Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

II.

QUAN HỆ PHÁP LUẬT


1. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật
Con người để sinh tồn và phát triển buộc phải liên kết với nhau thành những cộng đồng, giữa các
thành viên trong cộng đồng luôn nảy sinh những sự liên hệ về vật chất, về tinh thần với nhau, những mối liên
hệ này được gọi là các “quan hệ”.
Trong đời sống, con người tham gia các quan hệ xã hội khác nhau: quan hệ chính trị, pháp luật, kinh
tế, gia đình...
Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú, nó tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, có thể là quan hệ
gia đình, quan hệ lao động, quan hệ tài sản, quan hệ chính trị... Tính đa dạng của quan hệ xã hội dẫn đến sự
phong phú của các hình thức tác động đến chúng. Trong lịch sử, người ta đã dùng rất nhiều loại quy tắc xử
sự khác nhau (quy phạm xã hội) để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chúng có thể là quy phạm đạo đức, quy
phạm tôn giáo, phong tục, tập quán, quy phạm pháp luật... Tuy nhiên, hiệu quả tác động của mỗi loại quy
phạm xã hội có sự khác nhau rất lớn. Chính vì vậy, việc lựa chọn loại quy phạm xã hội nào cần áp dụng có ý
nghĩa rất lớn đối với việc đạt mục đích mà con người đặt ra khi tác động vào quan hệ xã hội. Trong hệ thống
các quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng. Chúng là loại quy phạm có hiệu quả
nhất, bởi vậy, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà nước đã sử dụng hệ thống các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhằm đảm bảo cho chúng phát triển phù hợp với ý chí và lợi ích của
mình.
Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật thuộc loại quan hệ tư tưởng. Quan hệ pháp luật thuộc kiến trúc thượng tầng và
phụ thuộc cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp, mỗi kiểu quan hệ sản xuất có kiểu pháp luật phù hợp. Các
quan hệ pháp luật phát triển, biến đổi theo sự phát triển, biến đổi của quan hệ sản xuất và phục vụ quan hệ
sản xuất.
Mặt khác, quan hệ pháp luật cũng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí. Nói cách khác, quan hệ pháp luật xuất hiện do ý chí
của con người. Tính ý chí của quan hệ pháp luật thể hiện ở chỗ quan hệ pháp luật là dạng quan hệ cụ thể hình
thành giữa những chủ thể nhất định. Các quan hệ này được hình thành thông qua hành vi có ý chí của các
chủ thể. Có những quan hệ pháp luật mà sự hình thành đòi hỏi cả hai bên chủ thể đều phải thể hiện ý chí. Ví
dụ như quan hệ hợp đồng. Cũng có những loại quan hệ pháp luật được hình thàh trên cơ sở ý chí nhà nước,
ví dụ: quan hệ pháp luật hình sự. Dù là quan hệ được phát sinh thông qua hành có ý chí của các bên chủ thể
tham gia quan hệ thì ý chí đó cũng phải nằm trong khuôn khổ ý chí của nhà nước, và chỉ khi quan hệ pháp
luật được hình thành trên cơ sở phù hợp với ý chí nhà nước nó với được nàh nước công nhận.
Thông qua ý chí, quan hệ xã hội từ trạng thái vô định (không có cơ cấu chủ thể nhất định) đã chuyển
sang trạng thái cụ thể (có cơ cấu chủ thể nhất định).
- Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật, tức là trên cơ sở ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thể chế hoá, vì thế, quan hệ pháp luật mang tính giai
cấp sâu sắc.
- Nội dung của quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực
hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Đây là đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật. Trong
quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt pháp luật.
- Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật luôn gắn liền với sự kiện pháp lý. Nói cách
khác, chỉ khi có các tình huống, hiện tượng, quá trình xảy ra trong cuộc sống được ghi nhận trong quy phạm
là sự kiện pháp lý và các chủ thể pháp luật tham gia thì mới xuất hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa: Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội,
xuất hiện dưới sự tác động của các quy phạm pháp luật, theo đó các bên tham gia quan hệ có quyền chủ thể
và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của quy phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ đó được pháp luật ghi nhận
và nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, cưỡng chế nhà nước.
2. Thành phần quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi: chủ thể, nội dung và khách thể.
a. Khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan hệ pháp luật, nói cách khác, đó là các bên
tham gia vào quan hệ pháp luật trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ do nhà nước quy định trong pháp luật.
Chủ thể của quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức.
Những người có ý thức và ý chí nhất định sẽ có đủ tư cách để tham gia quan hệ pháp luật. Quan hệ
pháp luật là quan hệ giữa người với người. Trong quan hệ pháp luật có sự tham gia của con người hoặc tổ
chức của con người. Chủ thể pháp luật có những phẩm chất riêng biệt nhà nước trao cho là năng lực chủ thể.
Năng lực chủ thể gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận, có được các quyền và nghĩa
vụ pháp lý theo quy định của pháp luật.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng hành vi của mình thực hiện
một cách độc lập các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, độc lập tham gia các quan hệ xã hội.
Có thể nói, năng lực pháp luật được nhà nước thừa nhận mang quyền và nghiã vụ pháp lý của chủ
thể có ở tuyệt đại đa số công dân. Năng lực pháp luật có thể coi là phần tối thiểu trong năng lực chủ thể của
cá nhân và pháp nhân.Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật
hoặc được pháp luật bảo vệ trong các quan hệ nhất định. Tính thụ động của chủ thể thể hiện ở chỗ là không
tự ra được cho mình các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có được trong
quan hệ pháp luật cụ thể là do ý chí của nhà nước.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể có thể tự bản thân mình thực hiện các hành vi pháp lý do
nhà nước quy định, tự mình tham gia vào các quan hệ xã hội. Muốn tham gia vào các quan hệ, con người
phải có ý thức và ý chí nhất định. Thực tế không phải tất cả mọi người đều có ý thức, ý chí nhất định do đó
không phải tất cả mọi người đều có đầy đủ các tiêu chuẩn để tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi hình thành nên quyền chủ thể của quan hệ pháp luật. Như
vậy, khả năng trở thành chủ thể quan hệ pháp luật là thuộc tính không tách rời của mỗi cá nhân nhưng không
phải là thuộc tính tự nhiên, không phải sẵn có khi người đó sinh ra, mà là những thuộc tính pháp lý. Chúng
đều do nhà nước thừa nhận cho mỗi tổ chức hoặc cá nhân. Chỉ thông qua quan hệ pháp luật ta mới biết được
tổ chức, cá nhân nào có năng lực chủ thể pháp luật để tham gia vào những quan hệ pháp luật nhất định.
Đối với cá nhân, năng lực pháp luật do nhà nước quy định. Nó xuất hiện kể từ khi cá nhân đó sinh ra
và chỉ mất đi khi người đó chết. Trong một số lĩnh vực, năng lực pháp luật được mở rộng dần từng bước phụ
thuộc vào sự phát triển thể lực và trí lực của cá nhân. Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ xuất
hiện khi cá nhân đã đạt đến độ tuổi nhất định và đạt được những điều kiện nhất định. Phần lớn pháp luật các
nước đều lấy độ tuổi 18 và tiêu chuẩn lý trí làm điều kiện công nhận năng lực hành vi cho chủ thể của đa số
các nhóm quan hệ pháp luật.
Đối với tổ chức, năng lực pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện cùng một lúc, vào thời điểm tổ
chức được thành lập và được ghi nhận trong điều lệ, quy chế hoặc văn bản của nhà nước, năng lực hành vi
của tổ chức thực hiện thông qua người đứng đầu cơ quan hoặc người đại diện.
* Các loại chủ thế quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa
Chủ thể quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa bao gồm cá nhân, pháp nhân.
* Chủ thể là cá nhân gồm có công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.
Công dân là loại chủ thể cá nhân phổ biến và chủ yếu của quan hệ pháp luật.
Người nước ngoài và người không quốc tịch có thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật theo các điều
kiện áp dụng đối với công dân Việt Nam.

You might also like