Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 15

Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Về phương pháp phân tích


câu theo cấu trúc vị từ - tham
thể
Bởi:
Trần Kim Phượng

Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

(Tóm tắt)

TS. Trần Kim Phượng - Khoa Ngữ văn - ĐHSP Hà Nội

Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp: (1) theo cấu
trúc chủ - vị (ngữ pháp truyền thống), (2) theo cấu trúc vị từ - tham thể (ngữ pháp ngữ
nghĩa), (3) theo cấu trúc đề - thuyết (ngữ pháp chức năng), và (4) theo cấu trúc nêu -
báo (lý thuyết thông tin). Trong số bốn phương pháp trên thì phân tích câu theo cấu trúc
vị từ - tham thể là phương pháp ra đời tương đối muộn, bề dày lý thuyết chưa nhiều.
Phương pháp này có được giảng dạy ở bậc đại học nhưng với số tiết khiêm tốn, do vậy,
sinh viên thường lúng túng khi phải thực hiện nó. Chúng tôi viết bài báo này với mục
đích giúp sinh viên và những người quan tâm hiểu sâu sắc hơn về phương pháp phân
tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể. Đặc biệt, chúng tôi giới thiệu một cách chi tiết các
bước tiến hành phân tích câu theo phương pháp này cũng như ưu điểm, nhược điểm của
nó. Một điểm mới nữa của bài viết chính là ở phần so sánh: phương pháp này sẽ được
so sánh với phương pháp phân tích câu truyền thống - phân tích câu theo cấu trúc chủ -
vị.

Những kết luận chính:

• Phân tích câu theo cấu trúc vị từ tham thể là một hướng phân tích câu theo lối
mới. Ưu điểm chính của nó là phản ánh được mặt nghĩa học của câu, làm rõ
mối liên quan giữa nội dung câu với thực tế khách quan. Nhược điểm chính của
nó là không làm rõ được đâu là thông tin mới trong câu.

1/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

• Có 4 bước tiến hành phân tích câu theo cấu trúc này: (1) xác định vị từ trung
tâm; (2) tìm các tham thể; (3) xác định tham thể bắt buộc và tham thể mở rộng;
(4) ghi tên các tham thể. Trong các bước này thì bước (4) là khó thực hiện nhất.
• Có những sự tương ứng nhất định giữa cấu trúc vị từ - tham thể và cấu trúc chủ
-vị. Do vậy, người học có thể sử dụng những hiểu biết của mình về cấu trúc chủ
-vị để suy ra cấu trúc vị từ - tham thể.

About the method of analyzing sentence with structure predicator - arguments

Now, one Vietnamese sentence can be analyzed with four methods: (1) analyze sentence
with structure subject - predicate (traditional grammar), (2) analyze sentence with
structure predicator - arguments (semantical grammar), (3) analyze sentence with
structure topic – comment (functional grammar), (4) analyze sentence with structure
topic – comment (actual division of the sentence). The method of analyzing sentence
with structure predicator - arguments was born late, the research about it is not much.
Therefore, the students always feel disconcerted when they have to do it. Our article will
help the students understand this structure better and use it easily.

The main conclusions

1. Analyzing sentence with structure predicator - arguments is a new method. Its major
strength is reflecting the semantics of a sentence. Its major weakness is that it doesn’t
clarify the new information in a sentence.

2. There are four steps :

(a) Confirm predicator

(b) Find the arguments

(c) Confirm forced argument (actant) and unforced argument (circonstant).

(d) Write the argument’s name.

In four steeps, the fourth step is the most difficult.

3. There are some the correspondence between the structure subject - predicate and
the structure predicator - arguments. So the studiers can deduce structure predicator -
arguments from structure subject - predicate.

Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

TS. Trần Kim Phượng

2/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Khoa Ngữ văn - ĐHSP Hà Nội

Đặt vấn đề

Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp: (1) theo cấu
trúc chủ - vị (Ngữ pháp truyền thống), (2) theo cấu trúc vị từ - tham thể (Ngữ pháp ngữ
nghĩa), (3) theo cấu trúc đề - thuyết (Ngữ pháp chức năng), và (4) theo cấu trúc nêu -
báo (Lý thuyết thông tin).

Trong các phương pháp này thì phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể là phương
pháp ra đời tương đối muộn, bề dày lý thuyết chưa nhiều. Phương pháp này có được
giảng dạy ở bậc đại học nhưng với số tiết khiêm tốn, do vậy, sinh viên thường lúng túng
khi phải thực hiện nó.

Chúng tôi viết bài báo này với mục đích giúp sinh viên và những người quan tâm hiểu
sâu sắc hơn về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể. Đặc biệt, chúng
tôi giới thiệu một cách chi tiết các bước tiến hành phân tích câu theo phương pháp này
cũng như ưu điểm, nhược điểm của nó.

Một điểm mới nữa của bài viết chính là ở phần so sánh: phương pháp này sẽ được so
sánh với phương pháp phân tích câu truyền thống - phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị.

Nội dung chính

Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ
- tham thể

Đây là phương pháp phân tích câu nhìn từ góc độ ngữ nghĩa, do vậy, mỗi đối tượng
trong câu đều ứng với một đối tượng của thực tế khách quan, nội dung của câu là một
sự tình của thế giới khách quan ấy. Nói cách khác, mỗi câu phản ánh một sự tình. Trong
cấu trúc của một sự tình thì động từ vị ngữ (predicator) là trung tâm. Xoay xung quanh
động từ vị ngữ là các tham tố (tham thể - argument). Mỗi tham thể đảm nhiệm một
vai nghĩa (semantic role) nhất định. Trong cấu trúc này, chủ ngữ cũng chỉ là một trong
những tham thể của vị từ mà thôi, nó không quan trọng như vị từ; tuy nhiên, trong số
các tham thể thì nó được xem là tham thể quan trọng nhất.

Vị từ (VT)

Trước hết, cần xác định vị từ trong cấu trúc nghĩa không giống với vị từ trong cấu trúc
ngữ pháp. Vị từ trong ngữ pháp thuộc phạm trù từ loại, là thuật ngữ chỉ chung cho hai
từ loại động từ và tính từ. Còn trong cấu trúc nghĩa, vị từ thuộc phạm trù chức năng -
nghĩa.

3/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Trên thực tế, cũng có loại vị từ không đòi hỏi một tham thể nào (vd trong tiếng Pháp:
động từ pluit: Il pleut (mưa) không có tham thể nào; il là một chủ ngữ làm vì, không
phải tham thể). Trong tiếng Việt, loại câu đặc biệt vị từ có thể xem là minh chứng cho
trường hợp vị từ không đòi hỏi tham thể. Ngoài ra, các vị từ đều đòi hỏi các tham thể.
Số lượng các tham thể do vị từ đòi hỏi không ngang bằng nhau.

• Vị từ đòi hỏi một tham thể (vị từ trạng thái, vị từ chỉ tính chất, đặc điểm, một
số vị từ hoạt động… Những vị từ này chỉ cần tham thể chủ thể của hành động.)
VD: Nó hát. / Cô ấy hơi béo.
• Vị từ đòi hỏi hai tham thể (các vị từ tác động, vị từ nói năng, vị từ quan hệ…)
VD: Thầy giáo đã chữa bài tập tiếng Anh./ Tường này bằng gạch.
• Vị từ đòi hỏi ba tham thể (các vị từ mang ý nghĩa sai khiến, trao tặng). VD: Tôi
bảo nó đun nước./ Tôi tặng bạn quyển sách.
• Vị từ đòi hỏi bốn tham thể (các vị từ đổi, mua, bán…). Những vị từ này đòi hỏi
các tham thể là người đổi, người mang đi đổi và hai vật để đổi. VD: Thằng
Bờm đổi cái quạt mo cho Phú Ông lấy nắm xôi. Đây là trường hợp có lẽ chỉ tồn
tại trong lý thuyết. Trên thực tế, tuỳ theo từng hoàn cảnh, bốn tham tố này có
thể không đồng thời xuất hiện.

Tham thể bắt buộc (TTBB) và tham thể mở rộng (TTMR)

* Tham thể bắt buộc: Là những thực thể xung quanh vị từ mà sự có mặt của chúng là do
vị từ đòi hỏi. VD, trong câu: “Tôi đã tặng một cuốn sách cho anh ấy.” thì tôi, một cuốn
sách và anh ấylà những tham thể bắt buộc.

Cao Xuân Hạo gọi tham thể bắt buộc là diễn tố (actant). Theo ông, “diễn tố là tham tố
của vị từ tham gia vào nội dung biểu hiện của khung ngữ vị từ

Khung ngữ vị từ là thuật ngữ của Cao Xuân Hạo. Theo ông, khung ngữ vị từ không
phải là ngữ, cũng không phải là câu, ở đây là cái khung nghĩa. [5, tr113]
như một nhân vật được giả định một cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ, mà
nếu thiếu đi thì cái sự tình hữu quan không thể được thực hiện, không còn là nó nữa”.
[5, tr113].

* Tham thể mở rộng (chu tố - circonstant): Là những thực thể xuất hiện trong sự tình,
song sự có mặt của chúng không do vị từ đòi hỏi mà do tình huống, hoàn cảnh mách
bảo. VD trong câu: “Chiều nay, tôi đã tặng một cuốn sách cho anh ấy.” thì chiều nay là
tham thể mở rộng.

Sự phân chia tham thể bắt buộc – tham thể mở rộng hay diễn tố – chu tố chỉ có tính
tương đối. Một tham thể bắt buộc trong một khung ngữ vị từ này có thể là một tham thể
mở rộng trong một khung ngữ vị từ khác. VD:

• Tôi ở trong lòng thành phố -> TTBB

4/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

• Trong lòng thành phố, xe cộ đông như mắc cửi -> TTMR
• Hôm qua là chủ nhật -> TTBB.
• Hôm qua, tôi đi siêu thị mua đồ -> TTMR.
• Anh Nam đến từ Hà Nội. -> TTMR.
• Anh Nam đã rời Hà Nội. -> TTBB.

Tên gọi các tham thể

Về tên gọi của các tham thể hay cách xác định vai nghĩa cho các tham thể, theo Parson,
có ba phương thức để đánh dấu vai nghĩa là:

• Dùng trật tự từ. Ví dụ, trong tiếng Việt, vai người tác động và vai người bị tác
động phân biệt với nhau bằng trật tự sắp xếp: Nó đánh tôi; Tôi đánh nó.
• Dùng biến tố. Phương thức này chỉ áp dụng cho những ngôn ngữ biến hình như
tiếng Nga, tiếng Anh; không áp dụng được với tiếng Việt.
• Dùng giới từ. Ví dụ, trong tiếng Việt, vai công cụ có thể được đánh dấu bằng
giới từ “bằng”: Nó đến trường bằng xe đạp.

Cái khó là ở chỗ, cùng một mác đánh dấu có thể biểu thị hơn một vai nghĩa khác nhau;
ngược lại, cùng một vai nghĩa có thể được đánh dấu bằng nhiều mác. Nguyễn Văn Hiệp
khắc phục tình trạng này bằng cách dùng những thao tác cải biến cú pháp để làm bộc lộ
thái độ cú pháp (syntactic behavious) của ngữ đoạn. Ví dụ:

• Nó đá con chó.
• Chàng chết mê chết mệt nàng.

Cả hai câu đều có cấu trúc cú pháp giống nhau: chủ ngữ + vị ngữ + bổ ngữ. Dùng phép
cải biến bị động để phân biệt sự khác biệt về vai nghĩa mà hai bổ ngữ (con chó, nàng)
trong hai câu trên biểu thị. Chỉ có câu thứ nhất mới chấp nhận phép cải biến bị động
(Con chó bị nó đá), còn câu thứ hai không chấp nhận phép cải biến này (Không thể nói:
Nàng bị chàng chết mê chết mệt). Vậy “con chó” biểu thị vai vật bị tác động (patient)
còn “nàng” biểu thị vai nguồn (source).

Chúng tôi xin giới thiệu hệ thống các vai nghĩa mà Nguyễn Thiện Giáp đã tổng kết dựa
trên quan điểm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Những thuật ngữ mà ông sử dụng
khá giản dị và gần gũi. ( Xin trình bày thành bảng để người đọc tiện theo dõi).

STT TÊN GỌI NỘI DUNG VÍ DỤ


Người hành
Chủ thể trong một sự tình động mà nó vừa là
1 động (hành Mẹ đi chợ.
người tác động, vừa là người bị tác động.
thể - actor)

5/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Chủ thể của hành động do động từ biểu thị,


Người tác khác với người hành động ở chỗ nó tác động
2 động (động vào một đối tượng, trong khi người hành Nam viết thư.
thể - agent) động chỉ tác động đến bản thân mình mà
thôi.
Lực tác động Chỉ sức mạnh tự nhiên tác động đến một vật
3 Gió thổi tắt nến.
(force) gây nên một quá trình.
Người thể
nghiệm Chỉ vai trải qua hoặc gánh chịu trạng thái Cháu đau chân.
4
(nghiệm thể - nội tại. Mẹ buồn.
experiencer)
Người/ vật bị Bàn lau rồi.
5 tác động (đối Đối tượng của sự tác động Sách này đọc rất
thể - patient) thích.
Vật tạo tác Bàn này do tôi
Vật sinh ra do kết quả của hành động do
6 (tạo thể - đóng. Tôi đóng
động từ biểu thị
factive) bàn .
Chỉ bất kỳ vật gì được biểu thị bằng một
Người / vật
danh từ mà vai trò của nó trong hành động
mang trạng
7 hay trạng thái được động từ biểu thị, được Hàng bán rồi.
thái (patient
chính cách thuyết minh nghĩa của động từ
state)
quy định.
Người nhận
Động vật chịu ảnh hưởng của trạng thái hay
8 (tiếp thể - Tôi cho Huyền .
hành động do động từ biểu thị.
recipient)
Chiến đấu vì
Người hưởng
Vai hưởng lợi trong hành động do động từ nhân dân . Bé
9 lợi
biểu thị. được cô chỉ tóc
(beneficiary)
cho.
Nơi chốn Chỉ vị trí hay hướng không gian của trạng Nam chạy ngoài
10
(locative) thái hay hành động do động từ biểu thị. sân .
Chỉ điểm tột cùng của sự di chuyển, thường
Tàu chạy đến
11 Đích (goal) được biểu thị bằng một giới ngữ có đến, tới,
Vinh thì dừng.
ra, vào… làm trung tâm.
Hướng Chỉ phương hướng của sự chuyển động do
12 Nó vào Nam rồi.
(direction) động từ biểu thị. Vai này được biểu hiện

6/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

bằng trạng ngữ đặt sau vị từ như lên, xuống,


ra, vào…
Nguồn Chỉ chỗ xuất phát của chuyển động do động Nó từ Mĩ sang.
13
(source) từ biểu thị. Mẹ đi chợ về.
Chỉ con đường được chọn cho sự di chuyển,
có thể được biểu hiện bằng một vật nằm trên Cô ấy chạy dọc
14 Lối đi (path) con đường ấy; thường được biểu thị bằng bờ sông . Xe đi
một giới ngữ có dọc, theo, qua… làm trung qua cầu .
tâm, đặt sau vị từ.
Mới lên 5 , nó đã
học toán lớp ba.
Phương thức Chỉ phương thức hành động; thường biểu thị
15 Tay bưng chồng
(manner) bằng trạng ngữ, vị ngữ phụ.
sách , nó bước
vào phòng.
Chỉ công cụ của hành động do động từ biểu
Đóng đinh bằng
Công cụ thị; thường được thể hiện bằng giới ngữ có
16 búa . Lấy búa
(instrument) trung tâm là bằng hay với hoặc bằng kết cấu
đóng đinh.
dùng/ lấy.
Chỉ thời điểm, thời lượng, khoảng cách thời
Thời gian Hai ngày nữa mẹ
17 gian của trạng thái hay hành động do động
(time) sẽ về.
từ biểu thị.
Khoảng cách Chỉ tầm xa của sự chuyển động; thường biểu Từ Mục Nam
18 không gian hiện bằng một cặp giới từ sóng đôi: từ… Quan đến Mũi
(extent) đến. Cà Mau .
Chỉ nguyên nhân của hành động. Sau ngữ
Nguyên nhân Vì anh mà em
19 đoạn chỉ nguyên nhân chỉ có thể có nên, mà
(cause) khổ.
chứ không có thì.
Người/ vật
Trong câu tồn tại, ta có vai người/ vật tồn Trong túi có
20 tồn tại
tại. tiền.
(existent)
Vai điều kiện là một kiểu cú làm thành một
Điều kiện
21 khung đề của câu; hoặc là một trạng ngữ đặt
(condition)
sau vị ngữ.
Trở ngại Thường được biểu thị bằng một đại từ, một
(adversative - danh ngữ hay một tiểu cú mở đầu bằng tuy,
22
trạng ngữ mặc dù, mặc cho…, diễn đạt ý của người nói
nhân nhượng chịu thừa nhận một sự tình có thật.

7/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

hay nhượng
tiến)

[2, tr255-257]

(Có thể xem thêm Câu tiếng Việt của Nguyễn Thị Lương. Tác giả này đã trình bày khá
kỹ vai nghĩa của bốn thành phần: chủ ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ, khởi ngữ [7, tr153-165]).

Các bước phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Chúng tôi đề ra qui trình phân tích câu gồm 4 bước sau:

Bước 1: Tìm vị từ trung tâm (VTTT)

Muốn phân tích câu theo cấu trúc nghĩa, trước hết ta phải tìm được cái từ được xem là
đỉnh của câu, là đầu mối của mọi quan hệ trong câu, tức là đi tìm vị từ trung tâm. Theo
kinh nghiệm của chúng tôi, ta đặt được câu hỏi với từ nào nhiều nhất thì từ đó sẽ là trung
tâm. Vì từ trung tâm phải có mối quan hệ với toàn bộ các thành tố trong câu về mặt
nghĩa. VD: Tôi đọc sách. Ta đặt được một câu hỏi với từ tôi (Tôi làm gì?), hai câu hỏi
với từ đọc (Ai đọc? và Đọc gì?), không đặt được câu hỏi nào với từ sách. Vậy từ đọc là
trung tâm.

Chúng tôi nhận thấy, vị từ trung tâm còn có quan hệ với các thành tố nghĩa chỉ thời
gian, địa điểm, phương tiện, nguyên nhân… (Ngữ pháp truyền thống gọi là trạng ngữ),
và chúng ta có thể dùng vị từ để đặt các câu hỏi tìm các thành tố này. VD: “Vì đau khổ
và thất vọng, buổi tối hôm ấy, trong một góc ký túc xá sinh viên, cô ấy khóc”. Ngoài câu
hỏi cơ bản: Ai khóc?, còn có thể đặt thêm các câu hỏi: Khóc ở đâu/ Khóc lúc nào?/ Vì
sao khóc? Vậy từ khóc là cái đỉnh của câu.

Cách thứ hai để tìm cái đỉnh của câu là ta đi tìm động từ trong câu. Theo thống kê của
Nguyễn Kim Thản (trong cuốn sách Động từ trong tiếng Việt) thì 90% các câu tiếng
Việt có vị ngữ là động từ hoặc cụm động từ. Do vậy, trước hết ta đi tìm động từ trung
tâm trong câu. Động từ này thường đứng ở vị trí sau chủ thể, sau các phó từ chỉ sự tiếp
diễn đồng nhất, phó từ thời gian, mệnh lệnh… VD trong câu “Anh ta đã đến đây hôm
qua.” thì từ đếnlà vị từ trung tâm. Nó đứng sau chủ thể anh ta và sau phó từ thời gian
đã.

Nếu trong câu có tới hai động từ thì theo chúng tôi, động từ đứng trước vẫn giữ vai trò
vị từ trung tâm. VD: “Nó bắt đầu hát.” Ta có hai động từ là bắt đầu và hát. Song khi
đặt câu hỏi thì mọi câu hỏi đều sẽ liên quan tới từ bắt đầu. Ai bắt đầu? (tìm chủ thể) và
bắt đầu làm gì? (tìm nội dung). Vậy bắt đầu là vị từ trung tâm.

8/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Còn 10% các câu trong tiếng Việt có vị ngữ không phải là động từ thì chúng ta giải
quyết thế nào? Trung tâm của vị ngữ có thể là tính từ, danh từ số từ và cả đại từ nữa.

Cao Xuân Hạo cho rằng: “Vị từ là những từ như động từ, tính từ, phụ từ tình thái, từ
tượng hình, tượng thanh…” [30, tr113] Chúng tôi không thật hiểu quan điểm của ông
về trường hợp vị từ là phụ từ tình thái.

Đối với những trường hợp vị từ trung tâm là tính từ thì cách xác định cũng tương tự như
động từ. (Vì trong tiếng Việt, tính từ có nhiều đặc điểm giống với động từ).

Đối với những câu có cấu trúc C là V, theo chúng tôi, nên xác định là là vị từ trung tâm,
mặc dù ngữ pháp truyền thống vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận về bản chất của từ là.
Chúng tôi đề nghị tất cả những câu kiểu như: Giấy này để viết thư./ Vòng này bằng bạc
Thái./ Nam Cao là một nhà văn lớn. đều nên phân tích theo cấu trúc một vị từ trung tâm
(để, bằng, là) và hai tham thể.

Đối với những câu có vị ngữ là danh từ hoặc cụm danh từ tỉnh lược từ là, chúng tôi rất
băn khoăn. VD: Cô ấy người Hà Nội. Nếu câu này diễn đạt theo kiểu: Cô ấy là người
Hà Nội thì chúng ta qui vào kiểu câu C là V như trên. Nhưng khi không có từ là thì rõ
ràng cách đặt câu hỏi tìm vị từ trung tâm không áp dụng được vì ta có thể đặt cho mỗi
thành tố một câu hỏi (Ai người Hà Nội? Và Cô ấy là ai?).

Trường hợp này tương tự như trường hợp: Nó 18. (vị ngữ là số từ) hay Tôi vẫn thế (vị
ngữ là đại từ). Theo Nguyễn Thị Lương [7] thì người Hà Nội, 18 (và cả từ thế) sẽ là đỉnh
của câu. Nhưng tác giả không giải thích lý do cho sự lựa chọn này. Nguyễn Văn Hiệp
thì cho rằng khái niệm vị từ cần được hiểu theo tinh thần của ngữ nghĩa học hiện đại, đó
là những từ có thể làm vị tố trong câu, còn vị tố là yếu tố còn lại trong câu sau khi loại
bỏ các biểu thức quy chiếu hoặc là yếu tố chủ yếu mang nghĩa miêu tả trong số các yếu
tố còn lại trong câu sau khi loại bỏ các biểu thức quy chiếu… Theo miêu tả như vậy, vị
từ làm vị ngữ trong câu có thể là danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ và cả giới từ.
Trong một số trường hợp, vị ngữ có thể là một tổ hợp, ví dụ: “Nó bốn mươi tuổi”. [6,
tr330].

Như vậy có nghĩa là đối với câu “Cô ấy người Hà Nội” thì người Hà Nội chủ yếu mang
nghĩa miêu tả, nên nó là vị từ trung tâm. Còn trong câu “Tôi vẫn thế” thì thế sẽ là vị từ
trung tâm. Chúng tôi quả thực chưa tìm thấy câu nào có giới từ làm vị từ trung tâm.

Đối với kiểu câu tồn tại của tiếng Việt, chẳng hạn như Trên bàn đặt một lọ hoa, theo
quan điểm của Nguyễn Văn Hiệp, trên phương diện nghĩa, câu này được phân tích như
sau:

Trên bàn / đặt / một lọ hoa.

Vai vị trí Vị từ tồn tại Chủ thể tồn tại

9/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Và về phương diện cú pháp, nó được phân tích như sau:

Trên bàn / đặt / một lọ hoa.

Chủ ngữ vị ngữ bổ ngữ

Chúng tôi nhất trí với Nguyễn Văn Hiệp trong cách phân tích câu trên phương diện
nghĩa song không nhất trí với ông trong cách phân tích câu trên phương diện cú pháp.
Theo chúng tôi, kiểu câu này vẫn nằm trong hệ thống câu đặc biệt của tiếng Việt, nó
được phân tích như sau:

Trên bàn đặt một lọ hoa.

Về mặt từ loại: giới từ + danh từ + động từ tồn tại + cụm danh từ

Về thành phần câu: trạng ngữ + vị từ (trung tâm của vị ngữ) + bổ ngữ

Câu này không có chủ ngữ nhưng không phải là câu tỉnh lược, cũng không phải là câu
sai ngữ pháp, lại càng không phải là câu đảo. Nó là câu đặc biệt chỉ sự tồn tại. Mô hình
chung của loại câu này là TR + V tồn tại + BN.

Bước 2: Tìm các tham thể

Câu trả lời cho các câu hỏi có liên quan đến vị từ sẽ chính là các tham thể cần tìm. Tên
gọi của các tham thể chính là các vai nghĩa mà tham thể đảm nhiệm. VD:

Ngày 8-3, tôi tặng cho người yêu một bó hoa hồng.

Ta có thể đặt một loạt các câu hỏi: Ai tặng? Tặng cho ai? Tặng cái gì? Tặng lúc nào?
Và ta sẽ được kết quả: tham thể 1: tôi; tham thể 2: người yêu, tham thể 3: một bó hoa
hồng, tham thể 4: ngày 8-3.

Bước 3: Xác định tham thể bắt buộc và tham thể mở rộng

Việc xác định TTBB và TTMR vẫn phải dựa vào vị từ trung tâm. Cách tốt nhất là lược
bớt các thành tố để xem vị từ trung tâm có còn trọn vẹn về nghĩa không. Chẳng hạn với
vị từ trao nhận, chắc chắn cần có chủ thể trao nhận, vật trao nhận, người tiếp nhận. Vậy
cả ba tham thể này đều là bắt buộc. Còn trao nhận ở đâu, vì mục đích gì… không quan
trọng; các tham thể thể hiện những ý nghĩa này sẽ là tham thể mở rộng.

Trong ví dụ trên, các tham thể 1, 2, và 3 là TTBB; còn tham thể thứ 4 là TTMR.

Bước 4: Ghi tên các tham thể

10/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Đây là một thao tác tương đối khó vì tên gọi các tham thể rất phức tạp. Theo chúng tôi,
trước hết, ta nên chú ý tới mối quan hệ của tham thể với vị từ trung tâm; thứ hai, bắt
buộc phải học thuộc lòng hệ thống tên gọi các tham thể theo các vị từ nhất định.

Chẳng hạn, với vị từ trao nhận, ta luôn có ba tham thể: chủ thể của hành động (hành
thể), đối thể của hành động (người hưởng lợi - đắc lợi thể/ tiếp thể), vật trao nhận (đối
thể)

Một số ví dụ:

Con mèo nhảy mạnh làm đổ lọ hoa .

TTBB (thể nguyên nhân) VTTT TTBB (đối thể)

Tôi lại tưởng anh ta không muốn đến .

TTBB (thể cảm nghĩ VTTT TTBB (thể nội dung)

Những ưu, nhược điểm của phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ – tham
thể

Ưu điểm

(a) Các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể phản ánh sự tương ứng về nghĩa của
chúng với các sự vật trong thực tế khách quan. Toàn bộ nội dung câu phản ánh một sự
tình của thế giới ấy. Thông qua cấu trúc này, ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa ngôn ngữ
học với cuộc sống con người.

(b) Các vai nghĩa mà các tham thể đảm nhiệm cho chúng ta một cái nhìn “động” về câu
tiếng Việt.

Nhược điểm

(a) Cấu trúc vị từ - tham thể chỉ quan tâm đến các thực từ (danh từ, động từ, tính từ, đại
từ), không quan tâm đến các hư từ. Điều này dễ lý giải. Vì đây là cấu trúc ngữ nghĩa,
mà ngữ nghĩa lại do các thực từ đảm nhiệm. Thực ra, nhờ nghĩa (nghĩa ngữ pháp, nghĩa
quan hệ) của hư từ, ta dễ dàng xác định được tên gọi của các tham thể. VD:

• Tôi nói với anh ta bằng tiếng Việt rất nhanh rằng tôi không đến vì bận.

Trong câu này có tới 4 quan hệ từ: với, bằng, rằng, vì. Nhờ các quan hệ từ này, ta dễ
dàng xác định ý nghĩa của các tham thể:

Tham thể bắt buộc 1: tôi (chủ thể - phát ngôn thể)

11/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Tham thể bắt buộc 2: anh ta (tiếp ngôn thể)

Tham thể bắt buộc 3: tôi không đến vì bận (ngôn thể)

Tham thể mở rộng 1: tiếng Việt (thể phương tiện)

Tham thể mở rộng 2: rất nhanh (thể cách thức)

(b) Cấu trúc này không phân tích được cạn kiệt các thành phần trong câu. Chẳng hạn
không làm rõ được thành phần định ngữ có vai trò gì trong cấu trúc nghĩa sự vật. VD:

+ Cô gái nhỏ nhắn ấy là bạn tôi.

Toàn bộ cụm danh từ cô gái nhỏ nhắn ấy là một tham thể; bạn tôi là một tham thể. Còn
nhỏ nhắn và tôi có vai trò gì thì không quan tâm đến.

(c) Cấu trúc này không làm rõ mặt thông tin của câu (không cho biết đâu là tin cũ, đâu
là tin mới). Vị từ trung tâm chỉ quan trọng trong việc biểu hiện nghĩa sự vật, trong khi
thông tin chính của câu có thể không nằm trong vị từ trung tâm mà nằm trong một tham
thể nào đó. VD:

• Nó hát được không?


• Nó hát khá hay đấy. (Hát là vị từ trung tâm song thông tin chính lại nằm ở tham
thể khá hay).

Thêm vào đó, cấu trúc này cũng không cho biết mục đích phát ngôn của câu, không
quan tâm tới việc người nói nói ra câu nói đó để làm gì. VD, trong câu Anh đến rồi à?
có vị từ trung tâm là đến, tham thể bắt buộc là anh, một tham thể ẩn là đây chỉ vị trí,
đích đến. Nhưng người ta nói ra câu này để làm gì? Để chào hay hỏi? Chỉ nghiên cứu
câu trên phương diện dụng học mới làm rõ được điều này.

(d) Do mới được nghiên cứu nên cấu trúc vị từ - tham thể chưa có một bề dày lý thuyết
xứng đáng. Nhiều trường hợp rất khó phân tích theo cấu trúc này. Chẳng hạn:

• Hay là anh cho tôi mượn cái chày giã cua?


• Hoẵng hoảng quá vội vã chạy trốn.
• Cô ấy ôm mặt khóc.

Trong câu thứ nhất, vị từ trung tâm là cho hay mượn? Hay cả cho mượn? Trong câu thứ
hai, hoảng, vội vã hay chạy trốn làm vị từ trung tâm? Trong câu thứ ba, ôm hay khóc
làm trung tâm? Hơn thế nữa, vị từ trong các ngôn ngữ Ấn Âu thì luôn luôn xuất hiện, do
vậy, người ta có thể nhìn thấy ngay vị từ trung tâm. Còn trong tiếng Việt, có những câu
không có vị từ, việc xác định thành tố trung tâm sẽ rất phức tạp. Đôi chỗ chúng ta khó
lý giải một cách thấu đáo.

12/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Đối với câu phức, câu ghép, câu có nhiều vị ngữ, hay nói chung, đối với những câu có
cấu trúc tầng bậc, cồng kềnh; chúng ta sẽ phân tích như thế nào? Liệu có thể phân tích
toàn bộ các tầng bậc ấy không? VD: Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca ngợi cảnh núi non hoa
cỏ, núi non hoa cỏ trông mới đẹp, từ khi có kẻ lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm
đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay.

- Rất khó xác định vai nghĩa mà các tham thể đảm nhiệm do không có dấu hiệu hình
thức rõ ràng.

Chúng tôi đã tiến hành điều tra sinh viên năm thứ 4, khoa Ngữ văn, trường ĐHSP. Câu
hỏi đưa ra là: Với phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể, theo anh
(chị), bước khó nhất là xác định: (1) Vị từ; (2) Tham thể; (3) Tên gọi các tham thể.

100% người được hỏi chọn câu trả lời là (3). Như vậy, cái khó đối với sinh viên không
phải là xác định vị từ, xác định tham thể mà là gọi tên các tham thể theo các vai nghĩa
mà chúng đảm nhiệm.

(e) Có một thực tế là người ta vẫn dựa vào sự tương ứng giữa các thành tố của cấu trúc
vị từ - tham thể với các thành phần câu trong cấu trúc chủ - vị để từ cấu trúc chủ - vị,
suy ra cách phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể. Điều này, suy cho cùng, không
phải là nhược điểm; song như vậy rõ ràng là muốn phân tích câu (dù theo cách nào), vẫn
phải học cấu trúc chủ - vị trước.

So sánh cấu trúc vị từ – tham thể với cấu trúc chủ - vị

Theo quan sát của chúng tôi, cấu trúc vị từ - tham thể và cấu trúc chủ - vị có những sự
tương ứng sau đây:

CẤU TRÚC CHỦ - VỊ CẤU TRÚC VỊ TỪ - THAM THỂ


Tương ứng với tham thể bắt buộc (là tham
Chủ ngữ
thể quan trọng nhất)
Tương ứng với vị từ trung tâm (toàn bộ vị
Trung tâm của vị ngữ ngữ có thể tương đương với cả vị từ trung
tâm + tham thể bắt buộc / không bắt buộc).
Bổ ngữ: 2 loại:+ BN bắt buộc (của VT
trao nhận, sai khiến…)+ BN không bắt + Tương ứng với tham thể bắt buộc.+ Tương
buộc (BN thời gian, địa điểm, mục ứng với tham thể không bắt buộc.
đích….)
Không tương ứng với một tham thể. Nó
Định ngữ cùng với danh từ trung tâm làm thành một
tham thể.

13/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

Tương ứng với tham thể bắt buộc do nó có


Đề ngữ quan hệ về nghĩa với nòng cốt câu hoặc các
thành tố trong câu.
Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể
Trạng ngữ
lược bỏ (chu tố).
Không tương ứng với bất kỳ thành tố nào
Các thành phần biệt lập (phụ chú ngữ, trong cấu trúc vị từ - tham thể vì các thành
liên ngữ, hô ngữ, tình thái ngữ) tố này không tham gia vào việc biểu hiện
nghĩa sự vật.
Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể
Vị ngữ phụ
lược bỏ (chu tố).

Kết luận

• Phân tích câu theo cấu trúc vị từ tham thể là một hướng phân tích câu theo lối
mới. Ưu điểm chính của nó là phản ánh được mặt nghĩa học của câu, làm rõ
mối liên quan giữa nội dung câu với thực tế khách quan. Nhược điểm chính của
nó là không làm rõ được đâu là thông tin mới trong câu.
• Có 4 bước tiến hành phân tích câu theo cấu trúc này: (1) xác định vị từ trung
tâm; (2) tìm các tham thể; (3) xác định tham thể bắt buộc và tham thể mở rộng;
(4) ghi tên các tham thể. Trong các bước này thì bước (4) là khó thực hiện nhất.
• Có những sự tương ứng nhất định giữa cấu trúc vị từ - tham thể và cấu trúc chủ
-vị. Do vậy, người học có thể sử dụng những hiểu biết của mình về cấu trúc chủ
-vị để từ đó suy ra cấu trúc vị từ - tham thể.

Tài liệu tham khảo chính

1. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
2. Nguyễn Thiện Giáp (2007), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia, trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn.
3. Halliday MAK (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
4. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng Tập 1, Nxb
KHXH, Tp Hồ Chí Minh.
5. Cao Xuân Hạo (chủ biên), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất
Tươm (1999), Câu trong tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Lương (2006), Câu tiếng Việt, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
8. Lyons John (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, NXB GD, Hà Nội.

14/15
Về phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể

9. J.Austin (1962), How do to things with words, Cambridge, Harvard University


Press.
10. Frawley W. (1992), Linguistic Semantics. Hillsdale, New Jersey: Lawrence
Erlbaum.

15/15

You might also like