So sánh hình ảnh người phụ nữ trong bài“Tự tình” (bài II)
của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Trần Tế Xương.
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn là chủ đề quen thuộc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong hầu hết các tác phẩm , tác giả đã khắc họa người phụ nữ tần tảo, vì chồng vì con hay người con gái hiền dịu, nết na, nhưng dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát và bảo thủ, số phận của họ bị vùi dập một cách không thương tiếc, bị trói buộc bởi một xã hội “ trọng nam khinh nữ”, xã hội bất công. Họ phải chịu nhiều đau khổ , trắc trở tình duyên, không có quyền quyết định được cuộc đời của mình. Từ đó cảm thông cho số phận của người phụ nữ xã hội xưa . Trong các tác phẩm về người phụ nữ xưa, “Tự tình II” và “Thương vợ” là hai tác phẩm mà hình ảnh đó được tác giả thể hiện vô cùng tài tình và xuất sắc Với bản lĩnh của mình và bản thân là một nạn nhân của xã hội xưa , “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn nói lên nỗi lòng của những người phụ nữ xưa. Thơ của bà là tiếng nói cho phận hẩm duyên ôi của phụ nữ xưa, đồng thời khát khao quyền được sống, quyền hạnh phúc cho họ. Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng chán chường cho thực tại phũ phàng, cũng là tâm trạng của những người phụ nữ cùng chung cảnh ngộ trong xã hội xưa. Mở đầu bài thơ là khung cảnh đêm khuya tĩnh lặng ,bà một mình chằn chọc không ngủ được, cảm giác thiếu thốn tình yêu thương. Tâm trạng của bà trở nên rối bời, ngổn ngang , nghĩ đến tàn canh mà vẫn chưa xong. Thời gian tâm lý gợi ra từ âm thanh trống canh dồn qua đó ta cảm nhận bước đi của thời gian dồn dập, hối thúc. Bà cảm nhận được sự bẽ bàng của duyên phận. Từ “Hồng nhan” chỉ phận má hồng nhưng đặt trong bài thơ nó lại là một sự rẻ rúng , coi thường phận má hồng “bạc như vôi”. Tác giả trơ trọi , cô đơn đến mức chai đi, lì ra. Để quên đi nỗi buồn trơ trọi này , nữ thi sĩ đã dùng rượu để giải khuây nhưng càng uống lại càng tỉnh. “Say lại tỉnh” gợi vòng luẩn quẩn của tình duyên của tác giả. Một loại hình ảnh vầng trăng liên tiếp biểu trưng cho số phận hẩm hiu. Bà đau buồn khi tuổi xuân đã qua đi mà hạnh phúc thì vẫn chưa trọn vẹn. Bà mượn bức tranh thiên nhiên cùng sử dụng động từ mạnh gợi một sức sống phi thường, tâm trạng con người thì bực dọc, phẫn uất, không cam chịu. Kết thúc bài thơ gợi ra sự chia cắt, nhỏ bé đến thành tội nghiệp. Dù cho nhà thơ có cố gắng vùng dậy vượt hoàn cảnh nhưng vẫn bị chôn chặt vào nghịch cảnh của chính mình, đó là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Còn với tác phẩm “Thương vợ”, tác giả Tế Xương dưới cương vị là người chồng, người đàn ông đã khắc hoạ hình ảnh bà Tú - người vợ vất vả , tháo vát mọi việc, chịu thương chịu khó của ông. Những câu thơ trong bài như một bức chân dung tương đối hoàn chỉnh về người phụ nữ trong xã hội xưa: “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!” Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống “quanh năm buôn bán ở mom sông” để “nuôi đủ năm con với một chồng”. Câu thơ đã nói lên hoàn cảnh vất vả , lam lũ của bà quanh năm, bất kể nắng mưa trên mom sông- cái đất nhô ra đầy chênh vênh, nguy hiểm . Vất vả quanh năm chỉ nuôi đủ năm con với một chồng , vậy mới thấm thía được sự vất vả của bà. Hình ảnh con cò gợi sự cơ cực mà bà Tú phải nếm trải, đó là kiếm ăn một mình bất chấp hiểm nguy, thân phận thấp kém. Khi quãng vắng , khi buổi đò đông, bà Tú phải dấn thân, chạy ngược chạy xuôi, không hề hà, quan ngại bất chấp hiểm nguy. Mặc dù bà phải làm vất vả, cực nhọc nhưng bà vẫn không kêu ca phàn nàn, than thân trách phận. Đó là đức hi sinh thầm lặng cao quý mà mỗi người cần có Tóm lại, bà Tú và bà Hồ Xuân Hương là hiện thân cho những khổ đau mà con người phải trải qua trong xã hội xưa, đồng thời kết tinh cho những Đức tính tốt đẹp của người phụ nữ xưa qua hàng thế kỉ. Cả hai bài thơ khắc hoạ hình tượng người phụ nữ xưa chịu thương chịu khó , vất vả, gian truân, tình duyên trắc trở nhưng chỉ thể chôn chặt nỗi đau trong lòng.