Professional Documents
Culture Documents
Cuphaphoc - (Phan 1) (NH 2023-2024)
Cuphaphoc - (Phan 1) (NH 2023-2024)
1. Diệp Quang Ban. (2005). Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: NXB.
Giáo dục.
2. Diệp Quang Ban. (2009). Ngữ pháp Việt Nam, Hà Nội: NXB.
Giáo dục.
4. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) – Đoàn Thiện Thuật – Nguyễn Minh Thuyết
(2011), Dẫn luận Ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
5. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng, Nxb.
KHXH, TP. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
7. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Lương (2016), Câu tiếng Việt, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
9. Hoàng Trọng Phiến (1997), Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, Nxb. ĐH và THCN,
Hà Nội.
10. Nguyễn Kim Thản (2008), Cơ sở Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. KHXH, Hà Nội.
11. Tổ Ngôn ngữ học – Đại học Tổng hợp (1961), Khái luận Ngôn
ngữ học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
12. Ủy ban khoa học xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb.
KHXH, Hà Nội.
BÀI 1:
Sơ lược về lịch sử
nghiên cứu cú pháp tiếng Việt
Căn cứ vào sự xuất hiện và tồn tại của những khuynh hướng nổi
trội cùng với những tác giả, công trình tiêu biểu có thể chia lịch sử
nghiên cứu cú pháp tiếng Việt thành 3 giai đoạn:
(1) Trước năm 1945;
(2) Từ sau 1945 đến trước1990;
(3) Từ 1990 đến nay.
1.1. Trước năm 1945
Qua con mắt của các tác giả phương Tây làm từ điển đối chiếu thì
tiếng Việt có một số đặc điểm sau:
-Từ không biến đổi hình thái khi được sử dụng trong câu, không có
cơ sở (hình thái học) để xác định từ loại và do đó có thể xem TV là
một ngôn ngữ không có từ loại;
-Trật tự từ trong câu đóng vai trò rất quan trọng, quyết định đến việc
hiểu nghĩa của câu.
-Trong “Từ điển Việt - Bồ - La (1651)” của A. De Rhodes, ông có viết:
+ Luật thứ nhất: Chủ từ phải đi trước động từ, bằng không nó không
còn là chủ từ của động từ ấy nữa (…);
+ Luật thứ hai: Danh từ theo sau động từ là bổ sung của động từ ấy
(…);
+ Luật thứ ba: Trong 2 danh từ đặt liền nhau, thì tiếng thứ hai chỉ gián
tiếp.
(Dẫn theo Nguyễn Minh Thuyết)
- Những năm 40 của TK trước, các tài liệu liên quan đến cú pháp
TV hầu hết do các học giả nước ngoài viết (P. G Vallot, R.
Bulteau,…) thể hiện “cái nhìn châu Âu”.
- Ngữ pháp TV lúc này mang tinh thần “dĩ Âu vi trung”.
Tiêu biểu: Các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm
với “Việt Nam văn phạm” (1940): theo quan điểm “từ bản vị”.
Ở giai đoạn trước 1945, các tác giả thường gò cấu trúc câu tiếng
Việt theo khuôn mẫu cấu trúc câu tiếng Pháp.
Các tên gọi thành phần câu tiếng Việt chẳng qua là sự sao phỏng
tên gọi các thành phần câu tiếng Pháp.
Tiếng Pháp:
Sujet – chủ từ;
Verbe – động từ; “Gọt chân cho vừa giày”
Complément – túc từ.
1.2. Từ sau 1945 đến trước 1990
Nghiên cứu cú pháp phát triển ở cả hai miền. Một số tác giả tiêu
biểu:
- Phan Khôi với “Việt ngữ nghiên cứu” (1955): Phan Khôi phê phán
khuynh hướng “từ bản vị” (theo NP phương Tây) và khẳng định
khuynh hướng “cú bản vị” qua việc tiếp nhận cuốn “Tân ước quốc
ngữ văn” của tác giả Trung Quốc là Lê Cẩm Hy Sự chuyển đổi này
là một bước ngoặt đáng ghi nhận trong nghiên cứu cú pháp TV.
Phan Khôi cho rằng, với một thứ tiếng không có sự biến đổi hình thái từ như
TV mà theo “từ bản vị” “mà sách văn pháp lại cứ bắt đầu chia ra từ loại thì
thật xa với sự thật quá, nếu không nói là vô lý”.
Tác giả đề nghĩ theo “cú bản vị”, tức “lấy tổ chức câu làm gốc, làm thành
phần chính trong sự dạy văn pháp. Bắt đầu từ câu ngắn đến câu dài, từ câu
đơn đến câu ghép,… Trong khi ấy mới tùy ở vị trí và chức năng của từng từ
mà quy nó vào loại nào và nhân đó mà nhìn rõ công dụng của nó”. Theo
khuynh hướng này còn có Phan Ngọc, Nguyễn Lân,v.v..
Từ bản vị: chủ từ, động từ, túc từ,...
Cú bản vị: chủ ngữ, vị ngữ, bổ túc ngữ,...
Là bước ngoặt đáng ghi nhận trong phân tích cấu trúc câu tiếng Việt.
- Lê Văn Lý (1948,1968): Là người đầu tiên tuyên bố từ bỏ việc đi theo
ngôn ngữ châu Âu để nghiên cứu TV; cũng là người đầu tiên mang
phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc (theo lối chức năng Praha) đến
với lĩnh vực nghiên cứu cú pháp (Trường phái này quan niệm ngôn ngữ
như một hệ thống chức năng có tính cấu trúc, là tư tưởng khoa học chủ
đạo của CLB Praha).
+ 1948: Lê Văn Lý viết “Le parler Vietnamien”
+ 1968: Lê Văn Lý với “Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam”: Đề cập đến nhiều
vấn đề NNH trên diện rộng, trong đó có vấn đề Âm vị học, trình bày các từ
loại, các hạng mục ngữ pháp, các kiểu câu,…
Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Giáo dục ở Sài gòn năm 1968 đã
chuyển dịch và ấn hành những nghiên cứu về ngữ pháp tiếng
Việt chủ yếu từ trong Luận án Tiến sĩ Quốc gia “Le Parler
Vietnamien” của Lê Văn Lý sang tiếng Việt mang tên là “Sơ
thảo ngữ pháp Việt Nam”.
+ Lê Văn Lý đề xuất tiêu chí “GIÁ TRỊ KẾT HỢP” (“khả năng phối hợp”) để
phân chia từ loại (“coi tiếng nào có thể đứng trước hay đứng sau tiếng
nào”);
+ Tác giả cũng dùng một số hư từ gọi là từ chứng thử đem kết hợp với các
từ TV để chia từ TV ra các loại: A, B, B’ và C (tương đương: danh từ, động
từ, tính từ và hư từ).
VD: - AAAAAA: Sáng cháo gà tối cháo vịt
- AB: Nước chảy
- AB’: Nhà cao
- AC: Xe tôi
- ABB: Chó muốn chạy
- CCCCCCCCC: Dù sao chăng nữa cũng tại chúng mày cả
- …
*Về mặt phương pháp luận:
- Thời kỳ này nổi lên lý thuyết “từ tổ” (cụm từ), tiêu biểu là Nguyễn Kim
Thản. Ông cho rằng, cần phân biệt “thành phần phụ” của câu với thành
phần phụ của từ tổ:
+ định ngữ và bổ ngữ không có tư cách thành phần câu. Chúng chỉ là
thành phần phụ của các từ tổ danh từ (danh ngữ) và từ tổ động từ (động
ngữ) khi các từ tổ này tham gia cấu tạo câu.
+ Chỉ thừa nhận “trạng ngữ và khởi ngữ” là thành phần phụ đích thực
của câu TV (không bị bao hàm trong các từ tổ đóng vai trò Chủ ngữ - Vị
ngữ trong câu).
Vấn đề câu đơn, câu ghép được nhìn nhận lại.
VD: Người tôi gặp hôm qua là nhà văn.
The person I met yesterday is a writer.
Câu đơn. Vì “tôi gặp hôm qua” được xem là thành tố phụ của từ tổ
danh từ “người”.
Về sau, vấn đề này còn được xem xét lại và thể hiện qua sự phân biệt
câu ghép, câu phức.
- Ủy ban Khoa học xã hội (1983): Công trình Ngữ pháp tiếng Việt
giản dị, dễ hiểu, dễ vận dụng nhưng cũng rất sâu sắc. Tuy nhiên,
tính chất thỏa hiệp, cố gắng dung hòa các ý tưởng khác được thể
hiện một cách không thực sự nhuần nhuyễn trong đó.
VD: Gạt bỏ bổ ngữ ra khỏi danh sách thành phần câu, áp dụng Đề -
Thuyết là ảnh hưởng của phân tích câu theo tầng bậc hạt nhân (do
Lưu Vân Lăng khởi xướng).
Một số tác giả tiêu biểu khác:
- Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê với “Khảo luận về ngữ pháp
Việt Nam” (1963);
- L. C Thompson với phương pháp cấu trúc theo lối miêu tả (1965);
- Lê Xuân Thại với những vấn đề về phân tích câu theo cụm từ
(1969);
- Lưu Vân Lăng với quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân
(1970);
- V. X Panfilov với xu hướng hình thức hóa trong nghiên cứu cú
pháp TV (1980);
- Hoàng Trọng Phiến với những vấn đề về câu (1980);
- Lý Toàn Thắng và lý thuyết phân đoạn thực tại (1981);
- Nguyễn Tài Cẩn với “Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng – Từ ghép –
Đoản ngữ” (1981);
-Hoàng Tuệ với “Giáo trình về Việt ngữ” (1962) và “Ngữ pháp tiếng
Việt” (1983);
-Trần Ngọc Thêm và sự ra đời của Ngữ pháp văn bản (1985);
-…
1.3. Từ sau 1990 đến nay
- Ngữ pháp tiếng Việt do tiếp nhận tư tưởng của Ngữ pháp chức
năng (Functional Grammar) nên đã có nhiều biến chuyển.
- Các lý thuyết của NPCN: lý thuyết ba bình diện của câu, về vị từ -
tham thể (miêu tả nghĩa của câu), phân tích câu theo Đề - Thuyết,
tiền giả định (Presupposition),…được vận dụng vào nghiên cứu
NPTV.
3 bình diện của câu/ Mô hình tam phân (bắt nguồn từ lý luận ký hiệu học
của C. S Peirce) gồm các bình diện:
(1) Bình diện nghĩa học (Semantics): Thường được hiểu theo nghĩa hẹp,
giới hạn trong phần nghĩa của câu nói được tách ra một cách ước định
ra ngoài văn cảnh và tình huống phát ngôn.
(2) Bình diện cú pháp (Syntactics) (Hoặc kết pháp): Gồm những phương
tiện hình thức để biểu hiện các lớp nghĩa; trật tự các yếu tố; cách đánh
dấu các biên giới từ, ngữ, tiểu cú, cách đánh dấu tình thái và ngữ khí,…
trong những chức năng khu biệt và cấu tạo từ, ngữ, câu, tập hợp câu và
ngôn bản (văn bản).
(3) Bình diện dụng pháp (Pragmatics): Bình diện này thuộc mặt nội dung
được câu biểu đạt (“sở biểu” của F. de Saussure), nó gồm tất cả những
gì hiện rõ ra khi câu được nói ra do một người cụ thể trong một tình
huống cụ thể, hay được đặt trong một văn cảnh nhất định. (Mqh giữa
ngôn ngữ với người sử dụng)
Nguồn http:s://coggle-downloads-production.s3.eu-west-
1.amazonaws.com/4d08610c23448fea02a93eb1690457877b05b64690ddf135fa2
d8edacb2c2224/phn_loi_cc_loi_v_t_v_tham_th_trong_cu_trc_ngha_miu_t_ca_cu.
png?AWSAccessKeyId=ASIA4YTCGXFHOVKYZ5X3&Expires=1634709196&Sig
nature=bgPV%2BaLMvEFWJJNu5bUGZrKbJgQ%3D&x-amz-security-
token=IQoJb3JpZ2luX2VjEEAaCWV1LXdlc3QtMSJIMEYCIQCis8N2fn84dE%2B9
pKTDwLlpw2RuWdPh7WM7pqKJI0SgGdinRwf261XIhH3qY%3D
Phân tích câu theo Đề - Thuyết:
Cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt tương ứng với cấu trúc của mệnh đề
(ngôn từ thực hiện ý định tác động của người nói thông qua việc truyền đạt
những mệnh đề - những nhận định tối giản) tương ứng với cấu trúc của
mệnh đề.
Nó gồm hai phần Đề và Thuyết, ứng với Sở đề (Subjectum) và Sở thuyết
(Praedicatum) của mệnh đề. Tính hoàn chỉnh của câu có được là do câu đã
thể hiện được cấu trúc của mệnh đề, khiến cho câu có thể tự mình làm thành
một phát ngôn có giá trị chân lý, có tác dụng ngôn trung, và được người nghe
tiếp thu như một lời nói trọn vẹn.
(NPCN – Câu trong tiếng Việt, CXH, tr.22)
(NPCN – Câu trong tiếng Việt, CXH, tr.22)
Tiền giả định là điều người viết/ người nói giả định rằng người
nhận thông điệp coi như đã biết rồi.
Slogan này giả định điều gì?
- Ngoài Mercedes, còn có nhiều nhà sản xuất ô tô khác (so sánh
hơn)
- Xe Mercedes có chất lượng siêu việt hơn những đối thủ khác
- Hoặc là bạn mua 1 siêu phẩm, hoặc là đừng mua còn hơn.
- Cao Xuân Hạo: “Sơ thảo ngữ pháp chức năng” (1991).
- Diệp Quang Ban: “Ngữ pháp TV” (2000), “Ngữ pháp tiếng Việt”
(2004), “Ngữ pháp Việt Nam – phần Câu” (2004).
Cần nghiên cứu ngôn ngữ khi con người sử dụng trong giao tiếp.
Bác bỏ C-V, cho rằng chỉ dùng trong ngôn ngữ châu Âu. Cấu trúc
cơ bản của câu TV là Sở đề - (Đề) – Sở thuyết (Thuyết).
Khẳng định vai trò hết sức quan trọng của một nền NNH về lời nói
bên cạnh nền NNH về ngôn ngữ và mối quan hệ biện chứng giữa nó.
GS Cao Xuân Hạo là một bản lĩnh
trí thức đáng kính trọng. Vượt qua
mọi khó khăn, kể cả những ứng xử
không đúng, Anh vẫn có những
cống hiến khoa học xứng đáng với
ngành ngữ học Việt Nam, với việc
cống hiến cho người đọc những
thành tựu văn học nước ngoài qua
sự nghiệp dịch thuật. Tinh thần của
anh sống mãi.
(Thủ tướng Võ Văn Kiệt ghi trong sổ tang)
Nhà nghiên cứu Pháp, Jean-Pierre Chambon khi điểm một nghiên cứu của Cao Xuân
Hạo đã thốt lên rằng chính hướng nghiên cứu của ông Hạo sẽ đi tới một cuộc cách mạng
Copernic thực sự của ngữ học hiện đại.
Systemic Functional Grammar
Bài 2:
TỔNG QUAN VỀ CÂU TIẾNG VIỆT
2.1. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu Cú pháp học
2.2. Về câu tiếng Việt
2.3. Các bình diện nghiên cứu câu
2.4. Các thành phần câu
2.5. Phân loại câu tiếng Việt
2.1. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
Cú pháp học (CPH)
- CPH nghiên cứu các quy tắc, cách thức dùng từ liên kết
thành cụm từ (cú pháp cụm từ) và thành câu, các kiểu câu
(cú pháp câu); tác dụng và địa vị của từ trong câu, quan hệ
giữa các thành phần câu và quan hệ giữa các câu với nhau.
- Mỗi ngôn ngữ có quy luật đặt câu, quy luật biến đổi riêng.
Muốn nghiên cứu các quy tắc đặt câu của một NN thì phải
nắm những điều căn bản về cú pháp.
Cụm từ (Cú pháp cụm từ)
“Các tổ hợp bao gồm hai thực từ có quan hệ ngữ pháp với
nhau trở lên gọi là cụm từ” (“Dẫn luận NNH”, Nguyễn Thiện
Giáp – CB).
Cụm từ phức tạp hơn nhưng hoạt động trong lời nói như
một từ.
Phân loại:
- Dựa vào mức độ cố định:
+ Cụm từ cố định
+ Cụm từ tự do
- Dựa vào quan hệ chính giữa các thành tố trong cụm
từ:
+ Cụm từ đẳng lập
+ Cụm từ chính phụ
+ Cụm chủ - vị (cụm từ tường thuật, mệnh đề, các
thành tố có quan hệ chủ - vị)
2.2. Về câu tiếng Việt
2.2.1. Khái niệm
Hiện nay, các nhà Việt ngữ học có nhiều cách hiểu khác nhau
về chức năng của câu.
Dưới ảnh hưởng của cách tiếp cận chức năng, nhiều nhà
nghiên cứu nói đến tính đa chức năng, đa bình diện của câu.
Theo đó, câu có chức năng biểu hiện và chức năng thông
báo (liên nhân hay trao đổi).
- Câu là đơn vị ngôn ngữ được nghiên cứu có thể nói là
sớm nhất, từ thời cổ đại:
+ Các nhà ngữ pháp học Ấn Độ giải thích: “Câu là đơn vị cơ
bản của ngôn ngữ, bởi vì chỉ có câu mới có thể diễn đạt
được tư tưởng”.
+ Thế kỷ III-II TCN, học phái Alexandria định nghĩa: “Câu là
sự tổng hợp của các từ, biểu thị một tư tưởng tương đối trọn
vẹn”.
- Từ cuối TK 19 đến đầu TK 20, các khuynh hướng ngữ học có
định nghĩa về câu như sau:
+ Khuynh hướng Logic – Ngữ pháp (Nga): “Câu là một phán
đoán được biểu thị bằng từ”.
+ Khuynh hướng lịch sử - tâm lý: “Câu (ngữ pháp) tuyệt nhiên
không trùng và không song song với phán đoán logic”.
+ Khuynh hướng hình thức ngữ pháp: “Câu là một tổ hợp từ
với ngữ điệu kết thúc”.
Xem thêm:
Cú có cấu trúc Đ-T như câu nhưng khác câu ở chỗ “nó
không phản ánh một hành động nhận định, được thực hiện
ngay khi phát ngôn để đưa ra một mệnh đề, mà biểu thị một
cái gì được coi là có sẵn”.
Hai tác giả cho thấy sự khác biệt nhưng lại không phân
biệt chúng về mặt cấu trúc, khi cho rằng cả hai đơn vị đều
có cấu trúc Đề - Thuyết.
Ví dụ:
1) Khi thế giới càng phức tạp, chúng ta sẽ càng trở về với những giá trị
giản đơn nhất.
2) Hình ảnh đẹp có thể giúp tăng độ hứng thú đọc nội dung lên đến
80%.
3) Giờ đây, nam tính hay không nam tính, không còn nằm trong sự quan
tâm của tôi. (Nhật Ký: Tôi thích mái tóc dài của mình)
4) Tôi sinh ra và lớn lên ở Nghệ An - mảnh đất của những người coi
trọng danh dự và đạo nghĩa.
VD: (“Xuân của nhân
duyên”, trích trong
“Á-Âu cách một cây
Không phải ngẫu nhiên mà mùa xuân được xem là cầu, tg Đào Diễm
mùa của duyên tình. Con người tin rằng linh khí Trang).
giao hoà của đất trời là thời khắc lý tưởng để cầu
xin và hy vọng một mối lương duyên tốt đẹp. Niềm
tin sâu xa ấy không phải tự nhiên mà có. Nó tựa
vào thần thoại, huyền tích và những phong tục tập
quán cổ xưa trên thế giới.
2.2.2. Các đặc trưng cơ bản của câu TV
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa câu với người sử dụng, giữa
câu với việc sử dụng câu trong một tình huống giao tiếp cụ
thể nhằm phát hiện những ý nghĩa của câu – phát ngôn
trong tình huống cụ thể (nghĩa ngữ dụng của câu).
- Nghĩa ngữ dụng phức tạp, khó xác định hơn nhiều. Phải
đặt trong hoàn cảnh ngữ cảnh giao tiếp, hoàn cảnh sử
dụng câu để xác định.
Ba bình diện nghĩa của câu có mối quan hệ khăng khít
với nhau, tồn tại vì nhau và dựa vào nhau.
Hình thức câu được dùng để biểu thị nội dung nghĩa của
câu; muốn hiểu đúng nghĩa, cần đặt câu trong ngữ cảnh.
2.4. Các thành phần câu tiếng Việt
- Thành phần chính (TP nòng cốt): Thành phần đảm bảo cho
câu được trọn vẹn nghĩa và thực hiện chức năng giao tiếp, cả
trong trường hợp câu tồn tại độc lập, tách biệt với văn cảnh
hoặc hoàn cảnh sử dụng.
- Thành phần phụ: Thành phần nằm ngoài nòng cốt câu. Sự
có mặt của chúng, nhìn chung, không đóng vai trò quyết định
đối với tính trọn vẹn về ý nghĩa và tính tự lập về NP của câu.
2.4.1. Thành phần chính chủ ngữ
Thường được cấu tạo bởi một hay một cụm từ. Thường đứng
trước vị ngữ trong kết cấu chủ - vị (C-V).
a. Chủ ngữ có cấu tạo là một từ
- Trong câu tiếng Việt, CN thường do danh từ, đại từ (nhân
xưng) đảm nhiệm.
VD:
1) Tôi đã đến Đà Lạt nhiều lần.
2) Sách là người bạn quý của mọi người, mọi nhà.
- Các thực từ khác làm CN (nhưng ít được sử dụng)
như: động từ, tính từ, số từ, đại từ phiếm định…
VD:
1) Yêu là chết ở trong lòng một ít.
2) 13 là con số người ta hay kiêng.
3) Hạnh phúc là đấu tranh.
4) Trông về phía sau, đây là đền Quán Thánh, kia là
chùa Trấn Quốc.
b) Chủ ngữ có cấu tạo là một cụm từ
Gồm nhiều từ có quan hệ với nhau.
b1) Cụm từ chính – phụ
- Cụm danh từ:
VD:
1) Một trăm cây bạch dương giống nhau cả trăm.
2) Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không thể hiện rõ nét ý chí
và trí tuệ Việt Nam.
3) Những sợi dây điện buông ơ hờ thành cái thòng lọng.
…
4) Lòng con heo bây giờ chỉ tràn ngập bâng khuâng.
5) Lần đầu tiên, chương trình buổi sáng của đài truyền
hình được khán giả náo nức chờ đợi.
…
- Cụm động từ:
1) Hút thuốc lá là thói quen xấu.
2) Đốt pháo ngày Tết đã trở thành kí ức của thế hệ chúng
tôi…