Professional Documents
Culture Documents
Sangkienkinhnghiem Org 315
Sangkienkinhnghiem Org 315
Sangkienkinhnghiem Org 315
org
Tổng Hợp Hơn 1000 Sáng Kiến Kinh Nghiệm Chuẩn
ĐỀ TÀI:
SỰ PHÓNG XẠ
TƯ LIỆU THỰC TẾ & BÀI TẬP
Có đính kèm:
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Trường THPT Trấn Biên Trang 2 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Tháng 2/2012
2
Trường THPT Trấn Biên Trang 3 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Năm 2007: Giáo dục động cơ học tập cho học sinh.
Năm 2008: Vài thủ thuật sinh động môn hóa học khối 10.
3
Trường THPT Trấn Biên Trang 4 Giáo viên: Trần Đức Thiện
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Cha ông ta xưa cũng đã có câu: “Không thành công cũng thành nhân”.
Ông Lê-nin đã có danh ngôn bất hủ: “Học, học nữa, học mãi”.
Sau một thời gian dạy về chương cấu tạo nguyên tử, tôi thấy có một số vấn
đề mở rộng trong thực tiễn rất lý thú mà trước đây nhiều khi tôi cũng e dè không
dám đề cập đến! cứ gọi là “kính nhi viễn chi”…
Môn Hóa có khá nhiều kiến thức liên quan đến Vật lý & Toán học. Các bài
tập về sự phóng xạ là một ví dụ tiêu biểu.
Tháng ba năm 2011, sự cố tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima xảy ra.
Các tư liệu về năng lượng hạt nhân được đăng tải tràn ngập! Đây là cơ hội hiếm
có cho những ai yêu thích đề tài về năng lượng hạt nhân, nhà máy điện nguyên
tử, cách sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình. Đây cũng là
những đề tài có ý nghĩa rất thực tiễn ở Việt Nam.
Nhằm giúp học sinh dễ tiếp thu và có thể nhớ lâu kiến thức, biến môn hóa
học trở thành một bộ môn sinh động, tôi xin phép trình bày một số tư liệu bản
thân đã thu thập được về những vấn đề trên. Đồng thời xin chia sẻ với đồng
nghiệp một số kiến thức liên quan đến các bài toán về sự phóng xạ. Loại bài tập
này có thể áp dụng để nâng cao kiến thức về cấu tạo nguyên tử, đồng thời dùng
bồi dưỡng học sinh giỏi.
4
Trường THPT Trấn Biên Trang 5 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Toàn bộ quá trình phân hạch xảy ra trong trong lõi bằng thép của lò phản ứng.
Nhiệt mà phản ứng tạo khiến nước sôi và bốc hơi. Luồng hơi nóng của nước làm
quay các turbin và tạo ra điện. Ảnh: imperial-consultants.co.uk.
5
Trường THPT Trấn Biên Trang 6 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Trong lõi của lò phản ứng, nguyên tố urani hoặc plutoni được nạp vào
các thanh nhiên liệu (màu đỏ) chìm trong nước. Các thanh điều khiển
(màu đen) để làm nhanh hoặc chậm quá trình phân hạch của nhiên
liệu hạt nhân được đặt bên dưới các thanh nhiên liệu. Ảnh: NHK.
Khi sự cố bất ngờ, như động đất, xảy ra thì các thanh điều khiển tự
động kích hoạt và trồi lên, nằm xen kẽ với các thanh nhiên liệu nhằm
hấp thụ neutron từ các thanh nhiên liệu. Do bị hấp thụ, các hạt
neutron không thể bắn phá nguyên tử urani hoặc plutoni nên phản ứng
phân hạch chấm dứt và lò phản ứng ngừng hoạt động. Ảnh: NHK.
6
Trường THPT Trấn Biên Trang 7 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Trong kiểu lò nước áp lực, nước được bơm vào lõi để hấp thu nhiệt từ các thanh
nhiên liệu. Sau đó nó chảy qua một hệ thống kín để sôi. Hơi nước được dẫn sang
buồng chứa turbin để làm quay turbin. Chuyển động quay của turbin được truyền
sang máy phát điện. Ảnh: MSNBC.
Trong lò nước sôi, nước sôi ngay sau khi hấp thu nhiệt từ các thanh nhiên liệu và
hơi được dẫn sang buồng chứa turbin. Ra khỏi turbin, nước được làm nguội tại
một tháp để quay trở lại dạng lỏng. Sau đó nước tiếp tục chảy tới buồng tạo hơi.
Ảnh: scanada.com.
7
Trường THPT Trấn Biên Trang 8 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Nguồn Vnexpress
8
Trường THPT Trấn Biên Trang 9 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Ngược với khái niệm uranium nghèo gần đây được nói nhiều trên báo chí, uran giàu là loại
nhiên liệu được sử dùng trong phần lớn các lò phản ứng hạt nhân, trong đó có lò Đà Lạt. Tuy
nhiên, Uranium giàu còn được chia thành hai loại: Uranium độ giàu thấp và uranium độ giàu
cao.
Loại nhiên liệu uranium, sản xuất ở Nga, được dùng từ 1983 cho đến những ngày gần đây tại
lò Đà Lạt chứa hàm lượng U235 đến 36%, thuộc loại uranium độ giàu cao (High-enriched
uranium - HEU). Còn các thanh nhiên liệu vừa chở đến Đà Lạt, để thay thế các thanh đã dùng,
đang dùng trong lò hoặc đang cất giữ trong kho, thuộc loại uranium độ giàu thấp (Low-
enriched uranium - LEU) với hàm lượng U235 gần 20%.
Như vậy, thực chất của việc thay đổi công nghệ với Lò Đà Lạt hiện nay chỉ là sử chuyển đổi
mức độ giàu của các thanh nhiên liệu, tức là chuyển từ mức giàu cao về mức giàu thấp hơn
mà thôi.
Nhưng tại sao phải làm như thế? Câu hỏi này, có thể nhiều người đặt ra, sẽ được làm sáng tỏ
ngay sau đây.
“Bắt tay” không phổ biến vũ khí hạt nhân:
Trên thế giới hiện có những 160 lò phản ứng nghiên cứu như lò Đà Lạt. Nhiều nhất là Nga
(62 lò), tiếp theo là Hoa Kỳ (54), Nhật (18), Pháp (15), Đức (14) và Trung Hoa (13). Nhiều
nước nhỏ hoặc đang phát triển cũng có, như: Bangladesh, Algeria, Colombia, Ghana, Jamaica,
Libya, Thái Lan và Việt Nam.
Độ giàu nhiên liệu của các lò nghiên cứu nói trên cũng rất đa dạng. Nhiều lò có độ giàu U235
đến 80-90%, chỉ một số ít là dùng nhiên liệu LEU với độ giàu 20%.
Các nhiên liệu có độ giàu cao (HEU), về mặt lý thuyết, có thể có nguy cơ lớn được khai thác
để chế biến thành nhiên liệu cho vũ khí hạt nhân. Nhiều nước, trước hết là Hoa Kỳ, nhiều năm
nay đã tỏ ra rất quan ngại điều này.
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, một dự án quốc tế được Liên Hiệp Quốc bảo trợ đã đề
xuất việc giảm độ giàu nhiên liệu uranium trong các lò phản ứng nghiên cứu xuống hàm
lượng dưới 20%. Và công việc chuyển đổi này được tiến hành trong khuôn khổ các chương
trình RERTR (Chương trình hạ thấp độ giàu nhiên liệu hạt nhân cho các lò phản ứng nghiên
cứu và lò phản ứng thử nghiệm) của hai nước Nga và Mỹ.
Dù công suất của Lò Đà Lạt (500 kilowat), thấp dưới 1000 kilowat, nhưng cũng là đối tượng
được quan tâm chuyển đổi trong xu hướng chung mà nhiều nước đã và đang thực hiện.
Tháng ba năm nay, 2007, Cơ quan An ninh Hạt nhân Quốc gia (NNSA) thuộc Bộ Năng lượng
Hoa Kỳ đã ký một văn bản thỏa thuận với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VAEC)
thuộc Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam ở thủ đô Washington, theo đó lò phản ứng Đà Lạt
của Việt Nam sẽ được chuyển đổi từ sử dụng nhiên liệu uranium làm giàu ở mức cao 36%
(HEU) sang nhiên liệu uranium làm giàu ở mức thấp dưới 20% (LEU).
Mặt khác, giữa Công ty JSC TVEL (Liên bang Nga), Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
và Trung tâm dịch vụ (thuộc NNSA , Bộ Năng lượng Hoa Kỳ) đã ký hợp đồng về chế tạo và
cung cấp nhiên liệu có độ giàu uranium thấp cho Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Như vậy,
nhiên liệu LEU mới cung cấp cho Lò Đà Lạt không phải sản xuất ở Hoa Kỳ, mà do Hoa Kỳ
đặt hàng cho Công ty TVEL của Nga tại Novosibirsk chế tạo. Chính công ty này cũng đã
cung cấp nhiên liệu LEU cho lò phản ứng VR-1 của CH Séc tại Praha và lò phản ứng tại
Trung tâm nghiên cứu hạt nhân Tajoura của Libya mới đây.
9
Trường THPT Trấn Biên Trang 10 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Đồng thời, cũng đã ký hợp đồng giữa Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA, Công ty
nghiên cứu & phát triển “SOSNY” (Liên bang Nga) và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
về việc đưa các thanh nhiên liệu có độ giàu uranium cao chưa sử dụng tại Lò phản ứng hạt
nhân Đà Lạt do Nga cung cấp trước đây trở về Liên bang Nga.
Các hợp đồng này là bước hoàn tất các cam kết nêu trong Tuyên bố chung Việt Nam-Hoa Kỳ
được công bố trong chuyến thăm của Tổng thống Bush đến Việt Nam hồi tháng 11/2006.
Với sự chuẩn bị chu đáo và chặt chẽ nói trên, cuối cùng, quá trình nhận các thanh nhiên liệu
LEU mới, đồng thời giao các thanh nhiên liệu HEU chưa sử dụng để chuyển lại nước Nga đã
thực hiện suôn sẻ ở Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, trong tuần giữa tháng 9/2007. Đây là một
thời điểm đáng ghi nhớ không chỉ trong lịch sử của một lò phản ứng mà cả trong mối quan hệ
giữa ba nước Việt Nam, Nga, Mỹ.
Với sự kiện nói trên, Việt Nam một lần nữa khẳng định mục tiêu sử dụng năng lượng nguyên
tử vì mục đích hòa bình của mình, thực hiện trong hành động cam kết quốc tế không phổ biến
vũ khí hạt nhân, cộng tác chặt chẽ với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA và mở
rộng hợp tác với các cường quốc hạt nhân Nga và Mỹ trong cái bắt tay mang tầm thời đại.
10
Trường THPT Trấn Biên Trang 11 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Sơ đồ hoạt động của một lò phản ứng hạt nhân - Đồ họa: NHƯ KHANH
Trận động đất 9 độ Richter lúc 15g chiều 11-3 khiến các nhà máy điện hạt nhân trên đất Nhật
tự động dập lò, chấm dứt tức khắc phản ứng dây chuyền bên trong các lõi lò phản ứng.
Nhưng các lõi lò vẫn còn rất nóng, bởi nhiệt tỏa ra do bức xạ gamma từ vô số mảnh vỡ phân
hạch được tích lũy nhiều năm bên trong các bó nhiên liệu. Nếu không kịp thời tải lượng nhiệt
này đi (bằng 6% công suất lò), các bó nhiên liệu sẽ bị nóng chảy, chất phóng xạ sẽ thoát ra
nước tuần hoàn vốn được dùng để tải nhiệt và làm chậm nơtron khi lò hoạt động bình thường.
Nhưng đây chưa phải là trạm dừng chân cuối cùng của các chất phóng xạ. Tuy làm bằng thép
không gỉ rất dày, nhưng nếu thùng lò, nền móng bên dưới và các đường ống dẫn ra bên ngoài
bị nứt hoặc hư hại do động đất, chất phóng xạ sẽ thoát ra ngoài nhà lò và từ đó tiếp tục hành
trình ra môi trường khí và nước, gây ô nhiễm phóng xạ cả khu vực xung quanh. Liên tiếp bốn
ngày qua, cả nước Nhật phải vật lộn với những con quái vật ấy để bắt nó phải nằm yên tại
trạm dừng chân thứ nhất.
Các lò nước sôi hoạt động ra sao?
Để cảm nhận được việc này khó khăn dường nào, ta nên tìm hiểu qua nguyên tắc hoạt động
của các lò nước sôi (BWR) khá phổ biến ở Nhật và đang bị trận động đất quật ngã trong mấy
ngày qua (xem sơ đồ).
Lõi lò, gồm các bó nhiên liệu (2) và thanh điều khiển (3) được tải nhiệt và làm chậm nơtron
bằng nước nguyên chất sôi ở 2850C dưới áp suất 75 atm nhờ hệ thống tuần hoàn (5). Hơi
nước (4) sau khi qua hệ thống tuôcbin (6, 7) được ngưng tụ (8) để từ đó quay lại vòng tuần
hoàn làm nguội lõi lò. Bộ phận ngưng hơi cần phải được làm nguội (11) nhưng bằng nước
thường.
Nguyên lý an toàn của các lò phản ứng là làm sao các chất phóng xạ được nhốt chặt bằng
nhiều lớp tường thành kiên cố, nếu lớp trước bị chọc thủng thì còn lớp sau. Lớp thứ nhất là vỏ
bọc các bó nhiên liệu (2). Nếu bức tường thành này bị thủng, chất phóng xạ sẽ thoát ra bên
ngoài nhưng sẽ bị nhốt lại bên trong bức tường thành thứ hai, đó là thùng lò bằng thép không
gỉ (1) đủ dày để chống chịu áp lực và nhiệt độ cao.
11
Trường THPT Trấn Biên Trang 12 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Nhà lò chứa thùng lò và hệ thống tuôcbin, máy phát (xem sơ đồ) có thể xem là bức tường
thành thứ ba. Khi lò hoạt động, nước và hơi bị nơtron kích hoạt trở nên phóng xạ, do đó nhà
lò, và đặc biệt hệ thống tuôcbin, phải có tường bêtông đủ dày (12) để cản xạ.
“Ông lão” Fukushima và sóng thần!
Nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1 gồm sáu lò nước sôi, trong đó chỉ có ba lò 1, 2 và 3 đang
hoạt động trước khi động đất xảy ra. Lò thứ nhất công suất 440MW là một “ông lão” đang có
kế hoạch nghỉ hưu vào tháng tư này sau 40 năm hoạt động. Nhưng nó vừa bị quật ngã nặng
nhất. Động đất và mất điện lưới đã đánh gục hoàn toàn hệ thống bơm tải nhiệt và cả hệ thống
làm nguội khi có sự cố. Các nhân viên vận hành lúc này phải nghĩ đến máy diesel dự phòng.
Nhưng họa vô đơn chí! Con đê chắn kiên cố phía bờ biển bị sóng thần phá vỡ, nước biển tràn
vào làm ngập gian nhà chứa máy diesel, nó chỉ chạy được chưa đầy một giờ rồi lịm hẳn. Nhà
máy còn có hệ thống ăcquy dự phòng, nhưng chỉ đủ điện cho các hệ thống điều khiển và chiếu
sáng hạn chế. Máy phát điện lưu động được điều đến trong vòng 13 giờ sau đó, nhưng không
kết nối được vào các thiết bị của nhà máy bởi tầng hầm chứa các tủ điện bị ngập nước do sóng
thần.
Lúc này bên trong thùng lò nước tiếp tục sôi, nhưng hệ thống ngưng hơi và bơm nước không
hoạt động khiến hơi cứ đầy lên, áp suất hơi bên trong thùng lò tăng cao mà pha nước lại vơi
nhanh làm nhiệt độ các bó nhiên liệu tăng cao do chúng bị phơi trơ ra khỏi mặt nước. Phải
kiềm chế quá trình này, nếu không toàn lõi lò sẽ tan chảy, một hiện tượng được xem như cơn
ác mộng kinh hoàng nhất đối với những ai quản lý lò hạt nhân.
Chỉ còn cách xì bớt hơi ra nhà lò để giảm áp suất bên trong thùng lò, đồng thời dùng bơm cứu
hỏa, công cụ cuối cùng khả dĩ lúc này, để bơm nước biển vào thùng lò làm nguội các bó nhiên
liệu. Axit bôric được pha vào nước biển để hấp thụ nơtron, phòng khi phản ứng dây chuyền
xảy ra.
Quyết định táo bạo
Quyết định này là một sự đánh đổi táo bạo. Bơm nước biển vào lò chẳng khác nào khai tử lò
phản ứng, bởi clor sẽ làm mọi thứ bên trong gỉ rất nhanh. Nhưng đổi mạng sống của một “ông
lão về hưu” để tránh thảm họa cho nhiều người xem ra còn “dễ quyết” hơn là làm cho các
nhân viên vận hành và dân chúng bên ngoài bị nhiễm xạ khi xì hơi nước có chứa phóng xạ ra
nhà lò. (Thật ra chôn cất cái xác lò này không đơn giản, nhưng việc này rồi sẽ hạ hồi phân
giải).
Sáng 12-3, mức phóng xạ trong nhà chứa máy tuôcbin lên quá cao buộc lãnh đạo nhà máy
phải cho xì tiếp ra môi trường. Mức phóng xạ đo được ở cổng nhà máy đã tăng lên hơn mười
lần sau 40 phút, trước đó nhà chức trách đã phải phát lệnh di tản dân chúng khẩn cấp. Lúc này
thông tin đáng chú ý nhất là phát hiện thấy hai sản phẩm phân hạch trong không khí xung
quanh khu vực lò, đồng vị xêsi (Cs-137, Cs-134) và iôt (I-131).
Vậy là vỏ bọc nhiên liệu đã bị hỏng. Lõi lò đã tan chảy một phần. Nhà chức trách bắt đầu
phân phát muối kali iôt để giảm nguy cơ iôt phóng xạ xâm nhập vào tuyến giáp. Máy bay trực
thăng của quân đội Mỹ lượn cách nhà máy 60 dặm phát hiện xêsi phóng xạ, nhận được lệnh
quay trở về ngay căn cứ để tẩy xạ.
Các hãng thông tấn cảnh báo tính độc hại của xêsi phóng xạ. Thật ra ngoài xêsi phóng xạ còn
nhiều sản phẩm phân hạch khác độc hại hơn như stronxi (Sr-92), song không dễ phát hiện như
xêsi và iôt. Cả xêsi và stronxi đều sống rất lâu, sau 30 năm chỉ phân hủy một nửa.
12
Trường THPT Trấn Biên Trang 13 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Lúc 3 giờ chiều 12-3 một vụ nổ đã xảy ra, sự kiện không nằm ngoài dự đoán của các chuyên
gia ngoài cuộc theo dõi trên truyền hình. Vụ nổ đã làm tung mái nhà lò do khí hydro xì ra từ
bên trong thùng lò kết hợp với ôxy trong không khí. Vụ nổ đã cung cấp thêm một minh chứng
nữa cho thấy vỏ bọc nhiên liệu làm bằng hợp kim zircalo đã bị thủng do ziacon (Zr) phản ứng
với nước ở nhiệt độ rất cao.
Phản ứng này tạo ra khí hydro bên trong thùng lò. Vụ nổ càng làm tăng thêm lượng chất
phóng xạ tung ra môi trường. Còn nhớ kịch bản tương tự đã xảy ra ở Chernobyl cách đây gần
đúng 25 năm, khi đó một vụ nổ khí hydro đã xảy ra trước khi toàn lõi lò bị nổ gieo rắc chất
phóng xạ khắp Bắc bán cầu. May ra chuyện tồi tệ này dường như không lặp lại ở đây. Có vẻ
như lò số 1 chưa bị tan chảy hoàn toàn.
GS PHẠM DUY HIỂN (nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt)
Nguồn Tuổi trẻ
Tại sao biện pháp xử lý sự cố hạt nhân Fukushima không hiệu quả?
Là một chuyên gia hạt nhân làm việc hơn 40 năm tại nhiều quốc gia, TS Trần Đại Phúc đã có
bài viết gửi Đất Việt phân tích khá sâu về sự cố hạt nhân tại Fukushima. Xin được giới thiệu
cùng bạn đọc.
Từ diễn biến sự cố
Sau khi xảy ra sự cố tại hai lò Fukushima 1 và 3, phần trên và mái của tòa nhà lò phản ứng hạt
nhân đã bị nổ tung do khí hydro phát ra bởi sự oxy hóa của thép Zirconi bọc thanh nhiên liệu
dưới nhiệt độ cao của vùng hoạt, hậu quả của việc hệ thống làm mát ngừng hoạt động (gây ra
bởi động đất cường độ cao và sóng thần).
Dù rằng nhà vận hành đã dùng mọi phương pháp như bơm nước biển vào làm mát thùng lò là
nơi chứa các thanh nhiên liệu và bộ điều khiển, và làm mát thùng che chắn sơ cấp bằng thép
inox 316L, nhưng sự cố trên vẫn xảy ra và diễn biến một cách rất phức tạp.
Sáng ngày 15/3/2011, theo các nguồn thông tin thu thập được, do có sự rò rỉ hydro từ vòng
giảm áp suất của lò Fukushima 2 dẫn đến cháy nổ, gây ra sự phát tán phóng xạ, mức phóng xạ
đo được là 8.217 microSievert tại cổng ra vào nhà máy, cao gấp khoảng 40.000 lần so với
mức phông phóng xạ môi trường. Nhà vận hành đã sơ tán phần lớn nhân viên đang làm việc
trong nhà lò.
Các chuyên gia và cơ quan an toàn Nhật Bản cho rằng sự cố này là do áp suất cao trong thùng
lò gây ra. Trước đó, mức nước đo được trong thùng lò thấp hơn 2m so với mức an toàn.
Do đó, nhiệt độ của các thanh nhiên liệu đã tăng cao, dẫn đến hiện tượng oxy hóa của thép
Zirconi diễn ra nhanh chóng và phát ra khí hydro với khối lượng rất lớn. Để giảm áp suất
trong thùng thép bảo vệ sơ cấp, nhà vận hành đã xả áp suất qua vòng giảm áp suất và khiến
cho vòng giảm áp suất này bị nứt vỡ. Tuy nhiên, các chuyên gia đến nay vẫn chưa biết rõ vị
trí nứt vỡ của vòng giảm áp suất đó.
Như vậy: Nếu nguyên nhân của sự rò rỉ là do sự nứt vỡ của vòng làm giảm áp suất, thì nước
cấp cứu sẽ tràn ra một phần dưới hầm lò. Nước này sẽ bị ô nhiễm phóng xạ.
Trưa ngày 15/3/2011, đã xảy ra một đám cháy tại lò Fukushima 4 trong khu vực bể chứa
nhiên liệu đã cháy.
Theo các chuyên gia Nhật Bản, nguyên nhân là do sự bùng nổ của khí hydro xuất phát ra từ
các bó nhiên liệu đã cháy lưu trữ trong bể chứa. Bởi vì các bó thanh nhiên liệu đã bị phơi trần
ra không khí do sự mất nước của bể chứa. Một lổ lớn đã được nhận thấy ở nhà bể chứa. Hiện
13
Trường THPT Trấn Biên Trang 14 Giáo viên: Trần Đức Thiện
nay Tokyo Electric company (TEPCO) đang xịt nước vào lổ này để làm mát các bó nhiên liệu
đã cháy lưu trữ bên trong.
Với khối lượng nước xịt vào trung bình 50 tấn/ngày, biện pháp này sẽ không có nhiều hiệu
quả vì hiện tại trong bể chứa đang lưu trữ hơn 1.000 bó nhiên liệu đã cháy (nhiệt dư thừa của
một bó thanh nhiên liệu đã cháy sau 3 năm làm mát vẫn còn 12kW) và khối lượng nước chứa
của bể này chừng 5.000 m3.
Nhiệt độ ở trong bể nước chứa bộ thanh nhiên liệu đã cháy tăng lên 85 độ C (thay vi 25 – 40
độ C trong tình trạng bình thường). Nếu ta tính trung bình nhiệt dư thừa của một thanh nhiên
liệu là 12kW, thì nhiệt tổng quát của chúng sẽ còn 12 MW, nâng nhiệt tương đương với nâng
nhiệt dư thừa trong tâm lò với công suất 1000MW sau khi dập lò một ngày. Số lượng nhiệt
lớn này phải được giải tỏa đủ mọi cách.
Từ khi xảy ra sự cố, nhà vận hành TEPCO và các cơ quan an toàn của Nhật Bản đã cố gắng
thực hiện mọi biện pháp để làm mát vùng hoạt của 3 lò phản ứng thuộc nhà máy điện
Fukushima 1 (lò phản ứng 1, 2 và 3). Ban đầu, họ chỉ bơm nước biển vào, nhưng bắt đầu từ
ngày hôm qua, họ đã sử dụng hỗn hợp nước biển và axit boric để bơm vào thùng lò.
Tại sao những biện pháp làm mát trên không phát huy hiệu quả?
Dựa trên những thống kê trên, biện pháp làm mát trên không phát huy hiệu quả do các nguyên
nhân sau:
- Trong trường hợp xảy ra sự cố đối với lò PWR, nước cấp cứu chứa axit boric còn đối với lò
BWR, nước cấp cứu không chứa axit boric. Vì thế, “tải tới hạn của vùng hoạt” có thể xảy ra
ngay cả sau khi đã dập lò.
- Một hiện tượng của lò BWR được gọi là “dịch chuyển áp suất” (pressure transient) khi bơm
nước cấp cứu vào vùng hoạt là làm tăng hệ số nước/hơi (moderator coefficient).
- Sự biến chuyển dạng hình học của tâm lò, do sự nóng chảy của các bó nhiên liệu, có bó
thanh điều khiển và các cấu trúc trong tâm lò..
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tiếp tục dập lò theo cách trên khi mực nước tâm lò đã phơi trần một
phần bó thanh nhiên liệu?- Làm tăng nhiệt độ của bộ bó thanh nhiên liệu (dẫn đến tăng áp suất
của thùng lò);
- Cản trở và thay đổi dòng nước làm mát trong tâm lò;
- Làm tăng tốc độ oxy hóa và tăng trọng lượng của khí hydro;
- Ảnh hưởng đến những trang thiết bị trong tâm lò (màn thép che chắn, tấm thép đỡ các thanh
nhiên liệu, v.v…), và bộ thanh điều khiển;
- Làm biến dạng hình học của tâm lò.
Những hậu quả trên sẽ tạo điều kiện cho sự “tải tới hạn” của vùng hoạt vì:
- Bộ bó thanh điều khiển (hợp kim thép inox và B4C) bị nóng chảy ở nhiệt độ 1248 độ C
trong khi nhiệt độ nóng chảy của thép inox là khoảng 1400 độ C. Sự nóng chảy này sẽ cản trở
dòng nước làm mát trong bộ bó thanh nhiên liệu.
- Sự nóng chảy của thép Zirconi (nhiệt độ nóng chảy là 1882 độ C) và Uranium (nhiệt độ
nóng chảy khoảng 2600 độ C sẽ làm biến dạng hình học của tâm lò.
Trong sự cố mất nước cấp cứu trong khoảng thời gian từ 10 - 15 phút hoặc vài giờ, tùy theo
sự diễn biến của sự cố mà bộ bó thanh điều khiển và thanh nhiên liệu sẽ bị nóng chảy một
phần dẫn đến sinh ra hợp kim và biến dạng hình học của tâm lò.
Hiện tượng này trước hết sẽ làm cản trở hiệu quả của các biện pháp làm mát mà nhà vận hành
đang thực hiện. Vì với đặc điểm vật lý của lò BWR, hệ số nước/hơi sẽ tăng lên. Do đó, sự “tải
tới hạn” của tâm lò có thể sẽ xảy ra. Hiện tượng này tạo ra sự “dịch chuyển áp suất” và mực
nước không ổn định mà nhà vận hành TEPCO đã nhận thấy trong quá trình theo dõi sự cố.
14
Trường THPT Trấn Biên Trang 15 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Sự “dịch chuyển áp suất” sẽ dẫn đến gia tăng nhiệt độ và giảm bớt hiệu quả của các biện pháp
làm mát. Do đó, với thời gian, mực nước tại vùng hoạt đã xuống thấp 2m so với mức an toàn
(trong điều kiện vận hành bình thường) và làm tăng nhiệt độ của những phần không được
ngâm trong nước của bộ bó thanh nhiên liệu lên đến trên 1000 độ C. Hiện tượng này sẽ làm
gia tăng sự oxy hóa của thép Zirconi của thanh nhiên liệu, đồng thời làm gia tăng trọng lượng
của khí hydro.
Mức công suất của lò phản ứng hạt nhân trong thời gian “tải tới hạn” sẽ tùy thuộc theo sự hư
hỏng của tâm lò, theo lượng nước cấp cứu, áp suất trong thùng lò và mức nước của tâm lò.
Trước tình trạng này, nếu nhân viên vận hành không được đào tạo một cách kỹ lưỡng sẽ
không thể đảm bảo vận hành an toàn của nhà lò.
Nhà vận hành phải phân tích và lấy quyết định dưa diễn biến của sự cố và những hậu quả
hoặc thay đổi liên quan (thời gian khi tâm lò không ngập nước) hoặc dựa trên những tin tức
cập nhật được qua những trang bị có sẵn ở trong phòng điều khiển như:
- Mức nước
- Áp suất của thùng lò và thùng che chắn sơ cấp
- Nhiệt độ của thùng lò
- Trang bị đo lường trong tâm lò
Tới thời điểm này, theo những thông tin cập nhật được từ nhà vận hành và các cơ quan an
toàn của Nhật Bản, 3 nhà lò của nhà máy điện Fukushima đã xảy ra sự cố nhưng thùng thép
bảo vệ sơ cấp và thùng lò phản ứng không bị nứt nẻ nên phần lớn phóng xạ vẫn được duy trì
trong hai bộ phận trên.
Trong lâu dài, sự nóng chảy của nhiên liệu có thể gây ra sự rò rỉ hoặc bể vỏ của thùng lò. Sự
duy trì một phần lớn hỗn hợp kim loại đã cháy và các chất phóng xạ trong thùng lò sẽ tùy
thuộc vào sự bền vững của thép thùng lò sau 35 – 40 năm hoạt động dưới ảnh hưởng phá hủy
của tia neutron nhanh.
TS Trần Đại Phúc, Chuyên gia hạt nhân Cục An toàn bức xạ hạt nhân, Bộ KH - CN
Nguồn Báo Đất Việt
15
Trường THPT Trấn Biên Trang 16 Giáo viên: Trần Đức Thiện
16
Trường THPT Trấn Biên Trang 17 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Khi có tình huống khẩn cấp về phóng xạ, bạn nên ẩn náu ở sâu, kín nhất
có thể, chẳng hạn dưới hầm, trong phòng kín, chất nhiều đồ đạc bên
ngoài. Với mỗi centimet dày hơn, lớp chắn này sẽ bảo vệ bạn tốt hơn
khỏi nguy cơ chết người. Ảnh: ki4u. com.
- Phóng xạ vẫn phát sinh trong môi trường tự nhiên, và gần như có mặt ở khắp nơi trên trái
đất. Nhiệt độ, ánh sáng và vi sóng đều giải phóng ra một vài dạng bức xạ. Urani, thori và radi
vẫn thường phát xạ tự nhiên trong lớp đất trên bề mặt. Chúng ta hàng ngày vẫn tiếp xúc với
dạng phóng xạ này song nó thường không bị xem là nguy hiểm.
- Cơ thể chúng ta luôn phải tiếp xúc với một lượng nhỏ phóng xạ. Theo Trung tâm Kiểm soát
và Ngăn ngừa bệnh dịch Mỹ, khoảng 80% sự tiếp xúc này đến từ các nguồn tự nhiên, và 20%
còn lại từ các nguồn phát xạ nhân tạo, chủ yếu là chụp X quang. Nhìn chung, các nhà khoa
học không tìm thấy lượng phóng xạ mà chúng ta tiếp xúc hàng ngày gây ra nguy hiểm gì.
- Trong một vụ nổ hạt nhân, mọi người tiếp xúc với một lượng lớn phóng xạ trong một thời
gian ngắn và có thể xuất hiện hội chứng nhiễm xạ cấp tính (ARS). Trong vòng vài tiếng đầu
sau khi tiếp xúc, người nhiễm xạ có thể thấy buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy và da bị xạm đen.
Qua thời gian, phóng xạ có thể gây hủy hoại tủy xương và gây ra chảy máu trong cũng như
các bệnh nhiễm trùng khác. Hầu hết những người không hồi phục được sau cơn ARS sẽ chết
trong vòng vài tháng.
- Chính quyền địa phương nên có kế hoạch trong trường hợp có sự cố khẩn cấp về phóng xạ.
Hãy tìm đọc để hiểu kỹ kế hoạch chuẩn bị khẩn cấp này và có lộ trình sơ tán hợp lý.
- Trong tình huống khẩn cấp về phóng xạ, chẳng hạn lo ngại sẽ có một vụ nổ hạt nhân, bạn
được khuyến cáo nên tạo ra "nơi trú ẩn tại chỗ". Điều đó có nghĩa là bạn nên ở trong nhà hoặc
công sở, hoặc một khu vực phòng kín. Để giúp cho nơi trú ẩn của mình an toàn hơn, bạn nên:
Đóng và khóa tất cả các cửa ra vào và cửa sổ; Tắt quạt, điều hòa không khí hoặc bất kỳ thiết
bị nào làm cuộn khí từ ngoài vào; Chui xuống hầm hoặc vào phòng hẹp; Bật radio để nghe
xem các bản tin mình phải làm gì.
Thuận An. Nguồn Vnexpress
17
Trường THPT Trấn Biên Trang 18 Giáo viên: Trần Đức Thiện
18
Trường THPT Trấn Biên Trang 19 Giáo viên: Trần Đức Thiện
19
Trường THPT Trấn Biên Trang 20 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Cuộc tranh luận về triển vọng của nguyên tử hòa bình ở thời điểm này lại nóng lên.
Hiện nay trên thế giới có 443 tổ máy điện hạt nhân, trong đó ở Mỹ 104, ở Nhật Bản 55, ở
Nga 32 và 146 cơ sở ở châu Âu. Sản lượng của khối tổ máy này chiếm hơn 20% tổng số điện
năng toàn thế giới.
Theo số liệu của Hiệp hội Hạt nhân thế giới, hiện nay có 62 cơ sở đang ở giai đoạn xây dựng,
trong tương lai gần sẽ có 150 nhà máy được khởi công. Trong khi đó, có một số người đòi
phải loại bỏ những kế hoạch như vậy. Những ý kiến vang lên rất gay gắt ở Đức. Trước sức ép
từ phe đối lập, Thủ tướng Đức Angela Merkel tuyên bố lệnh ba tháng kiểm tra giải pháp về
vận hành các nhà máy điện hạt nhân ở nước này.
Còn nhớ trước đây đã dự kiến rằng hoạt động của những cơ sở này sẽ được kéo dài cho đến
năm 2035. Như vậy, vấn đề phát triển nguyên tử hòa bình cũng sẽ trở đề tài trong đấu tranh
chính trị.
Chuyên viên Nga Anton Khlopkov nhận định: “Phái đối lập sẽ lợi dụng thảm kịch ở Nhật Bản
cho những lợi ích riêng của mình và thủ đoạn đó sẽ hiện hữu không chỉ riêng ở Đức. Thái độ
chống hạt nhân hòa bình cũng khá quyết liệt cả ở Thụy Sĩ, nơi đã diễn ra cuộc bỏ phiếu "nên
hay không nên phát triển năng lượng hạt nhân".
Theo kết quả thăm dò, ý kiến ủng hộ và phản đối là 50:50. Như vậy phần quyết định chỉ tùy
thuộc vào một vài tiếng nói cá nhân đơn lẻ. Trên bình diện này, thảm kịch ở Nhật Bản hiển
nhiên làm gia tăng tâm trạng sợ hãi và chối bỏ hạt nhân hòa bình”.
Tại Hoa Kỳ, một số thượng nghị sĩ thuộc Đảng Cộng hòa tán thành đóng băng chương trình
quốc gia phát triển năng lượng hạt nhân hòa bình và đang phát tán những lời kêu gọi xúc tiến
ban hành đạo luật về chuyển đổi hoàn toàn sang các nguồn năng lượng thay thế. Tuy nhiên,
hiện nay chưa hề có đối trọng nào để thay thế thích hợp cho năng lượng hạt nhân.
Chuyên viên Anton Khlopkov nói tiếp: “Những nguồn năng lượng thay thế như gió, mặt trời,
hay điện vi sinh đều bộc lộ những hạn chế về công suất và tiềm năng, do đó không giải quyết
được vấn đề cung cấp năng lượng ở tầm quốc gia”.
Tuy nhiên Pháp, Anh và Ba Lan đã tuyên bố không từ bỏ năng lượng hạt nhân hòa bình. Còn
những đối tác chính của Tập đoàn nguyên tử Nga Rosatom là Trung Quốc và Ấn Độ không
những không ngừng mà thậm chí còn tăng số lượng đơn đặt hàng.
Về phần mình, các chuyên gia Nga kêu gọi nghiêm túc nghiên cứu toàn bộ kinh nghiệm thành
công và thất bại của thế giới khi xây dựng những nhà máy điện hạt nhân mới, đồng thời kiểm
tra kỹ lưỡng những nhà máy hiện có.
ĐÀO HÙNG. Nguồn Tuổi trẻ
20
Trường THPT Trấn Biên Trang 21 Giáo viên: Trần Đức Thiện
trong các bao nylon để mang đi kiểm tra. Mức độ nhiễm bẩn môi trường tại địa điểm này
cũng đang được đo đạc.
Riêng gia đình người thu mua phế liệu đã phải dọn đi nơi khác chờ sửa xong nhà. Còn
những hộ dân sống xung quanh cho biết, mấy ngày nay mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình
thường. Điều họ mong mỏi nhất lúc này là cơ quan chức năng cần đưa ra kết luận chính xác
về mức độ ảnh hưởng của chất phóng xạ tới con người và môi trường, đồng thời có biện pháp
can thiệp, giảm tác hại.
21
Trường THPT Trấn Biên Trang 22 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Theo Pháp lệnh An toàn và kiểm soát bức xạ 1996 thì tại mỗi cơ sở đều có người người
phụ trách an toàn bức xạ. Ngoài hồ sơ xin cấp phép gửi cho Cục, họ phải có phiếu khai báo
các nguồn bức xạ và các chứng chỉ có liên quan, bản báo cáo phân tích đánh giá an toàn của
cơ sở, chứng chỉ đào tạo về an toàn bức xạ (cứ 3 năm lại đào tạo lại), đồng thời có kế hoạch
ứng phó sự cố, nhất là đối với cơ sở có nguồn bức xạ tương đối cao. Sau vụ khủng bố 11/9 tại
Mỹ, chúng tôi đã yêu cầu các cơ sở có các biện pháp tăng cường công tác đảm bảo an ninh
đối với các nguồn phóng xạ (chống trộm cắp, phá hoại, khủng bố...).
Người dân làm thế nào để nhận biết một nguồn phóng xạ?
Người dân phải nâng cao nhận thức, đặc biệt là những người có tiềm năng cao tiếp xúc
với các nguồn phóng xạ, ví dụ người thu gom phế liệu. Trước đây, Cục cũng đã phân phát tờ
rơi hướng dẫn cách nhận dạng nguồn phóng xạ, nhưng còn hạn chế, chủ yếu cho những người
đến học. Sau sự kiện này, Cục sẽ tăng cường công tác phổ biến đến từng người dân thông qua
các phương tiện thông tin và đặc biệt là qua trang web http://www.varansac.org.vn.
Một cách đơn giản để nhận biết nguồn phóng xạ là: Thường các nguồn phóng xạ chứa
trong các khối nặng đóng kín, có ký hiệu hoa thị hoặc ghi dòng chữ phóng xạ hoặc
Radioactive. Trường hợp mất hết các dấu hiệu, nhưng thấy đó là một khối rất nặng hình tròn,
trụ hoặc hình thoi (thường chứa chì), thì đừng cố gắng đập nó ra, mà nên tham khảo các cơ
quan có trách nhiệm. Nếu phát hiện thấy các khối bất thường như vậy, người dân nên gọi điện
cho các Sở khoa học công nghệ, công an hoặc trực tiếp cho Cục theo các số điện thoại sau: 04
8220298; 04 9365233; 04 9365234.
Về sức khỏe của những người đã tiếp xúc với nguồn phóng xạ, thạc sĩ Nguyễn Xuân
Cử, Trưởng khoa Vật lý phóng xạ Bệnh viện K, cho rằng mức độ tác hại tùy thuộc vào cường
độ phóng xạ, khoảng cách và thời gian tiếp xúc. Với những nguồn phóng xạ lớn, cường độ
mạnh, những người tiếp xúc gần hoặc trong thời gian dài có thể lập tức bị tổn thương, thậm
chí tử vong. Trường hợp ngược lại, có thể vài tháng, vài năm, thậm chí nhiều năm sau, các tổn
thương sức khỏe mới xuất hiện. Do vậy, sau khi tiếp xúc với nguồn phóng xạ, nếu kết quả
kiểm tra sức khỏe hoàn toàn bình thường thì cũng chưa thể khẳng định người đó không bị ảnh
hưởng.
Người tiếp xúc với nguồn phóng xạ cần được theo dõi sức khỏe trong thời gian dài, với
nhiều xét nghiệm, đặc biệt là kiểm tra các thông số máu như hồng cầu, bạch cầu, xét nghiệm
nhiễm sắc thể...
22
Trường THPT Trấn Biên Trang 23 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Vì rằng 14C được tạo thành ở thượng tầng khí quyển với một tốc độ hằng định và nó lại bị
phân hủy cùng với một tốc độ hằng định khác; nên trong khí quyển có một lượng nhỏ
nhưng hằng định 14CO2. Thực vật dùng một lượng 14CO2 trong phản ứng quang hợp. Vì
vậy cũng có một lượng nhỏ nhưng hằng định cacbon-14 trong cơ thể động, thực vật sống.
Khi một động hay thực vật chết, lượng 14C này dần thoát ra ngoài làm cho lượng cacbon-
14 này giảm đều đặn theo thời gian. Vậy từ lượng 14C còn lại trong xác chết ta có thể xác
định được khoảng thời gian kể từ lúc sinh vật này chết, tức là xác định được khoảng thời
gian hình thành di vật. Người ta đã xác định được rằng: Trong khí quyển, trong mỗi cơ
thể động, thực vật đang sống cứ 1 giây trong 1 gam cacbon có 15,3 phân hủy 14C. Khi cơ
thể này chết đi tốc độ phân hủy đó giảm dần với chu kì bán hủy 5730 năm. Vậy ở thời
điểm t tốc độ phân hủy 14C là R tỉ lệ với số hạt nhân 14C đang có N. Đưa các số liệu trên
vào phương trình (II.1) và (II.2), biến đổi thích hợp ta có:
t= =
Với R0=15,3 phân hủy trong một giây đối với 1 gam cacbon.
Tuổi của di vật bằng t= (năm) (II.3)
Với R là số phân hủy của 14C trong 1 giây ở thời điểm t hiện tại
23
Trường THPT Trấn Biên Trang 24 Giáo viên: Trần Đức Thiện
Hãy xác định kiểu phóng xạ ở mỗi giai đoạn & viết phương trình phân hủy phóng xạ
tương ứng.
HƯỚNG DẪN
Ký hiệu hạt α là hạt nhân nguyên tử Heli tức , hạt β là electron tức . Phương trình
phản ứng hạt nhân tuân theo định luật bảo toàn khối lượng và định luật bảo toàn điện tích.
a)
b) Các giai đoạn tiếp theo là tương đương kiểu phóng xạ
Ta dễ dàng viết được các phương trình phản ứng phân hủy phóng xạ tương ứng
2- Đồng vị phóng xạ 131I dùng nghiên cứu và chữa bướu cổ. Mẫu thử ban đầu có 1,00mg
131I. Sau 13,3 ngày chỉ còn 0,32mg 131I. Tìm thời gian bán hủy của 131I?
HƯỚNG DẪN
Từ (II.1) k= =
Từ (II.1) (*)
4- Một mẫu than lấy từ hang động của người Polinexian cố tại Hawai có tốc độ là 13,6 phân
hủy 14C trong 1 giây tính với một lượng cacbon. Tính niên đại của mẫu than?
HƯỚNG DẪN
Từ (II.3) t= .ln ≈ 974 năm
5- Triti là đồng vị phóng xạ của hidro có T=12,3 năm. Phương trình phản ứng là:
+
Nếu ban đầu có 1,5mg triti thì sau 49,2 năm còn lại bao nhiêu miligam triti?
HƯỚNG DẪN
Từ (II.1&2) =1,5.2-4=0,09375mg
24
Trường THPT Trấn Biên Trang 25 Giáo viên: Trần Đức Thiện
6- Coban-60 được dùng trong phép xạ trị chữa bệnh ung thư do nó có thể phát xạ tia năng
lượng lớn tiêu diệt tế bào ung thư. 60Co phát xạ tia và tia , có T=5,27 năm. Phương
trình phân hủy phóng xạ là:
Nếu ban đầu có 3,42 mg 60Co thì sau 30 năm còn lại bao nhiêu?
HƯỚNG DẪN
Từ (II.1&2) ≈ 0,066mg 60Co
7- Iot-131 được dùng dưới dạng NaI để điều trị ung thư tuyến giáp trạng. Nó phóng xạ với
T=8,05 ngày
a) Viết phản ứng phân rã hạt nhân 131I
b) Nếu mẫu chứa 1,0μg 131I thì trong mỗi phút có bao nhiêu hạt được phóng ra?
HƯỚNG DẪN
a)
b) Từ (II.2) k= ≈ /ngày ≈ ≈ 5,98.10-5/phút (1)
Độ phóng xạ H (còn gọi là tốc độ phân hủy): số nguyên tử bị phân hủy trong một
đơn vị thời gian được xác định bởi hệ thức: H = k.N
Với N là số lượng hạt nhân phóng xạ có mặt trong thời điểm đó)
Trong 1μg = 10-6g có số nguyên tử 131I là: N= .6,02.1023 nguyên tử (2)
(1 & 2) Số nguyên tử phân rã trong 1 phút là:
H= nguyên tử ≈ 2,75.1011 nt/phút
8- Một chất thải phóng xạ có T=200 năm được chứa trong thùng kín và chôn dưới đất. Hỏi
cần thời gian bao lâu để tốc độ phân rã của chất phóng xạ giảm từ 6,5.10 12 nguyên tử/phút
còn 3.10-3 nguyên tử/phút?
HƯỚNG DẪN
Từ (II.2) t ≈ 1,02.104 năm
9- Khi nghiên cứu một mảnh gỗ lấy từ một hang động của dãy Himalaya thì thấy tốc độ
phân rã (đối với 1g cacbon) chỉ bằng 0,636 lần tốc độ phân rã của cacbon trong gỗ ngày
nay. Hãy xác định tuổi của miếng gỗ khảo cổ đó. Biết rằng 14C phóng xạ với T=5730
năm.
HƯỚNG DẪN
Ta có : t = . ln . Theo đề R = 0,636 R t= . ln0,636 ≈ 3741 (năm)
10- Stronti-90 là một đồng vị phóng xạ có T=28 năm được sinh ra khi nổ bom nguyên tử. Đó
là một đồng vị phóng xạ khá bền & có khuynh hướng tích tụ vào tủy xương nên đặc biệt
nguy hiểm cho người & súc vật.
a) Đây là đồng vị phóng xạ . Viết & cân bằng phương trình phản ứng phân hủy phóng
xạ.…
b) Một mẫu 90Sr phóng ra 2000 hạt trong 1 phút. Hỏi cần phải bao nhiêu năm sự phóng
xạ mới giảm xuống còn 125 hạt trong 1 phút?
HƯỚNG DẪN
b) Từ (II.1 & II.2) .ln2 = ln = ln = ln24 t = 4T = 112 năm
25
Trường THPT Trấn Biên Trang 26 Giáo viên: Trần Đức Thiện
11- Hạt nhân là một chất phóng xạ, nó phóng xạ ra tia - có chu kì bán rã là 5730 năm.
a) Viết phương trình của phản ứng phân rã.
b) Sau bao lâu lượng chất phóng xạ của một mẫu chỉ còn bằng 1/8 lượng chất phóng xạ
ban đầu của mẫu đó.
c) Trong cây cối có chất phóng xạ . Độ phóng xạ của một mẫu gỗ tươi và một mẫu gỗ
cổ đại cùng khối lượng lần lượt là 0,25Bq và 0,215Bq. Tính tuổi của mẫu gổ cổ đại.
Đáp số: b) t = 3T; c) 1247 năm
13- Coban ( ) phóng xạ - với chu kỳ bán rã 5,27 năm và biến đổi thành niken (Ni). Viết
phương trình phân rã và nêu cấu tạo của hạt nhân con. Hỏi sau bao lâu thì 75% khối
lượng của một khối chất phóng xạ 60Co phân rã hết?
Đáp số: t =2T
14- Phốt pho-32 ( ) phóng xạ - với chu kỳ bán rã T = 14,2 ngày và biến đổi thành lưu
huỳnh (S).
a) Viết phương trình của sự phóng xạ đó và nêu cấu tạo của hạt nhân lưu huỳnh.
b) Sau 42,6 ngày kể từ thời điểm ban đầu, khối lượng của một khối chất phóng xạ 32P còn
lại là 2,5g. Tính khối lượng ban đầu của nó.
Đáp số: 20g
15- Hạt nhân Ra có T=1570 năm, phân rã thành 1 hạt và biến đổi thành hạt nhân X.
a) Viết phương trình phản ứng.
b) Biết lúc đầu có 2,26g radi. Tính số hạt nhân X được tạo thành trong năm thứ 786. Coi
khối lượng của hạt nhân tính theo u xấp xỉ bằng số khối và NA = 6,02.1023mol-1.
Đáp số: 1,88.1018 nguyên tử
16- Pôlôni Po là một chất phóng xạ có chu kì bán rã 140 ngày đêm. Hạt nhân pôlôni
phóng xạ sẽ biến thành hạt nhân chì (Pb) và kèm theo một hạt . Ban đầu có 42mg chất
phóng xạ pôlôni. Tính khối lượng chì sinh ra sau 280 ngày đêm.
Đáp số: 30,9g
17- Đồng vị Na là chất phóng xạ - và tạo thành đồng vị của magiê. Mẫu Na có khối
lượng ban đầu là m0 = 0,24g. Sau 105 giờ, độ phóng xạ của nó giảm đi 128 lần.
a) Viết phương trình phản ứng.
b) Tìm chu kì bán rã và độ phóng xạ ban đầu.
c) Tìm khối lượng magiê tạo ra sau thời gian 45 giờ.
Đáp số: b) T=15h; H0=2,78.1020/giờ; c) 0,21g
26
Trường THPT Trấn Biên Trang 27 Giáo viên: Trần Đức Thiện
5- Trong quá trình biến đổi U thành Pb chỉ xảy ra phóng xạ và -. Số lần phóng xạ
và - lần lượt là:
A) 8 và 10. B) 8 và 6. C) 10 và 6. D) 6 và 8.
6- Trong phản ứng hạt nhân: Be + X + n. Hạt nhân X là:
A) C B) O C) B D) C
7- Nếu do phóng xạ, hạt nhân nguyên tử X biến đổi thành hạt nhân nguyên tử Y thì hạt
nhân X đã phóng ra tia:
A) B) - C) + D)
8- Sau khoảng thời gian 1 ngày đêm 87,5% khối lượng ban đầu của một chất phóng xạ bị
phân rã thành chất khác. Chu kì bán rã của chất phóng xạ đó là:
A) 12 giờ. B) 8 giờ. C) 6 giờ. D) 4 giờ.
9- Côban phóng xạ Co có T=5,7 năm. Để khối lượng chất phóng xạ giảm đi e lần so với
khối lượng ban đầu thì cần khoảng thời gian:
A) 8,55 năm. B) 8,22 năm. C) 9 năm. D) 8 năm.
10- Trong phản ứng hạt nhân F + p O + X thì X là:
A) Nơtron
B) electron
C) hạt +
D) hạt
11- Có 100g iôt phóng xạ I với chu kì bán rã là 8 ngày đêm. Tính khối lượng chất iôt còn
lại sau 8 tuần lễ.
A) 8,7g B) 7,8g C) 0,87g D) 0,78g
235
12- Phân hạch một hạt nhân U trong lò phản ứng hạt nhân sẽ tỏa ra năng lượng 200MeV.
Số Avôgađrô NA = 6,023.1023mol-1. Nếu phân hạch 1g 235U thì năng lượng tỏa ra bằng:
A) 5,13.1023MeV
B) 5,13.1020MeV
C) 5,13.1026MeV
D) 5,13.1025MeV
13- Ban đầu có 5 gam chất phóng xạ radon Rn với chu kì bán rã 3,8 ngày. Số nguyên tử
radon còn lại sau 9,5 ngày là:
A) 23,9.1021. B) 2,40.1021. C) 3,29.1021. D) 32,9.1021.
27
Trường THPT Trấn Biên Trang 28 Giáo viên: Trần Đức Thiện
14- Hạt nhân là một chất phóng xạ, nó phóng xạ ra tia - có chu kì bán rã là 5600 năm.
Sau bao lâu lượng chất phóng xạ của một mẫu chỉ còn bằng 1/8 lượng chất phóng xạ ban đầu
của mẫu đó?
A) 16800 năm. B) 18600 năm. C) 7800 năm. D) 16200 năm.
15- Một chất phóng xạ có hằng số phóng xạ . Sau một khoảng thời gian bằng tỉ lệ số hạt
nhân của chất phóng xạ bị phân rã so với số hạt nhân chất phóng xạ ban đầu xấp xỉ bằng:
A) 37% B) 63,2% C) 0,37% D) 6,32%.
16- Gọi t là khoảng thời gian để số hạt nhân của một lượng chất phóng xạ giảm đi e lần (e
là cơ số của lôga tự nhiên với lne = 1), T là chu kỳ bán rã của chất phóng xạ. Hỏi sau khoảng
thời gian 0,51t chất phóng xạ còn lại bao nhiêu phần trăm lượng ban đầu?
A) 40% B) 50% C) 60% D) 70%.
17- Một gam chất phóng xạ trong 1 giây phát ra 4,2.10 hạt electron. Khối lượng nguyên
- 13
tử của chất phóng xạ này là 58,933u; lu = 1,66.10-27 kg. Tìm chu kì bán rã:
A) 1,78.108s B) 1,69.108s C) 1,86.108s D) 1,87.108 s
18- Lượng chất phóng xạ của 14C trong một tượng gỗ cổ bằng 0,65 lần lượng chất phóng xạ
của 14C trong một khúc gỗ cùng khối lượng vừa mới chặt. Chu kì bán rã của 14C là 5700năm.
Tuổi của tượng gỗ là:
A) 3521 năm B) 4352 năm C) 3543 năm D) 3452 năm
19- Một mẫu phóng xạ ban đầu trong 5 phút có 196 nguyên tử bị phân rã, nhưng sau đó
5,2 giờ (kể từ t = 0) cùng trong 5 phút chỉ có 49 nguyên tử bị phân rã. Tìm chu kỳ bán rã.
A) 2,6 giờ B) 3,3 giờ C) 4,8 giờ D) 5,2 giờ
20- Đồng vị phóng xạ . Một mẫu phóng xạ
–
ban đầu trong thời gian 5 phút có
190 nguyên tử bị phân rã nhưng sau 3h trong thời gian 1 phút có 17 nguyên tử bị phân rã. Xác
định chu kì bán rã của chất đó.
A) 2,5h B) 2,6h C) 2,7h D) 2,8h.
28
Trường THPT Trấn Biên Trang 29 Giáo viên: Trần Đức Thiện
SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Trường THPT Trấn Biên Độc lập – Tự do - Hạnh phúc
---o0o--- -----o0o-----
Biên Hòa, ngày ......tháng .....năm 2012
Tên đề tài: SỰ PHÓNG XẠ: TƯ LIỆU THỰC TIỄN & BÀI TẬP
Họ và tên tác giả: Trần Đức Thiện Đơn vị: Trường THPT Trấn Biên
Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn: Hóa học...........
Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác:..................................................
1. Tính mới:
- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả:
- Hòan toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn nghành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả
29