Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

CÁC TỔ CHỨC DIỄN ĐÀN APEC

1. Tên gọi
- Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia-Pacific Economic
Cooperation, viết tắt: APEC) là diễn đàn kết nối 21 nền kinh tế thành viên Vành đai Thái
Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị.

Thành viên của tổ chức APEC


- APEC được thành lập vào tháng 11/1989 tại Hội nghị Bộ trương Ngoại giao và Kinh tế tổ chức
ở Can-bê-ra thuộc nước Úc với 12 thành viên sáng lập bao gồm: Mỹ, Nhật Bản, Australia, New
Zealand, Ca-na-đa, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia và Malaysia.

Bối cảnh ra đời


• APEC ra đời trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế đang đương đầu với những thách thức
lớn:
• Chủ nghĩa toàn cầu vốn phát triển mạnh sau thế chiến thứ hai bắt đầu gặp phải những khó
khăn nan giải
• Chủ nghĩa khu vực hình thành và phát triển mạnh
• Khủng hoảng kinh tế trong những năm 1980 đặt ra những đòi hỏi có tính khách quan cần
tập hợp lực lượng của những nền kinh tế trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để
đương đầu với cạnh tranh quốc tế gay gắt.

Điều ước thành lập diễn đàn APEC


• APEC được thành lập để đáp ứng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng của các nền kinh
tế châu Á – Thái Bình Dương
• Để xoa dịu nỗi sợ hãi về kinh tế công nghiệp hóa cao sẽ thống trị hoạt động kinh tế ở khu
vực
• Để thiết lập thị trường mới cho các sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu ngoài châu Âu.

Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của APEC


Gồm 4 mục tiêu chính
Duy trì tăng trưởng và phát triển, vì lợi ích chung của nhân dân các nền kinh tế trong khu vực
Phát huy những tác động tích cực , đẩy mạnh sự giao lưu hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ.
Xây dựng và tăng cường hệ thống thương mại đa biên, vì lợi ích của Châu Á -Thái Bình Dương
và các nền kinh tế khác.
Giảm dần những rào cản đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ giữa các nền kinh tế phù hợp
với các nguyên tắc của WTO, không có hại đối với các nền kinh tế khác
Nguyên tắc hoạt động
Gồm 4 nguyên tắc hoạt động
Hoạt động trên cơ sở hợp tác cùng có lợi giữa các thành viên, đa dạng về chính trị, văn hoá, kinh
tế giữa các thành viên
Hoạt động trên cơ sở tự nguyện của các thành viên
Sự đồng thuận, nguyên tắc này thể hiện tất cả các cam kết của APEC
Phù hợp với nguyên tắc của WTO/GATT, cam kết thực hiện chế độ thương mại đa phương của
WTO và không phải là một liên minh thuế

Quan hệ của Việt Nam với diễn đàn APEC


Việt Nam gia nhập APEC:
• Ngày 14/11/1998, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của APEC.
• Trải qua 20 năm gia nhập và hoạt động, Việt Nam đã để lại những dấu mốc quan trọng và
chứng tỏ vị thế của mình tại diễn đàn đa phương lớn nhất thế giới này
• Việc gia nhập APEC là cơ sở và bước tiến quan trọng cho trong quá trình hội nhập của
Việt Nam trên trường quốc tế.
Làm bàn đạp để nước ta đạt được các Hiệp định, gia nhập các tổ chức quan trong trên thế
giới như:
• Năm 2000 ký kết Hiệp định thương mại song phương với Mỹ, gia nhập tổ chức Thương
mại Thế giới WTO năm 2007
• APEC cũng là nơi Việt Nam đạt được nhiều thoả thuận quan trọng trong quan hệ song
phương, đặc biệt với các cường quốc thế giới như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật
• Tạo động lực mới để xây dựng một châu Á- Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, năng
động, gắn kết và phát triển bền vững
• APEC mở rộng hợp tác trong các nội dung phi kinh tế để Việt Nam góp phần giải quyết
các thách thức của khu vực và thế giới, đặc biệt là đối phó với các nguy cơ khủng bố,
thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh lương thực, v.v…

Cơ cấu của tổ chức APEC


• Tổ chức APEC hoạt động với cơ cấu bao gồm các cấp chính sách và các cấp làm việc
khác nhau. Cấp chính sách bao gồm: Hội nghị không chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh
tế APEC (AELM) và Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC. Cấp làm việc
bao gồm: Hội nghị các Quan chức Cao cấp (SOM); Ủy ban Thương mại và Đầu tư (CTI);
Ủy ban Ngân sách và Quản lý (BMC); Ủy ban Kinh tế (EC); Ủy ban SOM về Hợp tác
Kinh tế - Kĩ thuật (ESC); 11 nhóm công tác; 3 nhóm đặc trách của SOM; Ban Thư ký
APEC (trụ sở ở Singapore).

• 1. Cấp chính sách của tổ chức APEC


• - Hội nghị không chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC (AELM): Là hội nghị
diễn hàng năm ra giữa các nhà Lãnh đạo cao nhất của các thành viên APEC để gặp gỡ và
trao đổi về các vấn đề kinh tế.
• - Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC: Là hội nghị diễn ra hàng năm
và luân phiên tổ chức ở các nước thành viên, với sự tham gia của các Bộ trưởng Ngoại
giao, Bộ trưởng Kinh tế. Hội nghị này được diễn ra với mục đích quyết định phương
hướng hoạt động của APEC và ấn định thời gian thực hiện chương trình hành động cho
năm sau.

• 2. Cấp làm việc của tổ chức APEC


• - Hội nghị các Quan chức Cao cấp (SOM): Được tổ chức để chuẩn bị cho các kiến nghị
sẽ trình Hội nghị Bộ trưởng về vấn đề tổ chức các chương trình hoạt động, các kế hoạch
của APEC.
• - Ủy ban Thương mại và Đầu tư: Là bộ phận có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác về tự do
thương mại, tạo điều kiện để các nền kinh tế thành viên APEC trở nên cởi mở hơn với
nhau.
• - Ủy ban SOM về Hợp tác Kinh tế - Kỹ thuật: Được thành lập để hỗ trợ cho SOM
trong việc phối hợp và quản lý các hoạt động liên quan đến kinh tế, kỹ thuật đồng thời
triển khai các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực này giữa các thành viên APEC.
• - Ủy ban Kinh tế: Có nhiệm vụ nghiên cứu các xu hướng, các vấn đề về kinh tế thông
qua chỉ số kinh tế cơ bản. Đồng thời, Ủy ban Kinh tế còn là diễn đàn thúc đẩy đối thoại
giữa các thành viên trong APEC về vấn đề kinh tế.
• - Ủy ban Ngân sách và Quản lý: Ủy ban này được thành lập để thực hiện chức năng tư
vấn cho các quan chức cấp cao về vấn đề ngân quỹ, quản lý, điều hành và giải quyết các
vấn đề liên quan đến ngân sách chung của APEC.
• - 11 nhóm công tác (Kỹ thuật Nông nghiệp; Năng lượng; Nghề cá; Phát triển Nguồn
nhân lực; Khoa học và công nghệ; Bảo vệ tài nguyên biển; Doanh nghiệp vừa và nhỏ;
Thông tin và Viễn thông; Du lịch; Xúc tiến thương mại; Vận tải): Các nhóm này có chức
năng thực hiện nhiệm vụ mà những Lãnh đạo, Bộ trưởng và các quan chức cấp cao giao
cho.
• - 3 nhóm đặc trách của SOM: Bao gồm nhóm Thương mại điện tử có vai trò thúc đẩy
các hoạt động hợp tác thương mại của APEC; Nhóm Mạng các điểm liên hệ về giới có
chức năng phát triển các chương trình về hội nhập giới, thúc đẩy sự tham gia của nữ giới
vào hoạt động thương mại trong APEC; Nhóm Chống khủng bố được thành lập nhằm
giúp đỡ các thành viên APEC trong việc xác định, đánh giá các biện pháp cần thiết để
chống khủng bố đồng thời thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên APEC với
các tổ chức quốc tế hoặc trong khu vực về vấn đề liên quan đến chống khủng bố.
• - Ban Thư ký APEC: Được thành lập để hỗ trợ cho việc tăng cường vai trò, hiệu quả của
APEC trong xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực. Ban thư ký APEC đảm nhận nhiều vai trò
như: Tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật, phối hợp các hoạt động của APEC; Điều hành ngân sách
hàng năm của APEC; Quản lý thông tin và các dịch vụ thông tin tuyên truyền.
HOẠT ĐỘNG CỦA APEC
Kế hoạch hành động riêng của mỗi nước hội viên (IAPs).
- Các chương trình hành động thuộc những lĩnh vực sau:

 Thuế quan: liên tục giảm thuế, làm rõ. Công khia hóa chính sách thuế của nước
mình.
 Phi thuế quan: liên tục giảm hàng rào phi thuế quan; làm rõ, công khai hóa chính
sách phi thuế quan của nước mình
 Dịch vụ: liên tục giảm những hạn chế để mở cửa cho thương mại dịch vụ; Đặc
biệt là 4 lĩnh vực: viễn thông, giao thông vận tải, năng lượng, dịch vụ
 Thống nhất thủ tục hải quan
 Chính sách cạnh tranh công bằng
 Xây dựng dựng quy chế xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu
 Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh thương mại của các nước APEC

Kế hoạch hành động tập thể (CAPs)


 Nội dung của kế hoạch này là các nước thành viên thuộc APEC cùng tiến hành
những biện pháp nhằm loại bỏ những trở ngại cho quá trình tự do hóa thương mại
và đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh giảm chi phí khi hoạt
động trên thị trường APEC. Giảm dần và tiến tới hủy bỏ các hình thức trợ cấp
xuất khẩu.
 Hủy bỏ việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu, cũng như các biện pháp hạn chế thương
mại bất hợp lý. Gây áp lực với các nước hội viên không đưa ra những biện pháp
phi thuế mới cản trở tự do hóa thương mại.
 Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
 Thống nhất chính sách cạnh tranh bình đẳng.

Các hoạt động hợp tác kinh tế - kỹ thuật (Ecotech)


- Trong APEC, các hoạt động hợp tác kinh tế - kỹ thuật được viết tắt là “ Ecotech”.

 Củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng;


 Khuyến khích phát triển môi trường cạnh tranh;
 Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 Tạo điều kiện an toàn và phát triển một thị trường vốn hiệu quả;
 Trang bị những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tương lai;

VIỆT NAM VÀ APEC


Về chính trị, Việt Nam đã nâng cao vị thế của mình và có tiếng nói mạnh hơn trên trường
quốc tế. Các hội nghị thường niên cấp bộ trưởng, đặc biệt là hội nghị của các nhà lãnh đạo các
nền kinh tế là cơ hội quý báu cho Việt Nam tham gia vào các cuộc đàm phán song phương cấp
cao và quyết định các vấn đề quan trọng của khu vực.
Về kinh tế, Việt Nam có điều kiện tiếp cận tốt hơn với nguồn vốn, công nghệ hiện đại và
kinh nghiệm quản lý thông qua các hoạt động đầu tư, thương mại với các thành viên
APEC, trong đó có những nền kinh tế hàng đầu thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung
Quốc, Canada.
Giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nền kinh tế thành viên APEC cũng chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, khoảng 60% giá trị
xuất khẩu và 80% giá trị nhập khẩu. 9 nước và vùng lãnh thổ có kim ngạch nhập khẩu
trên 1 tỷ USD vào Việt Nam đều là thành viên APEC.
Trong tổng số khách quốc tế đến Việt Nam thì APEC đã chiếm tới 75,7% khách du lịch
nước ngoài. 10/14 nước, vùng lãnh thổ có lượng khách du lịch tới Việt Nam đông nhất đều
là thành viên APEC như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan...
Nhận thức tầm quan trọng của APEC, Việt Nam đã nỗ lực trở thành một thành viên tích cực, có
vai trò và uy tín trong diễn đàn, và đã đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu của APEC.

2. Tên gọi và các thành viên trong tổ chức ASEM


1. Tên gọi
ASEM là Hội nghị Á – Âu( tiếng Anh là The Asia-Europe Meeting) là diễn đàn đối thoại và hợp
tác không chính thức, được sáng lập vào năm 1996.

Thành viên của tổ chức ASEM


- Thành viên ban đầu bao gồm 15 nước Liên minh châu Âu (Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Phần Lan,
Đức, Áo, Hy Lạp, Aixơlen, Italia, Hà Lan, Lúcxămbua, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển,
Anh và 7 nước ASEAN (Brunây, Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Xingapo, Thái Lan, Việt Nam),
ba nước Đông Bắc á (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) và Ủy ban châu Âu.
- Do việc mở rộng liên minh châu Âu vào tháng 5 năm 2004, hội nghị thượng đỉnh ASEM được
tổ chức tại Hà Nội từ 8-9 tháng 10 năm 2004 đã kết nạp thêm 10 nước thành viên EU mới cùng
với 3 nước thành viên Asean (Campuchia, Lào và Mianma)
2. Bối cảnh ra đời – Điều ước thành lập ASEM
Bối cảnh ra đời
- Tại Hội nghị Kinh tế cấp cao châu Âu – Ðông Á lần thứ ba tại Xingapo tháng 10 năm 1994,
Thủ tướng Xingapo Gô Chốc Tông đã đưa ra sáng kiến tổ chức một Hội nghị Thượng đỉnh Á –
Âu nhằm tăng cường sự hiểu biết và thúc đẩy hợp tác giữa hai châu lục. Sáng kiến này cũng
được chính thức đặt ra với thủ tướng Pháp trong chuyến thăm Pháp cuối năm 1994 của Thủ
tướng Gô Chốc Tông và ngay lập tức được nhiều nước Á – Âu hưởng ứng.
- Tháng 3 năm 1996, Hội nghị các nguyên thủ quốc gia về Hợp tác Á – Âu (Asia’ Europe’
Summit Meeting – ASEM) lần đầu tiên được tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan với sự tham gia của
các nguyên thủ quốc gia 15 nước thuộc Líên minh Châu Âu, mười nước Châu Á (bao gồm Nhật
Bản,Trung Quốc Hàn Quốc và bảy nước ASEAN là Brunây, Inđonêxia, Malaixia, Philippin,
Xingapo, Thái Lan và Việt Nam).

Điều ước thành lập ASEM


- Kỷ niệm 25 năm thành lập Diễn đàn Hợp tác Á-Âu: ASEM cam kết thúc đẩy chủ nghĩa đa
phương nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu.
- ASEM đã khẳng định vai trò quan trọng đối với hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển thịnh
vượng tại hai châu lục, đóng góp thiết thực định hình những xu thế lớn và cục diện thế giới trong
thế kỷ 21.

Mục đích và Nguyên tắc của tổ chức ASEM


Mục đích
- Mục tiêu chủ đạo của Hợp tác Á – Âu hiện nay (được thông qua tại Hội nghị ASEM I) là Hợp
tác để tạo sự tăng trưởng hơn nữa ở cả châu Á và châu Âu. Mục tiêu này đã được cụ thể hoá ở
Khuôn khổ hợp tác Á – Âu (AECF) thành các mục tiêu cơ bản sau:
+ Thúc đẩy đối thoại chính trị để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và thống nhất quan
điềm của hai châu lục đối với các vấn đề chính trị và xã hội của thế giới;
+ Xây dựng quan hệ đối tác một cách toàn diện và sâu rộng giữa hai châu lục Á, Âu để thúc đẩy
trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên.
+ Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật, môi trường, phát triển nguồn nhân lực:
… để tạo sự tăng trưởng bền vững ở cả châu Á và châu Âu.
-Về mặt kinh tế, ASEM đặt ra ba mục tiêu cụ thể là:
+ Thúc đẩy giao lưu giữa các doanh nghiệp
+ Cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư
+ Tạo sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững
Nguyên tắc hoạt động của ASEM
Theo Khuôn khổ hợp tác Á – Âu thông qua tại ASEM II ở Anh tháng 4/1998 và Khuôn khổ hợp
tác Á – Âu 2000 thông qua tại ASEM III ở Hàn Quốc tháng 10/2000, mục đích của ASEM là tạo
dựng “một mối quan hệ đối tác mới toàn diện giữa Á -Âu vì sự phát triển mạnh mẽ hơn” trong
thế kỷ XXI. ASEM tiến hành hoạt động theo những nguyên tắc sau:
– Bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi
– ASEM là một quá trình mở, tiệm tiến, không chính thức nên không nhất thiết thể chế hóa
– Tăng cường nhận thức và hiểu biết lẫn nhau thông qua một tiến trình đối thoại và tiến tới hợp
tác trong việc xác định các ưu tiên cho các hoạt động phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau
– Triển khai đồng đều ở cả ba lĩnh vực hợp tác chủ yếu là tăng cường đối thoại chính trị, thúc
đẩy hợp tác kinh tế và đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực khác
– Việc mở rộng thành viên cần phải được thực hiện với sự nhất trí chung của các vị đứng đầu
Nhà nước và Chính phủ

Quan hệ của Việt Nam với ASEM


- Qua 25 năm từ khi tham gia sáng lập ASEM, Việt Nam luôn là một thành viên tích cực, năng
động và có trách nhiệm, ghi những dấu mốc ý nghĩa trong chặng đường phát triển của ASEM.
- Tham gia đóng góp thúc đẩy hợp tác ASEM không chỉ giúp nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của
việt nam mà còn có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy các lợi ích về an ninh và phát
triển của đất nước.
-Việt Nam là một trong những nước đi đầu khởi xướng và duy trì cơ chế hợp tác đầu tiên trong
ASEM về quản lý nguồn nước là đối thoại ASEMvề phát triển bền vững

CƠ CẤU CỦA ASEM


Cơ chế hoạt động của ASEM
Bản chất của ASEM là một diễn đàn đối thoại, hoạt động bổ trợ cho các tổ chức hoặc diễn đàn
đa phương khác (ví dụ như xúc tiến đối thoại giữa các thành viên ASEM về các vấn đề của Liên
hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới, các vấn đề nổi cộm của kinh tế thương mại toàn cầu và
khu vực, .v.v, nhằm đạt được sự đồng thuận và quan điểm chung của các thành viên ASEM
trong các diễn đàn nêu trên). Ngoài ra, hoạt động của ASEM cũng có đặc trưng là hoạt động đối
thoại cấp cao, theo đó mọi vấn đề cơ bản của ASEM sẽ được thảo luận và thông qua tại Hội
nghị cấp cao (Hội nghị Thượng đỉnh). Các hội nghị cấp thấp hơn sẽ thực hiện hoặc điều phối
thực hiện các quyết định mà các nguyên thủ quốc gia đưa ra tại Hội nghị Thượng đỉnh.
Với đặc điểm nêu trên, hoạt động của ASEM hiện nay chưa được thể chế hoá. Các hoạt động
hợp tác được tổ chức thông qua hai nước điều phối viên châu Á và hai nước điều phôi viên châu
Âu với nhiệm kỳ hai năm (hiện tại Thái Lan và Hàn Quốc là các điều phối viên phía châu Á;
nước Chủ tịch và Uỷ viên của Cộng đồng châu Âu là điều phối viên phía châu Âu). Các nước
điều phối viên nhóm họp khi cần thiết (thông thường 2-3 lần mỗi năm) thông qua các nhóm
công tác chuyên về từng lĩnh vực chính trị hoặc kinh tế. Cơ quan điều phối ASEM tại mỗi nước
là Bộ Ngoại giao. Có thể khi hoạt động đi vào chiều sâu, ASEM sẽ được cơ cấu lại với các ban
và nhóm công tác hoàn chỉnh.
Hiện tại, các kênh hội nghị chính của ASEM bao gồm:

Hội nghị Thượng đỉnh (ASEM): Ðược tổ chức hai năm một lần để bàn về các vấn đề chiến
lược của ASEM và phê chuẩn các chương trình hợp tác;
Hội nghị Đối tác Nghị viện Á-Âu (Asia-Europe Parliamentary Partnership Meeting -
ASEP): Là diễn đàn đối thoại liên nghị viện nằm trong khuôn khổ tiến trình Hội nghị Thượng
đỉnh Á-Âu (ASEM);
Hội nghị cấp Bộ trưởng: Họp hai năm một lần.
a. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao (FMM): Chịu trách nhiệm xử lý, theo dõi các vấn đề về chính
trị và xã hội, điều phối công tác chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh ASEM thông qua Hội nghị
các quan chức cấp cao (SOM).
b. Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế (EMM). Là diễn đàn để theo dõi việc thực hiện các hoạt động
hợp tác kinh tế Á - Âu xem xét và có thể thông qua những đề xuất hợp tác mới, trực tiếp báo
cáo các vấn đề kinh tế lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEM
c. Hội nghị Bộ trưởng Tài chính: Thảo luận các vấn đề về tài chính trong khu vực, xây đựng các
chương trình hợp tác về quản lý tài chính, chống rửa tiền.
d. Hội nghị Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường (S&TMM): Thảo luận và thông qua
các chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Hội nghị quan chức cấp cao
a. Hội nghị Thứ trưởng Tài chính
b. Hội nghị quan chức cấp cao ngoại giao (SOM): Nhiệm vụ chính của SOM là bàn luận các
vấn đề về đôi thoại chính trị, hợp tác văn hóa, xã hội của ASEM, xây dựng các chương trình
hành động trong các lĩnh vực trên để báo cáo các Bộ trưởng Ngoại giao.
c. Hội nghị các quan chức cấp cao thương mại và đầu tư (SOMTI) là nơi tiếp nhận, xử lý các
vấn đề về hợp tác kinh tế được triển khai thực hiện ở các nhóm chuyên môn và các ngành kinh
tế khác, trên cơ sở đó tổng hợp và có báo cáo, khuyến nghị lên EMM.
d. Hội nghị các Tổng cục trưởng hải quan: Họp hai năm một lần và báo cáo kết qủa lên SOMTI.
Hội nghị này chủ yếu đi sâu về các vấn đề hợp tác hải quan, đơn
giản hoá và hài hoà hoá thủ tục Hải quan và chống buôn lậu chống rửa tiền và buôn bán ma
tuý.3.5.Diễn đàn doanh nghiệp Á - Âu.
Các nhóm công tác ở cấp chuyên viên: Nhằm giải quyết những vấn đề kỹ thuật cụ thể của các
chương trình của ASEM. Hiện nay ASEM đang có các nhóm công tác sau:
- Các nhóm công tác hoạt động theo khuôn khổ của TFAP như Nhóm về tiêu chuẩn chất lượng
thủ tục hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (IPR), SPS, mua sắm của chính phủ v.v.;
- Nhóm chuyên gia về đầu tư (IEG) hoạt động trong khuôn khổ IPAP;
Các hoạt động chủ yếu khác
Một số cơ quan hoặc chương trình hoạt động đã được thiết lập theo quyết định của các nguyên
thủ quốc gia nhân tăng cường hiểu biết, hợp tác và giao lưu giữa doanh nhân hai khu v ực.
a. Quỹ Á - Âu (ASEF): Là một quỹ tài trợ phải lợi nhuận đặt tại Xingapo nhằm xúc tiến giao
lưu Á - Âu trong các lĩnh vực văn hoá - xã hội. Ðược thiết lập năm 1997 từ các nguồn đóng góp
tự nguyện của các nước thành viên ASEM, ASEF đã tổ chức được một số lượng đáng kể các
hội thảo và hội nghị chuyên đề trong các lĩnh vực này.Tổng đóng góp vào quỹ khoảng 25 triệu
USD.
b. Trung tâm công nghệ môi trường Á - Âu (AEETC): thành lập năm 1999, đặt tại Băng Cốc,
Thái Lan với nhiệm vụ xúc tiến Hợp tác Á - Âu trong một số vấn đề
thiết yếu về môi trường Ngân sách hoạt động của Trung tâm khoáng 6 triệu USD do các nước
thành viên đóng góp.
c. Quỹ tín thác ASEM (ATF): Do WB quản lý nhằm cung cấp..tài chính cho các chương trình
trợ giúp kỹ thuật và đào tạo về các lĩnh vực xã hội và tài chính cho các nước châu Á bị tác động
bởi khủng hoảng tài - chính tiền tệ được thành lập năm 1998 và hoạt động trong hai năm, Quỹ
đã thu hút được 42 triệu EURO vốn đóng góp từ các thành viên. Hiện Việt Nam được tài trợ ba
chương trình từ nguồn vốn của Quỹ là cải cách và phát triển hệ thống ngân hàng, vào việc làm
và chương trình mạng lưới an toàn, xã hội "Ðẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và thương mại hoá
các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành vận tải."
d. Diễn đàn doanh nghiệp ASEM (AEBF): Được tổ chức hàng năm để tập hợp các doanh
nghiệp có tầm cỡ trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, du lịch, xúc tiến thương mại và đầu tư.
Mục đích của Diễn đàn là bàn về phương hướng xây dựng chiến lược doanh nghiệp trong các
lĩnh vực trên và tổng hợp ý kiến đề xuất lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEM.

CHÍNH SÁCH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ASEM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
 Quỹ Á - Âu (ASEF): Là một quỹ tài trợ phải lợi nhuận đặt tại Xingapo nhằm xúc tiến
giao lưu Á - Âu trong các lĩnh vực văn hoá - xã hội. Ðược thiết lập năm 1997 từ các
nguồn đóng góp tự nguyện của các nước thành viên ASEM, ASEF đã tổ chức được một
số lượng đáng kể các hội thảo và hội nghị chuyên đề trong các lĩnh vực này.Tổng đóng
góp vào quỹ khoảng 25 triệu USD.
 Trung tâm công nghệ môi trường Á - Âu (AEETC): thành lập năm 1999, đặt tại Băng
Cốc, Thái Lan với nhiệm vụ xúc tiến Hợp tác Á - Âu trong một số vấn đề
thiết yếu về môi trường Ngân sách hoạt động của Trung tâm khoáng 6 triệu USD do các
nước thành viên đóng góp.
 Diễn đàn doanh nghiệp ASEM (AEBF): Được tổ chức hàng năm để tập hợp các doanh
nghiệp có tầm cỡ trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, du lịch, xúc tiến thương mại và
đầu tư. Mục đích của Diễn đàn là bàn về phương hướng xây dựng chiến lược doanh
nghiệp trong các lĩnh vực trên và tổng hợp ý kiến đề xuất lên Hội nghị Thượng đỉnh
ASEM.

Là một thành viên sáng lập của ASEM, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong
hoạt động của tổ chức.Việt Nam đã tích cực tham gia ngay từ đầu vào các nỗ lực thành lập Diễn
đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), trong đó có sự chuẩn bị về song phương và đa phương trong khuôn
khổ ASEAN.
Về lĩnh vực chính trị: Việt Nam đã tham gia đầy đủ và có hiệu quả vào các sinh hoạt chính trị
của ASEM. Trong đối thoại chính trị, Việt Nam đã tích cực đóng góp vào nỗ lực chung bảo vệ
hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang, trên nguyên tắc tôn trọng luật
pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác,
tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, vì hợp tác bình đẳng và có lợi, vì hòa bình, ổn
định, thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới, xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế
dân chủ công bằng.
Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam tích cực hưởng ứng các chương trình hợp tác giáo dục
và phát triển nguồn nhân lực như ủng hộ sáng kiến ASEM về Học tập suốt đời, Chương
trình học bổng kép ASEM.
Trong hợp tác về văn hóa, Việt Nam đã tích cực tham dự và triển khai nhiều hoạt động
trong khuôn khổ ASEM, như chủ động đề xuất sáng kiến “Bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa trong các nước ASEM”, tạo khuôn khổ đối thoại giữa các nền văn hóa lâu đời Á-Âu,
góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đem lại khí thế mới cho sự phát triển quan hệ đối
tác giữa hai châu lục.
Trong lĩnh vực môi trường, Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với các thành viên, góp tiếng nói
tích cực thúc đẩy quyết tâm chính trị và cam kết bảo vệ môi trường, đẩy mạnh hợp tác
trong việc chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính và kỹ thuật và phát triển những ngành
kinh tế sạch.

You might also like