Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

Chương II

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VỚI KHÁCH HÀNG CÁ


NHÂN TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG - CHI NHÁNH ĐỒNG
NAI

2.1. Khái niệm Tín dụng đối với khách hàng cá nhân
-Tín dụng: Tín dụng là khái niệm thể hiện mối quan hệ giữa người cho₋
vay và người vay. Trong quan hệ này, người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao
quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho vay cho người đi vay trong một thời
gian nhất định. Người đi vay có nghĩa vụ trả số tiền hoặc giá trị hàng hoá đã
vay khi đến hạn trả nợ có kèm hoặc không kèm theo một khoản lãi
-Tín dụng khách hàng cá nhân: Tín dụng cá nhân là hình thức cho vay vốn₋
từ ngân hàng mà đối tượng khách hàng là cá nhân bao gồm cá nhân và hộ gia
đình có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cá thể. Có thể hiểu tín dụng
cá nhân là hình thức tín dụng mà trong đó NHTM đóng vai trò là người
chuyển nhượng vốn cho khách hàng cá nhân hoặc hộ gia đình sử dụng trong
một thời hạn nhất định và có trách nhiệm có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc
và lãi đúng hạn. Như vậy “Cho vay khách hàng cá nhân là hình thức cấp tín
dụng, trong đó ngân hàng thỏa thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia
đình sử dụng một khoản tiền với mục đích kinh doanh hộ gia đình hay tiêu
dùng theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.”

2.2. Các loại tín dụng dành cho KHCN


Phân loại dựa theo một số tiêu chí sau:

2.2.1. Căn cứ theo thời hạn tín dụng


₋ Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 12 tháng trở xuống.
Hình thức vay này chủ yếu tài trợ cho tài trợ vốn lưu động phục vụ mục đích
sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của chủ thể vay vốn.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Được sử
dụng khi chủ thể vay vốn có nhu cầu vay để mua sắm TSCĐ, cải tiến đổi mới
quy trình công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng các dự án có quy
mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Chủ yếu cấp vốn cho xây
dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, đầu
tư cải tiến mở rộng sản xuất với quy mô lớn và thời gian thu hồi vốn chậm

2.2.2. Căn cứ vào mục đích tín dụng

Cho vay KHCN gồm: cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất kinh doanh.

- Cho vay tiêu dùng: Là cho vay để thanh toán các chi phí cho mục đích tiêu dùng cá
nhân, gia đình cá nhân đó, ví dụ: cho vay mua nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ở, sửa chữa nhà, cho vay du học, du lịch, cho vay mua ô tô, mua sắm vật dụng gia
đình...

- Cho vay sản xuất kinh doanh: Là cho cá nhân vay để bổ sung, đầu tư vốn cho hoạt
động SXKD, chi phí mua vật tư hàng hóa đầu vào, con giống, cây giống, nguyên vật
liệu trong quá trình sản xuất

2.2.3. Căn cứ theo phương thức cho vay


- Cho vay hạn mức theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín
dụng là phương thức cho vay mà ngân hàng sẽ cấp một hạn mức vay nhất
định, doanh nghiệp duy trì mức dư nợ không vượt quá mức đã cấp. Hình
thức cho vay này yêu cầu tài sản đảm bảo, thông thường là bất động sản, giấy
tờ có giá hay những tài sản khác mà ngân hàng chấp nhận.
- Cho vay từng lần: Cho vay từng lần là phương pháp cho vay mà mỗi lần
vay khách hàng và ngân hàng đều phải làm các thủ tục cần thiết (khách hàng
lập hồ sơ vay vốn, ngân hàng xét duyệt cho vay) và kí hợp đồng tín dụng
2.2.4. Căn cứ theo hình thức đảm bảo
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như: đảm bảo
bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng
có nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ
nhất không có hoặc không đủ.
-Tín dụng không có bảo đảm: là khoản tín dụng không được bảo đảm₋
bằng bất kỳ tài sản nào. Tín dụng không có tài sản đảm bảo chỉ dựa duy nhất
vào tín nhiệm của bên được cấp tín dụng. Bởi vậy, hình thức vay này thường
khó thực hiện hơn so với cấp tín dụng có bảo đảm
2.3. Đặc điểm tín dụng đối với KHCN

2.3.1. Thứ nhất là quy mô các món vay thường nhỏ, nhưng số lượng các món vay
lại lớn

Khách hàng cá nhân thường có 02 mục đích vay:


Thứ nhất là cá nhân vay để bổ sung vốn kinh doanh. Quyền họat động
sản xuất kinh doanh của cá nhân được pháp luật thừa nhận, nhưng do năng lực
hạn chế nên họat động kinh doanh thường không có quy mô lớn.
Thứ hai là cá nhân vay đáp ứng nhu cầu vốn để tiêu dung. Khoản vay cá
nhân cho mục đích này trực tiếp phục vụ cho nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống
như mua nhà đất, mua sắm vật dụng gia đình,...
Số tiền cho vay ở 02 mục đích này đều bị giới hạn bởi những điều kiện từ
ngân hàng, đó là: tính hợp lý của nhu cầu vốn, khả năng trả nợ và tài sản đảm
bảo. Tuy nhiên, số lượng các khoản tín dụng cá nhân là rất lớn do 02 nguyên
nhân:
- Số lượng khách hàng cá nhân đông do đối tượng của loại hình cho vay này
mọi cá nhân trong xã hội, từ người có thu nhập cao đến người có thu nhập trung
bình và thấp.
- Nhu cầu tín dụng phong phú và đa dạng của khách hàng cá nhân. Vì khi chất
lượng cuộc sống và trình độ dân trí được nâng cao, người dân càng có nhu cầu
vay ngân hàng để cải thiện và nâng cao mức sống.

2.3.2. Tín dụng KHCN gây tốn kém nhiều chi phí

Do đặc điểm của khách hàng cá nhân là số lượng nhiều và phân tán rộng nên sẽ tốn
kém nhiều chi phí cho các công tác như là mở rộng hệ thống mạng lưới, quảng cáo,
tiếp thị tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận đối tượng KHCN ở từng địa bàn,
khu vực, phát triển nhân sự đầy đủ nhằm phục vụ khách hàng nhanh chóng, chính xác
từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định đến quyết định cho vay, giải ngân và thu nợ cũng
như các chi phí liên quan như: chi phí quản lý, văn phòng phẩm, điện, nước, điện
thoại, công tác phí hỗ trợ CBTD… Vì vậy mà lãi suất của tín dụng KHCN thường cao
hơn so với khách hàng doanh nghiệp. Đối với các khoản vay cá nhân, do thông tin về
nhân thân, lai lịch và tình hình tài chính của khách hàng thường không đầy đủ và khó
thu thập nên ngân hàng thường tốn nhiều chi phí cho việc xác định thẩm định và xét
duyệt vay.

2.3.3. Thứ ba là tín dụng KHCN rủi ro cao hơn so với khách hàng doanh nghiệp

* Rủi ro do thông tin bất cân xứng


Khi thẩm định cho vay thì thông tin về bản thân khách hàng là một trong
những yếu tố quan trọng để ngân hàng đưa đến quyết định cho vay, bên cạnh
tính hợp lý và hợp pháp của nhu cầu vốn, khả năng trả nợ và tài sản đảm bảo.
Đối với khách hàng là tổ chức, việc nắm bắt thông tin khách hàng là tương
đối thuận lợi do có rất nhiều nguồn thông tin được công khai như: báo cáo tài
chính, thông tin xếp hạng tín dụng, tình hình nộp thuế
Nhưng đối với khách hàng là cá nhân việc đánh giá nhân thân, nguồn trả
nợ, mục đích sử dụng vốn vay thường khó đầ đủ và rõ ràng dẫn đến rủi ro thông
tin bất cân xứng, khiến cho việc thẩm định khách hàng thiếu chính xác. Nguồn
trả nợ chủ yếu của khách hàng cá nhân là từ thu nhập ổn định ở thời điểm hiện
tại. Do vậy, nếu người vay gặp vấn đề về sức khỏe, mất việc làm hay gặp các
biến cố bất ngờ ảnh hưởng đến thu nhập thì sẽ không trả được nợ cho ngân hàng
* Rủi ro tác nghiệp
Do đặc điểm của tín dụng cá nhân là quy mô khoản vay nhỏ nhưng số
lượng khoản vay nhiều, vì vậy để có thể đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng
nhằm nâng cao kết quả công việc đòi hỏi sụ phục vụ nhanh chóng của cán bộ tín
dụng. Do đó, trong quá trình thẩm định hồ sơ tín dụng các cán bộ thường hay
chủ quan, thậm chí lợi dụng sự lỏng lẻo của công tác quản lý và sơ hở của các quy
định để lừa đảo chiếm đọat tài sản của khách hàn, hoặc thông đồng với khách hàng gây
ra những tổn thất cho ngân hàng.

2.3.4. Chất lượng thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao

Khi thẩm định cho vay thì thông tin này là một yếu tố cực kỳ quan trọng để ngân hàng
đưa đến quyết định cho vay, bên cạnh tính hợp lý và hợp pháp của nhu cầu vốn, khả
năng trả nợ và TSĐB. Đối với khách hàng là tổ chức, việc nắm bắt thông tin khách
hàng là tương đối thuận lợi do có rất nhiều nguồn thông tin được công khai như: báo
cáo tài chính, thông tin XHTD, tình hình nộp thuế, uy tín quan hệ với đối tác… Ngược
lại, đối với KHCN, việc đánh giá nhân thân, nguồn trả nợ, mục đích sử dụng vốn vay
thường khó đầy đủ, rõ ràng và chính xác dẫn đến rủi ro thông tin bất cân xứng, khiến
cho việc thẩm định khách hàng thiếu chính xác

2.3.5 KHCN chịu trách nhiệm vô hạn trên số tiền vay

với khách hàng doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân) khi xảy ra các biến cố không
mong muốn như phá sản, giải thể thì họ chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trên vốn điều lệ
đã đăng ký trước đó. Điều này dẫn đến tình trạng là ngân hàng có thể sẽ không thu
được nợ của mình nếu nguồn vốn của doanh nghiệp không đủ để trả nợ. Ngược lại,
trong trường hợp xảy ra biến cố, KHCN phải chịu trách nhiệm toàn bộ đối với các chủ
nợ nói chung và ngân hàng nói riêng.

2.4 Vai trò tín dụng đối với KHCN


Đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi tiêu và những
cầu mang tính cấp bách. Nhờ đó người tiêu dùng được hưởng những tiện ích
của hàng hóa dịch vụ trước khi họ tích lũy đủ tiền. Góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo điều kiện nâng cao dân trí, hình
thành những thói quen sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, phù hợp
với yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

2.4.1 Đối với nền kinh tế

Tín dụng KHCN góp phần kích thích kinh tế phát triển. Đây là kênh hỗ trợ vốn để
trang trãi các chi phí phát sinh trong cuộc sống, từ thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu cho
đến nhu cầu xa xỉ với chi phí đắt đỏ, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Để có thể
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, các doanh nghiệp thuộc mọi ngành
nghề trong xã hội bắt buộc phải đẩy mạnh sản xuất, góp phần kích thích tăng trưởng
kinh tế, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động.
Ngoài ra, tín dụng KHCN còn góp phần phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính. Là
một phần của tín dụng nói chung, tín dụng cá nhân cũng có vai trò tích cực đối với xã
hội như góp phần khai thác triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội rồi lưu thông
các nguồn vốn này một cách trôi chảy, có hiệu quả, từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn,
từ nơi hiệu quả thấp đến nơi hiệu quả cao…
2.4.2 Đối với ngân hàng

Đầu tiên là góp phần nâng cao thương hiệu cho ngân hàng. Do có đối tượng rất rộng
nên việc phát triển tín dụng cá nhân sẽ giúp hình ảnh thương hiệu của ngân hàng sẽ
được phổ biến rộng khắp thông qua tín dụng cá nhân. Bên cạnh việc cấp tín dụng cho
KHCN, ngân hàng còn có thể bán chéo các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ như:
tiền gửi tiết kiệm, giao dịch thanh toán, phát hành- thanh toán thẻ, dịch vụ ngân hàng
điện tử…
Thứ hai là góp phần phân tán rủi ro cho ngân hàng. Nếu ngân hàng chỉ tập trung cho
vay các khách hàng doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn, vì một lý do nào đó mà hoạt
động kinh doanh của các khách hàng doanh nghiệp này gặp khó khăn gây ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ, làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng gặp trở ngại và gây ra
thiệt hại rất lớn đến ngân hàng. Do vậy, với nguyên tắc “tránh để tất cả trứng vào một
rổ”, các ngân hàng phát triển tín dụng cá nhân như một sự phân tán rủi ro vì với số
lượng khách hàng lớn, số tiền vay ít thì khi có một khách hàng hoặc một số ít khách
hàng gặp rủi ro dẫn đến không có khả năng trả nợ thì ít gây ảnh hưởng đến tình hình
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

2.4.3 Đối với khách hàng

Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, con người cũng nâng cao hơn về nhu cầu cuộc
sống hằng ngày, bắt đầu từ nhu cầu cơ bản là những hàng hóa thiết yếu rồi đền những
nhu cầu cao hơn như giải trí, địa vị xã hội, được tôn trọng, được vinh danh…Tuy
nhiên, không phải ai cũng có thể đáp ứng được những mong muốn của bản thân vì
những nhu cầu đó lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán hiện tại.
Chính vì vậy, ở một mức độ nào đó tín dụng KHCN giúp cho các khách hàng linh hoạt
hơn trong việc giải quyết vấn đề thỏa mãn nhu cầu bản thân. Thay vì phải tích lũy đủ
vốn ở hiện tại để thực hiện kế hoạch của bản thân, người tiêu dùng sẽ phối hợp giữa
thỏa mãn nhu cầu ở hiện tại với khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai. Nghĩa là
họ sẽ tiêu dùng trước bằng cách vay vốn ngân hàng rồi tích lũy và hoàn trả lại sau cho
ngân hàng.
Vai trò này hết sức có ý nghĩa với các KHCN, đặc biệt là giới trẻ họ có thể mua các
hàng hóa thiết yếu có giá trị cao như nhà cửa, xe ô tô, hay chi tiêu cấp bách như ốm
đau, bệnh tật, cưới hỏi… trong những trường hợp này, ngân hàng sẽ là sự lựa chọn
tuyệt vời với lãi suất và thời hạn vay hợp lý. Tuy nhiên, nếu lạm dụng đi vay để tiêu
dùng thì nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiết kiệm và gặp khó khăn trong tương lai.
Ngoài ra tín dụng cá nhân là một kênh các NHTM tài trợ vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh cho các hộ gia đình giúp họ có điều kiện sản xuất. Với điều kiện cấp tín
dụng đơn giản hơn so với doanh nghiệp, tín dụng cá nhân phù hợp với hình thức kinh
doanh nhỏ lẻ, phù hợp với đặc tính và tập quán kinh doanh của đối tượng này. Từ đó
tạo động lực cho các hộ gia đình kinh doanh nhỏ lẻ mạnh dạn phát triển kinh doanh,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.5. Các tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng đối với KHCN
2.5.1 Chất lượng tín dụng là gì

Chất lượng tín dụng là một khái niệm dùng để phản ánh mức độ rủi ro trong hoạt
động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở chỗ số tiền mà Ngân hàng
cho vay phải có lãi xuất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận lợi, thu hút được
nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Chất lượng tín dụng cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đánh giá các tổ
chức tín dụng. Năm 2006, Ngân hàng Nhà Nước đã sử dụng chất lượng tín dụng làm
một chỉ tiêu để xếp hạng các tổ chức tín dụng.
2.5.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng là gì?
Trong bảng chỉ tiếu đánh giá chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng do Ngân
hàng nhà nước Việt Nam đưa ra, chất lượng tín dụng được đánh giá căn cứ vào:
- Tỉ số nợ xấu trên tổng dư nợ
- Tỉ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
- Nợ khó đòi ròng = (nợ khó đòi - dự phòng rủi ro chưa sử dụng)
Trên thực tế, thì để đánh giá chất lượng tín dụng các ngân hàng, chúng ta còn có thể
sử dụng rất nhiều các chỉ tiêu khác để đánh giá toàn diện và chi tiết nhất. Các chỉ tiêu
đánh giá chất lượng tín dụng chi tiết gồm có:
- Tổng dư nợ:
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại
một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng
dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng yếu kém, không có khả năng
mở rộng khách hàng, khả năng tiếp thị của ngân hàng kém, trình độ cán bộ công nhân
viên thấp… Mặc dù vậy, chỉ tiêu này cao thì chưa hẳn chất lượng khoản vay tốt. Song
nếu tổng dư nợ tăng liên tục qua các năm thì lại cho thấy chiều hướng tăng lên của
chất lượng tín dụng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Theo quy định, nợ xấu là những loại nợ thuộc nhóm 3,4 và 5 trên hệ thống Trung
tâm thông tin tín dụng CIC.
Tỷ lệ nợ quá hạn cho ta biết trong một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng là nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ
lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp. Ngân hàng cần có các biện pháp
kiểm tra, giám sát các khoản vay của mình thật chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn ( % ) = Nợ quá hạn/ tổng dư nợ
- Vòng quay vốn tín dụng:
Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng tính toán hàng năm để đánh giá khả năng
tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của
khách hàng.
Vòng quay vốn tín dụng được tính theo công thức:
Vòng quay vốn Tín dụng (vòng) = Doanh số thu nợ/ dư nợ bình quân
Trong đó:
Dư nợ bình quân trong kỳ = ( Dư nợ đầu kỳ + Dư nợ cuối kỳ ) / 2
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn tín dụng
càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, nhưng do
vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các
doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác.
Như vậy, hệ số này càng tăng thì phản ánh tình hình tổ chức vốn tín dụng càng tốt,
chất lượng tín dụng càng cao
Ngoài ra, còn được tính theo các chỉ tiêu như: tỷ lệ tăng trưởng dư nợ, tỷ lệ tăng
trưởng doanh số cho vay, tỷ lệ thu lãi, hệ số thu nợ,...
2.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng cá nhân
* Chiến lược cho vay của NHTM Cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Nếu NH chú trọng cho vay hộ gia đình và cá nhân thì sẽ dễ dàng tiếp cận với nguồn
vốn ngân hàng hơn, cũng như các thủ tục cho vay nhanh gọn, tạo điều kiện nhất cho
khách hàng

* Nguồn vốn hiện tại của ngân hàng

Nhân tố này ảnh hưởng không đáng kể tới quyết định cho vay của NH trong cho vay
cá nhân vì lượng tiền vay không lớn và NH có thể đáp ứng được. Tuy nhiên , nếu NH
khó khăn về vốn thì cũng sẽ phải áp dụng chính sách hạn chế cho vay đối với khách
hàng cá nhân vì ưu tiên đối tượng vay vốn của các NH vẫn là khối doanh nghiệp

* Nhu cầu vay vốn của các hộ gia đình

Nhân tố này tùy thuộc phần lớn vào chính sách vĩ mô của nhà nước
cũng như sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, một số chính sách mới áp dụng
cũng là tác nhân làm cho lượng vay của cá nhân tăng mạnh
* Hạn chế của ngân hàng dành cho các đối tượng cho vay

NHTM đa phần đều không hạn chế đối tượng cho vay, nhưng có sự khác
biệt trong yêu cầu đối với khách hàng. Những khác biệt này tạo nên sức cạnh
tranh của các NH đồng thời thể hiện mức độ quan tâm của NH với lĩnh vực
này
* Thủ tục cho vay của Ngân hàng

Càng ngày thủ tục cho vay của NHTM càng gọn nhẹ hơn, thể hiện mức
độ cạnh tranh trong cho vay, thể hiện ở chỗ không chỉ thủ tục đơn giản mà
thời gian hoàn tất thủ tục vay cũng nhanh chóng. Cho thấy Ngân hàng quan
tâm nhiều hơn đến cho vay cá nhân, việc xử lý các khoản vay chuyên nghiệp
hơn.
Tài liệu tham khảo

1. Bùi Thị Nhung, Đặc điểm và phân loại tín dụng khách hàng cá nhân
(24/03/2022), Vai trò của tín dụng khách hàng cá nhân đối với nền kinh tế
(21/03/2022).
2. Ngô Hữu Tâm (2015), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bến Tre, Luận Văn
Thạc Sĩ Kinh Tế.
3. Ngân hàng thương mại (NHTM1121), Cơ sở lí luận về hoạt động tín dụng cá
nhân tại Ngân hàng thương mại, Đại học Kinh tế Quốc dân.
4. https://topbank.vn/tu-van/cac-chi-tieu-danh-gia-chat-luong-tin-dung-la-gi.

You might also like