Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 7

ĐẤT NƯỚC

(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”)


NGUYỄN KHOA ĐIỀM

I. GIỚI THIỆU
1. Về tác giả
- Sơ lược về tiểu sử, cuộc đời:
- Sáng tác văn học:
2. Về tác phẩm và đoạn trích:
a. Trường ca “Mặt đường khát vọng”
b. Đoạn trích: Đất nước
II. ĐỌC HIỂU
Cảm hứng về đất nước là một trong những nguồn cảm hứng lớn của văn học Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử. Cách cảm nhận của mỗi nhà văn, nhà thơ về đất nước có nét riêng khác
nhau, nhưng thường có một điểm chung là đất nước được cảm nhận từ thực tế cuộc kháng
chiến chống xâm lược, vì thế đất nước hiện ra dưới những hình tượng kỳ vĩ, hoành tráng đậm
chất sử thi. Còn Nguyễn Khoa Điềm, dù viết về đất nước trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc, lại có cách cảm nhận rất riêng: cảm nhận đất nước từ phương diện văn
hoá, lịch sử, địa lí.
1. Cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước:
a. Đất nước có từ xa xưa và hiện hữu trong cuộc sống đời thường của nhân dân:
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất nước có từ ngày đó…”
- Với NKĐ, đất nước đã có từ rất xa xưa: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” – đất nước đã
tồn tại trước cuộc đời mỗi chúng ta. Vì vậy, hiển nhiên đất nước đã hiện hữu trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta:
+ Đất nước đã có trong “những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”. Tác giả đã
khéo sử dụng mô-tip (công thức) mở đầu các câu chuyện cổ “ngày xửa ngày xưa” vốn rất
quen thuộc đối với mỗi con người từ thuở thơ bé thường hay được nghe bà, mẹ kể chuyện, để
cho thấy đất nước đã có từ rất xa xưa và rất thân thuộc qua những câu chuyện cổ mẹ thường
hay kể: mỗi khi mẹ cất tiếng kể chuyện là đất nước lại hiện ra qua những sự tích, những
huyền thoại… thấm đẫm tình cảm, ước mơ của người dân Việt. Vì thế, đất nước rất giản dị và
gần gũi trong lời kể chuyện của mẹ.
+ Đất nước hiện hữu trong những nét phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của
người Việt từ xa xưa như tục ăn trầu (“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”), tập
tục búi tóc cổ truyền của phụ nữ Việt Nam (“Tóc mẹ thì bới sau đầu”). Tục ăn trầu là một
phong tục quen thuộc của người dân Việt trong sinh hoạt giao tiếp cộng đồng (“Miếng trầu là
đầu câu chuyện”), nhất là trong các lễ hội dân gian, là một trong các nghi thức không thể
thiếu trong dịp cưới hỏi trọng đại của mỗi đời người (“Miếng trầu nên dâu nhà người”) . Vì
thế, mỗi khi nhìn thấy bà ăn trầu, nhìn thấy búi tóc mẹ bới sau đầu là thấy đất nước.
+ Đất nước hiện hữu trong lũy tre làng thân quen ngàn đời nay gắn bó với đời sống thôn
xóm làng quê của người Việt. Cụm từ “trồng tre mà đánh giặc” trong câu thơ còn gợi huyền
thoại anh hùng Thánh Gióng, vì thế, đất nước còn là truyền thống anh hùng chống ngoại xâm
của dân tộc Việt.
+ Đất nước hiện thân trong nét tính cách, cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn như lối sống nghĩa tình

1
của con người Việt Nam qua hình ảnh tình nghĩa thuỷ chung của mẹ cha: “Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở câu thơ này, tác giả đã mượn hình ảnh, mượn ý từ câu ca
dao“Tay bưng chén muối đĩa gừng – Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau” vốn để nhắc
nhớ con người về đạo lí thủy chung. Đạo lí ngàn đời ấy không phải điều gì xa xôi, trừu tượng,
mà ngược lại, hiện hữu rất cụ thể, gần gũi qua cách sống hằng ngày của mẹ cha.
+ Đất nước có trong hạt gạo ta ăn hằng ngày – lương thực nuôi sống người dân Việt ngàn
đời nay - sản phẩm nông nghiệp của nền văn minh lúa nước từ xưa. Để làm ra hạt gạo, người
nông dân Việt Nam phải đổ bao công sức lao động vất vả và sự cần cù, chăm chỉ, cần mẫn
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Vì thế, đất nước còn hiện hữu trong
những đức tính, phẩm chất đáng quí của người dân lao động Việt Nam qua hình ảnh hạt gạo
rất quen thuộc.
+ Thậm chí, với NKĐ, đất nước tồn tại cả trong những sự vật rất đỗi bình thường, thậm
chí tầm thường trong mỗi ngôi nhà Việt Nam như “cái kèo, cái cột”. Hình ảnh “cái kèo, cái
cột” gợi hình ảnh ngôi nhà truyền thống từ xưa của người Việt, gợi ra cả mái ấm gia đình
Việt.
=> Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm như trên cho thấy rằng bất kì cái gì, điều gì tồn tại
quanh ta, cả giá trị vật chất lẫn tinh thần, đều là hiện thân của đất nước. Vì thế, đất nước rất
gần gũi, thân thiết, bình dị, gắn bó mật thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người, mỗi
gia đình VN. Khi nói về điều này, chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng tâm sự: “Đất
nước vừa là một ý niệm thiêng liêng vừa là một hiện hữu, cụ thể, rõ ràng, thân thuộc. Tôi cố
gắng thể hiện một hình ảnh đất nước giản dị, gần gũi nhất”.
- Đoạn trích nói chung, đoạn thơ đầu nói riêng, đậm chất suy tư khi nhà thơ tự trả lời câu
hỏi: đất nước là gì?, đất nước có từ bao giờ?, và đất nước đã được cắt nghĩa bằng những
truyền thuyết, cổ tích, bằng sinh hoạt lao động đặc trưng của một dân tộc có phát tích từ nền
văn minh lúa nước, văn minh sông Hồng, bằng những phong tục tập quán lâu đời của người
dân Việt…Điều đó chứng minh rằng nhà thơ đã cảm nhận về đất nước ở chiều sâu văn hoá.
b. Đất nước được cảm nhận từ phương diện không gian - địa lí
- Ở phương diện không gian - địa lí, trong cảm nhận của nhà thơ, đất nước hiện diện trong
mọi không gian sinh tồn của người Việt:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
+ ĐN là không gian tồn tại của từng cá nhân: Đất nước là con đường nhỏ quen thuộc
“anh” đến trường mỗi ngày, đất nước là chỗ em tắm (“Đất là nơi anh đến trường – Nước là
nơi em tắm”). Đó là không gian nhỏ bé, bình dị nhưng rất đỗi thân quen đối với mỗi cá nhân.
+ ĐN là không gian của đôi lứa yêu nhau: “Đất nước là nơi ta hò hẹn – Đất nước là nơi
em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đó là không gian của hai người qua hình ảnh
đôi lứa yêu nhau, được tác giả thể hiện bằng cách mượn hình ảnh chiếc khăn quen thuộc
trong bài ca dao nói về nỗi thương nhớ của cô gái đối với người mình yêu “Khăn thương nhớ
ai – khăn rơi xuống đất…” để ý thơ đậm cảm xúc, hình tượng thơ đậm chất trữ tình.
+ ĐN là không gian núi sông rừng bể -> nhà thơ đã mượn nguyên văn lời trong câu hò
của người dân vùng Bình - Trị - Thiên để nói: “Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về
hòn núi bạc” – Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”. (-> “Đất nước” vẫn
thường được gọi là “non sông”, “giang sơn”, “núi sông”, “sơn hà”…)
+ ĐN là không gian sinh tồn rộng lớn của cả cộng đồng dân tộc VN suốt trường kỳ lịch
sử: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”.
2
- Nhà thơ dùng cách nói theo lối “chiết tự” khi tách hai thành tố “Đất” và “Nước” của từ
“Đất Nước” và tất cả đều được viết hoa nhằm mục đích:
+ Việc tách hai thành tố của từ “Đất Nước” để phù hợp với hình ảnh trong câu thơ, để
nói được đầy đủ ý nghĩa của Đất Nước.
+ Đất, Nước, Đất Nước đều được viết hoa, đó là cách nhà thơ muốn thể hiện tình cảm
yêu mến và kính trọng của mình đối với đất nước thiêng liêng.
c. Đất nước được cảm nhận từ phương diện thời gian - lịch sử
- Ở phương diện thời gian-lịch sử, nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài lịch sử từ
thuở sơ khai đến mãi mai sau: quá khứ - hiện tại – tương lai
+ Đất nước có từ rất xa xưa, một bề dày lịch sử lâu đời bắt đầu từ huyền tích Chim Lạc,
con Rồng cháu Tiên, từ huyền thoại “Lạc Long Quân và Âu Cơ”, từ truyền thuyết Hùng
Vương dựng nước qua tập tục lâu đời ngày giỗ Tổ “Hằng năm ăn đâu làm đâu – Cũng biết
cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”…Những hình ảnh Chim, Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng
Vương…không chỉ là những bằng chứng chứng minh lịch sử lâu đời của dân tộc Việt, mà
còn cho thấy đó là một cộng đồng dân tộc có xuất xứ rõ ràng, có cội nguồn, tổ tiên ngay từ
khởi thủy. Vì thế, trong tiến trình lịch sử của mình, đất nước đã xây dựng được một nền văn
hiến riêng.
+ Khi cảm nhận đất nước trên bình diện thời gian - lịch sử, tác giả không chỉ nhìn đất
nước từ quá khứ xa xưa, mà còn nhìn cả trong hiện tại và tương lai với niềm tin mãnh liệt đất
nước sẽ trường tồn cùng với các lớp thế hệ người Việt nối tiếp nhau trong sự ý thức lưu giữ
những giá trị thiêng liêng của đất nước đã được tổ tiên gầy dựng, xây đắp, tôn tạo nghìn đời:
“Những ai đã khuất – Những ai bây giờ - Yêu nhau và sinh con đẻ cái… Cũng biết cúi đầu
nhớ ngày giỗ Tổ”.
Như vậy, đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất của các phương diện văn hoá
(phong tục, tập quán, cốt cách, lối sống…), lịch sử (thời gian lịch sử lâu đời…), địa lý (không
gian sinh tồn của người Việt), cái hằng ngày (hạt gạo, cái cột cái kèo…) và cái vĩnh hằng
(gốc tích, tổ tiên…). Tác giả đã sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân
gian, có khi lấy từng phần, có lúc sử dụng ý, hình ảnh, để viết nên câu thơ của mình, tạo nên
hình tượng thơ mới mẻ nhưng lại rất gần gũi, quen thuộc (“…tôi chọn chất liệu từ đời sống
dân gian, một đời sống mà tất cả mọi người Việt Nam đều có…”) (Lời tác giả)
d. Trách nhiệm của mỗi người Việt Nam đối với đất nước
- Đây là đoạn thơ đậm chất chính luận – một đặc điểm của thơ NKĐ - thể hiện ở chỗ nhà
thơ đưa ra lý lẽ, lập luận về mối quan hệ giữa cá nhân và đất nước làm cơ sở để từ đó xác
định trách nhiệm của mọi người đối với đất nước như một lẽ hiển nhiên:
“Trong anh và em hôm nay
….
Làm nên Đất nước muôn đời”
Nhà thơ đã chỉ rõ mối quan hệ máu thịt giữa số phận của cá nhân và vận mệnh của đất
nước “Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần đất nước”. Cách đặt vấn đề như thế của
tác giả có ý nghĩa lớn lao trong việc khích lệ, cổ vũ tinh thần trách nhiệm tự giác của mọi
người, nhất là đối với thế hệ trẻ trong hoàn cảnh lúc bấy giờ đối với đất nước.
+ Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hoá thân trong cuộc sống
của mỗi con người. Mỗi con người từ khi sinh ra đã được thừa hưởng những di sản văn hoá
tinh thần và vật chất của đất nước, dân tộc, nhân dân, sự sống của mỗi cá nhân không chỉ là
của riêng cá nhân mà còn là của đất nước, đất nước là máu thịt trong mỗi con người: “Trong
anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất Nước”. Vì thế, mỗi cá nhân cũng phải có trách
nhiệm bảo vệ, gìn giữ và phát triển đất nước.
3
+ Để thể hiện trách nhiệm ấy, đồng thời với ý thức của mỗi cá nhân, thì tinh thần thân ái
yêu thương đoàn kết, sự đồng tâm hiệp lực là yếu tố rất quan trọng:“Khi hai đứa cầm tay -
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm - Khi chúng ta cầm tay mọi người - Đất nước
vẹn tròn to lớn”
Nhà thơ dùng cách nói tăng cấp: “Khi hai đứa cầm tay” thì đất nước trở nên “hài hòa, nồng
thắm”, và khi “chúng ta cầm tay mọi người” thì đất nước trở nên “vẹn tròn, to lớn” nhằm
chuyển tải thông điệp của mình: chính tình yêu thương, gắn bó giữa mọi người trong tình yêu
một tình yêu chung – tình yêu tổ quốc - sẽ là nguồn sức mạnh tổng hợp, là tiền đề trong sự
nghiệp bảo vệ và dựng xây đất nước.
+ Không chỉ hôm nay, mỗi người còn phải có truyền dạy cho các thế hệ sau tiếp nối ý thức
trách nhiệm ấy, để đất nước trường tồn, phát triển: “Mai này con ta lớn lên – Con sẽ mang
Đất Nước đi xa – Đến những tháng ngày mơ mộng”.
+ Đoạn thơ kết thúc bằng một lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết với thế hệ trẻ, : “Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình - Phải biết gắn bó và san sẻ - Phải biết hoá thân cho dáng
hình xứ sở - Làm nên Đất Nước muôn đời…”. Điệp ngữ “phải biết” đã cho thấy xác định rõ
trách nhiệm của mỗi người Việt Nam đối với đất nước.
- Đoạn thơ đậm chất chính luận nhưng cũng thấm đẫm chất trữ tình: Không chỉ dùng lý lẽ,
lập luận về trách nhiệm đương nhiên của mỗi người đối với đất nước, mà nhà thơ còn khéo
tạo ra hai nhân vật trữ tình “anh” và “em”, mà nhân vật “anh” ở đây là người con trai nào đó
đang nói với người mình yêu thương, đồng thời cũng chính là sự hóa thân của nhà thơ nói với
mọi người với cách xưng hô và những lời lẽ thân tình, ngọt ngào, đằm thắm “anh”, “em”,
“hai đứa”, “em ơi em”, “mình”… khiến cho lời thơ có giọng điệu lời nhắn nhủ, lời thủ thỉ
tâm sự, tâm tình….Bản chất là lời kêu gọi nhưng lại không có giọng điệu kêu gọi, hô hào,
càng không phải lời “giáo huấn”, mệnh lệnh. Chính vì thế, tuy là đoạn thơ chính luận nhưng
không khô khan, mà ngược lại, thấm đẫm chất trữ tình, dạt dào cảm xúc, nên có sức thuyết
phục lý trí, tình cảm mọi người.
2. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân”:
Tư tưởng “Đất nước là của nhân dân” là một đóng góp lớn của Nguyễn Khoa Điềm về mặt
quan điểm, nhận thức, làm sâu sắc thêm ý niệm về đất nước của thơ ca chống Mỹ . Dù tư
tưởng này không phải là mới, nó đã từng được khẳng định trong văn học từ xưa đến nay
(Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm…),
nhưng ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã một lần nữa khẳng định chân lí muôn thuở ấy, nhất là
trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ của đất nước. Tư tưởng này là điểm qui tụ mọi cách nhìn
về đất nước:
- Ở phương diện không gian – địa lý: Cách nhìn của tác giả về những danh lam thắng
cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu và là một phát hiện mới mẻ: “Những người vợ
nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu… Những cuộc đời đã hoá núi sông
ta…”
Những cảnh quan thiên nhiên kì thú: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những quả đồi quanh
đền thờ các vua Hùng, dòng sông xanh thẳm, núi Bút non Nghiên, những đảo đá ở vịnh Hạ
Long…, chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với đời sống của con người, gắn liền
với cuộc sống của nhân dân, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn nhân dân trải suốt trường
kỳ lịch sử của dân tộc, là những hóa thân sinh động những quan niệm, cách sống, vẻ đẹp tính
cách, tâm hồn con người Việt Nam từ xa xưa:
+ Nếu không có những “người vợ nhớ chồng” mòn mỏi qua các cuộc chiến tranh li tán thì
cũng không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu;
+ Nếu không có biết bao nhiêu “cặp vợ chồng yêu nhau” chung tình vẹn nghĩa phu thê thì
4
sao có cảm nhận về hòn Trống Mái;
+ Nếu không có những anh hùng hào kiệt xuất thân từ nhân dân chống giặc ngoại xâm giữ
yên bờ cõi như Thánh Gióng trong truyền thuyết thì sao có cảm nhận về những vết tích ao
đầm ở làng Cháy liên quan đến huyền thoại Thánh Gióng;
+ Nếu không có truyền thuyết Hùng Vương do nhân dân sáng tạo nhằm tôn vinh và tri ân
các bậc quốc tổ dựng nước thì cũng không thể có cảm nhận về vẻ đẹp hùng vĩ của vùng đồi
núi xung quanh đền các vua Hùng;
+ Nếu không có biết bao tấm gương học trò nghèo làm nên truyền thống hiếu học tốt đẹp
của nhân dân thì cũng không thể có cảm nhận về núi Bút, non Nghiên…
+ Hạ Long chỉ thành thắng cảnh khi nó gắn liền với những đảo đá mà nhân dân quen gọi
là “con cóc, con gà”;
+ Nếu không có những danh nhân như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm vốn có
xuất thân từ nhân dân thì không thể có những địa danh mang tên họ…
Nói chung, tất cả những cảnh quan kia vốn chỉ là những hiện tượng khách quan của tự
nhiên, vô danh và vô tri, nhưng chúng đã trở nên những thắng cảnh có tên riêng, có “hồn”, có
sự sống khi được khoác lên đó những tâm tư, tình cảm, nhận thức của nhân dân, tất cả đều
mang dấu ấn của nhân dân,.
+ Đoạn thơ qui nạp hàng loạt hiện tượng cụ thể để đi đến một khái quát sâu sắc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Hai câu đầu, bằng lối lập luận dưới hình thức lời hỏi nhưng nhằm mục đích khẳng định
rằng chẳng có nơi nào trên mảnh đất này lại không in dấu tiền nhân - các thế hệ cha ông,
chẳng có nơi nào không mang hơi thở sự sống của nhân dân. Hai câu thơ sau đã trực tiếp
khẳng định điều đó: chính nhân dân – “những cuộc đời” - qua bao thế hệ người nối tiếp nhau
đã hóa thân vào đất nước, làm nên đất nước muôn đời.
- Ở phương diện thời gian – lịch sử: Khi nói về lịch sử bốn ngàn năm tồn tại và phát
triển của đất nước, nhà thơ không nhắc đến các triều đại, những bậc anh hùng dù họ có công
rất lớn đối với đất nước, mà chỉ nhấn mạnh đến những con người vô danh, bình dị, đó là
những “người con gái”, “con trai”, những “lớp người giống ta lứa tuổi”…“Có biết bao người
con gái, con trai … Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Những con người bình dị và vô danh ấy đã có công làm nên đất nước, gìn giữ và truyền lại
cho các thế hệ sau mọi giá trị tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc : hạt lúa, tiếng
nói, lối sống tình làng nghĩa xóm, phong tục tập quán, đến cả tên xã, tên làng... để đất nước
trường tồn theo chiều dài lịch sử. Họ cũng là những người khi “Có ngoại xâm thì chống ngoại
xâm – Có nội thù thì vùng lên đánh bại” để bảo vệ đất nước. Nếu không có họ đất nước này
không thể tồn tại và phát triển.
- Mạch tư duy của đoạn thơ tiếp tục dẫn đến một chân lí hiển nhiên: “Đất Nước này là
Đất Nước Nhân dân”. Và khi nói đến “Đất Nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả
lại trở về với ngọn nguồn đời sống nhân dân là kho tàng văn hoá, văn học dân gian mà tiêu
biểu là ca dao, đó là sản phẩm tinh thần, là thế giới tinh thần của nhân dân: “Đất Nước của
nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Câu thơ hai vế song song, đồng đẳng là một cách
định nghĩa về đất nước thật giản dị và cũng thật độc đáo. Nhà thơ chỉ chọn lọc ba phương
diện quan trọng, tiêu biểu của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được phản ánh trong kho
tàng văn học dân gian, nhất là ca dao: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, căm
thù xâm lược và anh hùng trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc: “Đất Nước của nhân dân, Đất
5
Nước của ca dao thần thoại - Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”- Biết quý công cầm
vàng những ngày lặn lội - Biết trồng tre đợi ngày thành gậy - Đi trả thù mà không sợ dài
lâu”
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử
dụng ý, hình ảnh của câu ca dao, vẫn gợi nhớ đến câu ca dao nhưng lại tạo ra một câu thơ
mới của mình, tạo ra hình tượng thơ mới lạ nhưng lại quen thuộc.
3. Nghệ thuật
- Tạo dựng không gian nghệ thuật, không khí, giọng điệu rất riêng, đưa người đọc vào một
thế giới quen thuộc của ca dao, truyền thuyết, văn hoá dân gian, nhưng lại mới mẻ qua cách
cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức câu thơ tự do:
+ Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng và sáng tạo: có phong tục, lối sống, tập
quán sinh hoạt, những vật dụng quen thuộc trong đời sống hằng ngày, có ca dao, dân ca, tục
ngữ, có truyền thuyết, cổ tích. Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài
chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyện cổ.
+ Mặt khác, tính hiện đại cũng thể hiện rất rõ qua cách cảm nhận, sự suy tưởng, triết lí và
thể thơ tự do linh hoạt về nhịp và vần.
- Chất trữ tình – chính luận, suy tưởng – cảm xúc:
+ Chất chính luận, suy tưởng ở đoạn trích này thể hiện ở lý lẽ, cách lập luận để trả lời
câu hỏi: “Đất nước là gì?”, “Đất nước của ai?”. Và nhờ suy tưởng mà nhà thơ đã phát hiện
được nhiều ý nghĩa mới và sâu từ những điều quen thuộc: những truyện cổ tích, câu ca dao,
những địa danh, thắng cảnh của đất nước đều chứa đựng tâm sự, quan niệm, lối sống, cả cuộc
đời và máu thịt của nhân dân.
+ Chất trữ tình, cảm xúc không chỉ được biểu hiện ở những câu thơ bộc lộ trực tiếp tình
cảm, cảm xúc của nhà thơ (“Hằng năm ăn đâu làm đâu – Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”,
“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình – Phải biết gắn bó và san sẻ…”…), mà còn
thấm vào trong cái nhìn, lời tâm tình, trong thái độ trân trọng, yêu quí với mỗi hình ảnh, chi
tiết về đất nước. Những lý lẽ, suy tưởng không phải được nói lên bằng những mệnh đề khô
khan, mà qua hình ảnh thơ và những cảm xúc của chủ thể trữ tình.
- Tuy nhiên, đoạn trích cũng có nhược điểm: chính luận có chỗ còn nặng nề, quá lấn át
cảm xúc, nhiều ý triển khai còn dàn trải, chưa thật cô đọng để gây được ấn tượng tập trung.
- Từ đất nước trong bài thơ luôn được viết hoa là cách nhà thơ thể hiện thái độ tình cảm
kính trọng của mình đối với đất nước.
III. KẾT LUẬN (Tham khảo mục “Kết quả cần đạt”)
Với nghệ thuật riêng đặc sắc là sự vận dụng yếu tố văn hoá, văn học dân gian và lối tư
duy hiện đại để xây dựng hình tượng thơ vừa mới mẻ lại vừa quen thuộc, sự kết hợp suy
tưởng và cảm xúc, trữ tình và chính luận, đoạn trích “Đất nước” thể hiện một cảm nhận rất
mới về đất nước trong sự thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân” của Nguyễn Khoa
Điềm, đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, thơ ca thời kì kháng chiến chống
Mĩ nói riêng một nét mới về đề tài “đất nước”.

6
7

You might also like