HỌC THUYẾT TÂM LÍ HỌC HOẠT ĐỘNG

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 25

Họ tên - MSSV của các thành viên

1. Đỗ Phương Uyên - 2257010231

2. Võ Ngọc Như Trúc - 2257010229

3. Lê Thị Diệu Linh - 2257010086

4. Nguyễn Hoàng Nhật Tú - 2257010172

NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH


HỌC THUYẾT TÂM LÝ HỌC HOẠT ĐỘNG

I/ SƠ LƯỢC VỀ TÂM LÝ HỌC HOẠT ĐỘNG


Những lý luận của C.Mác đã mở đường cho các nhà tâm lý học trong đó có
L.X.Vygotsky đi tiên phong và sau đó là A.N. Leonchiev và nhiều nhà tâm lý học xô
viết khác trong việc xây dựng nền Tâm lý học Mác xít - nền tâm lý học hoạt động.
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã chỉ rõ, trong hoạt động lao động, con người
với tư cách là chủ thể lao động đã tác động vào đối tượng lao động, chuyển những lực
lượng bản chất của mình hoá vào các sản phẩm. Đó là quá trình chủ thể hoá đối tượng,
quá trình sáng tạo.
1. Quan điểm của L.S. Vygotsky:
L.S. Vygotsky là người đầu tiên có tư tưởng và đạt được những kết quả nghiên
cứu nhất định về nền tâm lý học hoạt động. Ông đã phân tích các khái niệm “công
cụ”, “thao tác”, “mục đích”,“động cơ”. Vygotsky khẳng định rằng: Nhận thức của con
người bao giờ cũng mang đậm nét văn hóa xã hội, và chịu ảnh hưởng của những giá
trị, niềm tin, cách sống của nền văn hóa, nơi con người đó sinh sống (ngay cả khi
người đó chỉ có tư duy một mình). Vygotsky cho rằng trẻ em khi sinh ra với chỉ một
vài chức năng tâm lý sơ đẳng (chú ý, cảm giác, tri giác và trí nhớ). Những chức năng
này dần dần sẽ phát triển và trở thành các chức năng tâm lý cao cấp, phức tạp, Sự phát
triển này diễn ra dưới ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa xã hội. Mỗi nền văn hóa truyền
cho trẻ em cách nhớ, cách suy nghĩ và cách tư duy. Ngoài ra, mỗi nền văn hoá còn có
những giá trị và chuẩn mực khác nhau, nên nó còn dạy cho trẻ em cần chú ý, cần nhớ,
cần suy nghĩ về cái gì.
Ví dụ:
Bé Hoa 4 tuổi vừa nhận được quà sinh nhật là hộp ghép hình, bé mở ra nhưng không
biết chơi cho đến khi bố bé đến, ngồi cạnh hướng dẫn cho bé một vài điều. Người bố
gợi ý nên ghép các góc trước tiên, và chỉ vào màu xanh của mình góc và đề nghị
chúng ta cùng tìm mảnh có màu giống thể này nữa nhé. Khi Hoa lúng túng, không biết
tiếp tục thế nào, bố bé đặt hai mảnh cạnh nhau để bé nhận ra chúng, khi Hoa làm
được, bỏ khen ngợi động viên bé. Khi Hoa từng bước nắm được cách chơi, bỏ bé
đứng lên và để bé tự chơi một mình. Như vậy, người lớn có vai trò quan trọng trong
việc hướng dẫn, động viên và khích lệ trẻ thông qua việc cùng học, cùng chơi với
chúng.
2. Quan điểm của A.N. Leonchiev:
Tiếp tục phát triển tư tưởng và thành quả đó, nhà tâm lý học Xô viết lỗi lạc
A.N. Leonchiev, trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm, lần đầu tiên đã mô tả cơ cấu
chung của hoạt động vào năm 1947. Sau gần 30 năm (năm 1975), ông đã cụ thể hoá
cơ cấu đó trên nhiều bình diện. Cấu trúc tâm lý của hoạt động (còn gọi là cấu trúc vĩ
mô của hoạt động) cũng được A.N. Leonchiev làm rõ gồm 6 thành tố chia thành 2 cột:

Hoạt động hợp bởi các hành động, là các bộ phận tạo thành hoạt động. Cái mà
hành động nhằm đạt tới là mục đích. Nếu coi động cơ là mục đích cuối cùng (mục
đích chung), thì mục đích mà hành động nhằm tới là mục đích bộ phận. Ở đây ta có
một bên là hành động, một bên là mục đích.
Hành động bao giờ cũng phải giải quyết một nhiệm vụ nhất định. Nhiệm vụ
này được hiểu là mục đích đề ra trong những điều kiện cụ thể nhất định, tức là mục
đích bộ phận phải được cụ thể hóa thêm một bước nữa, sự cụ thể hóa này được quy
định bởi các phương tiện, điều kiện cụ thể nơi diễn ra hành động. Từ đây cũng xác
định phương thức để giải quyết nhiệm vụ. Các phương thức này gọi là các thao tác. Ở
đây ta có một bên là thao tác một bên là các phương tiện, điều kiện khách quan cụ thể.
Theo A.N. Leonchiev, có hai loại hoạt động: hoạt động bên trong (hoạt động
tinh thần) và hoạt động bên ngoài (hoạt động thực tiễn). Hai loại hoạt động này có cấu
tạo chung giống nhau. Hoạt động bên trong có nguồn gốc từ hoạt động bên ngoài, là
quá trình chuyển đổi từ bên ngoài và bên trong cá nhân.
Cấu trúc của hoạt động bao gồm cả hoạt động bên trong và bên ngoài là đơn vị
phần tử. Vì vậy, cấu trúc hoạt động phải là cấu trúc chức năng và chuyển hóa chức
năng giữa các đơn vị hoạt động. A.N. Leontiev đã xác định một cấu trúc chức năng
của hoạt động, bao gồm sự chuyển hóa giữa các yếu tố chủ thể hoạt động, hành động
thao tác tương ứng với sự chuyển hóa chức năng của các đối tượng cần chiếm lĩnh:
động cơ, mục đích, phương tiện. Quá trình phát triển của cá nhân là quá trình lĩnh hội
các kinh nghiệm xã hội – lịch sử do loài người tích lũy qua các thế hệ. Thực chất của
quá trình này là sự tiến hành các hoạt động. Mỗi giai đoạn phát triển của cá nhân bao
gồm nhiều hoạt động, trong đó hoạt động chủ đạo giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Sự
thay thế nhau giữa các giai đoạn phát triển được đặc trưng bởi sự thay thế các hoạt
động chủ đạo. Vì vậy, có thể căn cứ vào hoạt động chủ đạo để xác định các giai đoạn
lứa tuổi trong quá trình phát triển cá nhân.

Phân loại hoạt động:


Có nhiều cách phân loại hoạt động. Chia một cách tổng quát nhất, loài người có
hai loại hoạt động: lao động và giao tiếp. Cách phân loại này căn cứ vào quan hệ giữa
người với đồ vật (chủ thể và khách thể) và quan hệ giữa người với người (chủ thể và
chủ thể).
Xét về phương diện phát triển cá thể, người ta thấy trong đời người có ba loại
hình hoạt động kế tiếp nhau. Đó là các loại hoạt động: vui chơi; học tập; lao động.
Ngoài ra còn có một cách phân loại khác chia hoạt động của con người ra thành
bốn hoạt động sau đây:
● Hoạt động biến đổi,
● Hoạt động nhận thức,
● Hoạt động định hướng giá trị,
● Hoạt động giao tiếp.
Hoạt động biến đổi có dạng điển hình nhất trong lao động. Những hoạt động
biến đổi bao hàm cả hoạt động biến đổi thiên nhiên, cả hoạt động biến đổi xã hội.
Trường hợp sau ta có hoạt động thường được gọi là hoạt động chính trị – xã hội.
Hoạt động biến đổi còn bao gồm loại hoạt động biến đổi con người, như hoạt
động giáo dục và hoạt động tự giáo dục. Cần nhấn mạnh rằng hoạt động này thực sự là
một loại hoạt động lao động biến đổi và có thể xếp vào loại hoạt động sản xuất tinh
thần – đào tạo ra con người lao động. Hoạt động dạy và học cũng là một loại hoạt
động nhận thức.
Hoạt động nhận thức là một loại hoạt động tinh thần, không làm biến đổi các
đồ vật thực, quan hệ thực v.v… Nó chỉ phản ánh sự vật, quan hệ…, mang lại cho chủ
thể các hình ảnh, các tri thức, về sự vật và quan hệ ấy. Bằng hoạt động nhận thức, con
người phân tích. tổng hợp, khái quát, ghi nhớ các hình ảnh ấy. Người ta nhận thức để
hiểu biết sự vật, nắm bắt bản chất của chúng, hiểu nghĩa chung của xã hội đã quy cho
từng vật thể, từng quan hệ v.v… Hoạt động định hướng giá trị là một dạng hoạt động
tinh thần, xác định ý nghĩa của thực tại đối với bản thân chủ thể, tạo ra phương hướng
của hoạt động.
Tóm lại, quan điểm xuất phát của Tâm lý học hoạt động gồm ba cơ sở chính:
● Luận điểm về bản chất con người con người không chỉ là một tồn tại tự nhiên
mà còn là một tồn tại xã hội, tồn tại lịch sử.
● Tư tưởng về hoạt động của con người, tâm lý con người được hình thành và thể
hiện trong hoạt động.
● Luận đề về ý thức; ý thức là sản phẩm cao nhất của hoạt động con người, được
tạo nên bởi những mối quan hệ giữa con người.
Sự ra đời của Tâm lý học hoạt động đã đánh dấu mốc lịch sử to lớn trong việc làm
sáng tỏ bản chất hiện tượng tâm lý người dưới góc độ hoạt động, đưa tâm lý người
thoát khỏi vòng khép kín con người sinh học – môi trường.

II/ CÁC THUỘC TÍNH CỦA NHÂN CÁCH

Theo nhà tâm lí học Nga K.K. Platonov thì nhân cách không phải là vô định, không
phải là cái túi với những đặc điểm của nhân cách vô tình bị bỏ vào trong đó. Nhân
cách có một cấu trúc nhất định. Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc
tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Từ đó có
thể nói, câú trúc nhân cách là sự sắp xếp các thuộc tính hay các thành phần của nhân
cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong một liên hệ và quan hệ nhất
định. Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc nhân cách. Có tác giả
xem xét cấu trúc nhân cách gồm ba, bốn hay năm thành phần. Song, các nhà tâm lý
học hoạt động coi nhân cách gồm bốn nhóm thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân:
xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực. Đây là những thuộc tính được thừa nhận
tương đối rộng rãi.
1. Xu hướng
1.1. Khái niệm
Xu hướng nhân cách là một thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân, bao hàm
trong nó một hệ thống những thúc đẩy quy định tính tích cực hoạt động và quy
định sự lựa chọn các thái độ của cá nhân.
Vd: với những cá nhân có xu hướng trong các lĩnh vực cộng đồng, xã hội , họ
sẽ rất tích cực tham gia vào các hoạt động chung của xã hôi, cảm thấy vui vẻ
khi làm các công việc cộng động.
=> Vai trò: quy định phương hướng cơ bản trong hành vi, mục đích cuộc đời
của cá nhân và tạo động cơ của hoạt động, định hướng, chi phối, điều khiển,
điều chỉnh, hoạt động. => vị trí trung tâm trong cấu trúc nhân cách
1.2. Các mặt biểu hiện của xu hướng
a. Nhu cầu
- Nhu cầu là sự thể hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn
cảnh, là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và
phát triển.
- Đặc điểm:
+ Có đối tượng -> thúc đẩy sự sáng tạo của con người, kích thích
sản xuất phát triển
+ Nội dung do điều kiện, phương thức thỏa mãn quy định -> nhu
cầu mang tính xã hội
+ Có tính chu kì
b. Hứng thú
- Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa
có ý nghĩa trong đời sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm
- Hai yếu tố cấu thành:
+ Yếu tố nhận thức: đối tượng phải có ý nghĩa với đời sống cá nhân
+ Yếu tố cảm xúc: đối tượng có khả năng hấp dẫn, tạo ra những
khoái cảm
- Vai trò:
+ Tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, hoạt động trí tuệ
+ Tăng sức làm việc
+ Nảy sinh khát vọng hành động và hành động sáng tạo
c. Lí tưởng
- Lí tưởng là một mục tiêu cao đẹp, được phản ánh vào đầu óc con người
dưới hình thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi
cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong một thời gian tương
đối lâu dài vào hoạt động để vươn tới mục tiêu đó
- Đặc điểm
+ Vừa mang tính hiện thực, vừa mang tính lãng mạn
+ Mang tính xã hội, lịch sử, giai cấp
- Chức năng
+ Biểu hiện tập trung nhất của xu hướng
+ Động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động
+ Ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành, phát triển của nhu cầu,
hứng thú
d. Thế giới quan, niềm tin
- Thế giới quan là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân
được hình thành ở mỗi người và xác định phương châm hành động ở
người đó
- Niềm tin là thế giới quan đã được kiểm nghiệm, thể nghiệm
- Vai trò: kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người.
2. Tính cách
“ Tính cách là một phong cách đặc thù của mỗi người phản ánh lịch sử tác động của
những điều kiện sống và giáo dục, biểu thị ở thái độ đặc thù của người đó đối với hiện
thực khách quan, ở cách xử sự, ở những đặc điểm trong hành vi xã hội của người
đó.”(A.G.Covaliov)

2.1. Cấu trúc


- Xu hướng (thành phần chủ đạo): quy định tính cách của con người phát triển
theo hướng nào.
- Tình cảm (thành phần cốt lõi, bao trùm của tính cách): đời sống tình cảm như
thế nào sẽ quy định tư cách đạo đức và tư thế tác phong của cá nhân như thế ấy.
- Ý chí (mặt sức mạnh): thúc đẩy và kiềm chế hành động. Nhờ có ý chí con
người mới chuyển được nội dung bên trong của tính cách thành kiểu hành vi.
- Khí chất (mặt động cơ): ảnh hưởng đến sự dễ dàng hay khó khăn của việc hình
thành và phát triển nét tính cách này hay khác của cá nhân.
- Kiểu hành vi (mặt hiện thực): hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá
nhân là sự thể hiện ra bên ngoài một cách cụ thể hệ thống thái độ của họ, là sự
thể hiện của tính cách cá nhân.
Tóm lại: Khi xét tính cách phải xét toàn bộ chỉnh của nó. Song trong thực tế, người ta
có thể gọi tính cách bằng nét tiêu biểu của thành trong cấu trúc như giàu tình cảm,
giàu nghị lực, nóng nảy, bình thản,...
2.2. Đặc điểm
- Tính cách là một thuộc tính tâm lí phức hợp cuả cá nhân, bao gồm một hệ
thống thái độ tương đối ổn định đối với hiện thực, thể hiện trong hệ thống hành
vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Tuy nhiên trong thực tế thái độ bên trong
không phải lúc nào cũng tương ứng với cách thể hiện ra bên ngoài. (Vd: Khẩu
phật tâm xà)
- Tính cách mang tính ổn định, bền vững, thống nhất và đồng thời thể hiện tính
độc đáo, riêng biệt, điển hình cho từng cá nhân. (tính cách chung của người
Việt Nam: cần cù, siêng năng, bất khuất; tính cách riêng biệt của mỗi vùng
miền)
- Tính cách không phải được di truyền, không phải bẩm sinh và không phải là
một thuộc tính bất biến, mà tính cách được hình thành từ hoạt động của con
người đối với môi trường sống.
3. Khí chất
3.1. Khái niệm
Khí chất là thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân biểu hiện ở cường độ, nhịp độ của
các hoạt động tâm lý thể hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân.
*LƯU Ý:
- Khí chất có cơ sở sinh lí là các kiểu hoạt động thần kinh của con người. Kiểu
hoạt động thần kinh khác nhau làm cho biểu hiện cụ thể ra bên ngoài về cường
độ, tốc độ, nhịp độ các hoạt động tâm lý của con người khác nhau.
- Khí chất không quy định giá trị đạo đức, giá trị xã hội của cá nhân như một
nhân cách. Người có khí chất khác nhau có thể có chung một giá trị đạo đức,
giá trị xã hội như nhau và ngược lại.
VD: Cả 2 người cùng tốt nhưng có 1 người có khí chất sôi nổi còn 1 người có khí chất
điềm tĩnh.
- Khí chất không quy định những nét tính cách mà chỉ có thể chi phối sự hình
thành của một số nét tính cách của cá nhân. Các nét tính cách khi thể hiện ra
bên ngoài dưới hình thức các hành vi xã hội thường mang sắc thái của một khí
chất này hay khí chất khác.
VD: Khí chất điềm tĩnh giúp con người có tính tự chủ cao, kiên nhẫn và ngoan cường.
- Khí chất không quy định trình độ của năng lực. Những người có cùng khí chất
có thể có năng lực khác nhau và ngược lại.
3.2. Các kiểu khí chất và cơ sở sinh lí của chúng
3.2.1. Cơ sở sinh lí
- Thuyết Thần kinh do nhà sinh lí học vĩ đại Nga I. P. Paplov đề ra đã giải thích
một cách thực sự khoa học về các khí chất. Theo ông, cơ sở sinh lí của các loại
khí chất là kiểu hoạt động thần kinh cấp cao quy định. Các kiểu ấy thể hiện tiêu
biểu bởi một tổng hợp nhất định các chỉ số về tính chất cơ bản của các quá
trình hưng phấn và ức chế-cường độ, tính linh hoạt và tính cân bằng.
- Có 4 kiểu hoạt động thần kinh cấp cao cơ bản:
+ Kiểu mạnh-cân bằng-linh hoạt (Sanguine): quá trình hưng phấn cân bằng với
quá trình ức chế.
+ Kiểu mạnh-cân bằng-không linh hoạt (Phlegmatic): quá trình hưng phấn cân
bằng với quá trình ức chế nhưng tính linh hoạt thấp.
+ Kiểu mạnh-không cân bằng (Choleric): quá trình hưng phấn mạnh hơn quá
trình ức chế.
+ Kiểu yếu (Melancholic): quá trình hưng phấn cũng như quá trình ức chế đều
yếu.
3.2.2. Các kiểu khí chất
Dựa vào kiểu thần kinh, người ta chia khí chất con người thành 4 kiểu khí chất cơ bản:
a. Kiểu khí chất hăng hái (kiểu thần kinh mạnh-cân bằng-linh hoạt)
- Ưu điểm:
+ Trong hoạt động người có kiểu khí chất này thường nhiệt tình đối với những
công việc mà họ hứng thú.
+ Tính linh hoạt cao, thích ứng dễ dàng với những biến đổi của hoàn cảnh sống.
+ Liên hệ nhanh chóng với mọi người xung quanh-có tính quảng giao.
+ Tính tình cởi mở, chân thành. Trong tập thể họ là những người vui tính.
+ Có trí tuệ mềm dẻo, ưa dí dỏm.
+ Tâm tính thường hay thay đổi nhưng chủ yếu là trạng thái thoải mái, cân bằng.
- Hạn chế:
+ Đối với những công việc không hứng thú họ dễ chán nản, uể oải.
+ Tình cảm của người thuộc kiểu này dễ dàng xuất hiện và cũng dễ dàng thay
đổi.
+ Giao thiệp rộng nhưng không sâu.
+ Không làm được các việc thầm lặng, tỉ mỉ.
+ Vội vàng, hấp tấp, lập trường không vững vàng, rất hay chủ quan.
+ Làm việc nhanh nhưng chất lượng không cao.
Vận dụng: Có thể tận dụng các ưu điểm của họ như: làm các công việc cần phản ứng
nhanh, phải thay đổi ấn tượng thường xuyên, liên quan tới ngoại giao,… đặc biệt là
các công việc mà họ thích thú để đạt được hiệu quả tốt.
b. Kiểu khí chất nóng nảy (kiểu thần kinh mạnh-không cân bằng)
- Ưu điểm:
+ Rất tích cực, nhiệt tình, say mê, có ý chí kiên nghị.
+ Phản ứng nhanh, kiên quyết, dứt khoát trong hành động.
+ Dễ chủ động sáng tạo, đánh giá nhanh tình huống, giải quyết nhanh công việc,
dễ thích nghi với môi trường xung quanh.
+ Thường là người thật thà, thẳng thắn, không quanh co.
+ Có khả năng lôi cuốn người khác.
+ Thường là những người đi đầu trong các hoạt động chung.
- Hạn chế:
+ Dễ cáu gắt và phản ứng cảm xúc mạnh. Vì vậy, dễ có thái độ hùng hổ, gay gắt,
thẳng thừng, có khả năng hoạt động đến mức độ căng thẳng
+ Khi sức lực bị hao tổn và niềm tin vào khả năng của mình bị suy sụp thì dễ xảy
ra tình trạng buồn nản.
+ Khả năng tự kiềm chế thấp, thiếu sự kiên trì, nhẫn nại.
+ Dễ mất cân bằng, tâm tình thay đổi đột ngột.
Vận dụng: Phù hợp với những công việc chứa nhiều mâu thuẫn, mới mẻ, cần quyết
đoán, mạo hiểm,…
c. Kiểu khí chất bình thản (kiểu thần kinh mạnh-cân bằng-không linh hoạt)
- Ưu điểm:
+ Là loại người bình tĩnh, luôn luôn cân bằng, lao động kiên trì, bền bỉ trong cuộc
sống ngay cả khi hoàn cảnh khó khăn.
+ Thích sự trật tự và ngăn nắp.
+ Dễ dàng kiềm chế được những cơn xúc động, những cơn tức giận, giữ vững
những quy tắc sống đã được đặt ra.
+ Làm việc có hệ thống, không bị lôi cuốn bởi những lý do nhỏ. Nhờ đó người
thuộc kiểu khí chất này có thể hoàn thành công việc ít tốn sức lực.
+ Cần cù, chú ý lâu bền, kiên nhẫn; bình tĩnh, thanh thản và chín chắn, ít bị kích
động.
+ Quan hệ với mọi người đúng mức, không thích ba hoa vô ích.
+ Tình cảm khó hình thành nhưng sâu sắc.
- Hạn chế:
+ Ít cởi mở, ít biểu hiện rõ rệt các cảm xúc và trạng thái tình cảm.
+ Tính ỳ và tính kém linh hoạt là nhược điểm của người trầm.
+ Khả năng tiếp thu cái mới chậm.
+ Khá nguyên tắc, cứng nhắc, đôi khi máy móc trong hoạt động nên khó thích
nghi với hoàn cảnh thay đổi. Vì vậy, hay bỏ lỡ thời cơ.
Vận dụng: Làm các công việc phù hợp với thế mạnh của họ: công việc ổn định, ít sự
thay đổi, xáo trộn, đặc biệt là các công việc đòi hỏi tính bảo mật cao và sự cẩn thận để
phát huy tốt và đạt được kết quả cao hơn. Có thể cân nhắc các công việc có tính chất
có đòi hỏi sự năng động và giao tiếp để khắc phục tính thụ động.
d. Kiểu khí chất ưu tư (kiểu thần kinh yếu)
- Ưu điểm:
+ Dịu dàng, tế nhị, tình cảm, cẩn trọng.
+ Có tính tự giác, ý thức cao, là người kiên trì.
+ Sự suy nghĩ sâu sắc và tưởng tượng phong phú đã làm cho họ nhìn thấy mọi
khó khăn trở ngại, lường trước được hậu quả có thể xảy ra.
+ Đặc điểm nổi bật của họ là thái độ hiền dịu và rất dễ thông cảm với mọi người
xung quanh.
+ Tuy ít cởi mở nhưng tình cảm của họ sâu sắc và bền vững.
+ Dễ kiềm chế, nhẫn nại, không hấp tấp và vội vàng, nếu được tin tưởng họ là
những người hoàn thành tốt mọi công việc được giao trong điều kiện quen
thuộc.
- Hạn chế:
+ Có xu hướng chìm đắm vào những chuyện không đáng kể.
+ Hay lo nghĩ, dễ bị tổn thương, hay chịu tác động của môi trường, không chịu
được sức ép công việc.
+ Không thích cởi mở, không thích giao du, không thích ứng với hoàn cảnh luôn
thay đổi. Họ dễ run sợ, ốm đau khi điều kiện sống thay đổi.
+ Rụt rè, nhút nhát, dễ bi quan, đa sầu, đa cảm.
Vận dụng: Họ nên làm các công việc liên quan đến nghiên cứu, công việc cần sáng
tạo, lãng mạn, nghệ thuật, văn, thơ, hội hoạ,…Không nên làm các công việc phức tạp,
đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực cao và quan trọng.

Kết luận:
- Mỗi kiểu khí chất đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, không có kiểu khí
chất nào tốt hoàn toàn hay xấu hoàn toàn. Do đó, không nên ưu ái loại khí chất
này mà ghét bỏ loại khí chất kia. Mặt khác, con người là một chủ thể có ý thức,
bằng ý chí và nghị lực của mình có thể có loại "khí chất tổng hợp" để thích ứng
với mọi tình huống, mọi hoàn cảnh.
- Mặc dù khí chất có cơ sở là kiểu thần kinh nhưng khí chất vẫn chịu sự chi phối
của các đặc điểm xã hội, biến đổi do rèn luyện và giáo dục. Mỗi cá nhân cần
hiểu rõ đặc điểm khí chất của chính mình để có thể tận dụng và phát huy tất cả
những ưu điểm cũng như hạn chế những nhược điểm, thiếu sót với mục đích
tạo ra những nét nhân cách có giá trị trong mỗi con người, đồng thời định hình
được phong cách, hành vi phù hợp với khí chất của bản thân.
- Ngoài ra, việc nắm rõ các đặc điểm khí chất còn giúp chúng ta tìm được công
việc phù hợp với kiểu khí chất của mình nhằm đạt được năng suất và hiệu quả
cao nhất.
4. Năng lực
4.1. Khái niệm
Năng lực là tổng hợp những thuộc tính tâm lí độc đáo của cá nhân đáp ứng yêu cầu
đặc trưng của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động ấy đạt kết quả cao.
4.2. Các mức độ năng lực
- Sự phù hợp giữa những thuộc tính của cá nhân với những yêu cầu hoạt động có
những mức độ khác nhau, vì thế tạo ra kết quả hoạt động khác nhau. Nói cách
khác, năng lực của người này khác với năng lực của người kia, hay năng lực
con người có nhiều mức độ cao thấp khác nhau.
- Dựa vào tốc độ tiến hành và chất lượng của sản phẩm hoạt động, người ta chia
năng lực làm ba mức độ cao thấp khác nhau là năng lực, tài năng và thiên tài.
a. Năng lực
- Là danh từ chung nhất, đồng thời cũng dùng để chỉ một mức độ nhất định của
năng lực, biểu thị sự hoàn thành với hiệu quả cao một hoạt động nào đó. Mức
độ này trong một hoạt động có nhiều người có thể đạt được. Trong một hoạt
động, tất cả những người đạt được kết quả nhất định ở mức hoàn thành nhiệm
vụ, đều được gọi là người có năng lực.
VD: Một nghệ sĩ hòa nhạc có năng lực có thể chơi một nhạc cụ một cách thành thạo
sau khi đã rèn luyện và luyện tập trong một khoảng thời gian dài.
b. Tài năng
- Là một cấp độ cao hơn của năng lực, dùng để chỉ một người đã tiến hành một
hoạt động phức tạp và đã đạt được kết quả xuất sắc ít người sánh kịp. Người tài
năng trong lĩnh vực nào sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong lĩnh vực đó.
VD: Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được xem là một tài năng lớn của nền âm nhạc Việt
Nam. Những ca khúc của ông mãi có sức ảnh hưởng to lớn đối với bao thế hệ người
nghe nhạc, chinh phục được hàng triệu con tim không chỉ ở trong nước mà cả ở ngoài
biên giới.
c. Thiên tài
- Là mức độ cao nhất của năng lực, là khả năng thực hiện có kết quả đặc biệt
xuất sắc trong một lĩnh vực hoạt động trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Sự
sáng tạo của những thiên tài khác với người tài năng ở chỗ, sản phẩm của họ có
ý nghĩa tích cực đối với một thời kì lịch sử, một xã hội, một thời đại, tạo ra một
bước ngoặt phát triển mới trong một lĩnh vực của đời sống xã hội.
VD: Albert Einstein được xem là một thiên tài với khả năng toán học và vật lý phi
thường, ông đã mang lại những đóng góp lớn cho lĩnh vực khoa học và thay đổi cách
chúng ta hiểu vũ trụ.
4.3. Phân loại năng lực
Có nhiều cách phân loại năng lực tuỳ thuộc vào những tiêu chí khác nhau. Một cách
phân loại có ý nghĩa hơn trong công tác giáo dục là phân loại theo mức độ chuyên biệt
của năng lực. Cách phân loại này chia năng lực làm hai loại là năng lực chung và năng
lực riêng.
4.3.1. Năng lực chung
Là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau như năng lực quan sát,
năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực ngôn ngữ... Năng lực chung là năng lực
nắm và vận dụng tri thức cơ bản của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội làm cơ sở cho
mọi hoạt động trong xã hội. Năng lực chung có hai mức độ: năng lực chung sơ đẳng
và năng lực chung phức tạp.
a. Năng lực chung sơ đẳng
Vốn có ở tất cả mọi người, tuy nhiên ở mỗi người khác nhau thì khác nhau.
VD: năng lực cảm giác, tri giác, ghi nhớ,...
b. Năng lực chung phức tạp
Cũng có ở mọi người nhưng ở các mức độ khác nhau, là năng lực ứng với hoạt động
chung của con người như vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp... Mỗi một năng lực
nằm trong nhóm này đều là một cấu trúc phức tạp của thuộc tính nhân cách. Khác với
năng lực sơ đẳng nói trên người ta thường nói đến số ít hoặc đơn lẻ của các khả năng
như ý chí với tư cách là một năng lực để đạt được mục tiêu còn năng lực chung phức
tạp là một phức hợp nhiều năng lực như năng lực học tập, năng lực lao động...
4.3.2.Năng lực riêng (hay năng lực chuyên môn)
- Là năng lực đặc trưng riêng trong những lĩnh vực hoạt động nhất định.
VD: năng lực hội hoạ, năng lực âm nhạc, năng lực sư phạm…
- Người ta cũng chia năng lực riêng thành năng lực riêng sơ đẳng và năng lực
riêng phức tạp.
a. Năng lực riêng sơ đẳng
- Là loại năng lực không có ở tất cả mọi người và ở mỗi người khác nhau thì
khác nhau. Đây là những thuộc tính phức tạp của nhân cách.
VD: khả năng ước lượng bằng mắt, óc phê phán, trí nhớ ý
nghĩa,...
- Những thuộc tính phức tạp như vậy của cá nhân biểu hiện ra trong những hoạt
động đặc trưng tương ứng.
b. Năng lực riêng phức tạp
- Được phát triển trong lịch sử loài người, thoạt đầu là năng lực về các nghề thủ
công, sau đó là các nghề nghiệp cụ thể. Xã hội càng phát triển thì năng lực
riêng càng nhiều.
- Ngày nay, có những nghề như lái máy bay, điều khiển tàu vũ trụ, kỹ sư lập
trình,…đều thuộc vào năng lực riêng phức tạp.
Tuy vậy, cách phân loại nói trên cũng chỉ mang tính tương đối nó chỉ có ý nghĩa trong
việc nghiên cứu. Trong thực tế giữa hai loại năng lực có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, bổ sung cho nhau. Năng lực riêng chính là năng lực chung được phát triển theo
một hướng chuyên biệt nào đó. Năng lực chung là cơ sở của năng lực riêng, cho nên
việc bồi dưỡng năng lực riêng không thể tách rời việc bồi dưỡng năng lực chung.
Trong thực tế cuộc sống, mỗi hoạt động đều đề ra những yêu cầu nhất định về năng
lực chung lẫn năng lực chuyên môn. Để phát triển năng lực chuyên môn không nên bỏ
hẹp việc bồi dưỡng, phát triển năng lực trong một ngành cụ thể nào đó. Chỉ có thể
phát triển toàn diện, hoàn chỉnh và thống nhất cả hai loại năng lực mới đảm bảo cho
cá nhân hoàn thành nhiệm vụ trong một loại hình hoạt động.
4.4. Mối quan hệ giữa năng lực với tư chất, năng lực với thiên hướng, năng lực
với tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
a. Mối quan hệ giữa năng lực với tư chất
- Tư chất là một trong những điều kiện hình thành năng lực nhưng tư chất không
quy định trước sự phát triển của năng lực.
VD: Người có đôi tai tinh tế chưa đủ để trở thành một nhạc sĩ, mà đó chỉ là một điều
kiện thuận lợi để trở thành một nhạc sĩ.
- Trên cơ sở của tư chất có thể hình thành những năng lực rất khác nhau.
VD: Cùng một kiểu thần kinh nhạy cảm nhưng người này hình thành năng lực kỹ
thuật, người kia lại hình thành năng lực văn học,…
- Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất nhưng điều chủ yếu là nó được
hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động dưới ảnh hưởng của giáo dục
và rèn luyện.
Ví dụ: Đôi tai bình thường của một em bé khi được tiếp xúc nhiều với môi trường âm
nhạc sẽ ngày một tinh tế, phân biệt âm thanh chính xác hơn, tức là đã chuyến từ đôi tai
bình thường thành đôi tai âm nhạc.
b. Mối quan hệ giữa năng lực với thiên hướng
- Năng lực như là phương tiện để thực hiện mục tiêu của thiên hướng. Quá trình
thực hiện mục tiêu của thiên hướng chính là quá trình hình thành và phát triển
năng lực. Trình độ phát triển năng lực quyết định quá trình hiện thực hoá
nguyện vọng của cá nhân.
VD: Bạn có một thiên hướng mạnh mẽ về việc trở thành một nhà viết sách. Bạn muốn
viết một cuốn tiểu thuyết độc đáo và được đọc rộng rãi. Ban đầu, bạn cảm thấy khó
khăn vì không có năng lực viết văn đáng kể. Tuy nhiên, bạn nhận ra rằng năng lực viết
là phương tiện để bạn thực hiện mục tiêu của mình. Vì vậy, bạn quyết định bắt đầu
học viết và rèn luyện kỹ năng viết của mình. Bạn đọc nhiều sách, tham gia vào các
khóa học viết và tìm kiếm phản hồi từ các người đọc và nhà xuất bản. Qua thời gian,
bạn bắt đầu cải thiện năng lực viết của mình. Bạn học cách xây dựng câu chuyện hấp
dẫn, phát triển nhân vật sâu sắc và tạo ra những bước ngoặt thú vị trong cuốn tiểu
thuyết của mình. Trình độ phát triển năng lực viết của bạn quyết định quá trình hiện
thực hoá nguyện vọng của bạn. Hơn thế, khi năng lực viết của bạn ngày càng trưởng
thành, bạn có thể hoàn thiện cuốn tiểu thuyết của mình và đạt được mục tiêu trở thành
một nhà văn thành công.
Ví dụ này làm rõ rằng năng lực viết là phương tiện để bạn thực hiện mục tiêu trở
thành nhà văn. Quá trình thực hiện mục tiêu chính là quá trình hình thành và phát triển
năng lực viết của bạn. Đồng thời, trình độ phát triển năng lực viết sẽ quyết định quá
trình hiện thực hoá nguyện vọng của bạn trong việc trở thành một nhà văn thành công.
- Ngược lại, thiên hướng hoạt động của cá nhân cũng ảnh hưởng đến năng lực
của cá nhân đó. Người có thiên hướng về mặt hoạt động nào thường có năng
lực về lĩnh vực hoạt động ấy. Một người say sưa tập trung mọi sức lực vào hoạt
động nào thường có năng lực về hoạt động ấy.
VD: Mozart là một nhà soạn nhạc thiên tài từ thời kỳ cổ điển. Ngay từ khi còn rất nhỏ,
Mozart đã thể hiện sự đam mê mãnh liệt và thiên hướng sâu sắc đối với âm nhạc.
Mozart bắt đầu học âm nhạc từ khi chỉ mới 3 tuổi và đã sớm phát triển năng lực đáng
kinh ngạc trong việc soạn nhạc. Ông đã viết nhiều tác phẩm âm nhạc xuất sắc từ khi
còn rất trẻ, bao gồm các vở opera, symphony và concerto.
Thiên hướng và đam mê của Mozart đối với âm nhạc đã ảnh hưởng đến năng lực của
ông. Ông đã dành rất nhiều thời gian và nỗ lực để rèn luyện và phát triển kỹ năng âm
nhạc của mình. Mozart tập trung mọi sức lực và tâm huyết vào việc sáng tác và biểu
diễn âm nhạc. Kết quả là, Mozart đã trở thành một nhà soạn nhạc vĩ đại và được công
nhận là một trong những nhà soạn nhạc xuất sắc nhất trong lịch sử. Thiên hướng và
tập trung của ông vào âm nhạc đã phát triển năng lực của ông đến một mức độ phi
thường.VD này làm rõ rằng thiên hướng hoạt động của cá nhân, trong trường hợp này
là đam mê và tận tụy với âm nhạc, có ảnh hưởng đáng kể đến năng lực của cá nhân
đó. Mozart, với thiên hướng sâu sắc và tập trung vào âm nhạc, đã phát triển năng lực
của mình trong lĩnh vực đó và trở thành một nhà soạn nhạc vĩ đại.
- Tuy nhiên cũng có một số trường hợp hai mặt xu hướng và năng lực không phù
hợp với nhau. Đó là những trường hợp xu hướng chưa thực sự, xu hướng giả
tạo hay tưởng tượng. Đó là hậu quả của ám thị hay tự ám thị. Người có xu
hướng này có thái độ hời hợt, thụ động, vì vậy kết quả đạt được chỉ ở mức
trung bình.
- Nói chung, giữa xu hướng và năng lực về một hoạt động nào đó thường có sự
phù hợp với nhau, quyện vào nhau và cùng phát triển trong mối quan hệ không
thể chia cắt của một nhân cách thống nhất.
c. Mối quan hệ giữa năng lực với tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
- Năng lực bao giờ cũng gắn với một hoạt động cụ thể nào đó. Bởi vậy, để có
năng lực trong lĩnh vực, nhất thiết phải có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về lĩnh vực
đó.
- Năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có sự thống nhất biện chứng nhưng không
đồng nhất với nhau.
- Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong lĩnh vực nào là điều kiện để hình thành năng lực
về lĩnh vực ấy. Mặt khác, năng lực lại được biểu hiện trong quá trình tiếp thu tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo. Người có năng lực trong lĩnh vực nào sẽ dễ dàng nắm tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo lĩnh vực đó.
VD: Tri thức về nấu ăn, kĩ năng trong việc chế biến món ăn và kĩ xảo trong việc trình
bày món ăn là các yếu tố quan trọng để hình thành năng lực trong lĩnh vực nấu ăn.
Một đầu bếp giàu kinh nghiệm và có năng lực trong lĩnh vực nấu ăn sẽ dễ dàng nắm
bắt tri thức về các nguyên liệu, kỹ thuật nấu ăn và những mẹo nhỏ để tạo ra các món
ăn ngon. Họ cũng sẽ có kĩ xảo trong việc trình bày món ăn, biết cách kết hợp các
thành phần một cách sáng tạo và hấp dẫn. Tuy nhiên, ngược lại, một người không có
năng lực trong lĩnh vực nấu ăn sẽ gặp khó khăn trong việc nắm bắt tri thức, kĩ năng và
kĩ xảo trong lĩnh vực này. Việc họ có thể không hiểu được cách chọn lựa nguyên liệu,
không thể áp dụng đúng kỹ thuật nấu ăn và không biết cách trình bày một món ăn hấp
dẫn.
- Tuy nhiên, có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về một lĩnh vực chưa chắc đã có năng
lực về lĩnh vực đó.
VD: Một học sinh nắm chắc công thức toán học và thuần thục trong việc giải các bài
toán có liên quan, nhưng chưa chắc học sinh đó có năng lực toán học.

Kết luận:
- Năng lực của mỗi con người được hình thành, phát triển và biểu hiện trong quá
trình sống và hoạt động của họ trong lòng xã hội loài người, trong những điều
kiện lịch sử xã hội nhất định. Năng lực là điều kiện cần thiết để cá nhân thực
hiện hoạt động có kết quả và năng lực cũng là kết quả của hoạt động.
- Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng điều chủ yếu là năng lực
hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con người dưới
sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Cần tiếp cận vấn đề phát triển
năng lực theo cách tiếp cận nhân cách. Việc hình thành và phát triển các phẩm
chất nhân cách là phương tiện có hiệu quả nhất để phát triển năng lực.

III/ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN VÀ HÌNH THÀNH
NHÂN CÁCH
Theo quan điểm tâm lí học mácxít, không phải con người mới được sinh ra đã có sẵn
nhân cách và cũng không phải nó được bộc lộ dần dần từ các bản năng nguyên thuỷ.
Nhân cách là một cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát triển trong quá trình
sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng A.N.
Leônchiép cũng chỉ ra rằng: Nhân cách cụ thể là nhân cách con người sinh thành và
phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế
giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan
hệ xã hội mà nó gắn bó. Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều
yếu tố: yếu tố sinh thể, môi trường xã hội, giáo dục và tự giáo dục, hoạt động, giao
tiếp
1. Yếu tố sinh thể:
- Yếu tố sinh thể là những yếu tố liên quan đến cấu trúc và hoạt động của cơ thể
mà có thể ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Ngay từ lúc trẻ
em sinh ra đều đã mang những đặc điểm hình thái - sinh lí của con người bao
gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền.
+ Đặc điểm bẩm sinh: là những yếu tố, đặc điểm hoặc khả năng mà một người
mang từ khi sinh ra, được kế thừa hoặc hình thành trong quá trình phát triển
thai nhi.
Ví dụ: Tài năng đặc biệt: Một số người có những tài năng đặc biệt từ khi sinh
ra, chẳng hạn như tài năng âm nhạc, hội họa, toán học hay thể thao. Những tài năng
này có thể được coi là yếu tố bẩm sinh, tuy nhiên, chúng cũng có thể được phát triển
và hoàn thiện thông qua huấn luyện và học tập.
Nhóm máu: Nhóm máu cũng là một yếu tố bẩm sinh do di truyền từ bố
mẹ. Có các nhóm máu khác nhau như A, B, AB và O. Ví dụ, nếu cha mẹ có nhóm
máu A và B, con cái có thể có nhóm máu A, B hoặc AB.
+ Đặc điểm di truyền: là những thông tin gen được truyền từ thế hệ cha mẹ sang
con cái. Gen là các đơn vị di truyền nằm trên các sợi ADN và chúng chứa
thông tin cần thiết để xác định các đặc điểm vật lý, sinh lý và hành vi của một
cá nhân.
Ví dụ: Chiều cao: Chiều cao của một người có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố di
truyền. Nếu cả bố và mẹ đều có chiều cao cao, khả năng cao con cái sẽ có chiều cao
cao hơn so với người có bố mẹ thấp hơn.

Sự khác nhau giữa yếu tố bẩm sinh và yếu tố di truyền:


+ Yếu tố di truyền (genetic factor): Đây là các thông tin gen được truyền
từ thế hệ cha mẹ sang con cái. Gen là các đơn vị di truyền tạo thành
DNA và chứa thông tin để xác định các đặc điểm và tính chất của một
cá nhân. Các yếu tố di truyền quyết định sự kế thừa của các đặc điểm và
có thể ảnh hưởng đến màu mắt, chiều cao, nhóm máu, và nhiều đặc
điểm khác.
+ Yếu tố bẩm sinh (congenital factor): Đây là các yếu tố, đặc điểm hoặc
khả năng mà một người mang từ khi sinh ra hoặc hình thành trong quá
trình phát triển thai nhi. Yếu tố bẩm sinh không chỉ bao gồm yếu tố di
truyền mà còn bao gồm cả yếu tố môi trường và tương tác giữa môi
trường và di truyền. Yếu tố bẩm sinh có thể được truyền từ cha mẹ hoặc
có thể là kết quả của tác động môi trường trong giai đoạn phát triển.
Ví dụ: Bệnh tim bẩm sinh
Yếu tố di truyền: Một số bệnh tim bẩm sinh có thể được chuyển giao từ thế hệ cha
mẹ sang con cái thông qua yếu tố di truyền. Nếu một trong hai bố mẹ mắc bệnh tim
bẩm sinh, tỷ lệ con cái mắc bệnh tim này sẽ cao hơn so với dân số chung.
Yếu tố bẩm sinh: Tuy nhiên, cũng có những yếu tố không phải là di truyền đóng vai
trò trong bệnh tim bẩm sinh. Ví dụ, việc một phụ nữ mang thai tiếp xúc với một số
chất gây hại trong suốt quá trình mang thai có thể gây ra các vấn đề về tim thai nhi, dù
không có yếu tố di truyền. Ngoài ra, các yếu tố môi trường khác như thuốc lá, rượu,
thuốc lá điện tử, thuốc lá thụ động và một số loại thuốc có thể làm tăng nguy cơ mắc
bệnh tim bẩm sinh ở thai nhi.
Vậy những yếu tố sinh học này có vai trò như thế nào trong sự hình thành và phát
triển nhân cách?
Kết luận: Theo quan điểm tâm lí học mácxít thì di truyền với các đặc điểm sinh học
nêu trên không quyết định chiều hướng cũng như giới hạn phát triển của nhân cách
con người. Mặc dù, những đặc điểm sinh học có thể ảnh hưởng mạnh đến quá trình
hình thành tài năng, xúc cảm, sức khoẻ thể chất... trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển con người nhưng nó chỉ đóng vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển
nhân cách.
2. Môi trường:
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội
xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có thể phân
thành hai loại:
+ Môi trường tự nhiên: bao gồm các yếu tố như địa lý, khí hậu, đặc điểm địa hình
và tài nguyên tự nhiên, cũng có ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Ví dụ: Một người lớn lên trong một môi trường nông thôn, thường xuyên tiếp xúc với
động vật như gia súc, gia cầm và cây cỏ, có thể phát triển kỹ năng làm việc với động
vật, khả năng quan sát và hiểu biết về vòng đời tự nhiên, cũng như sự nhạy bén về môi
trường tự nhiên. Mặt khác, một người lớn lên trong môi trường đô thị hoặc môi trường
mà tiếp xúc với thiên nhiên hạn chế có thể phát triển tính cách ít quan tâm đến môi
trường xung quanh.
+ Môi trường xã hội: Môi trường xã hội bao gồm cả một hệ thống quan hệ chính
trị, kinh tế, xã hội – lịch sử, văn hoá, giáo dục... được thiết lập. Con người hoà
nhập được với xã hội qua môi trường này. Tác động của môi trường xã hội đến
sự hình thành và phát triển nhân cách qua các mối quan hệ xã hội mà mỗi cá
nhân tham gia tích cực vào các mối quan hệ đó.
Ví dụ: Gia đình: Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất trong việc hình
thành và phát triển nhân cách. Gia đình cung cấp cho con người những giá trị, niềm
tin, quy tắc và mô hình hành vi. Sự tương tác và quan hệ trong gia đình có thể ảnh
hưởng đến cách con người phát triển các kỹ năng xã hội, khả năng giao tiếp, sự tự tin
và cảm giác tự giác. Một gia đình yêu thương, hỗ trợ và khuyến khích con người phát
triển sự độc lập, sáng tạo và tự tin có thể giúp con người trở thành người tự tin, có khả
năng giải quyết vấn đề và tương tác xã hội tốt.
Phương tiện truyền thông và công nghệ: Môi trường truyền thông và công nghệ
ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc sống hiện đại. Phương tiện truyền thông đại
chúng, mạng xã hội và công nghệ thông tin có thể ảnh hưởng đến quan điểm, giá trị và
hành vi của con người. Cách mà con người sử dụng và tương tác với các phương tiện
này có thể tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Sự tiếp xúc với thông
tin đa dạng và quan điểm khác nhau thông qua phương tiện truyền thông và mạng xã
hội có thể khuyến khích con người phát triển tính cách linh hoạt, có khả năng đánh giá
phản biện và mở lòng ra sự đa dạng.
Kết luận: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đều tác động đến con người một
cách tự phát hay tự giác. Tuy nhiên, con người không phải là một thực thể thụ động
trước các tác động của môi trường mà là một chủ thể tích cực. Tính chất và mức độ
ảnh hưởng của môi trường còn phụ thuộc vào các đặc điểm tâm lí bên trong của cá
nhân (xu hướng, năng lực, thái độ...) và vào mức độ cá nhân tham gia cải tạo môi
trường, ở đây có sự tác động qua lại giữa các nhân cách và môi trường. Những tác
động của môi trường hay hoàn cảnh đã được phản ánh vào nhân cách. Chính trong quá
trình con người tác động cải biến hoàn cảnh nhằm phục vụ cho lợi ích của mình và xã
hội thì cũng là quá trình cải tạo chính bản thân mình. Nói về mối quan hệ này, C. Mác
đã viết: "Hoàn cảnh đã sáng tạo ra con người, trong chừng mực mà con người đã sáng
tạo ra hoàn cảnh".
Môi trường xã hội mà đặc biệt là giáo dục có tác động mạnh mẽ đến mỗi cá nhân. Vì
sao vậy? Vì môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều
kiện cho hoạt động và giao lưu của cá nhân. Qua đó, con người chiếm lĩnh được các
kinh nghiệm xã hội loài người. Sau đây chúng ta sẽ phân tích từng con đường hình
thành và phát triển nhân cách.
3. Giáo dục:
- Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát
triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn
lịch sử nhất định. Từ giáo dục thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
+ Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường, xã hội
bao gồm cả dạy học và cách tác động giáo dục khác đến con người.
+ Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xem như là một quá trình tác động đến thế hệ
trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi... nhằm hình thành thái độ, niềm tin, thói
quen cư xử đúng đắn trong gia đình, nhà trường và xã hội.
- Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo
(theo quan điểm tâm lí học mácxít). Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện
ở những điểm sau:
+ Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Vì
giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định, hình thành một mẫu người
cụ thể cho xã hội – một mô hình nhân cách phát triển, đáp ứng những yêu cầu
của xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Điều đó được thể hiện qua
việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo của nhà trường và các tổ chức giáo
dục ngoài nhà trường.
Ví dụ: Chương trình giáo dục giảng dạy kỹ năng sống, chương trình giảng dạy
giá trị và đạo đức.
+ Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm
xã hội – lịch sử đã được kết tinh trong các sản phẩm văn hoá vật chất và tinh
thần của nhân loại. Thế hệ trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm đó để biến chúng
thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên nhân cách của mình.
+ Giáo dục có thể đem lại cho con người những cái mà các yếu tố bẩm sinh – di
truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được.
Ví dụ: đứa trẻ được sinh ra, theo thời gian nó được tăng trưởng, nhưng tự nó
không thể biết đọc, biết viết nếu nó không được học chữ.
+ Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự
hình thành nhân cách như các yếu tố thể chất (bẩm sinh di truyền), yếu tố hoàn
cảnh sống, yếu tố xã hội.
Ví dụ: Những người có năng khiếu bẩm sinh về thể thao theo học các trường
học có chương trình giáo dục thể chất chuyên sâu. Trường học này có một
phòng tập thể dục hiện đại và đội ngũ giáo viên chuyên môn về thể dục. Học
sinh được hướng dẫn tập luyện các môn thể thao như bóng đá, bóng rổ, điền
kinh, võ thuật, hoặc tham gia các hoạt động ngoài trời như leo núi, trượt tuyết,
hay đi xe đạp. Ngoài ra, trường cũng đảm bảo rằng học sinh nhận được dinh
dưỡng lành mạnh và cân đối. Họ cung cấp chương trình giáo dục dinh dưỡng,
hướng dẫn học sinh về lợi ích của việc ăn uống lành mạnh và cung cấp thực
đơn đa dạng và giàu chất dinh dưỡng trong căn tin của trường. Chương trình
giáo dục thể chất chuyên sâu này không chỉ giúp học sinh phát triển cường độ
và sức mạnh thể chất mà còn giúp họ rèn luyện các kỹ năng như lãnh đạo, tinh
thần đồng đội, và quản lý thời gian. Nhờ vào việc đạt được những thành tựu
trong thể chất, học sinh trở nên tự tin hơn, có ý thức về sức khỏe và rèn luyện ý
chí kiên nhẫn, sự kiên trì và sự kiểm soát bản thân. Tổng thể, chương trình giáo
dục thể chất chuyên sâu trong trường học này tận dụng mặt mạnh của yếu tố
thể chất (bẩm sinh di truyền) để phát triển nhân cách học sinh. Bằng cách tạo
cơ hội cho học sinh tham gia vào hoạt động thể dục và huấn luyện chuyên sâu,
trường giúp họ phát triển toàn diện cả về mặt thể chất lẫn tinh thần.

+ Giáo dục có thể bù đắp cho những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh –
di truyền không bình thường, hoàn cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây nên (như
người bị khuyết tật bị bệnh hoặc do hoàn cảnh không thuận lợi).
Ví dụ: Trường học tích cực hóa sự khác biệt và tạo ra môi trường học tập bao
gồm tất cả các học sinh. Tại trường học này có các chương trình giáo dục đặc
biệt được thiết kế để đáp ứng nhu cầu riêng của từng học sinh. Đối với những
học sinh bị khuyết tật, trường cung cấp các phương pháp giảng dạy và tài liệu
học phù hợp nhằm giúp họ vượt qua các rào cản và phát triển tiềm năng của
mình. Đồng thời, trường cũng tạo điều kiện cho các hoạt động tương tác và hợp
tác giữa các học sinh bình thường và học sinh khuyết tật, nhằm thúc đẩy sự
hiểu biết, sự đồng cảm và sự chia sẻ trong cộng đồng học tập. Ngoài ra, trường
cũng đảm bảo rằng không có sự kỳ thị hay phân biệt đối xử trong môi trường
học tập. Học sinh được khuyến khích hiểu và tôn trọng sự đa dạng và khác biệt
của mỗi cá nhân. Giáo viên và nhân viên trường được đào tạo để xử lý các tình
huống đa dạng và đáp ứng nhu cầu riêng của từng học sinh. Bằng cách tạo điều
kiện công bằng và khuyến khích sự đồng cảm, sự hiểu biết và sự chia sẻ,
trường giúp tất cả các học sinh phát triển tiềm năng của mình và xây dựng một
cộng đồng học tập đa dạng và hòa nhập.
+ Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch của nhân cách về một mặt nào đó so
với các chuẩn mực, do tác động tự phát của môi trường gây nên và làm cho nó
phát triển theo hướng mong muốn của xã hội (giáo dục lại).
Ví dụ: Vụ việc bạo lực học đường của HS của một trường cấp 2 tại TP.HCM,
bên cạnh các biện pháp kỉ luật răn đe, nhà trường áp dụng thêm biện pháp buộc
các em đọc sách ở thư viện 2 tuần, nhất là các đầu sách về đạo đức, dưới sự
giám sát của thầy cô. Đọc xong, các em ghi lại cảm nhận rồi từng em được
đứng trước trường chia sẻ về bài học rút ra. Người đứng đầu cơ quan giáo dục
cho rằng hình thức kỷ luật kèm rèn tính cách, đạo đức qua việc đọc sách sẽ hữu
ích hơn việc đình chỉ học tập vài tuần.
+ Giáo dục có thể đón trước sự phát triển, nó "hoạch định nhân cách tương lai”
để tác động hình thành và phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội. Như
vậy, giáo dục không chỉ tính đến trình độ hiện tại của sự phát triển nhân cách
mà còn đưa đến bước phát triển tiếp theo.

Kết luận: Những điểm nêu trên cho thấy, không thể có sự phát triển tâm lí, nhân cách
của trẻ em ngoài dạy học và giáo dục. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách, song không nên tuyệt đối hoá vai trò của giáo dục. Giáo
dục không phải là vạn năng, bởi vì giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo
hướng đó. Còn cá nhân có phát triển theo hướng đó hay không và phát triển đến trình
độ nào thì giáo dục không quyết định trực tiếp được, cái quyết định trực tiếp lại chính
là hoạt động và giao tiếp của mỗi cá nhân. Đặc biệt, con người là thực thể tích cực, có
thể tự hình thành và biến đổi nhân cách của mình một cách có ý thức, có khả năng tự
cải tạo chính bản thân mình, có nhu cầu tự khẳng định, tự ý thức, tự điều chỉnh cho
nên con người có hoạt động tự giáo dục. Vì vậy, giáo dục không được tách rời với tự
giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
4. Hoạt động và giao tiếp
4.1. Hoạt động của cá nhân
- Mọi tác động có mục đích tự giác của giáo dục sẽ không có hiệu quả, nếu cá
nhân con người không tiếp nhận tác động đó, nếu họ không trực tiếp tham gia
vào hoạt động để hình thành nhân cách của mình. Do đó, hoạt động của cá
nhân mới là yếu tố quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách.
- Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người là
hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện
bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Vì vậy, mỗi loại
hoạt động có những yêu cầu nhất định và đòi hỏi ở con người những phẩm chất
tâm lí nhất định. Quá trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành
những phẩm chất đó. Vì thế, nhân cách của họ được hình thành và phát triển.
Ví dụ: Hoạt động học tập và trải nghiệm
Hoạt động học tập giúp cá nhân tiếp thu kiến thức và phát triển kỹ năng cần
thiết trong cuộc sống. Việc học qua sách giáo trình, bài giảng, nghiên cứu và
thảo luận tạo cơ hội cho cá nhân tiếp nhận thông tin mới, phân tích và tổ chức
kiến thức, từ đó xây dựng một cơ sở tri thức vững chắc. Hơn nữa, học tập cũng
giúp phát triển kỹ năng như tư duy logic, tư duy sáng tạo, khả năng giải quyết
vấn đề và kỹ năng giao tiếp.
Trải nghiệm thực tế: Ngoài việc học từ sách vở, trải nghiệm thực tế cung cấp
cho cá nhân những kinh nghiệm sống động và tác động sâu sắc hơn đến sự hình
thành nhân cách. Điều này bao gồm tham gia vào các hoạt động thực tế như
thực tập, dự án, tình nguyện và du lịch. Trải nghiệm thực tế giúp cá nhân áp
dụng kiến thức và kỹ năng đã học vào thực tế, đối mặt với các tình huống thực
tế và học cách giải quyết những thách thức thực tế. Điều này không chỉ giúp
củng cố kiến thức, mà còn khám phá và phát triển các khía cạnh khác của bản
thân như khả năng quản lý thời gian, làm việc nhóm, tự tin và khả năng thích
ứng với môi trường mới. Kết quả là, hoạt động học tập và trải nghiệm đóng vai
trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Chúng cung cấp
kiến thức, phát triển kỹ năng, khám phá trải nghiệm thực tế, khả năng phê phán
và phân tích, cũng như khả năng giao tiếp và hợp tác. Tất cả những yếu tố này
đóng góp vào việc xây dựng một cá nhân tự tin, sáng tạo, linh hoạt và có khả
năng thích ứng với môi trường và xã hội xung quanh.
Kết luận: Hiểu được mối quan hệ giữa hoạt động và nhân cách nên hoạt động phải
được coi là một phương tiện giáo dục cơ bản. Nhưng không phải ở tất cả các giai đoạn
hay thời kì phát triển và cũng không phải các dạng hoạt động đều có tác động như
nhau đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Do đó cần phải hiểu rõ, sự hình
thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở
mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách, con người phải tham gia vào các
dạng hoạt động khác nhau. Vì thế phải lựa chọn, tổ chức và hướng dẫn các hoạt động
đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với việc hình thành và phát triển nhân
cách.
Hoạt động của con người luôn luôn mang tính chất xã hội, tính cộng đồng. Điều đó
cũng có nghĩa là hoạt động luôn luôn gắn liền với giao tiếp. Vì thế, giao tiếp cũng là
một con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách.
4.2. Giao tiếp
Giao tiếp là một trong những con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách.
Liên quan đến vấn đề này, nhà tâm lí học Xô viết B.F. Lômôp đã viết: "Khi chúng ta
nghiên cứu lối sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân
tích xem nó làm cái gì và như thế nào, mà chúng ta còn phải nghiên cứu xem nó giao
tiếp với ai và như thế nào".
- Giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản nhất và xuất hiện sớm nhất
hay có thể nói là nhu cầu bẩm sinh của con người. Giao tiếp là điều kiện tồn tại
của mỗi cá nhân và của cả xã hội loài người. Chỉ có mối quan hệ giữa các cá
nhân với nhau mới hình thành nên xã hội loài người. Mỗi cá nhân không thể
phát triển bình thường theo kiểu người và không thể trở thành nhân cách nếu
không được giao tiếp với những người khác.
- Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ nhận thức được người khác, mà
còn nhận thức được chính bản thân mình. Khi tiếp xúc, con người thấy được
những cái có ở người khác, tự so sánh, đối chiếu với những cái mình làm, với
các chuẩn mực xã hội nên đã thu nhận được những thông tin cần thiết để hình
thành sự đánh giá bản thân như một nhân cách, để hình thành một thái độ giá
trị – cảm xúc nhất định đối với bản thân...
Ví dụ: Một học sinh được khuyến khích tham gia vào các hoạt động giao tiếp
trong lớp học, như thảo luận nhóm, thuyết trình hoặc dự án nhóm, sẽ có cơ hội
phát triển kỹ năng giao tiếp và xây dựng sự tự tin trong việc diễn đạt ý kiến và
ý tưởng của mình. Giao tiếp trong môi trường học tập cũng giúp học sinh hiểu
và tôn trọng quan điểm của người khác, khám phá thêm về sự đa dạng và phát
triển khả năng giải quyết xung đột.
Tổng kết: (Con đường hình thành và phát triển nhân cách) Tóm lại bốn yếu tố:
sinh thể, môi trường xã hội, giáo dục và tự giáo dục, hoạt động và giao tiếp đều tác
động đến sự hình thành và phát triển nhân cách, nhưng có vai trò không giống nhau.
Theo quan điểm tâm lí học mácxít, yếu tố sinh thể giữ vai trò làm tiền đề yếu tố môi
trường xã hội có vai trò quyết định, yếu tố giáo dục và tự giáo dục giữ vai trò chủ
đạo; yếu tố hoạt động và giao tiếp của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách. Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối
quan hệ xã hội, dưới tác động chủ đạo của giáo dục sẽ đưa tới hình thành một cấu
trúc nhân cách tương đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong
quá trình sống, nhân cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân
tự ý thức, tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ cao
hơn, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội.

IV/ ỨNG DỤNG CỦA TÂM LÝ HỌC HOẠT ĐỘNG


1. Vận dụng thuyết hoạt động trong dạy và học
Có thể vận dụng lý thuyết của A.N. Leonchiev về hoạt động tâm lý để giải quyết
hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn dạy học. Trong đó, chủ yếu là việc hình thành
hoạt động học tập cho người học. Muốn vậy, trước hết phải hình thành cho người học
các đơn vị chức năng của hoạt động học tập bao gồm: động cơ, mục đích, quá đó hình
thành thao tác, hành động và hoạt động học tập, trong đó, hình thành hành động học
là khâu trung tâm.
Hình thành hành động học tập là khâu then chốt dẫn đến sự thành công trong dạy
học, bởi lẽ, nếu hình thành được hành động học tập sẽ có nhiều cơ hội để hình thành
hoạt động học tập. Mặt khác, từ hành động học tập có thể luyện tập để trở thành thao
tác cho hành động khác. Việc hình thành hành động học tập cho người học đòi hỏi
trước hết phải xác định được mục đích học tập và giúp người học ý thức được mục
đích đó. Bước tiếp theo là huy động các thao tác (phương tiện tâm lý) và phương tiện
kỹ thuật để thực hiện mục đích đã được ý thức.
Hình thành thao tác học tập được hình thành theo cơ chế chuyển hóa hành động
học thành thao tác học. Quá trình này phải được thực hiện trên cả hai phương tiện,
luyện tập và rút gọn hành động học tập tới mức thành thạo. Sau đó, phải sử dụng thao
tác đo vào trong hành động học tập khác. Quy luật chung của việc chuyển hóa hoạt
động học tập thành hành động và thao tác học là bất kỳ khái niệm khoa học nào cùng
phải được hình thành như một hành động học tập và cũng đều có thể và phải trở thành
phương tiện để hình thành khái niệm tiếp theo.

Như vậy, trung tâm của việc hình thành hoạt động cho người học chính là nghệ
thuật và kỹ thuật hình thành, chuyển hóa các đơn vị chức năng của hoạt động này.
Hình thành động cơ học tập → mục đích học tập → phương tiện học tập; từ đó, hình
thành hoạt động học tập → hành động học tập → thao tác học tập.
2. Vận dụng thuyết hoạt động trong quân sự
Lý thuyết hoạt động trong tâm lý học đã có ứng dụng thực tiễn to lớn trong quản lý
chỉ huy lãnh đạo bộ đội trên tất cả các mặt hoạt động quân sự đặc biệt là trong huấn
luyện kỹ, chiến thuật chuẩn bị các mặt cho bộ đội sẵn sàng chiến đấu, trong giáo dục
chính trị tư tưởng bộ đội của các cán bộ chính trị v.v…Nhiều kinh nghiệm thực tiễn
trong quản lý lãnh đạo bộ đội được lý thuyết tâm lý học hoạt động soi sáng, làm rõ
những cơ sở lý luận khoa học của nó và do đó, những kinh nghiệm công tác ấy đã
được nâng lên một tầm cao mới, được cán bộ quản lý lãnh đạo các cấp tiếp nhận một
cách có ý thức, hoàn thiện một cách đáng kể hiệu lực quản lý lãnh đạo chỉ huy bộ đội.
Trước hết, cần lưu ý rằng tâm lý con người không phải là một thực thể đóng kín bên
trong, mà ngược lại, luôn thể hiện trong các hoạt động, được tích hợp và là một phần
không thể thiếu của hành động.
Một quan điểm phát sinh từ quan điểm này là rằng tâm lý con người nói chung, và
đặc biệt là tâm lý quân nhân, không tự nảy sinh mà luôn phát triển và hình thành
thông qua hoạt động. Để đào tạo và phát triển phẩm chất nhân cách tích cực cho quân
nhân, cần tập trung vào các hoạt động quân sự cụ thể. Điều này đồng nghĩa với việc
không thể phủ nhận rằng trong môi trường kinh tế mở, nhiều thanh niên gia nhập quân
đội mang theo những trải nghiệm và tâm sự cá nhân, do ảnh hưởng của nhiều chính
sách xã hội khác nhau, dẫn đến những khó khăn và sự không đồng nhất khi họ cố gắng
thích ứng với cuộc sống quân ngũ.
Theo tư tưởng của A.N. Leonchiev, chúng ta phải dám chấp nhận hiện trạng và sẵn
sàng bắt tay vào việc xây dựng nó một cách thực sự thực tế để có được các phẩm chất
nhân cách quân nhân theo mong muốn. Đương nhiên, giải quyết một cách toàn diện và
cơ bản chất lượng của tuổi trẻ nói chung, của chiến sĩ mới bổ xung cho quân đội nói
riêng thuộc về trách nhiệm chung của Đảng, nhà nước, hiệu quả thực tiễn của sự
nghiệp giáo dục nói chung, sự nghiệp giáo dục quốc phòng trong các nhà trường phổ
thông và đại học nói riêng.
Nghiên cứu cấu trúc tâm lý của hoạt động đã đưa đến một vấn đề hết sức có ý nghĩa
trong tâm lý học quân sự là việc xác định động cơ hoạt động của quân nhân và vấn đề
tác động vào hệ động cơ nhằm thúc đẩy tính tích cực hoạt động phục vụ quân sự của
các quân nhân. Động cơ là thành tố quan trọng nhất, giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ
cấu trúc tâm lý của hoạt động. Bởi thế, trong xem xét đánh giá hành vi, hoạt động của
các quân nhân, nhà quản lý lãnh đạo phải tìm cho ra những khía cạnh động cơ của
hoạt động đó. Đồng thời muốn nâng cao tính tích cực của các quân nhân, phải tìm
cách tác động thẳng vào hệ động cơ của các quân nhân bao gồm các động cơ chính trị-
xã hội; động cơ nghề nghiệp quân sự; động cơ vì tập thể; các động cơ thuần lợi ích cá
nhân,... Điều này đã làm cho hoạt động của các cán bộ chỉ huy quân sự liên quan mật
thiết, gắn chặt với hoạt động của các cán bộ chính trị và ngược lại. Là người chỉ huy
quân sự phải giỏi về công tác tư tưởng, tâm lý, giỏi về công tác Đảng, công tác chính
trị và ngược lại là cán bộ chính trị, phải bám sát hoạt động quân sự của bộ đội, biết chỉ
huy bộ đội, tức là phải là người cán bộ quân sự giỏi.

- HẾT -

You might also like