Professional Documents
Culture Documents
Nhũ Tương Thuốc
Nhũ Tương Thuốc
Nhũ Tương Thuốc
- Nhũ tương thiên nhiên: có sẵn trong thiên nhiên như sữa động vật, hạt có
Theo nguồn gốc dầu.
- Nhũ tương nhân tạo: dùng chất nhũ hoá, lực phân tán để tạo nhũ tương.
- Vi nhũ tương: kích thước tiểu phân rất nhỏ gần bằng tiểu phân keo hệ vi dị
Theo mức độ thể.
phân tán - Nhũ tương mịn: kích thước tiểu phân từ 0,5 – 1,0 micromet.
- Nhũ tương thô: kích thước tiểu phân từ vài micromet trở lên.
Là các chất có phân tử lớn dễ hoà tan hoặc trương nở trong nước tạo dịch
Các carbohydrate keo có độ nhớt lớn
Hay dùng là các loại gôm, pectin, thạch, tinh bột, chất nhầy, các alginat
Là các heterosid phân tử có hai phần: aglycol không phân cực thân dầu và
đường phân cực thân nước. Là các chất diện hoạt có khả năng nhũ hoá thực
Các Saponin
sự và gây thấm mạnh. Dễ tan trong cồn và nước là chất nhũ hoá tạo kiểu
nhũ tương D/N.
Gồm gelatin, sữa, lòng đỏ trứng và dẫn chất. Các chất này có phân tử lớn
Các protein dễ hoà tan hoặc phân tán trong nước tạo dịch keo có độ nhớt lớn (chất keo
thân nước) và là chất nhũ hoá tạo kiểu nhũ tương D/N.
Cholesterol và các dẫn chất có nhiều trong Lanolin (sáp lông cừu), mỡ
Các sterol lợn, Dầu Cá, lòng đỏ trứng. Cấu tạo hai phần: thân dầu và thân nước nên
có tác dụng diện hoạt và có khả năng nhũ hoá, gây thấm.
Lecithin có nhiều trong lòng đỏ trứng, đỗ tương là chất diện hoạt nhũ hoá
mạnh. Không tan nhưng dễ phân tán trong nước, tạo kiểu nhũ tương D/N.
Các Phospholipid
Không độc nên được dùng nhiều điều chế nhũ tương hỗn dịch uống, tiêm,
dùng ngoài. Dễ bị OXH bởi ánh sáng, không khí, môi trường kiềm.
Các chất này thu được bằng phương pháp tổng hợp hoặc chiết xuất từ
nguyên liệu thực vật, động vật, khoáng vật. Đặc tính chung của nhóm là có
khả năng hấp thụ trên bề mặt phân cách pha và tạo thành lớp đơn, đa phân
Các chất diện hoạt tử hoặc các ion được định hướng làm thay đổi bản chất phân cực của bề
mặt và giảm năng lượng bề mặt giữa hai pha. Các chất diện hoạt điển hình
là hợp chất lưỡng thân trong phân tử của chúng chứa cả phần thân nước và
thân dầu.
Đây là những chất đại phân tử, bao gồm cả các polyme tự nhiên và tổng
hợp, được sử dụng để tạo sự ổn định trong các hệ thống nhũ tương. Chúng
giúp tăng độ nhớt của pha ngoại và hấp phụ lên bề mặt phân cách pha.
Các chất nhũ hoá Chức năng chính của các chất nhũ hóa ổn định là giữ cho các tiểu phân của
ổn định pha nội được phân tán đồng đều trong pha ngoại và ngăn chúng kết tụ hoặc
tách ra.
Một số chất nhũ hóa ổn định như Các poly oxyethylen glycol (PEG), alcol
polyvinylic, dẫn chất của cellulose.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh khả dụng của nhũ tương thuốc
5.1 Ảnh hưởng của sức căng bề mặt phân cách pha
Sự hình thành nhũ tương luôn kèm theo sự hấp thu năng lượng cơ học, bề mặt được tạo ra mang
năng lượng tự do, mà năng lượng này phụ thuộc tổng diện tích bề mặt tiếp xúc và sức căng bề
mặt hai pha.
Để giảm năng lượng tự do phải giảm sức căng bề mặt thì nhũ tương mới dễ hình thành và bền
vững. Để giảm sức căng bề mặt người ta chọn chất diện hoạt phù hợp.
5.2 Ảnh hưởng của chất nhũ hoá
Chất nhũ hoá có khả năng gây phân tán và quyết định kiểu nhũ tương sẽ hình thành. Chất nhũ
hoá thường có một phần thân dầu và một phần thân nước nên khi cho một lượng nhỏ vào hai pha
lỏng không đồng tan thì phân tử các chất này được định hướng và tập trung bề mặt tiếp xúc hai
pha làm giảm sức căng bề mặt hai pha và tạo ra màng mỏng đứng trung gian giữa pha dầu và pha
nước và cong vòng cung về phía pha lỏng nào mà nó dễ tan dễ thấm hơn như một lớp áo bao lấy
các tiểu phân của pha phân tán, lớp áo này có độ bền nhất định có khi mang điện tích tạo ra lực
đẩy tĩnh điện giúp các tiểu phân cản trở kết tụ các tiểu phân phân tán.
Ảnh hưởng lớp điện tích cùng dấu xung quanh các tiểu phân pha phân tán
Theo thuyết DLVO (Dejagine – Landau – Vervey – Overbek) các tiểu phân pha phân tán trong
nhũ tương đồng thời chịu hai lực tác động:
- Lực hút Van der waals.
- Lực đẩy tĩnh điện giữa các tiểu phân mang điện tích cùng dấu.
Nếu lực hút Van der waals lớn hơn lực đẩy tĩnh điện thì nhũ tương không bền vững và dễ dàng
phân lớp. Hàng rào năng lượng chống lại sự va chạm giữa các tiểu phân làm chúng khó tập hợp
lại với nhau. Hàng rào năng lượng cân bằng sự thay đổi năng lượng động học các tiểu phân thì
nhũ tương bền vững nhưng vẫn có thể xảy ra tách lớp.
5.3 Ảnh hưởng của độ nhớt môi trường phân tán
Môi trường phân tán có độ nhớt càng lớn thì nhũ tương càng bền.
Để tăng độ bền vững của nhũ tương D/N cần thêm chất có thể tăng độ nhớt của môi trường phân
tán hoặc dùng các xà phòng kim loại hoá trị hai trở lên đối với nhũ tương N/D.
5.4 Ảnh hưởng của tỷ trọng hai pha
Khi hai pha có tỷ trọng gần bằng nhau nhũ tương sẽ dễ hình thành nhũ tương. Ngược lại nếu hai
pha có tỷ trọng khác nhau thì nhũ tương thu được không bền vững.
Hiện tượng tách riêng hai pha là do môi trường tiểu phân pha phân tán trong nhũ tương chịu tác
động của hai lực ngược chiều nhau: trọng lực kéo xuống và lực đẩy archimede.
5.5 Ảnh hưởng của nồng độ pha phân tán
Nhũ tương càng bền vững khi nồng độ pha phân tán càng nhỏ.
Một số yếu tố khác như phương pháp phối hợp chất nhũ hóa, cách phối hợp các pha, cường độ
và thời gian tác dụng lực gây phân tán, nhiệt độ và pH môi trường phân tán cũng ảnh hưởng ít
nhiều đến độ bền vững và Sinh khả dụng của nhũ tương.
6. Phương pháp điều chế nhũ tương thuốc
6.1. Nguyên tắc điều chế
Các chất dễ tan trong pha nào thì được hòa tan trong pha đó.
Các hoạt chất độc mạnh nên hòa tan trước vào một lượng nhỏ nước hoặc dầu trước khi tiến
hành phối hợp.
Các thành phần tan trong pha nội phải hòa tan trong pha nội trước tiến hành nhũ hóa.
Các thành phần tan trong pha ngoại tùy từng trường hợp có thể phối hợp trước hay sau khi
nhũ hóa.
6.2. Phương pháp keo ướt (Thêm pha nội vào pha ngoại)
Nguyên tắc điều chế
Chất nhũ hóa được hòa tan trong lượng lớn pha ngoại, sau đó thêm từ từ pha nội vào, vừa thêm
vừa phân tán đến khi hết pha nội và tiếp tục phân tán cho đến khi nhũ tương đạt yêu cầu.
Thích hợp điều chế ở quy mô công nghiệp. Thiết bị gây phân tán là máy khuấy chân vịt, máy
khuấy cánh quạt...
6.3 Phương pháp keo khô (Thêm pha ngoại vào pha nội)
Nguyên tắc điều chế
Chuẩn bị chất nhũ hóa ở dạng bột mịn (gôm arabic, adragant, hoặc methyl cellulose). Sau đó
trộn chất nhũ hóa với toàn bộ tướng nội.
Thêm một lượng tướng ngoại vừa đủ và phân tán mạnh để tạo nên nhũ tương đậm đặc.
Thêm từ từ tướng ngoại còn lại và hoàn chỉnh nhũ tương.
Lưu ý
Tỷ lệ 4 dầu, 2 nước và 1 gôm là tỷ lệ để phân tán pha dầu thành những giọt nhỏ bằng cối
chày. Tuy nhiên có thể được điều chỉnh tỷ lệ này sao cho có một nhũ tương tốt, ví dụ tinh
dầu, dầu parafin, dầu hạt lanh có thể áp dụng tỷ lệ 3: 2: 1 hoặc 2: 2: 1. Sau đó, nhũ tương
được pha loãng và phân tán bằng nước đến nồng độ xác định.
Lượng gôm được tính riêng cho từng loại và cộng lại nếu có sự phối hợp của nhiều loại dầu.
6.4 Phương pháp tách pha từng dung môi đồng tan với 2 pha
Nguyên tắc điều chế
Tạo dung dịch bằng cách hòa tan tướng nội và chất nhũ hóa trong dung môi
Từ từ thêm từng ít dung dịch này vào pha ngoại và thực hiện phân tán mạnh để tạo ra các
tiểu phân của pha nội.
Chất nhũ hóa bao quanh và giữ lại những tiểu phân này bên trong, đảm bảo tính liên tục và
đồng đều của hệ thống.
Lưu ý
Phương pháp áp dụng khi có dung môi vừa đồng tan với tướng ngoại để hòa tan tướng nội và
chất nhũ hóa.
7 Tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng nhũ tương
7.1 Về cảm quan
Chất mềm, mịn màng đồng nhất giống như kem hoặc lỏng đục trắng giống như sữa là các đặc
điểm quan trọng để đánh giá chất lượng của nhũ tương. Khi pha dầu và pha nước trong nhũ
tương đã tách ra hoặc thành lớp riêng, và khuấy lắc không thể khôi phục lại trạng thái đồng nhất,
thì nhũ tương coi như hỏng. Điều này thường xảy ra khi sự phân tán không đủ tốt hoặc khi tỷ lệ
giữa các thành phần không đúng.
7.2 Xác định kiểu nhũ tương
Pha liên tục cho dòng điện chạy Pha liên tục cho dòng điện
Đo độ dẫn điện
qua là nước chạy qua là dầu
Thuốc Phun Mù
1. Thuốc phun mù là gì?
Thuốc phun mù (Aerosol) là dạng bào chế đặc biệt trong đó thuốc được phân tán thành những
hạt rất nhỏ, có thể là dạng rắn hoặc lỏng trong không khí. Dược chất có thể có dạng bột, dung
dịch hoặc nhũ tương và được đóng gói kín trong đồ bao gói kín. Thuốc được đẩy đến nơi điều trị
thông qua áp suất từ khí nén, khí hoá lỏng hoặc lực cơ học từ người sử dụng thuốc [1].
Thuốc phun mù được sử dụng thông qua da, niêm mạc và được đưa vào các hốc cơ thể như tai,
trực tràng và âm đạo. Ngoài ra, nó cũng có thể được hít vào qua đường hô hấp để thuốc đi vào
phổi hoặc xoang mũi. Vì thuốc có khả năng tạo ra hạt rất mịn trong không khí, nên nó được gọi
chung là thuốc khí dung hoặc aerosol.
2. Ưu nhược điểm của dạng thuốc phun mù
2.1. Ưu điểm
Tiếp cận hiệu quả: Hạt thuốc nhỏ trong aerosol có khả năng tiếp cận và xâm nhập sâu vào vùng
mục tiêu trong cơ thể, giúp thuốc hoạt động trực tiếp tại nơi cần thiết và cải thiện hiệu quả điều
trị.
Tác động nhanh: Hạt thuốc nhỏ trong aerosol có thể hít vào hoặc tiếp xúc với niêm mạc nhanh
chóng, giúp thuốc có tác động nhanh chóng và giảm triệu chứng một cách nhanh nhất.
Tiện dụng: Thuốc phun mù được đóng gói trong hộp nhỏ, dễ dàng mang theo và sử dụng ở bất
kỳ đâu, giúp người dùng tiếp tục điều trị một cách thuận tiện và linh hoạt.
Sử dụng dễ dàng và thuận tiện: Thuốc phun mù là một hình thức bào chế tiện lợi, dễ sử dụng và
nhanh chóng tạo ra một liều thuốc mà không cần sử dụng các công cụ khác, đảm bảo vệ sinh và
không gây ô nhiễm bởi các dụng cụ.
Độ ổn định cao: Thuốc phun mù có độ ổn định cao do được đóng gói trong bình kín, ngăn không
cho độ ẩm, không khí và vi khuẩn xâm nhập. Điều này giúp tránh sự phân hủy do tác nhân hóa
học và ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn và nấm mốc.
Phân liều chính xác: Khi cần thiết, thuốc phun mù có van định liều để đảm bảo việc phân chia
liều lượng chính xác.
Hạn chế kích ứng: Thuốc được phun ra nhẹ nhàng trên nơi cần điều trị, giới hạn tối đa các tác
động gây kích ứng tại điểm sử dụng thuốc.
Thay thế dạng thuốc tiêm: Thuốc phun mù có thể thay thế cho dạng tiêm của một số loại thuốc
như hormone, thuốc chống vi-rút... bằng cách xông hít hoặc phun xịt vào mũi, đây là một
phương pháp thuận tiện cho bệnh nhân.
Tránh phân hủy dược chất: Thuốc phun mù có hiệu quả điều trị cao, tránh được sự phân hủy chất
dược qua đường tiêu hóa hoặc qua gan, vì thuốc không đi qua các đường này. Khi dùng tại chỗ,
chất dược tiếp xúc tốt trên da hoặc niêm mạc, thuốc có thể phát huy tác dụng toàn thân khi được
sử dụng dưới dạng xông hít qua miệng, mũi...
Hạn chế tác dụng phụ: thuốc phun mù sử dụng liều lượng thấp, giúp giới hạn tác dụng phụ và tác
dụng không mong muốn.
Hạn chế tương tác thuốc: Đôi khi, một số thuốc cần được kết hợp để tác động cùng nhau, nhưng
có tương tác vật lý, hoá học khi được chế tạo trong cùng một dạng bào chế. Trong trường hợp
này, có thể sử dụng riêng thuốc phun mù xông hít qua mũi hoặc miệng để chất dược được hấp
thụ qua đường hô hấp.
Thay đổi đặc tính dược động học: Khi dược chất không có tính chất dược động học thích hợp để
có hiệu quả mong muốn khi dùng dưới dạng uống hoặc tiêm, có thể sử dụng dưới dạng thuốc
phun mù để thuốc có tác dụng tốt.
2.2 Nhược điểm
Kỹ thuật sử dụng: Để sử dụng thuốc phun mù hiệu quả, người dùng cần phải học cách sử dụng
đúng kỹ thuật phun và hít thuốc. Việc không sử dụng đúng cách có thể làm giảm hiệu quả của
thuốc hoặc gây ra tác dụng phụ không mong muốn.
Khó kiểm soát liều lượng: Một số người có thể gặp khó khăn trong việc điều chỉnh liều lượng
thuốc trong aerosol, đặc biệt khi không có chức năng điều chỉnh liều trên thiết bị phun mù.
Tác dụng phụ có thể xảy ra: Aerosol cũng có thể gây ra tác dụng phụ như kích ứng niêm mạc,
hoặc phản ứng dị ứng. Người dùng cần được hướng dẫn và theo dõi cẩn thận khi sử dụng.
Quá trình sản xuất phức tạp: Quá trình sản xuất thuốc phun mù nói chung là khá phức tạp. Nó
yêu cầu sự bao gồm các thành phần như bình chứa và hệ van phun. Quá trình đóng nạp chất đẩy
cần được thực hiện đồng thời với quá trình đóng gói hoàn chỉnh để tạo ra một bình thuốc kín.
Điều này đòi hỏi sử dụng các thiết bị phức tạp.
Nguy cơ có hại từ các chất đẩy: Thuốc phun mù sử dụng chất đẩy thường là các loại
fluorocarbon, là các chất gây hủy hoại tầng ozon trong khí quyển. Mặt khác, các chất đẩy
hydrocarbon không gây hại cho tầng ozon, nhưng chúng lại có nguy cơ gây cháy nổ khi tiếp xúc
với nhiệt.
Giá thành cao: Một số loại thuốc phun mù có thể có giá thành cao hơn so với các dạng thuốc
khác, đặc biệt đối với hệ thống phun mù chuyên dụng.
Tuy dạng thuốc phun mù có nhược điểm, nhưng nó vẫn là một công cụ hiệu quả trong điều trị
nhiều bệnh lý và triệu chứng. Việc sử dụng aerosol nên được hướng dẫn và giám sát bởi chuyên
gia y tế để đảm bảo an toàn và hiệu quả.
3. Phân loại thuốc phun mù
Theo đường dùng:
Dựa theo đường dùng, có thể chia thuốc phun mù thành hai loại:
Thuốc phun mù dùng tại chỗ: Được áp dụng trực tiếp lên da, tai, âm đạo hoặc trực tràng.
Thuốc phun mù dùng để xông hít hoặc xịt: Được hít vào qua mũi hoặc miệng để thuốc tiếp
xúc với phổi hoặc xịt dưới lưỡi.
Dựa vào trạng thái tập hợp của thuốc và chất đẩy trong bình chứa, thuốc phun mù có thể được
phân loại:
Thuốc phun mù hai pha, trong đó pha lỏng là dung dịch thuốc tan trong chất đẩy lỏng và pha
hơi là chất đẩy.
Thuốc phun mù ba pha, bao gồm hỗn hợp hoặc nhũ tương thuốc và chất đẩy ở dạng khí.
Theo cấu trúc hoá lý của hệ:
Thuốc phun mù dạng dung dịch, thuốc phun mù dạng hỗn dịch, thuốc phun mù dạng nhũ tương,
hoặc thuốc phun mù dạng bọt xốp.
Theo loại dụng cụ thiết bị tạo phun mù, thuốc phun mù có thể được chia thành các loại như:
Thuốc phun mù có van định liều, thuốc phun mù có van phun liên tục và thuốc phun mù sử
dụng bơm định liều mà không cần sử dụng chất đẩy.
Thuốc phun mù sử dụng khí nén hoặc khí hóa lỏng.
Thuốc phun mù có piston tự do để tạo vách ngăn giữa thuốc và chất đẩy, hoặc có túi chất dẻo
để tách biệt thuốc và chất đẩy.
Lưu ý:
Phân biệt giữa thuốc phun mù (aerosol) với các loại phun ra các hạt nhỏ (dưới 50 mcm), thuốc
phun xịt (spray) còn được gọi là thuốc phun mù thô đại, phun ra các hạt lớn hơn 100 mcm.
Có cũng loại thuốc xông hít (inhaler), là thuốc phun mù được sử dụng theo đường hô hấp vào
phổi. Thêm vào đó, còn một loại thuốc phun mù khác là bột hoặc nang chứa bột thuốc siêu mịn
được sử dụng để xông hít. Loại thuốc này thường sử dụng cơ chế cơ học để kích hoạt việc phá
vỡ túi hoặc đâm thủng nang, cho phép bột mịn được hít vào đường hô hấp. Mỗi lần thực hiện
hành động cơ chế cơ học, một liều thuốc xác định sẽ được giải phóng.
4. Thành phần cấu tạo của thuốc phun mù
4.1 Chất đẩy
Chất đẩy trong thuốc phun mù đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân tán thuốc và bao
gồm các loại khí nén hoặc khí hoá lỏng. Chúng tạo ra áp suất cao trong bình thuốc phun mù để
đẩy thuốc ra khi van được mở.
Khí hoá lỏng trong thuốc phun mù chủ yếu được chia thành hai nhóm: dẫn xuất của fluorocarbon
và hydrocarbon.
Các loại khí nén thường được sử dụng trong thuốc phun mù bao gồm nitrogen, carbon dioxide và
nitơ oxyd. Chúng được chọn dựa trên tính chất và yêu cầu cụ thể của từng ứng dụng.
4.1.1 Các khí hoá lỏng dùng làm chất đẩy cho thuốc phun mù
Tiêu
Đặc điểm
chí
Ưu Khí hoá lỏng, so với khí nén, mang đến nhiều ưu điểm trong các loại thuốc phun mù
điểm đòi hỏi chất lượng cao.
Bình thuốc phun mù chứa khí hoá lỏng có thể tích nhỏ gọn hơn do khí lỏng chiếm ít
không gian.
Tiêu
Đặc điểm
chí
Ngoài ra, sự cân bằng giữa hai pha lỏng-hơi trong bình thuốc giúp duy trì áp suất ổn
định trong quá trình sử dụng, đảm bảo độ chính xác và độ mịn của các hạt phun.
Điều này rất quan trọng để đảm bảo liều lượng chính xác.
Sự ưu việt về thể tích của khí hoá lỏng trở nên rõ rệt khi so sánh: Khi chuyển từ dạng
lỏng sang hơi và giãn nở cân bằng với áp suất không khí, fluorocarbon lỏng tăng thể
tích lên đến 240 lần, trong khi khí nén chỉ tăng từ 3 đến 10 lần.
Khí hóa lỏng đóng vai trò quan trọng như một tác nhân phân tán trong thuốc phun
Đặc mù. Nó là thành phần trong tiểu phân thuốc phun ra từ bình chứa.
điểm Khi khí lỏng hoá hơi thoát ra khỏi tiểu phân, nó làm cho các hạt thuốc tiếp tục bị
chia nhỏ hơn và trong một số trường hợp đặc biệt, có thể tạo ra bọt xốp.
Phân
Chất đẩy là fluorcarbon Chất đẩy là hydrocarbon
loại
Các chất đẩy thuộc nhóm fluorocarbon Các hydrocarbon có tỷ trọng nhẹ hơn
thường được gọi tắt là Freon hoặc nước và có thể được trộn lẫn với nhau
propellant, kèm theo số ký hiệu để xác hoặc với các fluorcarbon để tạo thành
định công thức hoá học của chúng. hỗn hợp chất đẩy với áp suất hơi và trọng
Đặc
lượng phù hợp. Tuy nhiên, do
điểm VD: chất đẩy 114 (Tetra fluor diclo hydrocarbon dễ cháy, để giảm nguy cơ
ethan), chất đẩy 12 (Diclor difluor cháy nổ, chúng có thể được kết hợp với
methan), chất đẩy 11 (Triclor monofluor các fluorcarbon để làm mất khả năng
methan) cháy.
Nhược Thực tế, các chất fluorocarbon không Tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ: Hydrocarbon
điểm hoàn toàn vô hại về mặt sinh lý. Có tài là các hợp chất dễ cháy, do đó có nguy cơ
liệu cho thấy chúng có thể làm chậm quá cháy nổ và gây hỏa hoạn nếu không được
Tiêu
Đặc điểm
chí
Các Chất đẩy 114 (Diclor tetrafluor ethan) Propan, butan và Isobutan.
chất
Chất đẩy 152 (Diclor tetrafluor ethan) Isobutan được dùng riêng hoặc kết hợp
điển
hình Chất đẩy 22 (Monoclor difluor methan) với propan
Tùy thuộc vào bản chất của công thức thuốc và thiết kế của van, thuốc có thể được
Đặc điểm phân tán ra khỏi bình phun mù dưới dạng bọt xốp, thuốc mỡ, bột nhão hoặc dạng
khác.
Các khí nén còn có ưu điểm là trơ về mặt hoá học không phản ứng tương tác với
chất thuốc trong hệ.
Ưu điểm Khí nitrogen và CO2 còn có vai trò đẩy
loại không khí trong hệ bình thuốc phun mù, trong một số trường hợp các khí trơ
này góp phần làm tăng độ ổn định của thuốc.
Nhược Khi sử dụng áp lực trong bình sẽ yếu dần, không ổn định. Khí nén đòi hỏi dung tích
điểm bình chứa lớn hơn khí hoá lỏng. Áp suất ban đầu của khí nén trong bình thuốc phun
Tiêu chí Nội dung
mù thường vào khoảng 7,12atm chiếm một thể tích khoảng 15 - 25% dung tích bình
chứa.
Các chất
Khí nitrogen, dinitro oxyd, carbon dioxyd
điển hình
Loại vật
Đặc điểm
liệu
Có thể áp dụng một lớp phủ mỏng bằng vecni hoặc chất dẻo lên bề mặt thép.
Độ dày của lớp phủ này thường trong khoảng từ 0,25 đến 0,4 mm.
Nhôm Quá trình sản xuất bằng cách đúc liền khối mang lại ưu điểm là khả năng chịu áp
suất cao, bởi vì không có mối hàn nào tồn tại có thể bị ăn mòn khi tiếp xúc với
nước hay ethanol.
Có độ chịu áp suất cao nhưng giá thành đắt,thường dùng cho loai thuốc phun mù
Thép dùng để xông hít có dung tích nhỏ không cần phải bịt kín bể mặt.
không gỉ Thường được làm đáy và vai bình riêng sau đó hàn gắn với thân bình có thể bị ăn
mòn khi có mặt của nước, ethanol
Trơ về hoá học, không bị ăn mòn hoá học hoặc điện hoá như bình kim loại nhưng
Thủy dễ vỡ và phải làm dày nặng hơn.
tinh Bình thuỷ tinh luôn được tráng bọc một lớp chất dẻo để bảo vệ tránh vỡ, khi vỡ
không văng bắn mảnh thuỷ tinh gây nguy hiểm.
4.3 Van
Vai trò
Các van được sử dụng để đảm bảo bình chứa thuốc được bịt kín và điều phối phân phối thuốc
phun ra từ bình đến nơi điều trị thông qua áp suất cao trong bình.
Yêu cầu
Van dùng cho thuốc phun mù đòi hỏi phải có yêu cầu chất lượng cao.
Kim loại và chất dẻo làm van phải đáp ứng các yêu cầu dược dụng quy định, không gây tương
kỵ với chế phẩm thuốc.
Van được lựa chọn tuỳ thuộc vào các yếu tố: Khí đẩy, chế phẩm thuốc và cách sử dụng.
Phân loại
Vai trò
Van phun liên tục hoạt động bằng cách mở van khi bấm nút, cho phép thuốc được phun
ra một cách liên tục, và chỉ dừng lại khi người sử dụng buông tay và nút bấm trở về vị
trí ban đầu đóng van.
Van được cấu thành từ các bộ phận sau:
1. Nắp van hoặc vành chắn: Gắn vào miệng bình, thường được làm bằng nhôm
hoặc Sắt mạ thiếc và được phủ màng epoxy hoặc vinyl để tăng khả năng chống
ăn mòn và gỉ han.
2. Cuống van: Làm bằng chất dẻo như nylon hoặc kim loại mềm như đồng hoặc
thép không gỉ.
Van
phun 3. Vòng đệm: Làm từ Cao Su Buna N hoặc isopren để tạo sự kín khít.
liên tục 4. Thân van (hay ống van): Được làm bằng chất dẻo nylon, có lỗ hở tại điểm tiếp
xúc với ống nhúng (kích thước lỗ từ 0,3 đến 2,03 mm). Thân van có thể có hoặc
không có ống bật hơi, trong đó ống bật hơi giúp hơi chất đẩy được phun ra cùng
với chất lỏng thuốc, giúp tạo ra các hạt phân tán nhỏ hơn và tránh tắc nghẽn
trong van do các hạt rắn không tan trong hỗn hợp thuốc. Điều này cho phép
thuốc được phun ra khi bình được đặt ở tư thế đầu xuống dưới.
5. Lò xo làm bằng thép không gỉ giữ cho vòng chặn được cố định và ép chặt, đảm
bảo rằng van vẫn được đóng chặt khi nút bấm được nhả ra. Thuốc chỉ có thể đi
qua lỗ hở khe phun khi van mở.
6. Ống nhúng được làm bằng polyethylen hoặc polypropylen
Van Van định liều được thiết kế để phun ra một liều lượng xác định của thuốc khi nút bấm
định được nhấn. Nguyên tắc hoạt động của van này dựa trên việc có một khoảng trống trong
liều van và kích thước của khoảng trống này quyết định lượng thuốc được phun ra.
Van định liều thường được sử dụng cho các loại thuốc có hiệu lực mạnh, đặc biệt là
trong việc xông hít, nơi mà liều lượng thuốc cần được điều chỉnh chính xác. Thông
thường, van định liều phun một lượng thuốc đơn lẻ, khoảng từ 50 đến 150 mg ± 10%
đối với thuốc dạng lỏng.
Có hai loại van định liều cơ bản: loại dùng trong tư thế thẳng đứng (thuốc phun mù dạng
dung dịch) và loại quay đầu ngược xuống (thuốc phun mù chứa hỗn dịch hoặc nhũ
tương).
Về cơ bản có các chi tiết như van phun liên tục nhưng do có phần khoang định liều nên
cuống van được cấu tạo 2 đoạn, cần thêm 2 vòng đệm bịt kín đầu ra và đầu vào của
thuốc cho khoang định liều. Ở tư thế nút bấm hoạt động, vòng đệm đầu ra trên cuống
van cho phép thuốc đã chứa sẵn trong khoang phân tán ra khỏi bình qua cuống van và
Vai trò
miệng phun, sau đó khi không bấm nút vòng đệm đầu vào khoang được mởi ra để bổ
sung thuốc vào khoang. Như vậy
khoang định liều luôn luôn được nạp đầy thuốc và sẵn sàng cung cấp ra một liều lượng
thuốc xác định khi bấm nút mở van lần tiếp theo.
Các loại
Đặc điểm
đầu phun
Đầu phun mù được thiết kế để tạo ra các hạt phân tương đối nhỏ bằng cách đẩy hơi
qua các lỗ hở. Đầu phun có thể có từ 1 đến 3 lỗ mở, với đường kính từ 0,4 đến 1
mm. Khi sử dụng nút bấm loại này để phun thuốc mù, chất đẩy được sử dụng thường
có điểm sôi thấp và tỷ lệ thành phần cao, như chất đẩy 12 hoặc propan.
Đầu phun
mù Phương pháp kết hợp sự bay hơi của chất đẩy với kích thước lỗ thoát và các khe dẫn
trung gian cho phép phun mù với các hạt phân tán có kích thước nhỏ trong phạm vi
mong muốn. Các khe khúc khuỷu khác nhau trong nút bấm có thể tạo ra hiệu ứng
"đập võ cơ học", làm xoáy luồng hơi và làm cho các hạt phân tán nhỏ
hơn. Đồng thời, điều này cũng giới hạn sự bay hơi của chất đẩy.
Có lỗ thoát khá rộng, với đường kính từ 1,78 đến 3,81mm, và có thể còn rộng hơn.
Đầu phun
Các lỗ thoát cho thuốc được đưa vào một khoang khá rộng và sau đó được đẩy ra
tạo bọt xốp
ngoài thông qua một miệng phun.
Đầu phun
tạo các Loại đầu phun này dùng phân tán thuốc ra có thể chất mềm như thuốc mỡ, bột nhão,
thuốc thể cấu tạo tương tự loại đầu phun tạo bọt xốp.
mềm
Các đầu phun đặc biệt được thiết kế cho nhiều loại thuốc phun mù với mục đích sử
Các đầu
dụng riêng, đáp ứng các yêu cầu cụ thể để đưa thuốc đến các vị trí điều trị như
phun đặc
miệng, yết hầu, mũi, mắt, âm đạo... Các đầu phun này có thiết kế hình dạng và cấu
biệt
trúc đặc biệt, nhằm đảm bảo thuốc được chuyển đến nơi cần thiết một cách hiệu quả.
5. Thuốc phun mù bào chế như thế nào? Nguyên tắc sản xuất thuốc phun mù
Kỹ thuật sản xuất thuốc phun mù chủ yếu bao gồm hai giai đoạn: điều chế thuốc và nạp chất
đẩy vào bình thuốc (đồng thời đóng kín bình).
Quy trình điều chế thuốc phun mù sẽ được thực hiện theo quy trình riêng, tùy thuộc vào hệ phân
tán của thuốc (dung dịch, hỗn dịch hay nhũ tương).
===> Xem thêm Quy trình sản xuất dung dịch thuốc: Kỹ thuật bào chế dung dịch thuốc
Giai đoạn nạp chất đẩy có thể được thực hiện bằng hai phương pháp chính: đóng áp suất và đóng
lạnh, với các nguyên tắc cơ bản như sau:
1. Phương pháp đóng áp suất:
Nạp thuốc vào bình chứa mà chưa gắn van (dạng lỏng, mềm hoặc bột).
Gắn van và vòng đệm vào miệng bình để đóng kín hoàn toàn.
Nạp khí đẩy qua van vào bình dưới áp suất cao (ngược chiều với hướng vận hành bình thông
thường của van).
Cuối cùng, đầu phun được đặt vào bình.
Trước khi nạp chất đẩy, không khí trong bình được loại bỏ bằng cách sử dụng khí nén hoặc một
số giọt khí hoá lỏng được thêm vào trước khi gắn van. Khi khí hoá lỏng bốc hơi, không khí trong
bình sẽ bị đẩy ra ngoài.
Cụ thể, trong quy mô nhỏ như trong phòng thí nghiệm, để đóng áp suất ta có thể sử dụng một
bơm buret có thể đo được thể tích nhỏ của khí lỏng thông qua áp suất khí nén. Chất đẩy được nén
vào bình thông qua lỗ van đặt ở đỉnh hoặc đáy của buret. Không khí trong bình được đẩy qua van
ở phía trên. Khi đạt được sự cân bằng áp suất giữa bình chứa và bình khí nén, quá trình chảy chất
đẩy vào bình sẽ ngừng. Sử dụng khí nén nitrogen, được cung cấp vào bình, để đẩy không khí ra
thông qua van phía trên. Sau đó, sử dụng áp suất cao để đưa chất đẩy qua ống xylanh (buret định
liều) thông qua van phía dưới và đưa vào bình.
2. Phương pháp đóng lạnh:
Quá trình này được thực hiện ở nhiệt độ thấp, trong đó khí hóa lỏng được nạp vào bình.
Sau đó, van được đặt và đóng kín trước khi nhiệt độ trở lại bình thường.
Tùy thuộc vào quy mô sản xuất, có thể sử dụng các thiết bị và máy móc phù hợp, cho dù đó là
trong phòng thí nghiệm với quy mô nhỏ hay trong công nghiệp với quy mô lớn.
S
ơ đồ dây chuyền sản xuất thuốc phun mù
6. Kiểm tra chất lượng thuốc phun mù
6.1. Kiểm nghiệm nguyên phụ liệu
Loại nguyên
Yêu cầu kiểm nghiệm
phụ liệu
Các chỉ tiêu chất lượng cần được kiểm nghiệm như định tính ((bằng sắc ký
Chất đẩy khí), định lượng tỉ lệ chất đẩy, áp suất hơi tỉ trong
độ tinh khiết (bao gồm hàm ẩm, halogen, cắn không bay hơi...).
Có quy cách riêng cho từng loại cần kiểm tra về các đặc tính vật lý, hoá học,
Van, nút bấm,
kiêm tra độ bền chịu áp suất của van. Đối với van định liều có chuyên luận
ống nhúng
riêng.
Thuốc bột đơn: Trong thành phần chỉ có một dược chất.
Dựa vào
thành phần Thuốc bột kép: Trong thành phần có ít nhất hai dược chất. Ngoài dược chất còn
có thể có cả tá dược như tá dược độn, pha loãng, tá dược hút, tá dược bao,...
Bột phân liều: là một loại thuốc dạng bột được chia thành các liều một lần dùng
để dễ dàng đo và sử dụng. Điều này giúp người dùng dễ dàng xác định liều lượng
Dựa vào cách chính xác của thuốc mà họ cần lấy.
phân liều
đóng gói Bột không phân liều: Khi được bào chế xong, thuốc được đóng gói toàn bộ
lượng thuốc trong dụng cụ thích hợp, bệnh nhân sẽ phải tự phân liều để dùng
thuốc.
Thuốc bột để uống: dạng bào chế phổ biến, thường được đóng gói trong hộp
hoặc lọ và có thể phân liều theo hình thức đóng kèm dụng cụ phân liều theo thể
Dựa theo tích, như thìa đo hoặc ống đo.
cách dùng Thuốc bột để dùng ngoài: dùng với mục đích xoa, rắc, đắp trên da lành hoặc da
bị tổn thương (thuốc bột dùng cho vết thương phải vô khuẩn). Thuốc bột dùng
ngoài thường phải là bột mịn hoặc rất mịn để tránh kích ứng.
Bột thô (2000/355): Là bột mà tất cả các tiểu phân qua được rây số 2000 và
nhiều nhất là 40% qua được rây số 355.
Bột nửa thô (710/250): Tất cả các tiểu phân qua được rây 710 và nhiều nhất là
Dựa vào kích 40% qua được rây số 355.
thước tiểu
Bột nửa mịn (355/180): Tất cả các tiểu phân qua được rây 355 và nhiều nhất là
phân
40% qua được rây số 180.
Bột mịn (180): Tất cả các tiểu phân qua được rây 180.
Bột rất mịn (125): Tất cả các tiểu phân qua được rây 125
Được sử dụng để pha loãng các dược chất độc hại hoặc có tác dụng
Tá dược
mạnh. Lactose thường được sử dụng trong trường hợp này. Tá dược này giúp tạo
độn hay
thành một hỗn hợp đồng nhất và đảm bảo sự phân tán đều đặn của các dược chất
pha loãng
trong bột thuốc.
Loại tá dược này thường được sử dụng trong các bột kép chứa chất lỏng, mềm hoặc
Tá dược chất hấp thụ nước. Ví dụ về các loại tá dược hút bao gồm calci carbonat, Magnesi
hút Carbonat và magnesi oxyd. Số lượng sử dụng phụ thuộc vào tỷ lệ của các chất lỏng,
mềm có trong công thức thuốc bột.
Tá dược Tá dược này được sử dụng để cách ly các dược chất tương kỵ trong các bột kép. Các
bao bột trơ như magnesi oxyd và magnesi carbonat thường được sử dụng làm tá dược
bao. Lượng sử dụng phụ thuộc vào các chất cần bao và tỷ lệ tương ứng.
Được sử dụng để kiểm tra sự phân tán đồng nhất của các dược chất trong khối bột,
Tá dược đặc biệt trong các bột kép chứa dược chất độc hại hoặc mạnh. Màu đỏ carmin thường
màu được sử dụng trong trường hợp này với tỷ lệ khác nhau so với dược chất cần kiểm
tra.
Loại tá dược này thường bao gồm bột thường, đường hoá học, các loại tinh dầu hoặc
Tá dược
các chất thơm tổng hợp. Chúng được sử dụng để cải thiện hương vị hoặc mùi của các
điều
dạng thuốc khác, để làm cho thuốc dễ dàng sử dụng hơn hoặc hấp dẫn hơn đối với
hương vị
người dùng
Viên nang cứng (hard capsules) hay thuốc viên nang cứng là loại viên nang có vỏ cứng và
không thể thay đổi hình dạng hoặc kích thước. Vỏ nang cứng thường được làm từ gelatin và có
khả năng giải phóng chất hoạt động bên trong một cách nhanh chóng. Vỏ nang cứng bao gồm hai
phần: thân nang và nắp nang khít vào nhau. Có tổng cộng tám kích thước nang cứng khác nhau,
với dung tích từ 0,13 ml đến 0,36 ml.
Tóm lại, nang mềm và nang cứng là hai loại viên nang phổ biến trong bào chế thuốc. Nang mềm
có vỏ linh hoạt và có thể chứa các chất lỏng và dầu, trong khi nang cứng có vỏ cứng và thường
chứa dược chất, tá dược dạng bột, pellet,...
3 Mục đích đóng thuốc vào nang
Có nhiều mục đích khi đóng thuốc vào nang, bao gồm:
1. Che giấu mùi, vị khó chịu của dược chất: Một số dược chất có mùi hương hoặc vị không
dễ chịu. Đóng thuốc vào nang giúp che giấu mùi, vị này, làm cho việc sử dụng thuốc dễ
chịu hơn. Ví dụ như nang dầu giun, Dầu Cá, Chloramphenicol, Tetracycline.
2. Bảo vệ dược chất: Vỏ nang giúp bảo vệ dược chất khỏi tác động bất lợi của môi trường
bên ngoài như độ ẩm, ánh sáng. Điều này giúp duy trì độ ổn định và hiệu quả của thuốc
trong suốt thời gian lưu trữ và sử dụng.
3. Hạn chế tương kỵ của dược chất: Một số dược chất có thể tương kỵ với nhau hoặc với
các thành phần khác trong một công thức. Đóng thuốc vào nang giúp tách riêng các dược
chất không tương kỵ, giúp duy trì tính ổn định và hiệu quả của thuốc.
4. Khu trú tác dụng của dược chất tại ruột: Một số nang được thiết kế để rã trong ruột, giúp
dược chất được khu trú tại vị trí cần thiết trong hệ tiêu hóa. Điều này giúp tránh phân huỷ
thuốc bởi dịch vị và đảm bảo hiệu quả hấp thu tối đa.
5. Kéo dài tác dụng của thuốc: Một số nang được thiết kế để giải phóng dược chất theo một
tốc độ kiểm soát, kéo dài thời gian tác dụng của thuốc. Các loại nang như nang tác dụng
kéo dài (Spansules) được sử dụng cho mục đích này.
4 Ưu nhược điểm của viên nang so với viên nén
Nước 70-75%
Thành phần vỏ nang Tỷ lệ
Glycerin 5-10%
Viên nang tinh bột là một phương pháp bào chế thuốc dạng viên, trong đó thành phần chính của
vỏ nang là tinh bột, nước và glycerin. Tinh bột thường là một hỗn hợp của tinh bột mì và tinh bột
ngô. Quá trình sản xuất vỏ nang tinh bột bao gồm kết hợp tinh bột với nước để tạo thành một
chất gel, sau đó thêm glycerin để làm vỏ nang mềm và bóng. Hỗn hợp này được nhào trộn để tạo
thành một khối dẻo nhất định. Khối dẻo được cán thành tấm mỏng giữa hai trục nóng (khoảng
70-80 độ C) để làm chín tinh bột, sau đó được sấy khô. Tấm tinh bột sau đó được đặt lên khuôn
và ép dưới áp lực lớn để tạo thành màng vỏ nang. Cuối cùng, vỏ nang được đột và loại bỏ tinh
bột thừa, chỉ giữ lại những viên nang không bị hỏng.
Viên nang tinh bột đã được sử dụng trong ngành dược từ lâu, đặc biệt là để đựng các loại bột
thuốc có tương kỵ. Việc đóng bột thuốc vào viên nang tinh bột có thể được thực hiện thủ công
hoặc bằng các thiết bị đóng nang. Viên nang tinh bột có thể chứa liều lượng thuốc bột từ 2-3g.
Tuy nhiên, viên nang tinh bột có một số nhược điểm như kích thước lớn và khó nuốt. Khi sử
dụng, người dùng phải giữ viên nang trong miệng để nang thấm ướt bằng nước bọt trước khi
nuốt. Do nhược điểm này và những hạn chế khác, viên nang tinh bột ít được sử dụng phổ biến
trong thực tế hiện nay.
7 Kỹ thuật bào chế viên nang mềm gelatin
7.1 Thành phần vỏ nang mềm
Vỏ nang mềm có thành phần chính gồm:
7.1.1 Gelatin (35-45 phần)
Đây là thành phần quan trọng để làm cho vỏ nang mềm. Gelatin được sử dụng phải đáp ứng các
yêu cầu về chất lượng như không chứa kim loại nặng, asen và không nhiễm vi khuẩn. Độ bền
gelatin cũng quan trọng để đảm bảo khả năng tạo màng của vỏ nang. Phương pháp điều chế sẽ
ảnh hưởng đến độ bền gelatin. Ví dụ, khi sử dụng phương pháp nhỏ giọt, không cần độ bền
gelatin quá cao như khi sử dụng phương pháp ép khuôn. Nếu độ bền gelatin quá cao, sẽ khó để
"cắt giọt" gelatin trong quá trình đóng nang, và khi đổ chất lỏng vào vỏ nang, có thể làm vỡ vỏ
nang. Ngược lại, nếu độ bền gelatin quá thấp, vỏ nang sẽ "cắt giọt" quá sớm, khiến chất thuốc
chưa được đưa vào vỏ nang.
Độ nhớt của dung dịch gelatin trong quá trình chế tạo vỏ nang thường ảnh hưởng đến độ cứng
của vỏ nang và các thông số trong quá trình sản xuất (đặc biệt là khi sử dụng phương pháp ép
khuôn). Nếu độ nhớt của gelatin thấp, vỏ nang tạo ra thường mỏng và kéo dài thời gian sấy khô.
Ngược lại, nếu độ nhớt quá cao, vỏ nang sẽ dày và cứng, và yêu cầu nhiệt độ đóng nang cao.
7.1.2 Chất hoá dẻo (15-20 phần)
Chất này được sử dụng để làm cho vỏ nang mềm có độ co giãn và dẻo dai. Glycerin thường được
sử dụng làm chất hoá dẻo chính, và có thể thêm các chất khác như Propylene glycol, Sorbitol,
methylcellulose để tăng độ co giãn của vỏ nang. Tỷ lệ chất hóa dẻo phụ thuộc vào thành phần và
tính chất của thuốc đóng nang. Nếu thuốc đóng nang có tính chất thân nước, tỷ lệ chất hoá dẻo
cao hơn so với thuốc đóng nang có tính chất thân dầu.
7.1.3 Nước
Chiếm một tỷ lệ từ 0,7-1,3 phần so với lượng gelatin tùy thuộc vào độ nhớt của gelatin. Chất
màu, chất bảo quản và các chất phụ khác được hoà tan trong nước để tạo dung dịch chế vỏ nang.
Gelatin được ngâm trương nở hoàn toàn trong dung dịch này. Sau đó, glycerin được đun nóng,
và hòa tan cùng với gelatin đã ngâm trương nở. Dung dịch này được lọc và giữ ở nhiệt độ cao để
sẵn sàng đóng nang.
Ngoài ra, có thể thêm chất màu theo nguyên tắc: màu nhạt cho khối thuốc dạng dung dịch, màu
sẫm cho khối thuốc dạng hỗn dịch, tạo cảm giác viên không quá lớn.
7.2 Công thức đóng nang mềm
Thuốc đóng nang mềm thường chứa các chất lỏng như dung dịch dầu, bột nhão, hỗn dịch và đôi
khi cũng có thể ở dạng nhũ tương.
Dung môi được sử dụng để bào chế thuốc đóng nang thường là dầu khoáng, dầu thực vật, và các
chất lỏng có thể hòa tan trong nước như PEG 400-600, polyglyceryl ester, triacetin, và nhiều
chất khác. Propylene glycol và glycerin cũng có thể được sử dụng, nhưng với nồng độ thấp (từ 5-
10%), để tránh làm mềm quá mức vỏ nang. pH của dung dịch đóng nang thường được điều chỉnh
trong khoảng từ 2,5-7,5. pH quá thấp sẽ làm cho gelatin bị phân hủy, trong khi pH quá cao sẽ
làm cho vỏ nang trở nên cứng.
7.3 Các phương pháp bào chế nang mềm
Có nhiều phương pháp được sử dụng để bào chế nang mềm.
Phương pháp nhúng khuôn đã được sử dụng từ những năm 1834 bởi Mothes, một sinh viên
người Pháp. Sau đó, vào năm 1840, phương pháp ép khuôn giữa hai tấm kim loại đã được phát
minh. Đến năm 1932, phương pháp này đã được cải tiến thành phương pháp ép giữa hai trục
quay.
7.3.1 Phương pháp nhúng khuôn
Phương pháp nhúng khuôn là một phương pháp đầu tiên được sử dụng để chế tạo vỏ nang mềm
ở quy mô nhỏ.
Quy trình:
Trong phương pháp này, các khuôn hình trái xoan được gắn trên một chuỗi để dễ dàng cầm.
Để tăng hiệu suất chế nang, nhiều khuôn trái xoan có thể được gắn trên một tấm kim loại. Dung
dịch vỏ nang được duy trì ở trạng thái lỏng, thường ở nhiệt độ khoảng 40-50°C. Khuôn được
nhúng vào dung dịch vỏ nang trong vài giây, sau đó được nhấc lên và quay tròn nhẹ nhàng để vỏ
nang bám đều vào khuôn. Quá trình nhúng có thể được lặp lại ba lần, cho đến khi vỏ nang đạt độ
dày yêu cầu.
Sau khi hoàn thành quá trình nhúng, vỏ nang được để nguội để ổn định, sau đó đầu nang (phía
tiếp xúc với cán) được cắt và vỏ nang được nhẹ nhàng kéo ra khỏi khuôn để tránh việc làm rách
miệng nang. Vỏ nang sau đó được làm khô bằng quạt gió, và khi đã khô, chúng được xếp vào giá
và thuốc được đóng vào vỏ nang bằng bơm tiêm, buret hoặc thiết bị tương tự. Sau khi đóng
thuốc, dùng dung dịch gelatin nóng để hàn kín vỏ nang.
Quá trình chế tạo vỏ nang và đóng thuốc bằng phương pháp nhúng khuôn là hai quá trình riêng
biệt.
Ưu điểm:
1. Quá trình nhúng khuôn đơn giản và dễ thực hiện, không đòi hỏi thiết bị đặc biệt.
2. Cho phép sản xuất vỏ nang mềm ở quy mô nhỏ,
3. Độ chính xác trong việc đóng vỏ nang khá cao, giúp đảm bảo sự đồng nhất về kích thước
và hình dạng của các viên nang.
4. Thích hợp cho việc đóng các loại dược chất có tác dụng mạnh như tinh dầu giun, Vitamin
A, D.
Nhược điểm:
1. Khả năng sản xuất hàng loạt lớn bị hạn chế do quá trình nhúng khuôn thực hiện theo
phương pháp thủ công, tốn thời gian và lao động.
2. Yêu cầu kỹ năng và kinh nghiệm của người thợ để đảm bảo chất lượng và hiệu suất sản
xuất.
3. Sai số về khối lượng nang có thể tương đối cao (khoảng 10-15%), ảnh hưởng đến độ
chính xác trong liều lượng thuốc.
4. Quá trình làm khô vỏ nang và đóng thuốc cần thời gian và công sức, tăng chi phí sản xuất
so với các phương pháp tự động hơn.
Tóm lại, phương pháp nhúng khuôn trong chế tạo vỏ nang mềm có những ưu điểm như đơn giản,
độ chính xác cao, và phù hợp cho các loại dược chất mạnh. Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm
như hạn chế về quy mô sản xuất, yêu cầu kỹ năng công nhân cao, và sai số khối lượng nang
tương đối cao.
7.3.2 Phương pháp nhỏ giọt
Quy trình
Phương pháp nhỏ giọt là một phương pháp sử dụng máy tạo nang để chế tạo vỏ nang mềm ở quy
mô nhỏ hoặc quy mô công nghiệp. Quá trình tạo vỏ nang và đóng thuốc xảy ra đồng thời.
Trong quá trình chế nang, trước tiên, dung dịch vỏ nang được duy trì ở nhiệt độ 60°C và được
đưa qua đầu nhỏ giọt để tạo ra một vỏ rỗng. Cửa ra của đầu nhỏ giọt dung dịch vỏ nang được
chặn bởi đầu chứa dung dịch dược chất. Nghĩa là dung dịch dược chất sẽ được đưa trực tiếp vào
vỏ nang thông qua đầu nhỏ giọt. Điều này làm cho nang "cắt giọt" và vỏ nang được đóng kín.
Sau đó, nang được đặt vào dầu parafin lạnh (khoảng 10°C) để đông rắn.
Sau khi nang đã đóng kín, chúng được chọn ra theo yêu cầu và được tản đều. Sau đó, nang được
làm lạnh bằng gió lạnh (dưới 10°C). Dầu parafin được rửa sạch bằng hỗn hợp dung môi như cồn
và aceton, sau đó nang được sấy ở nhiệt độ 40-45°C để bay hơi hết dung môi. Cuối cùng, kiểm
tra được tiến hành để loại bỏ những nang không đạt yêu cầu, chẳng hạn như nang bị dính, nang
có thành dày quá...
Ưu điểm
1. Tạo vỏ nang và đóng thuốc xảy ra đồng thời, giúp tiết kiệm thời gian sản xuất.
2. Dễ dàng điều chỉnh kích thước và hình dạng của vỏ nang theo yêu cầu.
3. Phù hợp cho chế tạo vỏ nang chứa các dung dịch dầu và các dược chất tan trong dầu.
4. Độ chính xác trong việc đóng vỏ nang cao hơn so với phương pháp nhúng khuôn, giúp
đảm bảo độ đồng nhất của các viên nang.
Nhược điểm
1. Sai số về khối lượng nang thường lớn, gây ảnh hưởng đến độ chính xác của liều lượng
thuốc.
2. Không phù hợp cho các dược chất có hoạt lực mạnh hoặc yêu cầu độ chính xác cao về
liều lượng.
3. Hiệu suất tạo nang không cao, tốn nhiều thời gian và công sức so với các phương pháp tự
động hơn.
4. Yêu cầu kỹ năng và kinh nghiệm của người thợ làm việc với máy tạo nang để đảm bảo
chất lượng và hiệu suất sản xuất.
Tóm lại, phương pháp nhỏ giọt trong chế tạo vỏ nang mềm có những ưu điểm như tiết kiệm thời
gian, dễ điều chỉnh kích thước và hình dạng, và phù hợp cho các dung dịch dầu. Tuy nhiên, nó
cũng có nhược điểm như sai số khối lượng lớn, không phù hợp cho các dược chất mạnh, hiệu
suất tạo nang thấp, và yêu cầu kỹ năng công nhân cao nên hiện nay ít được sử dụng.
7.3.3 Phương pháp ép khuôn
Quy trình
Phương pháp ép khuôn là một phương pháp chế tạo vỏ nang mềm bằng cách sử dụng máy ép
nang. Quá trình chế nang bắt đầu bằng việc rót dung dịch vỏ nang vào một lớp mỏng sang trống
đã được làm lạnh. Dung dịch gelatin trong vỏ nang đông cứng thành màng mỏng khi tiếp xúc với
lạnh. Màng gelatin được chuyển lên ống có dầu bôi trơn và đưa vào trục tạo nang đã được làm
nóng. Trục tạo nang bao gồm hai ống trụ quay ngược chiều, mỗi ống có một nửa khuôn vỏ nang
đối xứng.
Khi hai nửa khuôn vỏ nang tiếp xúc với nhau, đáy nang được hàn kín và dược chất được đóng
vào nang bằng một piston phân phối. Sau đó, hai ống khuôn tiếp tục quay để nang được hàn kín
và tách ra khỏi màng gelatin.
Phương pháp ép khuôn có hiệu suất cao và cho phép phân liều chính xác nhờ sử dụng bơm
piston phân phối tự động với sai số khối lượng nang thấp (khoảng từ 1-5%). Phương pháp này
cũng cho phép tạo ra nhiều loại nang với hình dạng và màu sắc khác nhau tùy thuộc vào hình
dạng khuôn và chất màu tùy chọn. Đặc biệt, có thể tạo ra nang có hai màu khác nhau trên cùng
một nang bằng cách sử dụng hai giải gelatin được nhuộm màu.
Nang ép khuôn có thể dễ dàng phân biệt với nang nhỏ giọt hoặc nang nhúng khuôn bởi vì trên
thân nang có một gờ nhỏ. Nang ép khuôn cũng có khả năng chứa nhiều loại dược chất, bao gồm
cả dung dịch dầu, bột nhão thân dầu và bột nhão thân nước. Vì vậy, phương pháp này đang được
phát triển mạnh mẽ trong ngành công nghiệp sản xuất vỏ nang mềm.
Ưu điểm
1. Hiệu suất cao: Phương pháp này cho phép sản xuất nhiều viên nang trong một khoảng
thời gian ngắn, tăng năng suất sản xuất.
2. Phân liều chính xác: Sử dụng piston phân phối tự động giúp đảm bảo sự chính xác trong
việc đóng liều lượng dược chất vào nang.
3. Đa dạng hóa hình dạng và màu sắc: Phương pháp này cho phép tạo ra các viên nang với
hình dạng và màu sắc đa dạng, tạo sự lựa chọn và hấp dẫn cho người dùng.
4. Khả năng chứa nhiều loại dược chất: Nang ép khuôn có thể chứa nhiều loại dược chất
khác nhau, bao gồm cả dung dịch dầu và bột nhão thân dầu.
Nhược điểm
1. Sai số khối lượng nang: Mặc dù phương pháp này có độ chính xác cao, nhưng vẫn có thể
xảy ra sai số về khối lượng nang (khoảng 1-5%), có thể ảnh hưởng đến liều lượng thuốc
và hiệu quả của liệu pháp.
2. Đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao: Quá trình ép khuôn và điều chỉnh máy ép nang đòi
hỏi kỹ năng và kinh nghiệm của người thợ để đảm bảo chất lượng và hiệu suất sản xuất.
3. Chi phí đầu tư ban đầu cao: Máy ép nang và khuôn ép khuôn đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn,
điều này có thể là một rào cản cho các doanh nghiệp nhỏ muốn tham gia vào ngành sản
xuất vỏ nang mềm.
Tóm lại, phương pháp ép khuôn trong chế tạo vỏ nang mềm có những ưu điểm như hiệu suất
cao, phân liều chính xác, đa dạng hóa hình dạng và màu sắc, và khả năng chứa nhiều loại dược
chất. Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm như sai số khối lượng nang, yêu cầu công nghệ và kỹ
thuật cao và chi phí đầu tư ban đầu cao.
8 Kỹ thuật bào chế nang cứng gelatin
Chế tạo vỏ nang
Kỹ thuật chế tạo vỏ nang cứng gelatin bao gồm các bước sau:
1) Chuẩn bị thành phần: Vỏ nang cứng gelatin được chế tạo từ các thành phần chính bao gồm
gelatin, chất màu và chất cản quang (titan dioxide), chất bảo quản (các paraben) và nước (hàm
lượng nước 30-40%). Gelatin được chọn là loại có độ bền gel cao và độ nhớt phù hợp (150-280g
(dung dịch 6,66% với 10°C); độ nhớt 30-60 mps (dung dịch 6,66% ở 60°C)).
2) Hoà tan gelatin: Gelatin được ngâm trong nước để trương nở, sau đó đun nóng để hoà tan
gelatin và các chất phụ khác. Quá trình này diễn ra trong một môi trường nhiệt độ ổn định
(khoảng 50 độ C).
3) Lọc và chuẩn bị khuôn: Sau khi hoà tan, dung dịch gelatin được lọc để loại bỏ tạp chất. Khuôn
được sử dụng là những que thép không gỉ hình trụ có đường kính phù hợp với kích thước nang.
Khuôn được bôi trơn bằng dầu thực vật hoặc dầu parafin và được giữ ở nhiệt độ thích hợp
khoảng 22 độ C.
4) Nhúng khuôn: Khuôn được nhúng vào dung dịch gelatin trong một khoảng thời gian ngắn,
thường khoảng 10 giây. Khi nhấc khuôn lên, gelatin sẽ bám đều lên khuôn do quá trình quay từ
từ.
5) Sấy và tách vỏ nang: Khuôn được đưa vào một vùng sấy với nhiệt độ khoảng 30-35°C để
gelatin khô và cứng lại. Sau đó, vỏ nang được tháo ra khỏi khuôn và cắt thành kích thước quy
định. Có thể in chữ và lắp nắp với đáy nang. Cuối cùng, vỏ nang được đóng gói. Thông thường,
quá trình chế tạo vỏ nang được thực hiện tự động trên một thiết bị liên hoàn để tăng hiệu suất sản
xuất.
Quá trình trên giúp tạo ra các vỏ nang cứng gelatin chất lượng và đồng nhất, phục vụ cho việc
đóng gói các dược phẩm và thực phẩm có yêu cầu đặc biệt.
8.1 Đóng thuốc vào nang
8.1.1 Lựa chọn cỡ nang
Bột thuốc, cốm thuốc, pellet, bột nhão, viên nén… là các dạng bào chế có thể đóng vào nang.
Để đóng thuốc vào nang, có một số bước cần thực hiện. Trước tiên, cần chọn kích thước nang
phù hợp với lượng thuốc cần đóng. Công thức để xác định kích thước nang là:
Khối lượng thuốc đóng vào nang = Dung tích nang x Tỷ trọng biểu kiến.
Cách đơn giản nhất để xác định tỷ trọng biểu kiến là cân một lượng bột nhất định và đổ vào ống
đong. Sau đó, gõ nhẹ để bột được nén chặt đến khi không có sự thay đổi thể tích. Sau đó, ta tính
tỷ trọng biểu kiến bằng công thức dbk = m/v.
Sau khi biết tỷ trọng biểu kiến, chúng ta có thể chọn kích thước nang dựa trên biểu đồ hoặc tính
toán dung tích biểu kiến của chất đóng nang: Vbk = m/dbk, sau đó chọn kích thước nang phù hợp.
Ví dụ, để đóng 200mg bột thuốc có tỷ trọng là 0,5g/ml, ta tính được dung tích của bột thuốc này
là:
Vbk = 0,2 / 0,5 = 0,4 (ml)
So sánh với bảng Các cỡ và dung tích của nang cứng
Cỡ nang 5 4 3 2 1 0 00 000
Dung tích nang (ml) 0,13 0,20 0,27 0,37 0,48 0,67 0,95 1,36
Dung tích 0,4ml này gần với nang số 1 (có dung tích 0,48ml). Vậy ta chọn nang số 1. Lượng tá
dược cần thêm vào để đóng đầy nang là 0,48 - 0,4 = 0,08ml. Sau đó, ta chọn tá dược độn và xác
định tỷ trọng của nó để tính toán lượng tá dược cần thêm (Ví dụ cụ thể được trình bày tại mục
Phân tích công thức viên nang cứng Cloramphenicol).
8.1.2 Quy trình đóng thuốc vào nang
Quy trình đóng thuốc vào nang bao gồm ba giai đoạn chính: mở vỏ nang, đóng thuốc vào thân
nang và đóng nắp nang.
1) Mở vỏ nang: Việc mở vỏ nang có thể được thực hiện bằng tay trong thiết bị thủ công hoặc sử
dụng chân không trong các thiết bị tự động hoặc bán tự động. Vỏ nang được lắp ghép bằng một
khớp tạm thời, vì vậy việc sử dụng chân không có thể mở ra được. Sau khi mở, phần nắp và phần
thân của nang được tách riêng nhau. Phần thân nang được đặt trên bàn đóng nang hoặc trên mâm
quay của thiết bị đóng nang.
2) Đóng thuốc vào thân nang: Trong quá trình đóng nang bằng tay, bột thuốc được đổ lên bàn
đóng nang và sau đó dùng công cụ để đẩy bột vào thân nang. Trong công nghiệp, có nhiều
phương pháp khác nhau để đóng thuốc vào nang, tùy thuộc vào loại thiết bị đóng nang được sử
dụng. Có thể chia thành hai phương pháp chính: phương pháp đóng theo thể tích và phương pháp
phân liều bằng piston.
Phương pháp đóng theo thể tích: Bột thuốc được phân phối thông qua một phễu trong khi
phía dưới có mâm quay chứa thân nang. Bột chảy qua phễu với một tốc độ không đổi, và
lượng bột đóng vào nang phụ thuộc vào tốc độ quay của mâm. Nếu mâm quay nhanh, lượng
bột đóng vào nang sẽ giảm và ngược lại. Trong phương pháp này, bột thuốc cần có khả năng
chảy tốt để đảm bảo sự đồng nhất về khối lượng của các nang.
Phương pháp đóng bằng piston: Trong phương pháp này, thuốc được phân phối vào nang
thông qua một piston phân liều. Khi piston được đặt vào thùng bột, nó sẽ nén bột thành một
"thỏi" nhỏ rồi đẩy vào thân nang. Lượng bột đóng vào nang được tính toán dựa trên áp lực
nén của piston, thể tích buồng piston và khả năng chịu nén của bột. Ngoài ra, cần thêm tá
dược trơn để đảm bảo "thỏi" bột có thể dễ dàng bị đẩy ra từ piston và rơi vào nang.
3) Đóng nắp nang: Sau khi đóng thuốc vào thân nang, nắp nang được đóng vào thân nang bằng
khớp chính. Có thể sử dụng áp lực không khí để đóng nắp nang (quy mô công nghiệp). Sau khi
đóng nắp, nang được làm sạch bột, đánh bóng và tiến hành đóng gói.
9 Sinh khả dụng của nang thuốc
Sinh khả dụng của nang thuốc phụ thuộc vào cách vỏ nang rã trong dạ dày. Vỏ nang chủ yếu là
gelatin, nên nhanh chóng tan trong dịch vị sau khi uống, thường là thủng ở hai đầu nang. Quá
trình này diễn ra trong khoảng 1-5 phút sau khi uống nang. pH acid của dịch vị càng thấp, vỏ
nang tan càng nhanh. Nang thuốc lâu ngày có thể dẫn đến lão hoá của vỏ nang, làm cho thời gian
tan của nang kéo dài hơn so với nang mới điều chế.
9.1 Sinh khả dụng của nang cứng
Nang cứng chủ yếu chứa bột hoặc hạt thuốc, do đó sinh khả dụng phụ thuộc vào kích thước tiểu
phân hạt của dược chất, đặc biệt là các dược chất ít tan trong nước. Giảm kích thước hạt thường
làm tăng tốc độ hoà tan, do tăng diện tích bề mặt tiếp xúc giữa dược chất và dịch tiêu hóa. Tuy
nhiên, nếu bột được chia nhỏ quá mức, có thể dẫn đến sự kết tụ lại và làm cho khối bột khó hoà
tan trong nước.
Các tá dược độn có khối lượng lớn có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thấm của khối bột trong
chất hoà tan. Các tá dược độn thân nước như tinh bột biến tính, lactose... có thể cải thiện tính
thấm của dược chất trong trường hợp dược chất tan trong nước. Ngược lại, với các dược chất dễ
tan, các tá dược ít tan như calci phosphat có tác dụng điều chỉnh quá trình hoà tan và hấp thụ
dược chất. Ví dụ, việc sử dụng tá dược độn lactose khi đóng nang Phenytoin có thể tăng nồng độ
trong huyết tương cao hơn 4-5 lần so với việc sử dụng tá dược độn calci phosphat.
Các tá dược trơn được sử dụng để cải thiện tính trơn của khối bột cũng ảnh hưởng đến khả năng
thấm nước của khối bột, vì hầu hết các tá dược trơn đều thân nước.
Độ xốp của khối bột do sử dụng các máy đóng nang với mức độ nén khác nhau cũng ảnh hưởng
đến sinh khả dụng của nang thuốc. Thường người ta sử dụng các chất gây thấm, chất diện hoạt
với tỷ lệ 0,1-0,5% để khắc phục vấn đề này.
9.2 Sinh khả dụng của nang mềm
Nang mềm chứa các dược chất tan hoặc phân tán trong dung môi thân nước như PEG, PG do đó,
dược chất dễ trộn trong dịch vị, dễ giải phóng và hoà tan.
Nếu dược chất tan trong môi trường acid, sinh khả dụng sẽ cao do dược chất hoà tan ngay tại
môi trường acid của dịch vị. Nếu dược chất không tan trong môi trường acid, ban đầu nó sẽ tạo
thành tủa dạng hỗn hợp mịn trong dạ dày,và sau đó phân tán và hoà tan trong dịch vị.
Các chất dẫn thân nước trong nang mềm thường là các chất polyme như PEG (polyethylene
glycol). Chất dẫn thân nước này có khả năng hấp thụ nước và tạo thành gel trong dạ dày, giúp
duy trì sự phân tán và hoà tan của dược chất trong dạ dày.
Nếu dược chất là dung dịch dầu và được hoà tan hoặc phân tán trong dầu dưới dạng nhũ tương,
việc hấp thu một phần có thể xảy ra trực tiếp qua hệ bạnh huyết trong ống tiêu hóa. Tuy nhiên,
phần lớn dược chất cần thời gian để chuyển từ dạng dầu sang dạng nước trong quá trình tiêu hoá.
Thời gian này phụ thuộc vào độ nhớt của dầu, chất nhũ hoá hoặc chất gây thấm trong công thức,
men và muối có trong dịch vị và dịch ruột. Nhìn chung, diện tích tiếp xúc giữa hai pha là lớn nên
quá trình hoà tan diễn ra nhanh, do đó nang mềm thường có hiệu quả hấp thu cao.
Tuy nhiên, sinh khả dụng của nang thuốc không chỉ phụ thuộc vào loại nang mà còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác như tính chất của dược chất, dạng bào chế, tình trạng dạ dày của mỗi
người.