Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

Nội dung

I,Thủy ngân

II,Các đặc tính, nguồn gốc độ độc hại của thủy ngân theo phân loại của GHS (Globally
Harmonized System), LD50…

III, Ảnh hưởng của thủy ngân tới con người và hệ sinh thái

IV, Cơ chế chuyển hóa thủy ngân trong môi trường và con người

V, Các biện pháp giảm thiểu thủy ngân vào môi trường

VI,Các tài liệu tham khảo


I,Thủy ngân

1. Khái niệm

Thủy ngân (水銀, dịch nghĩa Hán-Việt là "nước bạc") là nguyên tố hóa học có ký
hiệu Hg (từ tên tiếng Latinh là Hydrargyrum (/haɪˈdrɑːrdʒərəm/ hy-Drar-jər-əm))
và số hiệu nguyên tử 80. Nó có nhiều tính chất khác biệt so với những kim
loại thông thường. Là một nguyên tố khối nặng màu bạc, thủy ngân là nguyên tố
kim loại duy nhất ở dạng lỏng ở điều kiện tiêu chuẩn về nhiệt độ và áp suất; yếu tố
duy nhất khác là chất lỏng trong các điều kiện này là halogen bromua, mặc dù các
kim loại như caesi, gali và rubidi tan chảy ngay trên nhiệt độ phòng.

Thủy ngân xuất hiện trong các khoáng vật trên toàn thế giới chủ yếu ở dạng chu
sa (thủy ngân(II) sulfide). Các vermillion màu đỏ son có được bằng cách nghiền
chu sa tự nhiên hoặc sulfide thủy ngân tổng hợp.

Thủy ngân được sử dụng trong nhiệt kế, áp kế, áp suất kế, huyết áp kế, van
phao, công tắc thủy ngân, rơle thủy ngân, đèn huỳnh quang và các thiết bị khác,
mặc dù những lo ngại về độc tính của nguyên tố này đã dẫn đến nhiệt kế thủy ngân
và máy đo huyết áp bị loại bỏ trong môi trường lâm sàng. lựa chọn thay thế
bằng rượu hoặc galinstan trong các nhiệt kế thủy tinh và thermistor - hoặc công cụ
điện tử hồng ngoại dựa trên. Tương tự như vậy, đồng hồ đo áp suất cơ học và cảm
biến đo biến dạng điện tử đã thay thế máy đo huyết áp thủy ngân.

Thủy ngân vẫn được sử dụng trong các ứng dụng nghiên cứu khoa học và trong
amalgam để phục hồi răng ở một số địa phương. Nó cũng được sử dụng trong đèn
huỳnh quang. Điện truyền qua hơi thủy ngân trong đèn huỳnh quang tạo ra tia cực
tím sóng ngắn, sau đó làm cho phosphor trong ống đèn phát huỳnh quang, tạo ra
ánh sáng nhìn thấy được.

Nhiễm độc thủy ngân có thể xảy ra do tiếp xúc với các dạng thủy ngân tan trong
nước (như chloride thủy ngân hoặc methylmercury), do hít phải hơi thủy ngân
hoặc ăn bất kỳ dạng thủy ngân nào.
2. Tính chất
a, Tính chất vật lí

Một chất dẫn nhiệt kém, nhưng là một chất dẫn điện khá tốt.

Nó có điểm đóng băng −38,83 °C và điểm sôi là 356,73 °C,[9][10] thấp nhất so với bất kỳ
kim loại ổn định nào, mặc dù các thí nghiệm sơ bộ về copernixi và flerovi đã chỉ ra rằng
chúng có điểm sôi thấp hơn (copernici là nguyên tố dưới thủy ngân trong bảng tuần hoàn,
đi theo xu hướng giảm điểm sôi xuống ở nhóm 12).[11] Khi đóng băng, khối lượng thủy
ngân giảm 3,59% và mật độ của nó thay đổi từ 13,69 g/cm³ khi ở trạng thái lỏng đến
14.184 g/cm³ khi ở trạng thái rắn. Hệ số giãn nở thể tích là 181,59 × 10 6 tại 0 °C, 181,71
× 10 6 ở 20 °C và 182,50 × 10 6 ở 100 °C (tính trên mỗi độ C). Thủy ngân rắn dễ uốn và
có thể cắt được bằng dao.[12]

Một lời giải thích đầy đủ về tính biến động cực đoan của thủy ngân đi sâu vào lĩnh
vực vật lý lượng tử, nhưng có thể tóm tắt như sau: thủy ngân có cấu hình electron duy
nhất trong đó các electron lấp đầy tất cả các 1, 2s, 2p, 3s, 3p, 3d, 4s, 4p, 4d, 4f, 5s, 5p, 5d,
và 6 subshells. Do cấu hình này chống lại việc loại bỏ electron mạnh mẽ, thủy ngân hoạt
động tương tự như các khí hiếm, tạo thành liên kết yếu và do đó tan chảy ở nhiệt độ thấp.

Sự ổn định của vỏ electron 6s là do sự hiện diện của vỏ 4f đã đầy. Một lớp vỏ f sàng lọc
kém điện tích hạt nhân làm tăng tương tác Coulomb hấp dẫn của vỏ 6s và hạt nhân (xem
sự co lại của lanthan). Sự vắng mặt của lớp vỏ f bên trong là lý do khiến nhiệt độ nóng
chảy của cadmi và kẽm cao hơn một chút, mặc dù cả hai kim loại này vẫn dễ dàng tan
chảy và còn có điểm sôi thấp bất thường.

b,Tính chất hóa học

Thủy ngân không phản ứng với hầu hết các acid, chẳng hạn như acid sunfuric loãng,
mặc dù các acid oxy hóa như acid sunfuric đậm đặc và acid nitric hoặc nước cường
toan hòa tan nó để tạo ra các muối thủy ngân sunfat, nitrat và chloride. Giống như bạc,
thủy ngân phản ứng với hydro sulfide trong khí quyển. Thủy ngân phản ứng với các
mảnh lưu huỳnh rắn, được sử dụng trong bộ dụng cụ xử lý tràn thủy ngân để hấp thụ thủy
ngân (bộ dụng cụ tràn cũng sử dụng than hoạt tính và kẽm bột).

Thủy ngân hòa tan nhiều kim loại như vàng và bạc để tạo thành hỗn hống. Sắt là một
ngoại lệ, và bình sắt thường được sử dụng để lưu trữ và buôn bán thủy ngân. Một số kim
loại chuyển tiếp hàng đầu tiên khác ngoại trừ mangan, đồng và kẽm cũng có khả năng
chống lại sự hình thành hỗn hống. Các nguyên tố khác không dễ dàng tạo thành hỗn hống
với thủy ngân bao gồm bạch kim. Hỗn hống natri là một chất khử phổ biến trong tổng
hợp hữu cơ, và cũng được sử dụng trong đèn natri cao áp.

Thủy ngân dễ dàng kết hợp với nhôm để tạo thành hỗn hống nhôm thủy ngân khi hai
kim loại nguyên chất tiếp xúc với nhau. Vì hỗn hống phá hủy lớp oxide nhôm bảo vệ
nhôm kim loại khỏi bị oxy hóa sâu (như trong rỉ sắt), ngay cả một lượng nhỏ thủy ngân
cũng có thể ăn mòn nhôm nghiêm trọng. Vì lý do này, thủy ngân không được phép mang
lên máy bay trong hầu hết các trường hợp vì nguy cơ nó hình thành một hỗn hống với các
bộ phận nhôm tiếp xúc trong máy bay.

Ô nhiễm thủy ngân là loại ô nhiễm kim loại lỏng phổ biến nhất.

c,Đồng vị

Có bảy đồng vị thủy ngân ổn định, với 202Hg là phong phú nhất (29,86%). Các đồng vị
phóng xạ tồn tại lâu nhất là 194Hg với chu kỳ bán rã là 444 năm và 203Hg với chu kỳ bán rã
46,612 ngày. Hầu hết các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã ít hơn một
ngày. 199Hg và 201Hg là các đồng vị được nghiên cứu thường xuyên nhất được nghiên cứu,
có spin là 1⁄2 và 3⁄2 tương ứng.

3. Lịch sử

Người Trung Quốc và Hindu cổ đại đã biết tới thủy ngân và nó được tìm thấy trong các
ngôi mộ cổ Ai Cập có niên đại vào khoảng năm 1500 TCN. Tại Trung Quốc, Ấn
Độ và Tây Tạng, việc sử dụng thủy ngân được cho là kéo dài tuổi thọ, chữa lành chỗ gãy
và duy trì một sức khỏe tốt. Người Hy Lạp cổ đại sử dụng thủy ngân trong thuốc mỡ
và người La Mã sử dụng nó trong mỹ phẩm. Vào khoảng năm 500 TCN thủy ngân đã
được sử dụng để tạo các hỗn hống với các kim loại khác.

Từ Rassayana trong tiếng Ấn Độ có nghĩa là giả kim thuật còn có nghĩa là ‘con đường
của thủy ngân’ Các nhà giả kim thuật thông thường nghĩ rằng thủy ngân là vật chất khởi
đầu để các kim loại khác được tạo ra. Các kim loại khác nhau có thể được sản xuất bởi
các lượng và chất khác nhau của lưu huỳnh chứa trong thủy ngân. Khả năng chuyển thủy
ngân thành kim loại khác phụ thuộc vào "chất lượng thủy ngân thiết yếu" của các kim
loại. Tinh khiết nhất trong số đó là vàng, và thủy ngân là thiết yếu để biến đổi của các
kim loại gốc (hay không tinh khiết) thành vàng. Đây là nguyên lý và mục đích cơ bản của
giả kim thuật, xét cả về phương diện tinh thần hay vật chất.

Hg là ký hiệu hóa học ngày nay cho thủy ngân. Nó là viết tắt của Hydrargyrum, từ Latinh
hóa của từ Hy Lạp Hydrargyros, là tổ hợp của 2 từ 'nước' và 'bạc' — vì nó lỏng giống
như nước, và có ánh kim giống như bạc. Trong ngôn ngữ châu Âu, nguyên tố này được
đặt tên là Mercury, lấy theo tên của thần Mercurius của người La Mã, được biết đến với
tính linh động và tốc độ. Biểu tượng giả kim thuật của nguyên tố này cũng là biểu tượng
chiêm tinh học cho Thủy Tinh.

Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, một công nghệ gọi là "carroting" được sử
dụng trong sản xuất mũ phớt. Da động vật được ngâm vào trong dung dịch màu da cam
của hợp chất Thủy ngân (II) nitrat, Hg(NO3)2•2H2O. Công nghệ này tách lông ra khỏi da
động vật và cuộn chúng lại với nhau. Dung dịch này và hơi của nó rất độc. Việc sử dụng
chất này đã làm cho một loạt các nhà sản xuất mũ ngộ độc thủy ngân. Triệu chứng của nó
là run tay chân, dễ xúc cảm, mất ngủ, hay quên và ảo giác. Tháng 12 năm 1941, Dịch vụ
sức khỏe cộng đồng Mỹ đã cấm sử dụng thủy ngân trong sản xuất mũ.

4. Ứng dụng

Thủy ngân được sử dụng chủ yếu trong sản xuất các hóa chất,trong kỹ thuật điện và điện
tử. Nó cũng được sử dụng trong một số nhiệt kế. Các ứng dụng khác là:

 Máy đo huyết áp chứa thủy ngân (đã bị cấm ở một số nơi).


 Thiomersal, một hợp chất hữu cơ được sử dụng như là chất khử trùng
trong vắc-xin và mực xăm (Thimerosal in vaccines).
 Phong vũ kế thủy ngân, bơm khuếch tán, tích điện kế thủy ngân và nhiều thiết
bị phòng thí nghiệm khác. Là một chất lỏng với tỷ trọng rất cao, Hg được sử
dụng để làm kín các chi tiết chuyển động của máy khuấy dùng trong kỹ thuật
hóa học.
 Điểm ba trạng thái của thủy ngân, -38,8344 °C, là điểm cố định được sử dụng
như nhiệt độ tiêu chuẩn cho thang đo nhiệt độ quốc tế (ITS-90).
 Trong một số đèn điện tử.
 Hơi thủy ngân được sử dụng trong đèn hơi thủy ngân và một số đèn kiểu "đèn
huỳnh quang" cho các mục đích quảng cáo. Màu sắc của các loại đèn này phụ
thuộc vào khí nạp vào bóng.
 Thủy ngân được sử dụng tách vàng và bạc trong các quặng sa khoáng.
Các ứng dụng khác: chuyển mạch điện bằng thủy ngân, điện phân với cathode thủy ngân
để sản xuất natri hydroxide và clo, các điện cực trong một số dạng thiết bị điện tử, pin và
chất xúc tác, thuốc diệt cỏ (ngừng sử dụng năm 1995), thuốc trừ sâu, hỗn hống nha khoa,
pha chế thuốc và kính thiên văn gương lỏng.

II,Các đặc tính, nguồn gốc độ độc hại của thủy ngân theo phân loại của GHS (Globally
Harmonized System), LD50…

III, Ảnh hưởng của chất ô nhiễm đó tới con người và hệ sinh thái

Thủy ngân là một kim loại nặng có ánh bạc, một nguyên tố kim loại được biết có dạng
lỏng ở nhiệt độ thường. Thủy ngân được sử dụng trong các nhiệt kế...
Thủy ngân là một kim loại nặng có ánh bạc, một nguyên tố kim loại được biết có dạng
lỏng ở nhiệt độ thường. Thủy ngân được sử dụng trong các nhiệt kế, áp kế và các thiết
bị khoa học khác. Thủy ngân nguyên tố lỏng ít độc, nhưng các hợp chất và muối của nó
lại rất độc. Đây là nguyên nhân gây ra các tổn thương não và gan khi con người tiếp
xúc, hít thở hay ăn phải.
Thủy ngân là chất độc tích lũy sinh học rất dễ dàng hấp thụ qua da, các cơ quan hô hấp
và tiêu hóa. Các hợp chất vô cơ ít độc hơn so với hợp chất hữu cơ của thủy ngân. Cho
dù ít độc hơn so với các hợp chất của nó nhưng thủy ngân vẫn tạo ra sự ô nhiễm đáng
kể đối với môi trường vì nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong các cơ thể sinh vật. Một
trong những hợp chất độc nhất của nó là đimêtyl thủy ngân, độc đến mức chỉ vài
micrôlít rơi vào da có thể gây tử vong.
Chứng bệnh Minamata là một dạng ngộ độc thủy ngân. Thủy ngân tấn công hệ thần
kinh trung ương và hệ nội tiết, đồng thời ảnh hưởng tới miệng, các cơ hàm mặt và
răng. Sự phơi nhiễm kéo dài gây ra các tổn thương não và gây tử vong. Nó có thể gây
ra các dị tật bẩm sinh ở thai nhi.

You might also like