Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 40

CHƯƠNG IV

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


VÀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu lịch sử
- Sức mạnh của nhân dân là vô cùng to lớn, nhưng chỉ được phát huy khi
được giác ngộ, tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo của một tổ chức cách mạng là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Người nói: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động là rất to lớn, vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo
mới chắc chắn thắng lợi” 1, giai cấp mà không có đảng lãnh đạo thì không làm cách
mạng được.
- Muốn làm cách mạng, trước hết phải có Đảng để “trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”2. Hồ Chí Minh còn khẳng định: cách mạng muốn thắng lợi
phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối, và định phương châm cho
đúng, để khỏi lạc đường. Làm cách mạng là rất gian khổ, phải có chí khí kiên
quyết, phải được tổ chức chặt chẽ. Vì vậy phải có Đảng để tổ chức và giáo dục
nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để giành lấy chính quyền.
- “Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”3.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy
luật phát triển của xã hội, vì Đảng không có mục đích tự thân. Đảng Cộng sản Việt
Nam tận tâm, tận lực phụng sự Tổ Quốc, phụng sự nhân dân, trung thành tuyệt đối
với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác
ngoài lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Mục tiêu phấn đấu của Đảng là độc lập

1
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 9, tr.290
2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 2, tr.267-268
3. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 7, tr.229
cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mọi người.
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam
là người lãnh đạo, tổ chức, thực hiện và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, không có một tổ chức chính trị nào thay thế được. Mọi mưu toan nhằm
hạ thấp hoặc xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuyên tạc
thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, trái với cả lý luận và thực tiễn, đều đi ngược
lại xu thế phát triển của xã hội Việt Nam.
Từ khi Đảng ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách
mạng giành được nhiều thắng lợi to lớn: cách mạng tháng 8/1945 lập nên nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (9 năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng); thắng
lợi của kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược; thành tựu của công cuộc đổi mới
1986 đến nay.
b. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là
sản phẩm của sự kết hợp giữa lý luận chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Nghĩa là khi phong trào công nhân tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở lý
luận cách mạng, điều này thúc đẩy phong trào công nhân phát triển và đến một lúc
nào đó, chính phong trào này đặt ra yêu cầu khách quan là phải có đảng lãnh đạo để
dẫn dắt phong trào tiếp tục phát triển, đi tới chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác -
Lênin trang bị thế giới quan, phương pháp luận cho giai cấp công nhân. Chủ nghĩa
Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân sẽ đưa giai cấp công nhân dần dần ý
thức được trách nhiệm giai cấp và trách nhiệm dân tộc của mình, trở thành lực
lượng tự giác, tự mình trở thành dân tộc. Mác viết: “Giống như triết học thấy giai
cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí
tinh thần của mình”.
Như vậy: Chủ nghĩa Mác-Lênin cung cấp công thức chung về sự ra đời của các
Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, trong mỗi nước khác nhau, sự kết hợp đó là sản phẩm
của lịch sử, được thực hiện bằng con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian
và thời gian. Đây là cơ sở lý luận để hình thành quan niệm Hồ Chí Minh về sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Quan điểm Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự ra
đời của Đảng Cộng sản, đã đã khẳng định tính đúng đắn của nó nhưng đồng thời
Người cũng thấy hạn chế là: Luận điểm này chưa tính đến các quốc gia lạc hậu,
kém phát triển nơi có phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ và chiếm ưu thế. Trong
các nước đó, bên cạnh phong trào công nhân, phong trào yêu nước của các tầng lớp
nhân dân chiếm vị trí vô cùng to lớn. Do đó, trên cơ sở vận dụng nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định: Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Trong bài diễn văn kỷ niệm 30 năm
hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản
Đông Dương vào đầu năm 1930. Như vậy, Hồ Chí Minh đã bổ sung vào công thức
của Lenin yếu tố thứ 3 cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là phong
trào yêu nước.
Điều này thể hiện:
- Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với
cách mạng nói chung và đối với sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của giai cấp
công nhân. Chủ nghĩa Mác-Lênin cung cấp cơ sở lý luận cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
- Người đánh giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt
Nam trong sắp xếp lực lượng.
Giai cấp công nhân lúc bấy giờ tuy còn nhỏ bé, phong trào công nhân còn
yếu nhưng họ vẫn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng. Vai trò lãnh đạo cách mạng
không phải có số lượng giai cấp công nhân quyết định. Họ là giai cấp lãnh đạo cách
mạng vì:
+ Đó là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, đại diện cho phương thức
sản xuất mới, gánh trách nhiệm đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc để xây dựng
một xã hội mới.
+ Đó là giai cấp có tinh thần cách mạng kiên quyết, triệt để nhất, có tổ chức,
kỷ luật cao.
+ Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng.
- Phong trào yêu nước là một thành tố quan trọng trong việc ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thực tế, chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân đã được
Lênin giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vậy chủ nghĩa Mác-Lênin có kết
hợp được với phong trào yêu nước hay không? Đây là vấn đề lớn của phong trào
cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh bằng nhãn quan chính trị sắc bén và sự hiểu biết
sâu sắc về bản chất chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào yêu nước Việt Nam đã
khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin hoàn toàn có thể kết hợp được với phong trào yêu
nước ở Việt Nam vì:
+ Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Phong trào yêu nước Việt Nam là phong trào rộng lớn nhất có trước phong
trào công nhân từ nghìn năm lịch sử. Nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dân
tộc đứng lên chống kẻ thù. Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
+ Phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước vì nó đều có
mục tiêu chung.
Phong trào công nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào yêu nước.
Cơ sở của sự kết hợp từ đầu, liên tục, chặt chẽ giữa hai phong trào này do mâu thuẫn cơ
bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với bọn đế
quốc và tay sai, cả hai phong trào đều có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, làm cho
nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước giàu mạnh. Hơn nữa, chính bản
thân phong trào công nhân, xét về nghĩa nào đó, lại mang tính chất của phong trào yêu
nước, vì phong trào công nhân không những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn
chống lạo ách áp bức dân tộc. Khác với những người cộng sản phương Tây, Hồ Chí
Minh và những người cộng sản Việt Nam đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp.
+ Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân ngay từ đầu. Đầu
thế kỷ XX, nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 90% dân số, họ là bạn đồng
minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam, do điều kiện
lịch sử chi phối, không có công nhân nhiều đời mà họ xuất thân trực tiếp tự người
nông dân nghèo. Hai giai cấp này hợp thành đội quân chủ lực của cách mạng.
+ Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phong trào yêu nước Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn
đậm nét bởi vai trò của trí thức. Tuy số lượng không nhiều, nhưng trí thức Việt
Nam lại là những người châm “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước giải phóng
dân tộc, cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước. Trong lịch sử Việt
Nam, một trong những nét nổi bật nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước
mà thành viên và những người lãnh đạo tuyệt đại đa số là trí thức. Họ cũng rất nhạy
cảm, chủ động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió mới” của tất cả các trào lưu
tư tưởng trên thế giới vào Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, khi Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam thì cách mạng Việt Nam từ
1925 đã có sự chuyển hướng mạnh mẽ theo xu hướng vô sản. Khi phong trào lên cao đã
đòi hỏi phải có Đảng tiên phong dẫn đường. Đáp ứng đòi hỏi khách quan đó, ngày
3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng
Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội.
Quy luật về sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam là một luận điểm
cực kỳ sáng tạo, có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với cách mạng nước ta mà còn ảnh
hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Với sự sáng tạo và phát triển này
cho chúng ta một nhận định rằng: Quan điểm về sự hình thành Đảng cộng sản của
Hồ Chí Minh vừa quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin về sự ra đời một Đảng cộng sản,
vừa phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa, kinh tế lạc hậu chậm phát triển, nơi
có truyền thống đấu tranh yêu nước lâu đời của nhân dân, nơi có số lượng giai cấp
công nhân còn ít ỏi, nhưng đã sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và có mối quan hệ
chặt chẽ với phong trào yêu nước ngay từ đầu.
Quan điểm này cũng thể hiện sự gắn bó vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc
ngay trong việc thành lập Đảng: Ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chủ nghĩa
Mác-Lênin không những thâm nhập vào giai cấp công nhân mà điều hết sức quan
trọng là thâm nhập vào dân tộc, vào phong trào yêu nước của đông đảo tầng lớp
nhân dân thì mới cắm rễ trên mảnh đất hiện thực, mới có sức sống bền vững và
mạnh mẽ, mới làm cho giai cấp công nhân trở thành dân tộc.
2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh
a. Đảng ta là đạo đức, là văn minh
* Đạo đức của Đảng được thể hiện:
- Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt 1930: Đánh đổ bọn đế quốc xâm
lược và phong kiến tay sai, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
- Đường lối, chủ trương, chính sách và hoạt động thực tiễn của Đảng phải
phục vụ lợi ích nhân dân.
+ 1930: tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc chia cho dân cày nghèo, bãi bỏ
sưu thuế cho dân cày nghèo; thi hành luật ngày làm 8 giờ,…
+ “Dân nghe theo là mình mạnh”, vì vậy cán bộ, đảng viên phải luôn “hiểu
nguyện vọng của nhân dân, sự cực khổ của nhân dân. Hiểu tâm lý của dân, học
sáng kiến của dân”. Những việc nhân dân không muốn làm hoặc chưa hiểu thì cán
bộ, đảng viên phải giải thích cho dân. “Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin,
phải làm gương cho dân. Muốn cho dân phục phải được dân tin, muốn cho dân tin
phải thanh khiết”2. Thanh khiết chính là biểu hiện trong sáng về đạo đức, là cốt
cách mà cán bộ, đảng viên phải luôn tu dưỡng và rèn luyện suốt đời.
+ Di chúc: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi
đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó
cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
- Đội ngũ đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng, luôn tu dưỡng, rèn
luyện, phấn đấu cho lợi ích của đất nước và nhân dân.
+ “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không
sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của
dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá
nhân mình. Khi cần thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc.
Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”
+ Có thể những người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch
không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ,
mất lập trường, sa vào tội lỗi. Cho nên bom đạn của địch không nguy hiểm bằng
“đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy. Muốn giữ vững
nhân cách, tránh khỏi hủ hóa, thì phải luôn thực hành 4 chữ mà Bác thường nói. Đó
là: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
+ Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự

2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.69
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”
* Đảng văn minh (Đảng cách mạng chân chính) thể hiện qua:
- Đảng đại diện cho trí tuệ, danh dự của dân tộc
- Đảng ra đời là tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển tiến bộ của dân tộc
và nhân loại. Hoạt động của Đảng phù hợp với quy luật vận động của xã hội, đều
lấy lợi ích tối cao của dân tộc là trọng tâm.
- Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lãnh đạo giành
độc lập dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh chú trọng việc phòng và chống các tiêu cực trong điều kiện
Đảng cầm quyền.
- Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Đội ngũ đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong
công tác và trong cuộc sống hàng ngày.
- Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động vì hòa bình, hữu nghị, hợp
tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
b. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng
* Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động.
- Trong “Đường cách mệnh” Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu bằng một câu của
Lenin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động … Chỉ có
theo cách mệnh tiền phong Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh
tiền phong”.
+ Theo Người: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
- “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”, “phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin. Đây chính là học thuyết về sự giải phóng con người, nhân dân
lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người”.
- Theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác- Lênin có vai trò là “Mặt trời soi sáng”
cho cách mạng Việt Nam, là cái cẩm nang thần kỳ để giải quyết các công việc cho
đúng đắn. Hồ Chí Minh ví vai trò của lý luận đối với đảng như vai trò của trí khôn
đối với con người, như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi.
- Trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
lưu ý không rập khuôn, máy móc, giáo điều, lệ thuộc vào sách vở, mà cần:
+ Thứ nhất, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin
phải luôn phù hợp với từng đối tượng.
+ Thứ hai, việc vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin phải luôn luôn phù hợp với
từng hoàn cảnh.
+ Thứ ba, bên cạnh việc kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin, cần phải tổng kết
kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác - Lênin những nội dung mới.
+ Thứ tư, Đảng phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
* Tập trung dân chủ
- Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” “và dân
chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau, là hai yếu tố của một nguyên tắc. Tập
trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung.
- Tập trung là thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của tổ
chức Đảng. “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người”.
- Dân chủ là của “của quý báu của nhân dân”, là thành quả của cách mạng.
Tất cả mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Phải
phát huy dân chủ nội bộ nếu không sẽ suy yếu từ bên trong.
- Mối quan hệ: Dân chủ để đi đến tập trung chứ không phải dân chủ theo
kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung trên cơ sở dân chủ chứ không phải tập
trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền. “Khi nguyên tắc tập trung dân
chủ bị vi phạm, sẽ làm cho Đảng suy yếu, nội bộ Đảng mất đoàn kết, đường lối,
chủ trương của Đảng lệch lạc, sai lầm, uy tín của Đảng bị giảm, Đảng sẽ dần mất
quyền lãnh đạo đối với quần chúng.
* Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
- Đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, là sự biểu hiện của nguyên tắc tập
trung dân chủ.
- Tập thể lãnh đạo mới huy động được toàn bộ trí tuệ của đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Một người dù tài giỏi đến
mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của vấn đề, cũng không thể thấy hết được
mọi chuyện, hiểu hết được mọi việc. Do vậy cần phải có nhiều người góp kinh
nghiệm thì vấn đề mới được rõ mọi mặt và giải quyết được chu đáo. Ý nghĩa tập
thể lãnh đạo rất đơn giản, rõ rệt: “khôn bầy hơn khôn độc”, đó là chân lý. Lãnh đạo
không tập thể sẽ dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, kết quả là hỏng việc.
- Cá nhân phụ trách vì, “Việc gì đã bàn kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng
rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách kế hoạch đó
mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”, tránh bừa bãi, lộn
xộn, vô chính phủ dễ hỏng việc. Không có cá nhân phụ trách sẽ đi đến cái tệ bừa
bãi, lộn xộn, vô chính phủ, kết quả cũng là hỏng việc. Hiểu một cách đơn giản,
không cá nhân phụ trách như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
- Mối quan hệ: Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với
nhau, có mối quan hệ mật thiết, không được máy móc. Tuy nhiên không phải việc
gì vụn vặt cũng đưa ra bàn bạc, chẳng khác gì khai hội mà hết ngày giờ. Do đó việc
quan trọng mới cần tập thể quyết định. Cá nhân phụ trách: phải cẩn thận giải quyết
đúng hướng tập thể, phải chịu trách nhiệm. Phải khắc phục tệ độc đoán, chuyên
quyền, đồng thời chống cả tình trạng dựa dẫm tập thể, không dán quyết đoán,
không dám chịu trách nhiệm.
* Tự phê bình và phê bình:
- Đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển đảng, là vũ khí sắc
bén để rèn luyện đảng viên, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
- Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người, mỗi tổ chức nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi. Người khẳng
định: “Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm đó là một đảng hỏng. Một đảng có gan
thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm
đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách để sửa chữa khuyết điểm
đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
- Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ:
Phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày; phải thẳng thắn,
chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu diếm và cũng không thêm bớt
khuyết điểm; “phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”, tránh lợi dụng phê bình
để nói xấu nhau, bôi nhọ nhau, đả kích nhau...
* Kỷ luật nghiêm minh và tự giác
- Cùng với tập trung dân chủ, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác làm
cho Đảng thật sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, đưa cách mạng đến thắng lợi
cuối cùng.Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý
thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
- Nghiêm minh là thuộc về tổ chức đảng, kỷ luật đối với mọi đảng viên
không phân biệt. Mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng.
- Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ đảng viên đối với Đảng. Kỷ luật
này do lòng tự giác của họ về nhiệm vụ đối với Đảng. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật
đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tuân theo nguyên tắc tổ
chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng. “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục
tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật đảng, mà cả kỷ luật của đoàn thể nhân dân và của
cơ quan chính quyền cách mạng”.
* Đoàn kết thống nhất trong Đảng
- Đây là nguyên tắc quan trọng của Đảng vô sản kiểu mới. Đưa lại sức mạnh
cho Đảng, là then chốt của thành công.
- Theo Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta,
của nhân dân ta... phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”.
- Cơ sở để đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của
Đảng, điều lệ Đảng.
- Để đoàn kết thống nhất trong Đảng, phải: Dựa trên mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, dựa trên đường lối, chủ trương,dựa trên lợi ích giai cấp, nhân dân, dân tộc;
Mở rộng dân chủ nội bộ; Thường xuyên tự phê bình và phê bình; Tu dưỡng đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng khối đoàn kết toàn Đảng,
toàn dân. Người nhấn mạnh: “Ngày nay sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn
bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.
* Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn
- Để xứng đáng với một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của dân tộc, Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn, và
đổi mới bản thân mình. Mục đích của việc thường xuyên phải tự đổi mới và chỉnh
đốn là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt: chính trị,
tư tưởng và tổ chức, làm cho đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng
lực trước những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhận định: Bên cạnh những đảng viên xứng đàng thì vẫn có
một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng:
+ họ hờ hững như những người không có lý tưởng, đến đâu hay đến đó…
+ Họ ít gắn bó với tổ chức, không tin ở lực lượng trí tuệ của tập thể. Họ sống
và làm việc một cách riêng rẽ, không đoàn kết và hợp tác với người khác.
+ Hễ có đôi chút hiểu biết, đôi chút thành công thì tự cao tự đại, vênh vang
kiêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người.
+ Ở cương vị phụ trách thì tự cho mình có quyền hơn hết thảy, định đoạt mọi
việc, ở ngành nào, địa phương nào thì coi đó như một giang sơn, không biết đến lợi
ích toàn cục.
+ Họ coi thường những quyết định của tổ chức, họ là những “ông quan liêu”,
chỉ thích dùng mệnh lệnh đối với đồng chí và nhân dân.. Số người đó coi Đảng như
một cái cầu thang để thăng quan, phát tài. Họ không quan tâm đến đời sống của
nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng mỗi đồng tiền,
hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương lãng
phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa, hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, truỵ
lạc, thậm chí sa vào tội lỗi”. Phải chỉnh đốn để tẩy rửa tất cả những lỗi lầm sai trái
ấy.
- Mỗi đảng viên đều chịu ảnh hưởng của cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái
dở, do đó, cần phải phát huy cái tốt, lọc bỏ cái xấu bằng việc rèn luyện thường
xuyên, chính đốn Đảng.
- Trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền thì công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng càng cần được nhấn mạnh, phải được tiến hành thường xuyên hơn.
+ Vì theo Hồ Chí Minh, quyền lực có tính hai mặt: một mặt, nó có sức mạnh
to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng; mặt khác,
quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị tha hoá, biến
chất, tham quyền lực, lộng quyền,… Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh
đốn, đổi mới để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi, tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá, biến
chất gây nên.
+ Nhận thức đúng sự tác động qua lại giữa môi trường xã hội và vai trò lãnh
đạo của Đảng, đặc điểm phát triển tâm lý, nhân cách của cán bộ, đảng viên, Hồ Chí
Minh quan niệm: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến, ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”.
+ Người nhắc nhở: sau kháng chiến chống Mỹ thành công, việc cần phải làm
trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ
đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho minh, toàn tâm toàn ý phục vụ
nhân dân.
* Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân
- Mối quan hệ khăng khít giữa Đảng và nhân dân được thể hiện: Đảng vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
“Đảng lãnh đạo”: tức là Đảng là tổ chức lãnh đạo duy nhất đối với toàn bộ xã
hội.
+ Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể nhân dân Việt Nam nhằm đưa lại
độc lập cho dân tộc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Muốn vậy Đảng phải có tư
cách, phẩm chất, năng lực cần thiết. Vì “quần chúng chỉ quý mến những người có
tư cách, đạo đức”, “Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng
rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng
mới giành được địa vị lãnh đạo”.
+ Đảng lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục,
giác ngộ quần chúng, “phải đi theo đường lối quần chúng, không được quan liêu,
mệnh lệnh và gò ép nhân dân”. Đồng thời, Đảng phải tập hợp, đoàn kết nhân dân
thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động.
+ Chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo trên tất cả các
mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải quan tâm chăm lo đến đời sống của
nhân dân tư việc nhỏ đến việc lớn: “Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền
kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ
như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”.
+ Để lãnh đạo nhân dân:
Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân
dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân. Bởi “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực
của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”.
Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, mà trước hết dân chủ trong nội bộ
Đảng, để phát huy được mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của quần chúng; lãnh đạo
nhưng phải chống bao biện, làm thay. Đảng phải thông qua nhà nước “của dân, do
dân, vì dân” để thực hiện quyền lãnh đạo đối với toàn xã hội. Do đó, Đảng phải
lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện, mà trước hết là lãnh đạo xây dựng pháp luật
để quản lý, điều hành xã hội. Đảng phải thường xuyên coi trọng giáo dục, đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt động trong bộ máy nhà nước, luôn
đảm bảo cho Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Để thực hiện đầy đủ chức năng lãnh đạo, Đảng phải thực hiện chế độ kiểm
tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
“Đảng là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
+ “Đầy tớ” không có nghĩa là tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần chúng mà là
“tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân
dân”. Người nhấn mạnh: “Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì
hại cho dân, thì phải hết sức tránh”3.
+ Người sử dụng cụm từ “đầy tớ trung thành” là để nhắc nhở và chỉ rõ vai
trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều phải
quan tâm thực sự đến lợi ích của nhân dân, tận tụy với công việc, gương mẫu trước
nhân dân, thường xuyên tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa; Phải làm cho dân
tin, dân phục để dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. Mỗi cán bộ, đảng viên đều là “công
bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”2.
+ Là đầy tớ của nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn đòi hỏi mỗi cán
bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ; thực sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; nắm vững
và thực hiện tốt quan điểm, đường lối của Đảng và phải tích cực tuyên truyền vận
3
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.88
2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, tr.56
động quần chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi cuối cùng;
học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng.
+ Người phê bình những cán bộ, đảng viên vác mặt quan cách mạng xâm
phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, “lãnh đạo” và “đầy tớ” là hai khái niệm được Hồ Chí Minh sử dụng
trong mối quan hệ biện chứng với nhau vì cùng chung một mục đích là: vì dân.
Làm tốt cả hai vai trò này là cơ sở đảm bảo uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng
không những được ăn sâu, bám chắc trong lòng giai cấp công nhân, mà còn trong
tất cả các tầng lớp quần chúng nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
- Đảng cầm quyền, dân là chủ.
+ Vấn đề cơ bản nhất của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Vấn
đề quan trọng của một chính quyền là chính quyền đó thuộc về ai. Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu kinh nghiệm, lý luận của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới và kết
luận: “Cách mạng rồi thì giao quyền cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
số ít người”4. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng triệt để phải là quyền lực thuộc về
nhân dân.
+ Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của
nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân dân là bản chất, nguyên tắc của chế độ mới, xa
rời nguyên tắc này Đảng sẽ trở nên đối lập với nhân dân. Dân là chủ, Đảng lãnh
đạo, Đảng phải lấy “dân làm gốc”.
+ Đồng thời, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi người dân
phải tích cực tham gia xây dựng chính quyền, làm tròn nghĩa vụ và quyền hạn của
mình. Hồ Chí Minh luôn trăn trở tìm giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện nguyên tắc
dân là chủ, dân làm gốc. Người từng quan niệm:
“Dân là gốc của nước.
Gốc có vững, cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
4
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 2, tr.270
2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 12, tr.557-558
Theo Người, cơ chế ấy chỉ có thể trở thành hiện thực, không bị vi phạm khi
cán bộ, đảng viên còn là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
* Đoàn kết quốc tế:
- Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế với các
đảng anh em, với các tổ chức quốc tế khác.
- Di chúc: mong đảng “sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi
phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”
c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
* Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên
- Tuyệt đối trung thành với Đảng
- Nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương,
nghị quyết của Đảng và thực hiện tốt các nguyên tắc xây dựng Đảng
- Luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng
- Luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt
- Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân
- Luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo
- Có ý thức đấu tranh phòng và chống các biểu hiện tiêu cực, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, trong đó, Người đề cập nhiều nhất, trực tiếp nhất
là suy thoái về đạo đức (tham ô, lãng phí, quan liêu)
* Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
- Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của người cán bộ, Đảng viên.
+ Nhận thức rõ tầm quan trọng của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ
Chí Minh cho rằng, cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian
nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, chủ Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng”.
+ Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Cho nên
người cán bộ phải có đủ đức, đủ tài để phục vụ cách mạng.
- Công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng.
- Yêu cầu của công tác cán bộ:
+ Hiểu và đánh giá đúng cán bộ
+ Chú trọng huấn luyện cán bộ một cách thiết thực và hiệu quả
+ Đề bạt, sắp xếp cán bộ cho đúng
+ Chống địa phương cục bộ
+ Kết hợp cán bộ trẻ và cán bộ cũ
+ Phòng và chống các tiêu cực trong công tác cán bộ (bé cánh, ô dù, tham
nhũng, lợi dụng chức vụ quyền hạn,…)
+ Thường xuyên kiểm tra, giúp đỡ cán bộ.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN,
DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
1. Nhà nước dân chủ
a. Bản chất giai cấp của Nhà nước
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu
tranh giai cấp xuất hiện, do đó nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó
bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là
phi giai cấp, không có nhà nước nào đứng trên giai cấp. Như vậy không phải lịch
sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại mãi mãi.
* Nhà nước ta là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nó luôn mang
bản chất giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”5.
Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta thể hiện:

5
Sđd, t.9, tr.586
- Một là, nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo. Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước là:
+ Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối, quan điểm để Nhà nước
thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên
của mình trong bộ máy, cơ quan Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
- Hai là, bản chất giai cấp của nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng đưa đất
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên
tiến”.
- Ba là, nguyên tắc tổ chức cơ bản của nhà nước ta là nguyên tắc tập trung dân
chủ, nghĩa là phát huy dân chủ đến cao độ và tập trung cũng phải đến cao độ để
thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh viết: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ…Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân
dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
+ Thứ tư, dân chủ cũng cần phải có chuyên chính, chế độ nào cũng có chuyên
chính, vấn đề là ai chuyên chính với ai.
* Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của
nhà nước.
- Tính nhân dân của nhà nước ta biểu hiện tập trung ở chỗ đó là nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Tính nhân dân biểu hiện cụ thể trong cơ cấu tham chính, với sự
có mặt rộng rãi của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội, từ nông dân, công nhân, trí
thức, phụ nữ, tôn giáo, dân tộc, kể cả công chức, quan lại cũ tiến bộ, không phân
biệt nguồn gốc, miễn là thành thật hợp tác, vì quyền lợi của dân tộc.
- Tính dân tộc của nhà nước ta được thể hiện trước hết ở chỗ Nhà nước thay
mặt nhân dân thực thi chủ quyền dân tộc, đấu tranh cho lợi ích của dân tộc, đấu
tranh với mọi xu hướng đi ngược lại lợi ích của dân tộc.
Tính dân tộc còn thể hiện sâu sắc ở chỗ, nguồn gốc sức mạnh của Nhà nước ta
là khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo
của Đảng; Nhà nước luôn hoạt động vì lợi ích quốc gia, của dân tộc, kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và có chính sách đúng đắn
để giải quyết vấn đề dân tộc.
- Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân
tộc của nhà nước thể hiện như sau:
+ Sự ra đời của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam: là kết quả của cuộc đấu tranh
lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ các phong trào Văn thân,
cần Vương… đến cách mạng tháng Tám.
Như Hồ Chí Minh đã nói, nó “là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao
nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà
tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến
trường”. Vì vậy nhà nước đó phải là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Nhà nước đó bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm nền
tảng:
Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là thống nhất với
nhau. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể
hiện ý chí của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Chính phủ lâm thời là chính phủ đại đoàn kết dân tộc, chính phủ thống nhất
quốc gia. Việc nhường 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho các tổ chức chính trị
và các đảng phái khác là việc làm chứng tỏ thiện chí trong sự thống nhất trên.
Mặt khác, Hồ Chí Minh còn dung nạp nhiều nhân sĩ trí thức, quan lại cao cấp
của chế độ cũ tham gia chính phủ. Khi một số đại biểu của các đảng phái trốn ra
nước ngoài, Người được Quốc hội ủy nhiệm thành lập chính phủ mới, theo đó,
chính phủ mới phải tỏ rõ tinh thần đại đoàn kết.
+ Nhà nước đảm đương ngay nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả cách mạng.
Nhờ biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở liên
minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước do Hồ Chí Minh đứng đầu
đã hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang là lãnh đạo cả dân tộc tiến hành thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vĩ đại trong lịch sử, bắt tay vào xây dựng
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
b. Nhà nước của nhân dân
- Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là tất cả mọi quyền lực trong Nhà
nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
+ Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946) nói:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”. -> Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước.
+ Nhân dân thực thi quyền lực thông qua 2 hình thức: dân chủ trực tiếp và dân
chủ gián tiếp.
- Dân chủ trực tiếp: Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến
vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Điều 32 (Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết...”, thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một
hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
- Dân chủ gián tiếp:
+ Quyền lực nhà nước là sự ủy quyền của nhân dân cho bộ máy nhà nước
Tự bản thân nhà nước không có quyền lực. Quyền lực nhà nước là do nhân
dân ủy thác. Nhân dân bầu ra những người thay mặt mình để thi hành quyền lực
nhà nước. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, là “công
bộc” của dân; phải làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải đứng trên
nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để
làm việc cho dân”.
+ Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những
đại biểu do mình bầu ra, có quyền giải thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên
Để có một nhà nước thực sự của dân, Hồ Chí Minh luôn “mong đồng bào giúp
đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ
trung thành, tận tụy của nhân dân.
Trong Nhà nước của dân, nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân nếu họ không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân
dân. “nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”.
+ Pháp luật dân chủ và công cụ quyền lực của nhân dân
Pháp luật trong nhà nước của dân là công cụ thực thi quyền lực của nhân dân,
là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước, phảm ánh được ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
c. Nhà nước do dân
- Nhà nước phải do dân lập ra, do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của
mình
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là ông chủ nắm
chính quyền. Nhân dân bầu ra những đại biểu thay mặt mình để thi hành bộ máy
nhà nước. Thế là dân chủ”.
Nhà nước do dân tạo ra thể hiện ở chỗ:
+ Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng
Chính phủ (nay gọi là Chính phủ).
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực
hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện
ý chí của dân (Thông qua Quốc hội do dân bầu ra).
- Nhà nước do dân là nhà nước do “dân làm chủ”: “Nước ta là nước dân chủ,
nghĩa là nhà nước do dân làm chủ”. Quan niệm này, về thực chất, nói lên địa vị và
vai trò của nhân dân trong xã hội. Trong nhà nước dân chủ, dân là chủ và dân làm
chủ.
+ Là chủ - tức là nhân dân là chủ nhân thực sự của đất nước, chủ thể của xã
hội. Trong xã hội, địa vị cao nhất là nhân dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tất cả các nhà tư tưởng tiền
bối (trong xã hội phong kiến, dân chủ được hiểu là chủ của dân); quan niệm của Hồ
Chí Minh đã nâng con người từ vị trí thần dân, thứ dân không chỉ lên địa vị công
dân, mà còn lên địa vị chủ nhân của đất nước, của xã hội.
+ Làm chủ - vừa thể hiện quyền của chủ thể xã hội, vừa thể hiện năng lực, bổn
phận, trách nhiệm của chủ thể ấy.
Trong nhà nước của dân, Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có
quyền làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành nghiêm
chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, là người chủ cũng phải thể hiện năng lực,
trách nhiệm làm chủ của mình.
- Để xây dựng nhà nước do dân làm chủ:
+ Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi
quyền làm chủ của người dân, tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện quyền dân
chủ và hưởng quyền lợi chính đáng.
+ Cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân
+ Coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân cần tự giác thực hiện
quyền dân chủ.
- Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt
động, vận hành bộ máy để phục vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có
trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn
mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân
giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, xây dựng nhà nước đồng thời phải
có trách nhiệm quản lý nhà nước. Quyền lợi quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
d. Nhà nước vì dân
- Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không
có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.
+ Thực chất là tất cả mọi hoạt động của nhà nước đều vì nhân dân mà phục
vụ, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch,
không tham nhũng, không tiêu cực. Nhà nước luôn chú trọng làm lợi cho dân:
“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta hết sức
tránh”.
+ Mục đích hoạt động của nhà nước: Cải thiện và nâng cao đời sống của nhân
dân. Chăm lo mọi mặt đời sống của dân, trước hết là những lợi ích trực tiếp, thiết
thực nhất: cái ăn, mặc, chỗ ở, học hành, chữa bệnh.
Nhà nước phải lo cho dân, bồi dưỡng sức dân, thỏa mãn những nhu cầu thiết
yếu của nhân dân:
“1.Làm cho dân có ăn;
2.Làm cho dân có mặc;
3.Làm cho dân có chỗ ở;
4.Làm cho dân có học hành”
+ Nhà nước phải biết kết hợp được các loại lợi ích của dân, bảo đảm sự thống
nhất, hài hòa, công bằng.
Mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của pháp luật từ trung ương đến địa
phương đều phải xuất phát từ lợi ích của dân: cả lợi ích trước mắt và lâu dài, cả lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội trong sự kết hợp hài hòa. Do đó, là nhà nước biết bảo
vệ nhân dân, chống lại những tệ nạn vi phạm quyền dân chủ và lợi ích của nhân
dân.
+ Muốn phục vụ tốt nhân dân, nhà nước phải thật sự trong sạch, liên khiết,
chống tham ô, hối lộ, quan liêu, đặc quyền đặc lợi.
+ Nhà nước phải yêu dân kính dân: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân
mới yêu ta, kính ta”. Đó là quan điểm thể hiện sự trọng dân, đề cao vao trò của
nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Một Nhà nước vì dân phải có đội ngũ cán bộ Nhà nước thật sự là “công bộc”
của nhân dân
+ Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với
cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ quyền.
+ Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo,
hướng dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng.
Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”.
+ Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm
chính...; là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông
rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài, vừa
hiền lại vừa minh.
+ Hồ Chí Minh là người Chủ tịch suốt đời vì dân. Người tâm sự: “Cả đời tôi
chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của
nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc vào chốn tù tội, xông pha sự
hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính
quyền, uỷ thác cho tôi ghánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố
gắng - cũng vì mục đích đó”.
2. Nhà nước pháp quyền
a. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
- Hồ Chí Minh lên án bản chất bịp bợm của nền công lý thực dân núp dưới
chiêu bài “khai hóa văn minh”
+ “Bộ luật thuộc địa do những nhà khai hoá Pháp soạn ra chính là để đàn áp
bất kỳ một biểu hiện nào có tính tự chủ của người dân bản xứ nói chung và tầng lớp
vô sản nói riêng. Theo bộ luật đó, người An Nam không có quyền xuất bản báo chí
bằng tiếng mẹ đẻ, không có tự do hội họp và lập hội, bị tước đoạt cả quyền tự do đi
lại từ tỉnh này sang tỉnh khác. Để bảo vệ những luật pháp đó thì có toà án gồm 5-6
quan lại Pháp, chúng xử kín và tuyên án, kể cả án tử hình”
+ “Công lý được tượng trưng qua hình ảnh một nữ thần tay cầm cân và tay
cầm kiếm. Nhưng Đông Dương lại ở quá xa nước Pháp, muôn trùng cách trở, nên
khi nữ thần tới xứ này thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng và biến
thành những tẩu thuốc phiện và những chai rượu ty. Trên tay nữ thần tội nghiệp ấy
chỉ còn độc cái kiếm để chém giết. Bà đã chém những người vô tội và cũng chỉ
chém có họ mà thôi!”
- Hồ Chí Minh luôn đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước và quan tâm xây
dựng nền tảng pháp lý cho nhà nước Việt Nam mới.
+ 1919 trong Yêu sách 8 điểm: cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách
làm cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo vè mặt pháp luật
như người Châu Âu; xóa bỏ các tòa án đặc biệt; thay chế độ ra các sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật.
+ Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thay mặt một chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945).
+ Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
(3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ,
trong đó nhiệm vụ thứ ba là: “Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu” để sớm có một nhà nước hợp hiến do dân bầu ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, dưới chế độ chuyên chế của thực dân và phong
kiến "nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ” nên chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ.
+ 20/9/1945, ký Sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp để chuẩn
bị đệ trình Quốc hội, gồm 7 vị, do Người làm Trưởng ban.
+ 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyển cử.
+ Mặc dù những khó khăn dồn dập thù trong giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng
tuyển cử đã được tiến hành chỉ sau 4 tháng sau ngày độc lập (6/1/1946). Đây là
một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất kể từ
sau khi lật đổ ách thực dân phong kiến tay sai, đưa lực lượng chính trị của nhân
dân lên cầm quyền.
Cuộc vận động Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa năm 1946 thật sự là một cuộc đấu tranh chính trị vô cùng khó khăn và không
kém phần quyết liệt, thậm chí đã đổ máu để thực thi quyền dân chủ chính trị của
mọi công dân nước Việt Nam độc lập, tự do ngay trong những tháng đầu cách
mạng mới thành công.
Kết quả, cuộc đấu tranh đó đã thành công rực rỡ. Ở 71 tỉnh, thành phố trong cả
nước, 89% số cử tri đã đi bầu cử, bầu được 333 đại biểu, trong đó 57% số đại biểu
thuộc các đảng phái yêu nước và cách mạng khác nhau, 43% không đảng phái, 10
đại biểu nữ, 34 đại biểu các dân tộc thiểu số. Riêng ở Hà Nội, cử tri đã chọn được
sáu đại biểu trong số 74 người ứng cử ở thành phố này.
+ Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của một
nhà nước độc lập, có chủ quyền. Từ đây, chúng ta có một hệ thống chính quyền
thống nhất, đầy đủ cơ sở pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội và
đối ngoại. Hiến pháp là đạo luật gốc để xây dựng và phát triển hệ thống luật pháp.
b. Nhà nước thượng tôn pháp luật
- Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, công tác xây dựng
pháp luật được đặc biệt quan tâm.
Trên cương vị Chủ tịch nước đầu tiên, Hồ Chí Minh đã tham gia soạn thảo 2
bản Hiến pháp, ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới
luật khác. Điều này thể hiện vai trò vô cùng to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
việc lập Hiến và lập pháp. Với những hoạt động quan trọng đó, Người đã đặt nền
móng cho việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Hồ Chí Minh chú trọng đưa pháp luật vào đời sống, đảm bảo cho pháp luật
được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. Để thực hiện công
tác này, cần chú ý:
Một là: Tuyên truyền, giáo dục pháp luật
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “công bố đạo luật chưa phải đã là mọi việc
đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”. Công
tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một trong những biện pháp hữu hiệu để thực
hiện tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật.
+ Người rất coi trọng việc giáo dục pháp luật cho toàn dân, góp phần nâng cao
dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công
dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của nhà nước, khắc phục
mọi thứ dân chủ hình thức.
+ Theo Người, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải cụ thể, thiết
thực để mọi người hiểu đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước.
+ Trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, việc nắm vững đối tượng
được tuyên truyền là rất quan trọng, bởi vì tùy theo từng đối tượng, trình độ mà
chọn phương pháp tuyên khác nhau. Với mỗi đối tượng, Người yêu cầu cán bộ
tuyên truyền pháp luật phải có phương thức tuyên truyền thích hợp và phải chú
trọng ưu tiên cho đối tượng có trình độ nhận thức thấp vì đồng bào có trình độ thấp
mà hiểu thì các đối tượng khác đều nắm bắt được.
+ Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần phải ngắn gọn, rõ ràng để
nhân dân dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.
Hai là: Tạo ra cơ chế đảm bảo việc thực thi pháp luật, đề cao tính nghiêm
minh của pháp luật
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả mọi tổ chức và cá nhân phải chấp hành
pháp luật, không ai được đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Ngày 26-1-1946,
Người đã ban hành Quốc lệnh gồm 10 điều khen thưởng và 10 điều phạt, kể cả hình
phạt xử tử.
+ Khi đưa ra các tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng của công dân, Hồ Chí
Minh cho rằng tiêu chuẩn hàng đầu là việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Điều
này được quy định trong Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946 quy định nghĩa vụ của
công dân là phải tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm 1959 thể
hiện điều đó rõ nét và đầy đủ hơn khi quy định: “Công dân có nghĩa vụ: tuân theo
Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh
hoạt xã hội. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng tài sản công cộng, đóng thuế theo pháp
luật, làm nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc”. Điều đó cũng thể hiện rõ trong tư
tưởng của Người luôn luôn gắn liền dân chủ với pháp luật. Pháp luật bảo vệ quyền
tự do, dân chủ của nhân dân. Quyền dân chủ của nhân dân cũng cần phải được thực
hiện trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng
trước pháp luật. Những biểu hiện vi phạm Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cần
phải được xử lý nghiêm minh, dù họ ở bất cứ địa vị nào.
+ Đặc biệt coi trọng pháp luật nhưng Hồ Chí Minh không rơi vào trường phái
pháp trị như một số nhà chính trị Trung Hoa cổ đại. Sự tiến bộ trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ Người đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa
pháp trị và đức trị.
Nhà nước pháp quyền chỉ phát huy hiệu lực của mình khi nó biết kết hợp giáo
dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước. Người chủ trương giáo
dục, “cảm hóa” để giúp đỡ con người sửa chữa sai lầm. Tuy nhiên, Người nêu rõ
quan điểm: Trong sửa chữa sai lầm phải dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá,
dạy bảo; song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt…. hoàn toàn không
dùng xử phạt là không đúng, mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng.
Vì vậy, cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay
nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng. Trong vai trò là Chủ tịch nước, Người đã cho thi
hành những bản án công tâm, nghiêm khắc nhất ngay cả những cán bộ, đảng viên
vi phạm như Đại tá Trần Dụ Châu, Thứ trưởng Trương Việt Hùng.
Ba là: Phải có biện pháp kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật
+ Mục đích của công tác kiểm tra là để quyết định vấn đề cho đúng; để biết
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được tổ chức thi hành như
thế nào, có thực sự đi vào cuộc sống để mang lại lợi ích cho nhân dân hay không.
Người viết: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát
của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và
giúp đỡ kịp thời”.
+ Để kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật cần tăng cường vai trò kiểm
tra, giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Người viết: “Từ ngày
thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người làm
quan cách mạng, chợ đỏ chợ đen, khinh dân, mưu vinh thân, phì gia… Xin đồng
bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc Chính phủ”. Thực chất đó là phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước.
Người yêu cầu phải xây dựng pháp luật làm sao bảo đảm thực sự là của nhân
dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân, và do vậy phải do nhân dân xây dựng nên. Theo
Người, để pháp luật thực sự là của nhân dân thì nhân dân cần được trực tiếp tham
gia xây dựng, hay được phúc quyết những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia. Đó
là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện việc kiểm soát
của nhân dân đối với các quyết sách của Nhà nước đã được Người quan tâm và đề
ra rất sớm trong điều 32 Hiến pháp 1946.
+ Người còn đề cập nhiều đến vai trò của cơ quan chuyên trách của Nhà nước
trong việc kiểm soát. Đó là các Ban Thanh tra trong bộ máy Nhà nước.
Theo quan điểm của Người, công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là sự độc lập
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan này đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong công tác phòng, chống bệnh quan liêu, nạn tham ô, lãng phí cũng như các
hành vi vi phạm khác trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính Nhà
nước, trong thực thi công vụ của cán bộ, viên chức Nhà nước.
Người yêu cầu “các ủy ban và cán bộ kiểm tra phải học tập và thấm nhuần
đường lối, quan điểm của Đảng, phải luôn luôn chú ý nâng cao khả năng chuyên
môn, phải cố gắng công tác, phải trau dồi đạo đức cách mạng. Đặc biệt là phải nâng
cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương
mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng. Phải chí công vô tư, không thiên vị,
không thành kiến. Như thế thì mới làm tốt được công tác kiểm tra”
Bốn là: Nêu gương trong việc chấp hành pháp luật của Nhà nước
+ Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
chú ý và đề cao sự nêu gương trong việc chấp hành pháp luật của Nhà nước. Tinh
thần tôn trọng pháp luật được Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện từ những ngày đầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Đầu năm 1946, khi chuẩn bị cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên,
Hồ Chí Minh ra ứng cử tại Hà Nội. Gần đến ngày bầu cử, đồng bào ngoại thành Hà
Nội gửi thư yêu cầu Hồ Chí Minh không phải ra ứng cử. Trước sự tin tưởng, tín
nhiệm của nhân dân, Người đã viết thư phúc đáp: “Tôi rất cảm động thấy toàn thể
đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi, mà quyết nghị tôi không phải
ứng cử trong kỳ Tổng tuyển cử sắp tới. Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định”. Trong
mọi hoạt động, Người đều gương mẫu chấp hành luật lệ, tuân thủ pháp luật của
Nhà nước.
+ Tinh thần nêu gương trong thực thi pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
được thể hiện trong việc đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thông qua hoạt
động của cán bộ thi hành pháp luật. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I (11-1946),
có đại biểu Quốc hội đã chất vấn Chính phủ về “chính phủ liêm khiết”, thay mặt
Chính phủ, Người đã trả lời: “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm,
nhưng trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các ủy
ban làng đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ Trung ương đã hết sức làm
gương, và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối
lộ. Đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết”.
Trong bức thư gửi Hội nghị Tư pháp tháng 2/1948, Người viết: “Các bạn là
bậc trí thức. Các bạn có trách nhiệm nặng nề và vẻ vang, là làm gương cho dân về
mọi việc… Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các
bạn cần phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân
dân noi theo”(18). Như vậy, theo Người, đối với cán bộ tư pháp, trước hết họ phải
vì lợi ích chung, giữ gìn pháp luật, vô tư, không được thiên vị, tư thù, tư oán, không
được tự cho mình đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Cán bộ tư pháp phải có được
phẩm chất ấy thì công tác xét xử mới đáp ứng được yêu cầu cao nhất là bảo đảm
tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật.
c. Pháp quyền nhân nghĩa
- Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người,
chăm lo lợi ích con người.
+ Hồ Chí Minh đề cập tới các quyền tự nhiên của con người, cao nhất là quyền
sống, các quyền chính trị dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người.
Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ thể hiện ở chỗ: Nhân dân được tự do bầu cử,
ứng cử : “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân
là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành
chính quyền ấy. Thế là dân chủ” 6; Nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu do
mình bầu ra nếu những người đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân
dân ; Dân có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước ; ...
Trong lĩnh vực kinh tế : nhân dân lao động làm chủ các tư liệu sản xuất chủ
yếu, làm chủ việc quản lý, tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm.
Trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, Hồ Chí Minh chỉ rõ : “Chế độ ta là một
chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào ? Đối với mọi vấn đề,

6
Sđd, t.7, tr.218 - 219
mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền
lợi, cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”7.
+ Hồ Chí Minh chú trọng quyền của từng nhóm người cụ thể: phụ nữ, trẻ em,
người dân tộc thiểu số:
Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung
mọi quyền tự do của một công dân.
Khi sửa đổi Hiến pháp 1959, Người nêu rõ: “Nó phải là một bản Hiến pháp
đảm bảo được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công
nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ
bình quyền và dân tộc bình đẳng, v.v..”
=> Hiến pháp ghi nhận toàn diện về quyền con người, thể hiện quan điểm nhất
quán của Nhà nước Việt Nam trong việc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con
người toàn diện. Hiến pháp cũng là cơ sở nền tảng pháp lý để bảo vệ và thực thi
đầy đủ và triệt để quyền con người.
- Nhà nước có hệ thống pháp luật nhân văn, khuyến thiện
+ Chính phủ lâm thời tuyên bố xóa bỏ mọi luật pháp hà khắc của chính quyền
thực dân phản động.
+ Hệ thống pháp luật ghi nhận đầy đủ và bảo vệ quyền con người, đảm bảo
tính khách quan, công bằng, bình đẳng đối với mọi công dân.
+ Hệ thống pháp luật mang tính khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục
đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm căn bản. Ngay cả đối với những kẻ
phản bội Tổ quốc: Chính phủ Việt Nam sẽ tha thứ hay trừng trị họ theo pháp luật
tùy theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Nhưng sẽ không có ai bị tàn sát”.
+ Việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức, kết hợp
hài hòa giữa đức trị và pháp trị.
3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh

7
Sđd, t.8, tr. 216
a. Kiểm soát quyền lực nhà nước
- Mục đích: kiểm soát quyền lực nhà nước để giữ vững bản chất của nhà nước,
bảo đảm cho nhà nước hoạt động có hiệu quả, phòng chống thoái hóa, biến chất
trong đội ngũ cán bộ nhà nước.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu.
+ Vì quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân ủy thác cho cán bộ,
nhưng khi cán bộ nắm giữ quyền lực lại dễ đi đến lạm quyền.
+ “Dân ghét các ông chủ tịch, các ông ủy viên vì cái tật ngông nghênh, cậy
thế, cậy quyền. Những ông này không hiểu nhiệm vụ và chính sách của Việt Minh,
nên khi nắm được chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng”. Ví dụ: ông ủy viên đi
xe hơi, thì bà ủy viên, cô cậu ủy viên cũng đi xe hơi….
+ Để bảo đảm tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân, thì cần kiểm soát
quyền lực nhà nước.
- Hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước:
+ Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc lãnh đạo, kiểm tra, giám sát
hoạt động của bộ máy nhà nước.
“Toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và
chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, các cấp ủy Đảng phải tăng cường công tác
kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm
trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân”.
+ Phải kiểm soát có hệ thống và toàn diện, từ trên xuống, từ dưới lên; người đi
kiểm soát phải có uy tín.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách tổ chức bộ máy nhà nước và
phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước: trong Hiến
pháp 1946 quy định Nghị viện nhân dân có quyền kiểm soát và phê bình chính phủ;
bộ trưởng nào không được nghị viên tín nhiệm thì phải từ chức,...
+ Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.
Theo HCM, phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải
có quần chúng mới giúp được. Nhà nước là công bộc của dân, “mọi công tác phải
dựa hẳn vào quần chúng, hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”.
b. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước.
- Các tiêu cực cần phòng, chống:
+ Đặc quyền, đặc lợi
Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ thói cậy mình
là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền,
lợi dụng chức quyền để vơ vét cho cá nhân, như vậy là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
+ Tham ô, lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh coi đây là những “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”, thứ giặc còn
nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Quan điểm của Người là: “Tham ô, lãng phí và
bệnh quan liêu dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong
kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”8.
Người chỉ ra rằng chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc
đánh giặc trên mặt trận. Người chỉ rõ mối quan hệ giữa đánh thù trong và diệt giặc
ngoài: “Chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc
trên mặt trận”… “Nếu chiến sĩ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm và quên
chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”9.
Ngày 27/11/1946, HCM ký sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ
với mức từ 5 – 20 năm tù khổ sai và nộp phạt gấp đôi số tiền ăn hối lộ. Ngày
26/1/1946, HCM ký sắc lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công là tội tử hình.
Lãng phí được HCM xác định là lãng phí thời gian, tiền của và lãng phí sức
lao động. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm – một vấn đề quốc sách của mọi
quốc gia. Bản thân HCM luôn làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong
cuộc sống và công việc hàng ngày. Người luôn quý trọng từng đồng xu, bát gạo
nhân dân đóng góp cho bộ máy nhà nước hoạt động.
8
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.490
9
Sđd, t.6, tr. 495
Bệnh quan liêu: có biểu hiện là các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới
không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi
quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi
mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta Chỉ biết khai
hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn…
Thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà
không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững…Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ,
dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng
phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
Về tác hại của bệnh quan liêu: Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô
sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ
“đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết “... chúng ta
bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên quan
liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu
không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc
những nguyên nhân gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo
Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình
không tài cán gì cũng kéo vào chức này, chức nọ; còn những người có tài, có đức
nhưng không vừa lòng mình thì trù dập, đẩy ra ngoài. Đó là những hành động gây
mất đoàn kết, gây rối cho công tác, không biết cách làm cho mọi người hòa thuận
với nhau, còn có người bênh vực lớp này, chống lại lớp khác. Ngoài ra, còn có
người kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi… cử chỉ
lức nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của chính phủ.
- Nguyên nhân dẫn đến tiêu cực:
+ Chủ nghĩa cá nhân, thiếu tu dưỡng, rèn luyện của bản thân cán bộ
+ Công tác cán bộ chưa tốt.
+ Đời sống xã hội thấp
+ Tàn dư của chính sách phản động của thực dân, phong kiến
+ Âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
- Biện pháp phòng, chống tiêu cực:
+ Nâng cao trình độ dân chủ, thực hành và phát huy rộng rãi quyền làm chủ
của nhân dân.
+ Đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, chính sách của Đảng và nhà
nước.
+ Coi trọng việc giáo dục cán bộ, đặc biệt là giáo dục đạo đức, bởi cán bộ dù
to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có
dịp “dĩ công vi tư”
+ Tăng cường tính nêu gương của cán bộ, đảng viên, chức vụ càng cao, càng
phải nêu gương trong việc tu dưỡng đạo đức, trong việc phòng và đấu tranh chống
tiêu cực.
+ Huy động sức mạnh của toàn dân tộc, lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong đấu
tranh phòng, chống tiêu cực.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
1. Xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh
- Đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong từng giai đoạn.
- Tổ chức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng.
+ Thể chế hóa đường lối và biến thành hành động tích cực của các tổ chức của
hệ thống chính trị.
+ Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu.
- Chú trọng hơn nữa công tác chỉnh đốn Đảng về mọi mặt.
+ Về chính trị: Đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững
vàng trong mọi tình huống và giai đoạn của cách mạng. Trên cơ sở kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng cần phải đề ra được biện pháp và
bước đi phù hợp cho cách mạng Việt Nam, đồng thời phải tranh thủ được sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân trên thế giới để tạo ra sức mạnh tổng hợp.
+ Về tư tưởng: Đó là tư tưởng cách mạng triệt để, tiến công, chống chủ nghĩa
cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ. Luôn luôn đề phòng và kịp thời khắc phục những
lệch lạc. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải
biết làm giàu trí tuệ của mình bằng việc kế thừa và phát huy những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, thâu thái những tinh hoa văn hóa của nhân loại để giành thắng lợi
cách mạng. Hiện nay trứơc sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước những
mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều người đang hoài nghi và mất lòng tin vào chế
độ, nhụt ý chí chiến đấu, vì thế, cần khẳng định vào tương lai tươi sáng và củng cố
lòng tin ở mỗi người.
+ Về tổ chức: Xây dựng Đảng thành một tổ chức chính trị trong sạch, vững
mạnh, một tổ chức chiến đấu kiên cường. Đó là một tổ chức chú trọng chất lượng
hơn số lượng, lấy việc nâng cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ
thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng phạm phải khuyết điểm, sai
lầm, nhưng trong Đảng không lảng tránh sự thật, không che giấu, mà công khai
thừa nhận để khắc phục, sửa chữa. Đó là một trong những thước đo về chuẩn mực
cách mạng chân chính của một đảng mác xít thực sự.
+ Về đạo đức, lối sống: coi trọng công tác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cán bộ,
đảng viên: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thường xuyên nâng cao năng lực
lãnh đạo, luôn gắn mình với nhân dân, dám hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc; không ngừng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh để hoàn thiện nhân cách và giành được niềm tin yêu của nhân dân.
Trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, chúng ta có nhiều thành tựu, nhưng
vẫn còn những bất cập, yếu kém, nhất là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã và đang làm giảm niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, làm hạn chế năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bởi vậy, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh phải được quán triệt
đến từng tổ chức cơ sở đảng, từng cán bộ, đảng viên.
2. Xây dựng Nhà nước
* Xây dựng nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh
- Nhà nước phải đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng
cướng pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm
chủ của nhân dân phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến
pháp và pháp luật vào cuộc sống.
- Cần chú ý việc đảm bảo cho mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử
phạt nghiêm minh đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật. như vậy nhân dân mới
tun và đảm bảo được tính chất nhân dân của nhà nước.
- Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật, còn cần chú ý đến việc thực hiện những quy tắc dân chủ
trong các động đồng dân cư, tìu theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc
đó không trái với quy định của pháp luật.
- Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước là nhằm xây dựng một
nền hành chính mạnh, dân chủ, trong sạch, có hiệu lực, đủ khả năng hiện thực hóa
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trong cuộc sống. Vấn đề
đó đang là yêu cầu bức xúc hiện nay.
- Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính theo
hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực cho nhân dân và công cuộc
công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
- Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân,
tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực.
- Chú trọng và tiến hành thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn
và đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức.
* Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước.
- Đảng lãnh đạo nhà nước không phải bằng cách bao biện, làm thay mà bằng
đường lối và những chủ trương, định hướng lớn để nhà nước hiện thực hóa chúng
thành chính sách, pháp luật trong thực tế.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà
nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng; đảm bảo sự lãnh đạo cảu Đảng và
phát huy vai trò quản lý của Nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng cách Đảng lãnh
đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy cảu Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng
vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong bộ máy Nhà nước, bằng
công tác thanh tra, kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở
đảm bảo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước theo luật định. Bản chất,
tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do
đó, tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng cộng sản Việt
Nam là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

You might also like