngành Lâm nghiệp từng bước tập trung phát triển cây lâm nghiệp bền vững.
Nhiều giống cây mới có năng suất cao, chất lượng tốt đã được chọn và đưa vào phát
triển trong sản xuất. Nhiều tiến bộ kỹ thuật về thâm canh rừng, quản lý rừng bền
vững, quy trình công nghệ, thiết bị, nguyên liệu phụ trợ tiên tiến trong khai thác,
bảo quản, chế biến gỗ, lâm sản ngoài gỗ đã chuyển giao vào sản xuất và mang lại
hiệu quả thiết thực.

Việc trồng rừng tại các địa phương đã có quy hoạch, tạo sự liên kết bền vững
giữa doanh nghiệp và người trồng rừng. Trong năm 2019, các địa phương đã sản
xuất được hơn 600 triệu cây giống, trong đó cây gieo ươm từ hạt là 500 triệu cây
(gồm: Cây keo tai tượng, thông mã vĩ, hồi, lát hoa, quế, mỡ, lim xanh, bồ đề, sa
mộc). Công tác kiểm soát chất lượng giống cây trồng rừng đã đạt 85%...

Giai đoạn 2008-2020, ngành lâm nghiệp đã nghiên cứu và công nhận được
277 giống cây lâm nghiệp, 61 tiêu chuẩn và 11 tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực phát
triển rừng. Điều này đã đưa năng suất rừng trồng đạt năng suất bình quân
20m3/ha/năm, nhiều nơi đạt 40m3/ ha/năm. Ngành cũng đã công nhận 163 tiêu
chuẩn và 15 tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực chế biến lâm sản đã ứng dụng vào sản
7
xuất, mang lại kết quả, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho ngành lâm
nghiệp.

Hiện ngành lâm nghiệp cũng đã triển khai ứng dụng công nghệ cao, công
nghệ viễn thám trong xây dựng bản đồ hiện trạng rừng cho 39 tỉnh, thành phố; điều
tra, kiểm kê rừng toàn quốc và đã xây dựng hệ thống bản đồ, bộ số liệu gắn với bản
đồ kiểm kê rừng; xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên rừng; dự báo, cảnh báo lửa
rừng, sâu bệnh hại rừng; nghiên cứu hiệu quả gắn với từng khâu sản xuất, chế biến,
từng sản phẩm, dịch vụ môi trường rừng,…

Những kết quả nghiên cứu đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu gỗ của cả nước, với trị giá xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tăng từ 6,79
tỷ USD năm 2015 lên 10,64 tỷ USD năm 2019. Lâm sản Việt Nam được xuất khẩu
tới hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ với các thị trường xuất khẩu chính gồm: Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU và Hàn Quốc, chiếm trên 80% tổng giá trị xuất
khẩu lâm sản. Việt Nam hiện đứng thứ năm thế giới, đứng thứ hai châu Á, thứ nhất
Đông - Nam Á về xuất khẩu lâm sản. Đến nay, nguồn nguyên liệu gỗ trong nước đã
đáp ứng được hơn 70% nhu cầu cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu.

2.2 Hạn chế


Lỗ hổng trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng: tình trạng phá
rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái pháp luật, nhất là đối với rừng tự
nhiên vẫn tiếp tục diễn ra phức tạp; diện tích rừng phòng hộ liên tục giảm qua các
năm. Công tác quy hoạch, bảo vệ, phát triển rừng thiếu đồng bộ với quy hoạch sử
dụng đất và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Nhiều dự án phát triển kinh tế
như thuỷ điện, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch… chưa chú trọng đến bảo vệ,
phát triển rừng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, làm suy giảm
chất lượng rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên. Thêm vào đó, công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về bảo vệ rừng chưa phát huy được hiệu quả do thiếu nhân lực thực
hiện.

Một số vụ vi phạm chưa được ngăn chặn có hiệu quả, nhất là tình trạng khai
thác, vận chuyển, mua bán, cất giữ cây cảnh có nguồn gốc từ rừng tự nhiên trái
pháp luật ngày càng tinh vi và rất khó phát hiện.

8
Việc tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới (GIS, viễn thám)
trong bảo vệ rừng, PCCCR còn một số khó khăn về kinh phí đầu tư và áp dụng công
nghệ trong quản lý.

Nhiều diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao, khoán sử dụng không
đúng mục đích. Tình trạng dân di cư tự do chưa được kiểm soát chặt chẽ. Công tác
phòng cháy, chữa cháy rừng còn nhiều bất cập; diện tích rừng bị thiệt hại do cháy
rừng, sạt lở đất rừng tăng cao.

"Một nguyên nhân khác là do trong thời gian gần đây hàng loạt cán bộ ngành
lâm nghiệp nghỉ việc, lực lượng chức năng mỏng dần nên tình trạng vi phạm lâm
luật có điều kiện tồn tại”, ông Đặng Kim Cương chia sẻ.

Theo chia sẻ của ông Nguyễn Hoài Dương, Giám đốc Sở NN-PTNT Đăk
Lăk, cấp ủy, chính quyền một số địa phương, nhất là cấp xã chưa thực hiện đầy đủ
công tác quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn, một số nơi còn
xem công tác bảo vệ rừng là của chủ rừng và của riêng ngành Kiểm lâm chứ không
thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Nhiều dự án nông lâm nghiệp bộc lộ những tồn tại như chậm tiến độ, cây
trồng bị chết, sinh trưởng kém, chưa thực hiện có hiệu quả công tác quản lý bảo vệ
rừng, để rừng bị chặt phá, đất đai bị xâm canh lấn chiếm, giải quyết việc làm cho
người lao động chưa tương xứng.

“Thực trạng hiện nay ở Đăk Lăk là rừng vẫn tiếp tục bị phá, lấn chiếm, vấn
nạn khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật chưa được ngăn chặn triệt để. Tình
trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy trái phép diễn biến phức tạp, nhất
là tại các địa phương có nhiều dân di cư tự do đến cư ngụ”, ông Nguyễn Hoài
Dương, Giám đốc Sở NN-PTNT Đăk Lăk trăn trở.

Việc chuyển đổi rừng tự nhiên, rừng nghèo kiệt sang trồng cao su, sản xuất
nông nghiệp chưa được kiểm soát chặt chẽ; ranh giới ba loại rừng, ranh giới quản lý
rừng của các chủ rừng vẫn chưa được xác định trên bản đồ và thực địa. Các vụ việc
chống người thi hành công vụ bảo vệ rừng tiếp tục diễn ra gay gắt với tính chất
ngày càng nghiêm trọng.

9
Quá trình tái cơ cấu, sắp xếp đổi mới các công ty lâm nghiệp còn chậm, hiệu
quả hoạt động sau sắp xếp chưa cao, các đơn vị chủ yếu trông chờ vào nguồn ngân
sách Nhà nước, chưa chủ động kinh doanh tạo nguồn thu.

3. So sánh với một vài quốc gia trên thế giới


3.1 Hoạt động trồng rừng tại Việt Nam
Trồng cây gây rừng là biện pháp phổ biến cho vấn đề biến đổi khí hậu. Ngoài
ra, việc trồng hỗn hợp các loài cây bản địa và không bản địa vừa là để phục hồi hệ
sinh thái vừa là thúc đẩy nền kinh tế địa phương và giảm áp lực khai thác gỗ cho
tiêu dùng trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu sang nước ngoài.

Gia tăng số lượng rừng giúp bảo tồn rừng phòng hộ làm hạn chế thiên thai,
chống xói mòn, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất,…

Phục hồi các hành lang rừng quan trọng chống sa mạc hóa và các khu vực bị
phân mảnh.

Khuyến khích thêm nhiều người tham gia vào việc trồng, quản lý và bảo vệ
rừng bền vững giúp duy trì ổn định tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc là 42%, nâng cao
chất lượng rừng.

Đưa ra các chiến lược mang tính đột phá và khác biệt so với xu thế phát triển
chung hiện nay để bảo vệ rừng và bảo vệ đa dạng sinh học: trồng 1 tỷ cây xanh,
Rừng và đồng bằng Việt Nam…

3.2 So sánh với một số nước trên thế giới


Hiện nay, biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra nhiều
và bất thường sẽ ảnh hưởng đáng kể tới tài nguyên rừng và phát triển ngành lâm
nghiệp.

Cháy rừng cũng là một nguyên nhân gây suy thoái rừng. Cháy rừng giết chết
nhiều loài động – thực vật gây mất cân bằng sinh thái, có thể xóa sổ hàng ngàn loài
cây và thảm thực vật. Hàng năm, các vụ cháy rừng xảy ra trên khắp thế giới đã làm
ảnh hưởng đến nền kinh tế và cơ sở hạ tầng quốc gia cũng như góp phần làm tăng
thêm khí thải nhà kính làm cho khí hậu trái đất biến đổi nặng nề hơn.

Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất độc hóa học trong chiến tranh mà
diện tích rừng cũng bị thu hẹp.
10
Đông Nam Á cũng có tỷ lệ phá rừng cao nhất trong số các khu vực nhiệt đới
lớn, khu vực này đã mất hơn 50% diện tích rừng nguyên thủy, và một số khu rừng
nhiệt đới nguyên snh trong khu vực cũng sẽ biến mất vào năm 2022. Một số khu
vực, bao gồm nhiều diện tích thuộc Indonesia, được dự báo sẽ giảm đến 98% diện
tích rừng vào năm 2022.

Trong khi đó, hơn một nửa rừng của châu Âu đã biến mất do nhu cầu về đất
nông nghiệp ngày càng tăng và việc sử dụng gỗ làm nguồn nhiên liệu. Hơn hai phần
ba diện tích miền Trung và Bắc Âu trước đây được che phủ bởi cây rừng. Hiện nay,
diện tích rừng giảm xuống còn khoảng một phần ba ở một số khu vực phía Tây và
duyên hải, bao gồm cả Anh và Cộng hòa Ireland; ở một số khu vực, diện tích rừng
bị giảm xuống dưới 10%.

Sa mạc hóa đang tàn phá khu vực Mỹ Latinh, tỷ lệ bao phủ rừng từ 47.4%
xuống 46.7% trong năm 2020, khiến cho tình trạng suy thoái rừng cũng đang trở
thành vấn đề nghiêm trọng ở một loạt nước như Brazil, Bolivia, Chile, Cuba,
Colombia, Ecuado, Guatemala, Peru, Uruguay, Jamaica, Haiti, và nhiều đảo ở vùng
Caribe.

Tại đất nước Bắc Mỹ, Canada, vào tháng 8 năm 2018, các vụ cháy rừng đã ở
mức không thể kiểm soát. Ngày 15/8, tỉnh British Columbia, miền Tây Canada đã
phải ban bố tình trạng khẩn cấp vì cháy rừng lan rộng với hơn 560 vụ cháy lớn nhỏ
trên toàn tỉnh. Có thể nói, trong những năm vừa qua, cháy rừng là một trong những
nguyên nhân chính gây suy thoái rừng ở Canada.

Trước thực trạng suy thoái rừng đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng ở khắp
các châu lục trên thế giới, các quốc gia cần tiến hành các giải pháp dựa vào tự nhiên
như phục hồi cảnh quan rừng. Giải pháp này có thể giúp các quốc gia đảo ngược tác
động của suy thoái rừng và lấy lại các lợi ích sinh thái, xã hội, khí hậu và kinh tế
rừng.

4. Những tác động tích cực của hoạt động trồng rừng tới kinh tế, xã hội và môi
trường.
Rừng và cuộc sống có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Không có một dân tộc,
một quốc gia nào không biết rõ vai trò quan trọng của rừng trong cuộc sống.

11
Trong những năm qua, thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch, đề án, dự án
quan trọng về bảo vệ, phát triển rừng và phát triển lâm nghiệp, ngành Lâm nghiệp
đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội,
bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của đất nước.

4.1 Kinh tế
Không chỉ che chở, bảo vệ người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt, mà việc
trồng rừng còn mang lại sự no ấm cho người dân. Hàng nghìn hộ dân đã có thu nhập
ổn định nhờ trồng rừng kinh tế các loại cây lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao vào sản
xuất. Theo hướng thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật cùng sự hỗ trợ của
chính phủ với các nguồn vốn vay hỗ trợ.

Hình 4.1: Quảng Bình thực hiện trồng rừng kết hợp chăn nuôi.
Vùng cao Ngư Hóa, huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) đã khắc phục khó khăn,
cách trở về địa hình, khai thác có hiệu quả thế mạnh về đất đai để phát triển trồng
rừng kết hợp chăn nuôi.

Hình 4.2: Lâm nghiệp Yên Bái

12
Theo Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007, Quyết định số
54/2012/QĐ-TTg ngày 04/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ, công tác bảo vệ và
phát triển rừng gắn với giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi
được ban hành, hoạt động bảo vệ rừng và thực thi pháp luật lâm nghiệp tại Yên Bái
có nhiều chuyển biến tích cực.

Phát triển rừng trồng là điều kiện cần thiết cho ngành Chế biến gỗ và sản
xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa phát triển theo, đồng thời được định hướng trở thành
một ngành kinh tế mũi nhọn trong sản xuất lâm nghiệp, góp phần nâng cao giá trị
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành Gỗ
trong giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 3,4%/năm, trong đó năm 2017 tăng
4,6%; năm 2018 tăng 4%; năm 2019 tăng cao nhất 10,3% và năm 2020 giảm 4,6%.
Riêng năm 2020, sản xuất lâm nghiệp có nhiều biến động do ảnh hưởng tiêu cực
của dịch Covid-19 tới các hoạt động của nền kinh tế trong nước và thế giới. Trong
sáu tháng đầu năm 2020, các sản phẩm chủ yếu của ngành lâm nghiệp chững lại,
đặc biệt là sản phẩm gỗ khai thác do chuỗi tiêu thụ sản phẩm chế biến gỗ như gỗ
bóc, bột giấy và dăm gỗ của các doanh nghiệp, nhà máy bị gián đoạn. Sáu tháng
cuối năm thị trường gỗ được đánh giá khởi sắc hơn, sản phẩm gỗ khai thác tăng cao,
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Trồng rừng_tái trồng rừng_phục hồi rừng mạng tại lợi ích lớn đối với du lịch
sinh thái khi sử dụng một cách bền vững. Nhiều dự án phát triển du lịch sinh thái
được hình thành gắn liền với các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các
khu rừng có cảnh quan đặc biệt. Du lịch sinh thái không chỉ phục vụ nhu cầu về mặt
tinh mà thần còn tăng them thu nhập cho dân địa phương. Thông quá đó, người dân
đã gắn bó với rừng hơn, tham gia tích cực hơn trong công tác bảo vệ và xây dựng
rừng.

4.2 Xã hội
 Ổn định dân cư
Cùng với rừng, người dân được nhà nước hỗ trợ đất sản xuất rừng, vốn cùng
với các biện pháp kỹ thuật, cơ sở hạ tầng để tạo nguồn thu nhập cho người dân.
Giúp dân thấy được lợi ích của rừng, gắn bó với rừng hơn. Từ đó người dân sẽ ổn
định nơi ở, sinh sống.

13
 Tạo nguồn thu nhập
Cây rừng được dân khai thác làm nguyên vật liệu. Thông qua hoạt động mua
bán trao đổi giữa dân và các công ty, đại lý, nhà phân phối. Không chỉ ở trong nước,
các sản phẩm còn được xuất khẩu ra thị trường ngoài làm tăng giá trị sản phẩm. Vì
vậy, thu nhập người dân cũng tăng lên.

Hoạt động du lịch được mở rộng là nguồn thu nhập mới cho dân.

Tạo môi trường cho các dược liệu tự nhiên sinh so có giá trị cho con người.

4.3 Môi trường


Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nằm trải dài ven biển nên Việt
Nam luôn phải đối mặt với nhiều thiên tai, bão gió. Hơn nữa với địa hình dốc và
chia cắt nên rừng càng có vai trò quan trọng trong phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh
thái.

Rừng có tác dụng điều hòa khí hậu toàn cầu thông qua làm giảm đáng kể
lượng nhiệt chiếu từ mặt trời xuống bề mặt trái đất do che phủ của tán rừng. Đặc
biệt là vai trò hết sức quan trọng của rừng trong việc duy trì chu trình carbon trên
trái đất mà nhờ đó nó có tác dụng trực tiếp đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Thực
vật và các hệ sinh thái rừng có khả năng giữ lại và tích trữ lượng lớn carbon trong
khí quyển. Vì thế việc trồng rừng nắm giữa vai trò quan trọng trong việc chống lại
hiện tượng ấm lên toàn cầu và ổn định khí hậu.

Rừng bảo vệ độ phì nhiêu và bồi dưỡng tiềm năng của đất: Ở vùng có đủ
rừng thì dòng chảy bị chế ngự, ngăn chặn được nạn bào mòn. Nhất là trên đồi núi
dốc, tác dụng ấy có hiệu quả lớn, nên lớp đất mặt không bị mỏng, mọi đặc tính lý
hóa và vi sinh vật học của đất không bị phá hủy, độ phì nhiêu được duy trì. Rừng lại
liên tục tạo chất hữu cơ. Điều này thể hiện ở qui luật phổ biến: rừng tốt tạo ra đất
tốt, và đất tốt nuôi lại rừng tốt.

Rừng điều tiết nước, phòng chống lũ lụt, xói mòn: Rừng có vai trò điều hòa
nguồn nước giảm dòng chảy bề mặt chuyển nó vào lượng nước ngấm xuống đất và
vào tầng nước ngầm. Khắc phục được xói mòn đất, hạn chế lắng đọng lòng sông,
lòng hồ, điều hòa được dòng chảy của các con sông, con suối (tăng lượng nước
sông, nước suối vào mùa khô, giảm lượng nước sông suối vào mùa mưa).

14
Bên cạnh đó, về vấn đề đa dạng sinh học việc tái trồng rừng làm tăng tính đa
dạng của động thực vật so với trước đó, đóng góp vào việc bảo tồn các động vật quí
hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng.

5. Chính phủ cần có giải pháp gì để nâng cao độ che phủ của rừng và thực hiện
hiệu quả “Chương trình trồng 1 tỷ cây xanh” do Chính phủ phát động?
5.1 Chính phủ cần có giải pháp gì để nâng cao độ che phủ của rừng
Tỉ lệ đất có rừng che phủ của mỗi quốc gia là một chỉ tiêu đánh giá chất
lượng môi trường quan trọng. Diện tích đất có rừng của một quốc gia tối ưu phải đạt
45% tổng diện tích. Tuy nhiên, tài nguyên rừng trên Trái Đất ngày càng bị thu hẹp
về diện tích và trữ lượng

Tại Việt Nam, năm 1943 có 13,3 triệu ha rừng, chiếm 43,8% diện tích đất.
Nhưng đến nay hiện chỉ còn 8,5 triệu ha chiếm 23,8% diện tích đất. Tốc độ mất
rừng ở Việt Nam là 200.000 ha/năm, trong đó có 90.000 ha do khai thác gỗ quá
mức, 60.000 ha do khai hoang, 50.000 ha do cháy.

Để có thể nâng cao độ che phủ của rừng, chính phủ cần có những chính sách
sau:

 Phá rừng có kiểm soát


Chúng ta không thể tránh hoàn toàn nạn phá rừng, tuy nhiên chúng ta phải
kiểm soát nó bằng cách không nên chặt cây non và cây chưa trưởng thành, phải tìm
cách tránh nạn phá rừng thương mại quy mô lớn

 Kiểm soát cháy rừng


Cháy rừng là nguyên nhân phổ biến và nguy hiểm nhất làm giảm độ che phủ của
rừng. Một vài nguyên nhân gây cháy rừng có thể do sét đánh, do ma sát của các cây khi
gió thổi mạnh, hoặc trong hầu hết các trường hợp, đám cháy được bắt đầu bởi con người.
Một khi ngọn lửa đã bắt đầu thì rất khó kiểm soát chúng.

Một số kỹ thuật dập lửa là phát triển các làn cứu hỏa rộng ba mét xung quanh
vùng ngoại vi của đám cháy, chữa cháy ngược, bố trí vòi phun nước, hóa chất
chống cháy nên được phun từ bể phía sau và nếu có thể bằng máy bay trực thăng.
Phải có nhân viên chữa cháy được đào tạo để kiểm soát đám cháy

 Thực hành canh tác tốt hơn

15
Hầu hết đất nông nghiệp ngày nay từng là rừng và sau đó được khai phá để
sử dụng cho nông nghiệp. Nhưng đã đến giai đoạn mà việc khai phá để giải phóng
mặt bằng sẽ gây nguy hiểm cho toàn bộ hệ sinh thái. Đốt nương làm rẫy, chăn thả
gia súc quá mức, di cư đều là những phương thức canh tác có hại cho rừng. Cần
phải kiểm soát tất cả những hành động này.

 Sử dụng hợp lý rừng và lâm sản


Các khu rừng có thể được sử dụng để phát triển thành các trung tâm du lịch
bằng cách sử dụng chúng làm trung tâm du lịch. Đây là một phương pháp bảo tồn
rừng tốt và qua đó đất nước có thể kiếm thêm nguồn thu nhập đáng kể.

 Khôi phục rừng và trồng rừng


Liên hợp quốc chọn ngày 21/3 hàng năm là Ngày Quốc tế về Rừng, mục đích
nhằm kêu gọi các quốc gia cùng chung tay phục hồi lại những cánh rừng đã mất,
nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của rừng và đưa ra các giải pháp bảo vệ, phát
triển rừng bền vững.

Bất cứ khi nào gỗ bị lấy đi, thì khu vực đó phải được trồng lại rừng. Điều này
có thể được thực hiện bằng phương pháp tự nhiên hoặc nhân tạo. Tương tự như vậy,
bất kỳ vùng đất có rừng nào đã bị phá hủy do hỏa hoạn hoặc các hoạt động khai
thác mỏ đều phải được trồng lại rừng. Hình: Vườn quốc gia Bạch Mã

Hình 5.3: Vườn quốc gia Bạch Mã

16
5.2 Chính phủ cần có giải pháp gì để thực hiện hiệu quả “Chương trình trồng 1
tỷ cây xanh” do Chính phủ phát động?
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát động “Chương trình trồng 1 tỷ cây
xanh” trên quy mô toàn quốc trong giai đoạn 2021- 2025. Theo đề án trồng cây
xanh này, sẽ có gần 700 triệu cây xanh được trồng phân tán ở khu vực đô thị và
nông thôn, và hơn 300 triệu cây xanh trồng rừng tập trung. Để có thể thực hiện hiệu
quả mục tiêu này, Chính phủ cần có những giải pháp:

 Nguồn lực tài chính: Đảm bảo tài chính bền vững cho tất cả các giai đoạn
trước và sau khi trồng cây.
Huy động và đảm bảo nguồn lực tài chính bền vững đóng vai trò quan trọng
trong các sáng kiến trồng cây quy mô lớn trên toàn cầu. Tuy nhiên, điều quan trọng
không chỉ là đảm bảo nguồn tài chính cho giai đoạn trồng mà phải có nguồn tài
chính bền vững cho quá trình chăm sóc và bảo vệ lâu dài cho cây phát triển và ổn
định.

Tăng cường xã hội hóa, thu hút mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế và
lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội để trồng một tỷ cây xanh. Mở
các website và chương trình kêu gọi người dân, tổ chức trong và ngoài nước tài trợ
cho chương trình trồng cây. Việc kết hợp các nguồn lực tài chính của trong và ngoài
nước, của cả khối tư nhân và nhà nước sẽ hỗ trợ trồng cây xanh quy mô lớn hiệu
quả hơn.

Hình 5.4: Lễ phát động trồng 10 triệu cây xanh trên địa bàn tỉnh Bến Tre

 Khoa học, kĩ thuật và đổi mới công nghệ: Ứng dụng khoa học và công nghệ
mới trong việc đẩy nhanh tốc độ và diện tích trồng cây mới.

17
Đảm bảo không những sẽ tạo ra cơ chế tài chính mới để hỗ trợ các bên có
liên quan trồng cây và trồng rừng mà còn đảm bảo ngân sách bền vững dài hạn
trong suốt quá trình từ cây non trở thành cây trưởng thành.

Ứng dụng khoa học công nghệ trong ngành lâm nghiệp không còn chỉ nằm ở
việc công nhân giống và cải thiện giống hay xây dựng các phần mềm và công cụ
quản lí và giám sát tài nguyên rừng mà còn đòi hỏi các công nghệ hỗ trợ quá trình
trồng rừng dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả về kinh tế.

Hình 5.5: Trồng rừng bằng máy bay không người lái
Ngoài ra, việc xây dựng các công cụ và phần mềm trên điện thoại có thể truy
xuất và gây dựng hình ảnh xã hội của người đầu tư trồng cây cũng là một lĩnh vực
cần được xem xét bởi việc này gây dựng niềm tin và động lực cho rất nhiều cộng
đồng trên thế giới tham gia vào trồng cây.

Tuy nhiên, với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì rất khan hiếm
cả về nguồn lực con người lẫn nguồn lực tài chính để thực hiện các chương trình
nghiên cứu này. Chính phủ cần ưu tiên những nguồn lực này trong tương lai sẽ giúp
giải quyết nhiều nút thắt trong việc thực hiện các chương trình trồng cây quy mô
lớn.

 Chính sách hỗ trợ quá trình trồng rừng/cây xanh:


Hệ thống hành pháp với những quy định rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm
của việc trồng cây xanh sẽ đảm bảo việc các bên có liên quan phải quan tâm và thực
hiện vấn đề này.

 Nâng cao nhận thức xã hội và huy động nguồn lực xã hội để tiến hành trồng
cây xanh:
Đưa việc trồng cây xanh thực sự trở thành phong trào thi đua thiết thực, hiệu
quả của các cấp, các ngành, trong từng khu dân cư. Nâng cao nhận thức, trách

18
nhiệm của các cấp uỷ, chính quyền, cộng đồng dân cư và người dân đối với công
tác phát triển rừng và trồng cây xanh.

Đẩy mạnh thực thi pháp luật thực hiện các cam kết và trách nhiệm môi
trường. Việc các quy định quốc tế và trong nước về bảo vệ môi trường cũng như
phát triển bền vững đã khiến nhiều quốc gia, tập đoàn, và doanh nghiệp đầu tư và
phát triển các chương trình trồng cây quy mô lớn. Giúp đẩy nhanh tiến trình trồng 1
tỷ cây xanh ở nước ta một cách hiệu quả.

Hình 5.6: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự Tết trồng cây hưởng ứng Chương trình
trồng 1 tỷ cây xanh "Vì một Việt Nam xanh" tại tỉnh Tuyên Quang
 Sử dụng cơ chế thị trường làm đòn bẩy
Có thể thấy nhiều chương trình trồng cây quy mô lớn trên toàn cầu được xuất
phát từ việc đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng gia tăng các sản phẩm gỗ hoặc
thị trường carbon. Việc tạo ra thị trường cho các sản phẩm liên quan đến cây và
dịch vụ môi trường sẽ tạo động lực kinh tế cho nhiều bên có liên quan mở rộng các
hoạt động trồng cây và trồng rừng.

 Trồng đúng cây, đúng chỗ, đúng mục đích:


Chọn loài cây trồng phù hợp với mục đích, cảnh quan và điều kiện sinh thái,
tập quán canh tác của từng địa phương, từng khu vực cụ thể; ưu tiên trồng cây bản
địa, thân gỗ, đa mục đích, có giá trị bảo vệ môi trường, tác dụng phòng hộ cao, cây
quý, hiếm, mang bản sắc văn hóa địa phương/vùng/miền.

Tại khu vực đô thị, cây xanh được trồng trên vỉa hè đường phố, công viên,
vườn hoa, quảng trường; trong khuôn viên các trụ sở, trường học, bệnh viện, nhà
máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình tín ngưỡng, vườn nhà
và các công trình công cộng khác.

19
Tại khu vực nông thôn, cây xanh được trồng trên đất vườn nhà, hành lang
giao thông, ven sông, kênh, mương, bờ vùng, bờ thửa, nương rẫy; trong khuôn viên
các trụ sở, trường học, bệnh viện, nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, khu chế
xuất, các công trình tín ngưỡng và các công trình công cộng khác.

Đối với rừng đặc dụng, trồng các loài cây bản địa có phân bố tự nhiên trong
hệ sinh thái của rừng đặc dụng đó; đối với rừng phòng hộ, trồng các loài cây có bộ
rễ sâu bám chắc, ưu tiên cây bản địa, sinh trưởng được trong điều kiện khắc
nghiệt và có khả năng chống chịu tốt; đối với rừng sản xuất, trồng các loài cây có
năng suất, chất lượng cao, khuyến khích sử dụng các giống cây sản xuất bằng mô,
hom, kết hợp trồng cây gỗ nhỏ mọc nhanh và cây gỗ lớn dài ngày.

Về địa điểm trồng, với đất rừng phòng hộ, diện tích đất quy hoạch cho phát
triển rừng phòng hộ, trong đó đặc biệt ưu tiên trồng rừng phòng hộ đầu nguồn và
trồng rừng phòng hộ vùng ven biển.Với đất rừng đặc dụng, diện tích đất chưa có
rừng, chưa đủ tiêu chí thành rừng trong phân khu phục hồi sinh thái và phân khu
dịch vụ, hành chính của rừng đặc dụng là vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên,
khu bảo tồn loài - sinh cảnh và khu bảo vệ cảnh quan; diện tích đất được quy hoạch
trồng mới rừng sản xuất.

 Có những chính sách khen thưởng đối với những địa phương, tổ chức, cá
nhân thực hiện tốt việc trồng rừng.

Hình 5.7: Chính sách khen thưởng ở Yên Bái

20
KẾT LUẬN
Trong nhưng năm qua, Việt Nam hứng chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của
thiên tai, hiện tượng thời tiết cực đoan theo chiều hướng ngày càng gia tăng đã để
lại những hậu quả nặng nề. Môi trường bị ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm không khí
với mức độ ngày càng gia tăng ở tốc độ đáng báo động. làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chất lượng cuộc sống của con người cũng như là các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội. Điều đó càng cho thấy rừng có vai trò vô cùng to lớn đối với đời
sống con người, hoạt động sản xuất, môi trường và xã hội. Nhưng nhiều ngườ lại vì
lợi ích trước mắt mà bở qua lợi ích lâu dài mà rừng đã và đang mang lại để khai
thác rừng một cách bừa bãi, lãng phí tài nguyên rừng khiến rừng ngày càng suy
thoái.

Hiện nay giá trị của rừng vẫn chưa được tính toán một cách đầy đủ và ngườ
dân vẫn chưa yên tâm sống bằng nghề rừng cũng như tích cực tham gia quản lý và
sử dụng rừng bền vững. Do đó Chính Phủ cần thiết lập một cơ chế tài chính mới và
bền vững dựa vào chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Đó là căn cứ để xây
dựng một chính sách khuyến khích đủ mạnh để ngăn chặn mất rừng và suy thoái
rừng.

Bảo vệ rừng cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Vị cha già kính
yêu của dân tộc ta đã từng nói: “Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Vì thế chúng
ta cần có trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát triển nguồn tài nguyên quý giá đó.

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] T. c. T. kê, "VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TRỒNG RỪNG KẾT HỢP BẢO VỆ RỪNG
TỰ NHIÊN ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG," 2021.

[2] T. c. T. kê, "SẢN XUẤT CỦA NGÀNH CHẾ BIẾN GỖ VÀ SẢN XUẤT SẢN PHẨM TỪ
GỖ, TRE, NỨA – ĐIỂM SÁNG CỦA KINH TẾ VIỆT NAM," 2021.

[3] Đ. H. N. L. T. H. C. Minh, "RỪNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG," 2021.

[4] B. Đ. t. C. phủ, "Thủ tướng phê duyệt Đề án trồng 1 tỷ cây xanh," Báo Điện tử Chính
phủ, 2022.

22

You might also like