Professional Documents
Culture Documents
Dinh Duong
Dinh Duong
II. Nguyên nhân, các tác động, yếu tố làm cho trẻ biếng ăn.
Có rất nhiều lý do khiến trẻ bị biếng ăn. Tình trạng này nếu
kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của trẻ. Vậy
trẻ biếng ăn phải làm sao, cách trị trẻ biếng ăn thế nào để giúp tre
ăn ngon miệng, phát triển toàn diện là mối quan tâm của nhiều
bố mẹ. Biếng ăn thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 6 tuổi. Khi bé biếng
ăn, mỗi bữa ăn của trẻ và bố mẹ thường được ví như “cuộc
chiến”. Bởi trẻ ngậm hoặc không nhai và nuốt hoặc phun thức ăn
khi được cho ăn, mỗi bữa ăn kéo dài trên 30 phút,… Lượng thức
ăn con ăn vào không đủ khiến bố mẹ lo lắng đến sự phát triển và
sức khỏe của trẻ. Chuyên gia dinh dưỡng cho biết để có thể cải
thiện triệt để tình trạng biếng ăn ở trẻ, trước tiên bố mẹ cần hiểu
các dấu hiệu và nguyên nhân nào khiến trẻ biếng ăn từ đó mới
đưa ra giải pháp cụ thể, rõ ràng.
1. Trẻ biếng ăn do bệnh lý:
– Trẻ biếng ăn ngay từ khi ở trong bụng mẹ. Khi mẹ mang
thai ăn ít hoặc chán ăn dẫn đến thiếu nhiều vi chất như thiếu sắt,
thiếu canxi, thiếu kẽm, thiếu các vitamin… khiến trẻ bị suy dinh
dưỡng ngay từ trong bụng mẹ. Kết quả, trẻ sinh non tháng, thiếu
cân dẫn đến lười bú mẹ ngay từ những tháng đầu sau khi sinh.
Suy dinh
Nhẹ Vừa Nặng
dưỡng
BT (28 –
Chiều cao ↓ ↓↓
50cm)
BT (34 –
Vòng đầu Bình thường ↓
35cm)
2 . Hậu quả trên từng chức năng , hệ thống khác nhau của
cơ thể
-Trẻ ăn không đủ chất dinh dưỡng
Nghiên cứu của Dubois và cộng sự cho thấy những trẻ
biếng ăn có khẩu phần ăn thấp hơn nhóm chứng về năng lượng ,
chất béo , protein và tỷ lệ nhẹ cân cao gấp hai lần nhóm chứng
[35]. Một nghiên cứu đã cho thấy nhóm trẻ biếng ăn đã không
đáp ứng đủ nhu cầu khuyến nghị về acid folic , vitamin E và
vitamin D [26]. Yong - Xue và cộng sự cũng đã khám phá ra
rằng trẻ biếng ăn có hàm lượng Sắt , Kẽm trong máu thấp hơn so
với trẻ không biếng ăn [14].
-Chậm phát triển thể chất
Biếng ăn gây nên thể trạng còi cọc , thấp bé , không tăng
cân , sụt cân 3 năm đầu đời , có nguy cơ nhẹ cần gấp 3 lần so với
trẻ ăn uống tốt [17], [25]. Yong Xue và cộng sự khám phá ra
rằng biếng ăn kéo dài trên 2 năm có liên quan với cân nặng theo
tuổi thấp hơn chuẩn [14]. Một nghiên cứu khác cho thấy trẻ
biếng ăn có Chỉ số khối cơ thể ( BMI ) thấp hơn so với những trẻ
không biếng ăn [32]. Một đứa bé tuổi tiền học đường với thói
quen ăn uống không lành mạnh có từ sớm như biếng ăn có thể
chậm phát triển ; tuy nhiên vẫn chưa có kết luận rõ ràng về
khoảng thời gian của những thói quen này
kéo dài trong bao lâu mới có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển ở giới trẻ mà chúng ta có thể nhận thấy được [14].
-Chậm phát triển tâm thần vận động
Nghiên cứu Chatoor [36] cho những trẻ ăn cắp vặt có điểm
Phát triển tâm thần (MDI) thấp hơn đáng kể so với bình thường,
đặc biệt trẻ ác cảm với thức ăn có điểm số MDI thấp hơn 14
điểm. Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy có sự liên kết giữa
ăn với kết quả học tập kém [34], [36].
-Rối loạn về nội tiết và chuyển hóa
Giảm tốc độ chuyển hóa của cơ thể, hạ thân nhiệt, tụt huyết
áp, mất nước, rối loạn thăng bằng điện giải, tóc thưa, giảm bạch
cầu, xương, gan nhiễm mỡ. ... nếu tình trạng ăn kiêng kéo dài
đến trầm trọng [17].
Ngoài ra, tình trạng biếng ăn ở trẻ không chỉ ảnh hưởng đến
bản thân đứa trẻ mà còn căng thẳng và lo lắng cho bố, mẹ, người
chăm sóc và các thành viên khác trong gia đình [37]. D. Goh và
A. Jacol (2012) để kết luận tình trạng ăn uống khó khăn và ăn
uống ở trẻ có liên quan đến căng thẳng của người thiết kế khi cho
trẻ ăn và có tác động tiêu cực đến các mối quan hệ trong gia đình
[12]. Một nghiên cứu khác cũng thấy có liên quan giữa những
vấn đề về việc ăn uống ở trẻ với cảm giác xúc động và đau lòng
của người mẹ [38].
KIẾN NGHỊ
1. Cần phải có những biện pháp kịp thời nhằm giảm thiểu các
yếu tố gây nên tình trạng biếng ăn hiện đang rất phổ biến ở trẻ,
thực hiện phối hợp nhiều biện pháp như:
− Đối với các bậc phụ huynh và người chăm sóc trẻ: ăn uống
đủ chất và sinh hoạt hợp lý trong thời gian trước và trong khi
mang thai; hạn chế la mắng và ép trẻ ăn; khuyến khích cho trẻ
ngồi ăn cùnggia đình và tạo bầu không khí thoải mái, vui vẻ
trong bữa ăn; không làm phân tâm trẻ khi cho ăn.
− Đối với y tế và các tổ chức khác: tuyên truyền kiến thức và
kỹ năng cho trẻ ăn tại gia đình cho các phụ huynh và người chăm
sóc trẻ; phối hợp với các bà mẹ và người chăm sóc trẻ giúp phát
hiện sớm tình trạng biếng ăn và có giải pháp kịp thời.
2. Cần triển khai các nghiên cứu chuyên sâu trên diện rộng
nhằm mô tả thực trạng biếng ăn ở trẻ em nước ta và xây dựng
một tiêu chuẩn chẩn đoán biếng ăn thống nhất và khoa học.