Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 13

NHÓM 6: PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC MÔNG CỔ

Thành viên và nhiệm vụ:


Họ và tên Mã sinh Nhiệm vụ
viên
1.Nguyễn Thị Thu 705602144 Làm nội dung phần khái quát
Mông Cổ; tổng hợp word phần
(Nhóm trưởng)
PTGPDT Mông Cổ; tổng hợp
word phần so sánh.
2.Nguyễn Thị Thanh 705602096 Làm nội dung về bối cảnh; cách
Ngần mạng Mông Cổ( 1921-1924);
làm powerpoint.
3.Phạm Bảo Ngọc 705602102 Làm nội dung về phần so sánh
phong trào giải phóng dân tộc ở
Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung
Quốc, Ấn Độ.
4.Hồ Thị Nguyệt 705602103 Làm nội dung về kết quả, ý
nghĩa, tác động của PTGPDT
Mông Cổ.
5.Nguyễn Hà Trang 705602162 Làm nội dung về phần so sánh
PTGPDT ở Mông Cổ, Thổ Nhĩ
Kỳ và Trung Quốc, Ấn Độ.
6.Lê Hồng Quốc 705602124 Làm nội dung về phần so sánh
PTGPDT ở Mông Cổ, Thổ Nhĩ
Kỳ và Trung Quốc, Ấn Độ.
I. Khái quát:
Vị trí địa lý:
- Mông Cổ là một quốc gia nội lục ở Trung Á và Đông Á, nằm tại nút giao
giữa 3 khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á, nằm giữa Trung Quốc (ở
phía Nam) và Nga (ở phía Bắc), phía Tây giáp Kazakhstan
- Diện tích hơn 1.5 triệu km vuông( xếp 19 TG, không giáp biển ).
- Thủ đô Ulaanbaatar
- Địa hình Mông Cổ chủ yếu là thảo nguyên và núi cao. Có hai dãy núi cao,
dãy núi Altay kéo dài từ biên giới phía tây đến vùng đông nam và chuyển
dần sang dạng cao nguyên gọi là Gobi Altai.
- Cảnh quan bao gồm một trong những hồ nước ngọt lớn nhất châu Á (hồ
Khovsgol), nhiều hồ muối, đầm lầy, cồn cát, đồng cỏ lăn, rừng núi cao và
sông băng vĩnh cửu. Phía bắc và phía tây Mông Cổ là khu vực hoạt động
địa chấn, với động đất thường xuyên, nhiều suối nước nóng và núi lửa đã
dừng hoạt động.
- Khí hậu: Mông Cổ cao, lạnh và khô. Nước này có khí hậu lục địa khắc
nghiệt với mùa đông dài, lạnh và mùa hè ngắn, trong đó phần lớn lượng
mưa rơi.
- Thời tiết của Mông Cổ được đặc trưng bởi sự biến đổi cực đoan và khả
năng dự đoán ngắn hạn trong mùa hè, và trung bình nhiều năm che giấu
sự thay đổi lớn về lượng mưa, ngày sương giá và sự xuất hiện của bão
tuyết và bão bụi mùa xuân.
- Mông Cổ thường xuyên là địa bàn tranh giành ảnh hưởng nằm giữa Trung
Quốc và Nga, có vị trí địa chính trị vô cùng nhạy cảm.

Thời gian hình thành:


- Đế quốc Mông Cổ được Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206.
- Người Mông Cổ đã tiến hành những cuộc chiến tranh chinh phục khắp
châu Á và châu Âu. Đế chế Mông Cổ lúc bấy giờ trở thành quốc gia rộng
lớn và hùng mạnh nhất thế giới.
- Cuối thế kỷ XIV, Nhà Nguyên suy yếu. Từ cuối thế kỷ XVIII, Mông Cổ
bị phong kiến Mãn Châu thôn tính.
- Mông Cổ trở thành nước tự trị từ 1911 đến 1919.
- Năm 1921, Chính phủ nhân dân Mông Cổ chính thức thành lập.
- Vào năm 1924, nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ được thành lập.
VTĐL của Mông Cổ có những thuận lợi và khó khăn:
Thuận lợi
Mông Cổ có vị trí địa lý quan trọng, là ngã ba đường giữa Trung Quốc – Mông
Cổ - Nga khả năng phát triển chính trị, đối ngoại, kinh tế, xã hội, vị trí trung
chuyển, sự thông thương tuyến đường giao thông thế giới ,...
Với địa hình nhiều thảo nguyên và núi cao, Mông Cổ có điều kiện phát triển một
nền kinh tế chăn nuôi gia súc là chủ đạo và chế biến sản phẩm chăn nuôi và khai
thác mỏ. Đa số dân cư bên ngoài các khu vực đô thị sinh sống bằng chăn thả tự
cấp tự túc.
Trong suốt những năm đầu tiên khi thành lập Đế chế Mông Cổ quá trình bành
trướng lãnh thổ thu lại rất nhiều nguồn lợi vật chất đặc biệt từ “con đường tơ
lụa”
Dẫn đến một thực trạng: Đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng, cả “Con
đường tơ lụa” dài 4.350 dặm (khoảng 7.000 km) hoàn toàn nằm trong tay một
thế lực duy nhất.
“Đế chế Mông Cổ” nói chung ấy, khi Thành Cát Tư Hãn qua đời năm 1227, đã
trải dài từ bán đảo Triều Tiên ở phía Đông đến tận Ba Lan tại châu Âu, từ miền
bắc nước Nga đến tận Afghanistan hiện đại, phủ lên một phần lớn lãnh thổ của
cả đế quốc Ba Tư lẫn đế quốc Trung Hoa. Mà sau cái chết của ông, các con cháu
ông cũng vẫn còn chưa dừng vó ngựa chinh phạt.
Và thế lực đó là không thể ngăn cản, nhất là sau khi các chiến binh Mông Cổ,
dưới sự dẫn dắt của Thành Cát Tư Hãn cùng những danh tướng như Triết Biệt,
Mộc Hoa Lê, Tốc Bất Đài… hủy diệt Khwarezm, diệt triều Kim, đánh tan 8 vạn
liên quân Nga và bắc ván lên đầu các vương công Slave tù binh, tàn phá
Baghdad, xóa sổ Tây Hạ… để kiến tạo một đế quốc có diện tích rộng gấp đôi Đế
quốc La Mã thời cực thịnh.
Khó khăn:
Với lãnh thổ rộng lớn khả năng kiểm soát và cai quản rất khó khăn. Thường
xuyên xảy ra các xung đột chính trị, đụng độ với các nước láng giềng đặc biệt
với Trung Quốc
Thời tiết khắc nghiệt : mùa đông nhiệt độ hạ thấp, tuyết kéo dài hàng tháng, mùa
hè nhiệt độ tăng cao,.. như vậy đặt ra những thách thức nghiêm trọng cho sự
sống còn và đời sống của con người và vật nuôi.
Có thể nói Mông Cổ vẫn còn tồn tại rất nhiều các hủ tục lạc hậu điều đó gây ảnh
hưởng nhiều đến sự phát triển của đất nước. VD: Ít dùng nước để tắm: Người
Mông Cổ có một quan niệm thật kỳ lạ rằng, nếu dùng nước để tắm sẽ đụng
chạm đến long mạch và các thần linh. Với họ, người nào nặng mùi cơ thể thì
người đó càng mang lại nhiều may mắn.
Tình hình trong nước thường xuyên bất ổn, các thế lực phe phái bên ngoài
thường xuyên tận dụng thời cơ gây ảnh hưởng...

II. BỐI CẢNH


1. Thế giới:
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng sâu sắc đối
với cách mạng Mông Cổ, trước hết xuất phát từ chính đường lối của Đảng
Bônsêvích Nga và Nhà nước Xô viết đối với cách mạng Mông Cổ. Từ năm
1916, V.I. Lênin đã viết rằng"... Chúng ta, những người công nhân nước Nga
phải đòi hỏi chính phủ Nga hoàng cút đi khỏi xứ Mông Cổ, Tuyếcki và Iran.
Chúng ta ra sức giúp đỡ các dân tộc lạc hậu bị áp bức tiến tới sử dụng máy móc,
giảm nhẹ những công việc nặng nề, thực hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội".
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, tháng 8 năm 1919, Chính phủ
Xô viết đã gửi cho nhân dân Mông Cổ và Chính phủ Ngoại Mông một bức công
hàm với nội dung: "Chính phủ Xô viết một lần nữa trịnh trọng tuyên bố rằng:
nhân dân Nga từ bỏ mọi hiệp ước mà Nga hoàng trước đây đã ký kết với chính
phủ Nhật và Trung Hoa về Mông Cổ. Mông Cổ ngày nay là một nước độc lập.
Đối với bọn cố vấn, bọn lãnh sự của Nga hoàng, bọn tài phiệt Nga, phải đuổi cổ
chúng ra khỏi đất Mông Cổ. Mọi quyền bính ở Mông Cổ đều phải thuộc về tay
nhân dân Mông Cổ. Không một nước ngoài nào được can thiệp vào nội trị của
Mông Cổ. Hiệp ước Nga - Mông năm 1913 đã bị thủ tiêu. Mông Cổ, một quốc
gia độc lập, có quyền ngoại giao trực tiếp với tất cả các nước khác, không cần có
sự đỡ đầu hay trung gian nào của Bắc Kinh hay Pêtơrơgrát."
Cùng với đường lối mới của Nhà nước Xô viết, những thắng lợi của nhân
dân Nga, đặc biệt là quét sạch bọn Kônsắc giải phóng Xibêri, làm cho nhân dân
Mông Cổ càng thêm tin tưởng vào cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Tìm hiểu
về Cách mạng tháng Mười, người Mông Cổ đi đến kết luận: "Chỉ có Cách mạng
xã hội chủ nghĩa tháng Mười mới mở ra cho nhân dân Mông Cổ con đường giải
phóng thực sự khỏi ách của ngoại tộc và của phong kiến bản xứ. Cách mạng
tháng Mười Nga không những chỉ giải phóng nhân dân Mông Cổ khỏi ách của
Nga hoàng và của giai cấp tư sản đế quốc Nga, nó còn kích thích tinh thần dân
tộc và hành động cách mạng của quần chúng lao động Mông Cổ".
2. Trong nước
Đến đầu thế kỷ XX, Mông Cổ là một nước thuộc địa nửa phong kiến nằm
dưới sự thống trị của triều Mãn Thanh (Trung Quốc). Đứng đầu nhà nước này là
Bogdo Gheghen, giáo chủ đạo Lạt ma, nắm trong tay cả thần quyền lẫn vương
quyền. Đất nước bị chia cắt thành các công quốc riêng rẽ, gọi là cơ, đứng đầu là
vương công. Mỗi cơ là một đơn vị hành chính, đồng thời là một đơn vị quân sự,
có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước hàng năm một số quân nhất định về kỵ binh
và bộ binh.
Trước cách mạng, Mông Cổ là một nước rất lạc hậu, nền kinh tế hầu như
chỉ dựa trên cơ sở chăn nuôi gia súc, cả nước không có một nhà máy, xí nghiệp
công nghiệp nào, tuyệt đại đa số cư dân sống bằng nghề chăn nuôi du mục. Từ
năm 1870 trở đi, tư bản Nga và tiếp đó là Nhật, Anh, bắt đầu xâm nhập vào
Mông Cổ. Tuy nhiên tất cả đều họat động bằng nghề cho vay lãi nên không thúc
đẩy nền kinh tế mà chỉ làm cho đời sống nhân dân càng thêm khốn khổ.
Nông dân Mông Cổ được chia làm ba loại: một số bị cột chặt trên đất đai
của bọn vương công; một số bị cột chặt trên đất đai của nhà chùa và các tăng lữ
Lạt ma giáo; số đông là nông dân thường có nghĩa vụ nộp tô và đóng thuế cho
nhà nước phong kiến và bọn thống trị ngoại tộc.
Cũng như nền kinh tế, văn hoá giáo dục hầu như không có gì đáng kể. Cả
nước không có một trường học, không có nhà in, nhà xuất bản nào, không có
một tờ báo hay tạp chí phát hành. Lạt ma giáo và các tu viện được sử dụng như
những công cụ của bọn thống trị nhằm nô dịch tinh thần nhân dân lao động. Hậu
quả của chính sách ngu dân đó là hầu hết nhân dân đều mù chữ, văn hoá dân tộc
bị mai một… và gần 1/2 trai tráng xuất gia quy y Lạt ma giáo, dân số giảm sút,
đe dọa sự tồn vong của dân tộc.
Dưới ách thống trị nặng nề của triều đình Mãn Thanh, cuộc đấu tranh của
nhân dân Mông Cổ đã không ngừng phát triển. Năm 1911, nhờ một cao trào đấu
tranh của nông dân, Mông Cổ đã thành lập một chế độ quân chủ tự trị, do giáo
chủ Bốc đô Gheghen trị vì. Ở một mức độ nhất định, chế độ quân chủ tự trị này
vẫn là một bước tiến của lịch sử Mông Cổ. Tuy nhiên, đời sống nhân dân thì vẫn
như xưa.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm
1917 làm cho triều đình phong kiến tự trị Mông Cổ hoảng sợ. Đồng thời các
nước đế quốc muốn biến Mông Cổ thành căn cứ quân sự để mở rộng can thiệp
vũ trang chống nước Nga Xô viết. Viên toàn quyền của Trung Quốc ở Uốcga
(thủ đô Mông Cổ lúc bấy giờ) đã buộc Mông Cổ ký điều ước "64 khoản", theo
đó quân đội Trung Quốc sẽ chiếm đóng Mông Cổ, mọi phí tổn phải do Mông Cổ
đài thọ. Tháng 3 năm 1919, lực lượng quân phiệt Trung Quốc đã tiến vào
Uốcga. Tháng 1 năm 1919, bọn quân phiệt Từ Trụ Thanh tới Uốcga, gây sức ép
buộc tập đoàn phong kiến Mông Cổ phải từ bỏ quyền tự trị, làm lễ trao quyền
cai trị Mông Cổ cho Từ Trụ Thanh.
Nhật Bản cũng lo sợ không kém Trung Quốc. Sau chiêu bài thành lập
"Nước Đại Mông", Nhật đã dùng lực lượng Bạch vệ Nga, do Unghéc cầm đầu,
xâm nhập sâu hơn vào Mông Cổ. Tháng 10 năm 1920, với khẩu hiệu lừa bịp
"giải phóng Mông Cổ", Unghéc đã dẫn 800 quân Bạch vệ vào Mông Cổ. Tháng
2 năm 1921, sau hai lần tấn công Uốcga, Unghéc đã thắng lợi. Bọn phong kiến
quân phiệt Trung Quốc bị đánh đuổi, triều đình phong kiến Mông Cổ được khôi
phục về hình thức nhưng mọi quyền hành thực tế nằm trong tay bọn Bạch vệ
Nga.
Bọn Bạch vệ Unghéc ra sức vơ vét sức người sức của của nhân dân Mông
Cổ để phục vụ cho cuộc tấn công nước Nga Xô viết, đời sống nhân dân Mông
Cổ càng trở nên cơ cực hơn. Do đó, sự bất bình sâu sắc lan rộng trong các tầng
lớp nhân dân. Yêu cầu đặt ra của nhân dân Mông Cổ lúc bấy giờ là phải thủ tiêu
quan hệ phong kiến kìm hãm sự phát triển của đất nước và nhất là yêu cầu giải
phóng dân tộc khỏi ách thống trị của các thế lực bên ngoài. Trên cơ sở này các
nhóm du kích, cách mạng đã xuất hiện và họat động ở Mông Cổ.
III. CÁCH MẠNG MÔNG CỔ 1921-1924
1. Mông Cổ thắng lợi của cuộc cách mạng nhân dân (1921-1924)
Những tư tưởng của Cách mạng tháng Mười, những tin tức về thắng lợi
quân sự, chính trị và kinh tế của Nhà nước Xô viết trẻ tuổi được phổ biến rộng
rãi sang Mông Cổ qua những phần tử tiên tiến trong nhân dân Mông Cổ có liên
hệ với những người Nga cách mạng hồi ấy sống ở vùng Uốcga. Năm 1919,
Sukhê Bato sáng lập ra nhóm cách mạng đầu tiên nhằm mục đích đấu tranh giải
phóng dân tộc, tại Uốcga. Cũng năm 1919, Sôibansan sáng lập ra một nhóm
cách mạng khác với mục đích như vậy. Chỉ trong một thời gian ngắn các tổ chức
cách mạng tiến hành hội nghị quyết định thành lập một cơ quan trung ương
thống nhất làm nòng cốt cho một đảng cách mạng về sau. Hội nghị đã khởi thảo
một bản tuyên ngôn được gọi là "Lời tuyên thệ của những người đảng viên". Hội
nghị đã cử một đoàn đại biểu do Sukhê Bato và Sôibansan dẫn đầu sang
Mátxcơva và kêu gọi sự viện trợ từ Chính phủ Xô viết.
Ngày 1 tháng 3 năm 1921, Đại hội lần thứ nhất Đảng nhân dân cách mạng
Mông Cổ họp ở Kiasơta. Sau khi nhận định tình hình trong nước và quốc tế, Đại
hội đề ra nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh chống bọn đế quốc xâm lược, tuyên bố
liên minh giữa nhân dân lao động Mông Cổ và giai cấp công nhân Nga là điều
kiện căn bản bảo đảm thắng lợi cho cuộc cách mạng chống đế quốc và phong
kiến. Đại hội cũng đặt quan hệ với Quốc tế Cộng sản, bầu ra Trung ương Đảng
và cử Sukhê Bato làm Tổng tư lệnh, Sôibansan làm Chủ nhiệm Tổng cục chính
trị của quân đội Mông Cổ.
Tiếp đó ngày 13- 3 -1921 Đại biểu của Đảng nhân dân cách mạng Mông
Cổ, của quân đội và của nông dân miền biên giới họp tại Trôisôcốt quyết định
tiến hành khởi nghĩa vũ trang và thành lập chính phủ nhân dân lâm thời để
chuẩn bị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa (Sukhê Bato được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ
quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh quân đội nhân dân, Sôibansan giữ chức phó
Tổng tư lệnh), Hội nghị đã vạch rõ mục đích của cuộc khởi nghĩa là: 1. Giải
phóng đất nước khỏi bọn quân phiệt Trung Hoa và bọn can thiệp Bạch vệ Nga;
2. Thành lập chính quyền nhân dân cách mạng có khả năng bảo vệ nền độc lập
dân tộc; 3. Kiến lập quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, trước hết là với
nước Nga Xô viết; 4. Triệu tập Đại hội quốc dân (Khoural) để khởi thảo và ban
hành hiến pháp.
Những nghị quyết của Đảng nhân dân cách mạng cũng như sự ra đời của
Chính phủ nhân dân lâm thời đã thể hiện rõ ràng sự phát triển của phong trào
cách mạng Mông Cổ cũng như ảnh hưởng to lớn của Cách mạng tháng Mười.
Xu hướng xã hội chủ nghĩa trong phong trào đấu tranh đó phát triển mạnh mẽ và
có tác động tích cực với phong trào cách mạng.
Với sự giúp đỡ tích cực của Hồng quân Xô viết, quân đội Mông Cổ nhanh
chóng giành những thắng lợi to lớn. Chỉ 5 ngày sau khi thành lập chính phủ lâm
thời, ngày 18 tháng 3 năm 1921, quân cách mạng đã giành thắng lợi đầu tiên ở
thành phố Kiasơta. Từ thắng lợi này, quân đội nhân dân tiếp tục truy kích đuổi
bọn tàn quân, quân phiệt Trung Hoa khỏi đất Mông Cổ. Chính phủ lâm thời kêu
gọi Bócđô Gêghen đàm phán để tránh tình trạng huynh đệ tương tàn và chĩa mũi
nhọn và bọn Bạch vệ Unghéc. Đáp lại đề nghị đó là sự từ chối và việc quân
Unghéc tấn công vào Kiasơta, Trôisôcốt và các thành phố khác. Trước tình hình
đó, Chính phủ lâm thời đã ra sức tăng cường lực lượng vũ trang, đồng thời kêu
gọi Chính phủ Xô viết viện trợ quân sự. Từ đây cuộc đấu tranh giải phóng của
dân tộc Mông Cổ kết hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của Hồng quân Xô viết
chống lại bọn Bạch vệ Unghéc.
Sự giúp đỡ của Hồng quân Xô viết đã làm thay đổi hẳn tương quan lực
lượng có lợi cho cách mạng, thúc đẩy cách mạng Mông Cổ nhanh chóng đi đến
thắng lợi. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1921, liên quân cách mạng đã cơ bản
đánh bại kẻ thù, giải phóng đại bộ phận đất nước Mông Cổ. Đầu tháng 7 năm
1921, Unghéc tấn công vào Trôisôcốt hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nhưng
đã bị Hồng quân Xô viết và quân cách mạng Mông Cổ đánh bại. Tiếp đó,
Unghéc đưa tàn quân xâm nhập nước Nga Xô viết và bị Hồng quân Xô viết bắt
sống.
Ngày 10 tháng 7 năm 1921, Chính phủ lâm thời cách mạng Mông Cổ tự
giải tán, Chính phủ nhân dân Mông Cổ chính thức thành lập. Việc giải phóng cơ
bản đất nước và sự thành lập Chính phủ nhân dân là những thắng lợi to lớn có
tác dụng mở đường cho cải cách dân chủ và cho sự thiết lập chế độ cộng hoà
trong tương lai.
2. Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Mông Cổ.
Phát huy những thắng lợi đã đạt được và với sự giúp đỡ của Hồng quân
Xô viết đang ở lại Mông Cổ, quân đội Mông Cổ tiếp tục tiêu diệt bọn Bạch vệ,
thổ phỉ, tiến hành thống nhất toàn bộ lãnh thổ Mông Cổ vào cuối năm 1922.
Đồng thời, ngày 5 tháng 11 năm 1921, Hiệp ước Xô - Mông được ký kết, theo
đó Chính phủ Xô viết xoá bỏ mọi đặc quyền của Sa hoàng đối với Mông Cổ,
tiến hành viện trợ tài chính cho Mông Cổ. Việc ký kết hiệp ước này đã có tác
dụng lớn trong việc củng cố chính quyền cách mạng non trẻ.
Trong những năm 1922 - 1924, Chính phủ nhân dân Mông Cổ thực hiện
các biện pháp nhằm xoá bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến như: thủ tiêu
mọi nghĩa vụ phong kiến, giải phóng nông dân khỏi ách nông nô, quốc hữu hoá
ruộng đất. Chính quyền phong kiến địa phương cũng được xoá bỏ với sự thành
lập các cơ quan dân chủ địa phương, được gọi là Khoural nhân dân.
Tháng 5 năm 1924 Quốc vương Bócđô Gêghen chết. Ngày 13 tháng 6
năm 1924, Chính phủ Mông Cổ ban bố sắc lệnh bãi bỏ chế độ quân chủ và thiết
lập chế độ cộng hoà ở Mông Cổ. Tiếp đó, tháng 8 năm 1924, Đại hội lần thứ III
của Đảng nhân dân cách mạng Mông Cổ tiến hành. Đại hội đã thông qua đường
lối chung của Đảng về sự phát triển của đất nước Mông Cổ trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa với sự
giúp đỡ của Nhà nước Xô viết xã hội chủ nghĩa. Tháng 11 năm 1924, Đại hội
Khoural, tức Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ nhất khai mạc với tư cách là một
cơ quan nhà nước có quyền lực cao nhất, thông qua Hiến pháp của nước Cộng
hoà nhân dân Mông Cổ, mở đường cho bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Dựa vào sự giúp đỡ chí tình của nhân dân Xô viết, nhân dân Mông Cổ đã
tích cực bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước thông qua các chương trình
cải cách kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội.Về kinh tế, nhà nước đã tiến hành cải
cách chế độ tiền tệ và cho phát hành giấy bạc quốc tệ "tongrich" trong những
năm 1924 - 1925, chế độ đo lường được thống nhất toàn quốc, chế độ hàng rào
quan thuế giữa các miền trong nước bị bãi bỏ. Năm 1929, chính phủ tiến hành
thống kê đất đai, mục trường của địa chủ và ra lệnh tịch thu tài sản của chúng.
Hệ thống hợp tác xã và mậu dịch quốc doanh được xây dựng. Trong quá trình
hợp tác hoá đã xuất hiện những tư tưởng "tả" khuynh muốn xây dựng các nông
trường tập thể và artels bằng sự cưỡng ép, do vậy đã xuất hiện những cuộc
phiến loạn vào năm 1932. Tuy nhiên, Hội nghị bất thường của Ban chấp hành
trung ương Đảng nhân dân cách mạng Mông Cổ họp vào tháng 6 năm 1932 đã
đề ra các biện pháp khắc phục những sai lầm "tả" khuynh.
Thành tựu lớn nhất về kinh tế mà nhân dân Mông Cổ thu được trong
những năm tháng này là đã xây dựng được nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nhà
máy công nghiệp lớn, nhiều công trình xây dựng quy mô do Liên Xô giúp đỡ đã
xuất hiện như: nhà máy kéo sợi Khadkhal (1933), nhà máy liên hợp Ulan Bato
có quy mô lớn nhất (1934), các mỏ than ở Halanxút được xây dựng và trang bị
kỹ thuật hiện đại, hệ thống đường sá, dây điện được thiết lập, xây dựng.
Về chính trị, Nhà nước cộng hoà đã tiến hành thủ tiêu hoàn toàn quyền
chính trị thế tập của bọn vương công ở các cơ (Khoshun), tiến hành dân chủ hoá
bộ máy chính quyền ở các địa phương. Năm 1925, Quốc hội (Khoural) thông
qua chế độ tư pháp với nguyên tắc của chế độ dân chủ nhân dân. Về đối ngoại,
mối quan hệ hữu nghị, thân thiết giữa Mông Cổ và Liên Xô được củng cố vững
chắc thông qua Hiệp ước tương trợ giữa hai nước ký kết ngày 12 tháng 3 năm
1936. Chính tình đoàn kết Xô - Mông đã góp phần củng cố vững chắc chế độ
chính trị ở Mông Cổ. Các thế lực phản động ở trong nước bị đập tan. Đặc biệt,
tháng 5 năm 1939, cuộc tấn công xâm lược của Nhật Bản ở vùng Khankhin
Gôn bị đẩy lùi.
Về văn hoá - xã hội cũng có những biến đổi lớn. Giai cấp địa chủ phong
kiến bị xoá bỏ, các hình thức bóc lột bị thủ tiêu, giai cấp công nhân Mông Cổ ra
đời và phát triển nhanh chóng, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện,
chế độ giáo dục phổ thông được áp dụng.
Những thay đổi lớn lao từ 1921 đến 1929 đã làm cho Hiến pháp năm 1924
không còn phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội ở Mông Cổ nữa. Nhận thức rõ
điều này, trong khoá họp lần thứ VIII của Quốc hội Mông Cổ (tháng 6 năm
1940), dự thảo hiến pháp mới đã được thảo luận và được toàn thể Quốc hội nhất
trí thông qua. Hiến pháp năm 1940 quy định: "Nước Cộng hoà nhân dân Mông
Cổ là nước độc lập của những người lao động mục dân, công nhân và phần tử trí
thức tự nguyện tiến theo con đường phát triển phi tư bản chủ nghĩa để quá độ
sang xã hội chủ nghĩa" (Điều I). "Để đảm bảo cho nước Cộng hoà nhân dân
Mông Cổ phát triển theo con đường phi tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã
hội, cần phải thực hành việc cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá và sinh họat xã
hội của nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ theo kế họach của nhà nước" (Điều
IV).
Với hiến pháp năm 1940, Mông Cổ bước vào giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa

IV. KẾT QUẢ, Ý NGHĨA, TÁC ĐỘNG


1. Kết quả:
- Cuộc cách mạng nhân dân ở Mông Cổ giành thắng lợi.
- Nước cộng hòa nhân dân Mông Cổ, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Châu Á được thành lập
- Thoát khỏi sự kiểm soát của Trung Hoa
- Thủ tiêu được sự thống trị về chính trị, kinh tế và xã hội của chế độ phong
kiến
2. Ý nghĩa:
- Chế độ dân chủ nhân dân, và tạo ra những tiền đề cần thiết để dần dần
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Có tác dung lớn trong việc củng cố chính quyền cách mạng non trẻ.
- Là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ hướng đất nước theo con đường phát
triển phi tư bản chủ nghĩa, tiến tới việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- 11/1924 đại hội Huran lần thứ nhất khai mạc với tư cách là một cơ quan
nhà nước có quyền lực cao nhất, đã thông qua hiến pháp nước cộng hòa
nhân dân Mông Cổ
- Chính quyền của nhân dân lao động được củng cố về mặt pháp luật. Chúa
phong kiến bị tước bỏ quyền sở hữu ruộng đất, hàm tước, thế lực chính trị
và tên hiệu. Lạt ma giáo tách khỏi nhà nước, thủ đô Uốcga đổi tên thành
Ulan Bato.
- Sau những chuyển biển cách mạng ấy ở trong nước;giai cấp phong kiến
và trật tự tôn giáo đã bị thủ tiêu, giai cấp công nhân và lớp trí thức dân tộc
đã xuất hiện.
- Sự hình thành và phát triển giai cấp công nhân đi song song với sự tăng
cường liên minh giữa giai cấp công nhân và mục dân lao động, sự liên
minh ấy là cơ sở chính trị của Nhà nước dân chủ nhân dân.
- Chuyên chính dân chủ cách mạng của nông mục lao động đã chuyển dẫn
thành chuyên chính của giai cấp vô sản.
- Nhờ thắng lợi của cách mạng nhân dân, Mông- cổ từ nay vĩnh viên tách
khỏi hệ thống thuộc đia của chủ nghĩa đế quốc và có khả năng phát triển
với tư cách là một nước dân chủ, độc lập và tự do.
- Những thắng lợi của nhân dân Mông Cổ trong công cuộc xây dựng đất
nước và những cống hiến trong cuộc chiến tranh chống phát xít càng làm
cho địa vị quốc tế của nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ ngày càng
được nâng cao, cổ vũ cho các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập.
3. Tác động:
-Trong nước:
Phong trào giải phóng dân tộc ở Mông Cổ đã có tác động rất lớn đến trong nước.
Đầu tiên, nó đã giúp cho dân tộc Mông Cổ giành lại độc lập và tự do sau nhiều
thế kỷ bị áp bức và chiếm đóng bởi các đế quốc lớn. Phong trào này đã giúp cho
dân tộc Mông Cổ xây dựng một chính quyền độc lập và tự chủ, đồng thời củng
cố sự đoàn kết và tình yêu nước của người dân.
Ngoài ra, phong trào giải phóng dân tộc ở Mông Cổ đã góp phần vào sự phát
triển kinh tế và xã hội của đất nước. Các nhà lãnh đạo dân tộc Mông Cổ đã thực
hiện các chính sách kinh tế và xã hội nhằm nâng cao đời sống của người dân,
đồng thời đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Điều này
đã giúp cho Mông Cổ trở thành một đất nước phát triển và giàu có.
Cuối cùng, phong trào giải phóng dân tộc ở Mông Cổ đã góp phần vào sự đa
dạng hóa văn hóa và lịch sử của đất nước. Với việc giữ gìn và phát triển các giá
trị văn hóa truyền thống, Mông Cổ đã trở thành một điểm đến hấp dẫn cho du
khách và nhà nghiên cứu văn hóa.
-Bên ngoài:
Phong trào giải phóng dân tộc ở Mông Cổ đã có tác động đến các nước láng
giềng và cả thế giới. Đầu tiên, nó đã truyền cảm hứng cho các phong trào giải
phóng dân tộc khác ở châu Á, như phong trào giải phóng dân tộc ở Trung Quốc
và Ấn Độ. Nó cũng đã thu hút sự quan tâm của các quốc gia phương Tây, đặc
biệt là Liên Xô và Mỹ, vì Mông Cổ nằm ở vị trí chiến lược quan trọng giữa các
đế quốc lớn.
Ngoài ra, phong trào giải phóng dân tộc ở Mông Cổ đã góp phần vào sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội ở châu Á. Các nhà lãnh đạo dân tộc Mông Cổ đã học
hỏi và áp dụng các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội vào việc xây dựng nền kinh
tế và xã hội của Mông Cổ. Điều này đã góp phần vào sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội ở châu Á và trên thế giới.

You might also like