Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

Tác giả

Tác giả Sếch-xpia


1. Tiểu sử
- Uy-li-am Sếch-xpia (1564 – 1616) sinh ra tại Stratford-upon-Avon nước
Anh
- Năm 1578 gia đình sa sút, ông buộc phải thôi học.
- Năm 1585 ông lên Luân Đôn kiếm sống và bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật.
- Năm 1612 ông rời Luân Đôn về quê sinh sống.
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính
U. Sếch-xpia viết hơn 40 vở kịch, tất cả đều dưới dạng thơ, và được chia
thành ba loại:
- Hài kịch: “Giông tố”, “As you like it”, “Cardenio”, ...
- Bi kịch: “Hamlet”, “Othello”, “King Lear”, “ Romeo and Juliet”,...
- Kịch lịch sử: “King John”, “Henry V”, “Richard II”, ....
b. Phong cách nghệ thuật
Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của tự do, của lòng
nhân ái bao la và của niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và khả
năng vươn dậy để khẳng định cuộc sống con người.
3. Vị trí và tầm ảnh hưởng
- Cống hiến của U. Sếch-xpia in đậm dấu ấn lên kịch nghệ và văn chương
các thế hệ sau.
+ Ông đã phát triển kịch nghệ cả về xây dựng nhân vật, cốt truyện, ngôn
ngữ và thể loại.
+ Vở “Rô-mê-ô và Giu-li-ét” đã đánh dấu việc lãng mạn được xem là đề tài
giá trị đối với bi kịch.
+ Độc thoại đã từng được sử dụng chủ yếu để truyền đạt thông tin về
nhân vật và sự kiện nhưng Sếch-xpia đã sử dụng nó để khám phá tâm trí
nhân vật.
- Tác phẩm của Sếch-xpia ảnh hưởng sâu sắc tới thi ca thế hệ sau. Rõ
ràng, ông vĩ đại hơn hẳn các nhà viết kịch lớn của Pháp trước thời ông như
Racine hay Molière.
- Những nhà thơ trường phái lãng mạn đã nỗ lực để làm sống lại kịch thơ
Sếch-xpia.
Tác phẩm
Tác phẩm Sống hay không sống, đó là vấn đề
1. Tìm hiểu chung
a. Hoàn cảnh sáng tác
Bi kịch Hamlet là vở kịch nổi tiếng được Shakespeare sáng tác vào những
năm 1601, và đoạn trích Sống hay không sống? Đó là vấn đề là một đoạn
trích nổi tiếng lấy trong vở kịch đó.
b. Vị trí của đoạn trích
Đoạn trích Sống hay không sống? Đó là vấn đề thuộc Hồi thứ III trong vở
kịch Hamlet. Nội dung chính của đoạn trích cũng chính là nói lên nhân vật
có sức chịu đựng hay không để vùng lên phá tan nhà ngục để mang lại sự
tự do cho con người.
c. Thể loại: bi kịch, đặc trưng bởi sự trầm buồn, đau khổ và sự suy tưởng
sâu sắc về cuộc sống và cái chết.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Giá trị nội dung
Đoạn trích Sống hay không sống? Đó là vấn đề được tác giả thể hiện không
chỉ nêu lên tư tưởng, chủ đề của tác phẩm mà con nêu lên những suy
ngẫm về bản tính của con người, những trăn trở, lo âu của con người trong
cuộc sống đầy gian nan, vất vả, những rủi ro vẫn đang thường trực xảy ra.
b. Giá trị nghệ thuật
Nhờ tài năng của Shakespeare mà các tác phẩm của ông đã để lại những
ấn tượng nhờ tài năng xây dựng nhân vật trong tác phẩm kịch độc đáo,
tinh tế, các tình huống kịch hấp dẫn gây nên những ấn tượng sâu sắc trong
tâm trí người tiếp nhận, các tác phẩm kịch của ông sẽ còn mãi trong hiện
tại và tương lai.
c. Phương thức biểu đạt

Văn bản Sống, hay không sống - đó là vấn đề có phương thức biểu đạt chính
là tự sự kết hợp với biểu cảm.

+ Phương thức tự sự trong câu thoại cho phép Hăm-lét diễn tả ý kiến cá nhân
và suy nghĩ riêng của mình. Ông đặt vấn đề và thể hiện sự phân vân, lo lắng
và sự mâu thuẫn trong suy nghĩ của mình về cuộc sống và cái chết. Tự sự
giúp tạo ra một tầm nhìn sâu sắc và chân thực về suy nghĩ và cảm xúc của
nhân vật chính.

+ Ngoài ra, biểu cảm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt câu
thoại này. Cách diễn xuất và biểu cảm của diễn viên khi thể hiện câu thoại
"Sống, hay không sống - đó là vấn đề" có thể mang đến sự sâu sắc, trăn trở
và sự đau khổ của Hăm-lét. Biểu cảm giúp truyền đạt một cách tường minh
hơn về tâm trạng và tư duy của nhân vật, góp phần làm nổi bật câu thoại và
tạo nên hiệu ứng tâm lý mạnh mẽ cho khán giả.

d. Tóm tắt văn bản Sống, hay không sống - đó là vấn đề

Đoạn trích "Sống hay không sống - đó là vấn đề" thuộc Hồi thứ III của vở kịch
"Hamlet" tập trung vào nội tâm và sự xung đột của nhân vật chính, Hamlet.
Trong đoạn này, Hamlet đang trăn trở về cuộc sống và ý nghĩa của nó trong
bối cảnh những khó khăn và mâu thuẫn mà anh đang đối mặt. Trước đó,
Hamlet đã bắt đầu nghi ngờ về cái chết của cha mình và có suy đoán rằng
Claudiut, chú ruột của anh và nhà vua mới, có liên quan đến cái chết đó. Để
tìm ra sư thật, Hamlet quyết định giả điên và hành động lạ lùng. Nhà vua và
Polonius, cha của Ophelia và cũng là người yêu của Hamlet, đã sử dụng
Ophelia để nghe trộm cuộc trò chuyện giữa Hamlet và cô. Trong cuộc trò
chuyện đó, Hamlet nói những lời tàn nhẫn và cố tình làm Ophelia xa lánh
mình. Trong tâm trí của Hamlet, có sự xung đột và đau đớn. Anh băn khoăn
về ý nghĩa của cuộc sống và liệu mình nên tiếp tục sống hay không. Câu hỏi
"Sống hay không sống - đó là vấn đề" thể hiện sự đau khổ và sự đắn đo của
Hamlet về cuộc sống và khả năng chịu đựng của con người trong những hoàn
cảnh khó khăn.

e. Bố cục văn bản Sống, hay không sống - đó là vấn đề

Gồm 2 phần:

Phần 1: Từ đầu đến "Ôi, gánh nặng của tội ác": Trong phần này, nhà vua nghi
ngờ về tình tình của Hamlet và quyết định tiến hành sự dò la để tìm hiểu sự
thật. Nhà vua cùng với Polonius, cha của Ophelia, người yêu của Hamlet, nghe
trộm cuộc trò chuyện giữa Hamlet và Ophelia. → Mục tiêu của họ là tìm ra
bằng chứng về tình cảm và tình hình tâm lý của Hamlet.

Phần 2: Còn lại

Phần này tập trung vào cuộc trò chuyện giữa Hamlet và Ophelia. Trong cuộc
trò chuyện này, Hamlet bày tỏ xung đột nội tâm và băn khoăn về cuộc sống.
Phần này kết thúc thể hiện sự trăn trở và tâm lý phức tạp của Hamlet về ý
nghĩa của cuộc sống và khả năng chịu đựng của con người trong những hoàn
cảnh khó khăn.

Câu hỏi (trang 126, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Theo bạn, việc ý thức về tình trạng bi đát của hoàn cảnh có khi nào ngăn
trở con người hành động quyết đoán trong cuộc đời?

Theo em, việc ý thức về tình trạng bi đát của hoàn cảnh vừa có thể ngăn
trở, lại vừa là động lực cho con người hành động quyết đoán. Bởi sự khốn
khổ của hoàn cảnh không phải khi nào cũng khiến con người bị ủy mị, chán
nản mà đôi khi, nó chính là nguồn động lực chính giúp con người vượt qua
hoàn cảnh, tự giải thoát cho chính bản thân mình.

Câu 1 (trang 127, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Lời thoại của các nhân vật trước khi Hăm-lét xuất hiện cho thấy điều gì về
bầu không khí xã hội bao quanh chàng?

Lời thoại của các nhân vật trước khi Hăm-lét xuất hiện cho thấy bầu không
khí xã hội bao quanh chàng đều bị kiểm soát, mọi người đều đang theo
dõi, để ý đến từng hành động của chàng, thăm dò xem chàng đang bị điên
thật hay giả vờ điên. Bởi vậy, không khí xung quanh chàng rất căng thẳng
bởi biết bao ánh mắt đều đang dõi theo từng hành động của chàng.

Câu 2 (trang 129, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Sự xung đột với cả thời đại đã để lại dấu ấn như thế nào trong nội tâm
Hăm – lét?

Sự xung đột với cả thời đại đã để in hằn trong nội tâm của Hăm – lét.
Chàng mang trong mình một trái tim tổn thương, một tâm hồn nguội lạnh
với trách nhiệm to lớn phải đem cái tốt, cái đẹp cùng những âm mưu đen
tối ra ngoài ánh sáng. Bởi vậy những lời nói của chàng thốt ra không chỉ ẩn
chứa sự thê lương, bi đát mà ẩn sâu trong đó là một ý chí mãnh liệt muốn
vượt qua bể khổ, kiếm tìm cuộc sống công lý.

Câu 3 (trang 129, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Chú ý sự khác biệt giữa lời Hăm – lét nói với Ô-phê-li-a trong độc thoại và
đối thoại.
* Sự khác biệt giữa lời Hăm – lét nói với Ô-phê-li-a trong độc thoại và đối
thoại
- Lời nói của Ô-phê-li-a chứa đầy sự quan tâm, lo lắng dành cho chàng
- Lời nói của Hăm – lét chứa đựng sự ghét bỏ, thờ ơ và thi thoảng có phần
cay nghiệt khiến nàng phần nào bị tổn thương sâu sắc.

Lời nói của Hăm-lét với Ô-phê-li-a trong độc thoại và đối thoại có sự đối lập
với nhau.

- Lời độc thoại cho thấy trong tâm trí của Hăm-lét đang có những suy nghĩ,
đấu tranh giữa việc sống và chết; phân vân bản thân nên “chịu đựng tất cả
những viên đá, những mũi tên của số mệnh phũ phàng, hay là cầm vũ khí
vùng lên mà chống lại với sóng gió của biển khổ”.

- Lời đối thoại, Hăm-lét đã dùng nhiều lý lẽ để che mắt những kẻ đang theo
dõi chàng: Hăm-lét đã đặt ra nhiều câu hỏi, phản bác với lời nói của Ô-phê-
li-a để những kẻ đang theo dõi không tin vào lời lẽ của nàng nữa, từ đó
che mắt những kẻ đang theo dõi.

Câu 4 (trang 130, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Chú ý việc thể hiện ý thức của Hăm-lét về mối quan hệ giữa nhan sắc và
đức hạnh trong thời đại đảo điên.

Chàng tự ý thức được trong thời đại đảo điên, cái gọi là nhan sắc và đức
hạnh của người phụ nữ cũng dần biến mất, họ cũng mang theo trong mình
những toan tính riêng khiến bản chất ban đầu của 2 khái niệm đó bị lu mờ.
Ngay cả Ô-phê-li-a của hiện tại cũng vậy, nàng cũng chỉ đang dò la về thái
độ của Hăm – lét cho nhà Vua và Hoàng hậu, chứ sự thật cũng không có ý
gì tốt đẹp ở đây. Nhan sắc thì như vậy, nhưng đức hạnh thì đã thay đổi
như chính tấm lòng của con người vì những toan tính cá nhân hay nghịch
cảnh chi phối, mọi thứ đều có thể thay đổi.

Câu 1 (trang 131, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Xác định ý nghĩa lời thoại của các nhân vật trước khi Hăm-lét xuất hiện.

Lời đối thoại của các nhân vật trước khi Hăm – lét xuất hiện đã thể hiện rõ
thái độ của các nhân vật đối với nhân vật Hăm-lét. Tất cả đều đang nghi
ngờ rằng rốt cuộc là Hăm-lét giả vờ ngốc hay ngốc thật, họ đều đang chờ
đợi cơ hội để thủ tiêu chàng. Qua đó, ta thấy được sự độc ác, toan tính
thâm độc của các nhân vật.
Câu 2 (trang 131, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Nêu nhận xét chung về tâm trạng của Hăm-lét thể hiện qua lời độc thoại.
Theo mạch suy tưởng của Hăm-lét, lời độc thoại có thể chia làm mấy phần,
nội dung từng phần là gì?

- Nhận xét: tâm trạng của Hăm-lét dường như rất hỗn loạn. Chàng không
biết mình nên đưa ra lựa chọn nào mới là tốt nhất, chính xác nhất.
- Theo mạch suy tưởng của Hăm-lét, lời độc thoại có thể chia ra làm 3
phần:
+ Phần 1: Từ “Sống, hay không sống-đó là vấn đề… quý hơn?”
→ Đặt ra lời mở đầu cho màn độc thoại bằng một câu hỏi tu từ
+ Phần 2: Tiếp… chưa hề biết tới?
→ Định nghĩa khái niệm cái chết và những suy ngẫm về cuộc đời của Hăm-
lét
+ Phần 3: còn lại
→ Lời kết thể hiện rõ nội tâm đang giằng xé, đấu tranh kịch liệt của Hăm-
lét trong hoàn cảnh éo le của chính mình.

Câu 3 (trang 131, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Có thể xác định cách hiểu của Hăm-lét về “sống” và “không sống” như thế
nào?

Theo cách hiểu của Hăm-lét, “sống” và “không sống” là 2 khái niệm trừu
tượng. Đó là chấp nhận, chịu đựng tất cả những sự khổ đau, bất hạnh mà
người khác ban lại, hay là chúng ta đấu tranh lại nó và kéo theo bao đau
khổ cho người khác. Chọn sống hay không sống? Nhân vật đang rơi vào
tình thế khó khăn khi không biết bản thân nên lựa chọn thế nào cho đúng,
hợp đạo lý. Đây là một cách hiểu khá sáng tạo và mang theo tầm nhìn lớn,
khi nhân vật đang đấu tranh tư tưởng giữa việc nên báo thù hay không.

Câu 4 (trang 131, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Nêu lí do khiến Hăm-lét cho rằng “chết” đáng “mong muốn” mà cũng là
“điều khó khăn” buộc người ta phải “ngừng lại mà suy nghĩ”.

Hăm-lét cho rằng “chết” đáng “mong muốn” mà cũng là “điều khó khăn”
buộc người ta phải “ngừng lại mà suy nghĩ” bởi cái chết có thể chấm dứt
mọi khổ đau, những hận thù nhưng nó là sự đánh dấu kết thúc của một
cuộc đời, con người sẽ chẳng thể làm gì. Hăm-lét muốn chấm dứt sự giằng
xé ấy nhưng anh không thể bỏ qua cho những kẻ xấu xa, độc ác vẫn ngày
ngày hoành hành tại kia, đem đến khổ đau cho người khác. Bằng tình thần
chính nghĩa của mình, Hăm-lét nghĩ mình phải có nghĩa vụ cứu rỗi mọi
người, trừ khử cái xấu xa, độc ác, giành lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc
cho chính mình và cho mọi người.

Câu 5 (trang 131, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Phân tích ý thức của Hăm-lét về những “khổ nhục trên cõi thế” mà con
người phải gánh chịu. Theo bạn, Hăm-lét sợ “nỗi khổ nhục” gì ở cõi “mênh
mang sau khi chết”?

- Nhận thức của Hăm-lét về những “khổ nhục trên cõi thế” mà con người
phải gánh chịu
+ Đó là những roi vọt, khinh bỉ của thời đại, sự áp bức của kẻ bạo ngược,
hống hách của kẻ kiêu căng, những nỗi dày vò của tình yêu tuyệt vọng, sự
trì chậm của công lí…
+ Là lời cam chịu, than vãn rên rỉ, đổ mồ hôi dưới gánh nặng của cuộc đời
mệt mỏi, nếu không phải chỉ vì sợ một cái gì đó mênh mang sau khi chết.
- Theo em, Hăm-lét sợ “nỗi khổ nhục” ở cõi “mênh mang sau khi chết đó là
sau khi chết đi, Hăm-lét được gặp lại những người thân yêu của mình,
những người đã bị chết oan bởi những người tàn ác kia trong khi Hăm-lét
chưa trả thù được cho họ. Nó có thể là những lời trách cứ khiến con người
không được yên, trách nhiệm chưa gánh vác xong, đó được coi là một thất
bại triệt để của cuộc sống khi lựa chọn cái chết thay vì thực hiện trách
nhiệm của mình.

Câu 6 (trang 131, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Hăm-lét đã nhận thức như thế nào về nguyên nhân tình trạng do dự,
không thể hành động quyết đoán của chính mình? Dựa vào phần tóm tắt
vở kịch, hãy cho biết Hăm-lét đã làm gì sau khi nhận thức được bản chất
vấn đề.

- Hăm-lét tự nhận thức được vào sự do dự của bản thân mình. Nguyên
nhân của tình trạng do dự xuất phát từ nhận thức của bản thân Hăm-lét,
bởi tấm lòng cao thượng và đầy nhân nghĩa của chàng. Chàng băn khoăn
không biết bản thân nên tiếp tục nhẫn nhục, đổi lại mọi người sẽ vẫn hạnh
phúc, hoành hành hay vùng lên đấu tranh, tạo nên một cuộc mưa máu
khiến nhiều người phải lầm than. Nên nghe con tim hay lý trí, lựa chọn
trách nhiệm của bản thân và tiếp tục gánh vác hay buông xuôi, bỏ mặc tất
cả?

- Cuối cùng, khi nghĩ về cái chết, một cái chết dang dở đầy vô nghĩa, Hăm-
lét đã quyết định biến mọi sự khổ đau thành động lực, gánh vác trách
nhiệm của mình, phải tiếp tục đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu xa, giải
thoát cho cuộc sống của mọi người dù cho có phải tạo ra một cuộc gió tanh
mưa máu, chàng cũng nhất định phải hành động, hoàn thành sứ mệnh của
mình.

Câu 7 (trang 131, SGK Ngữ Văn 11, tập một):


Chỉ ra tính chất bi kịch của xung đột được thể hiện qua lời độc thoại của
Hãm-lét. Theo bạn, trong xã hội hiện đại, xung đột đó có còn tồn tại hay
không? Căn cứ để bạn nêu ý kiến về vấn đề này là gì?

- Bi kịch của xung đột được thể hiện qua lời độc thoại của Hăm-lét được
thể hiện ở sự giằng xé của bản thân giữa một bên là sống vì bản thân
mình, một bên là sống vì trách nhiệm. Thật khó để cân bằng cả hai.
- Theo em, trong xã hội hiện đại, xung đột như vậy vẫn còn tồn tại nhưng
nó luôn được chuyển hóa linh hoạt. Xã hội ngày càng phát triển, con người
ngày càng bận rộn, đôi khi họ không có thời gian để sống cho chính mình
mà chỉ sống vì trách nhiệm.
Một ví dụ điển hình có thể kể đến như những người đi làm. Có lẽ ai cũng
muốn có thời gian để đi chơi, để đi du lịch, sống vì bản thân nhưng vì họ
phải lo cho gia đình, con cái nên phải từ bỏ cuộc sống theo ý mình, làm
việc, kiếm tiền với hy vọng về một cuộc sống khá giả hơn, con cái no ấm,
hạnh phúc. Nhưng đổi lại, nó mang đến cho họ một niềm hạnh phúc khác,
đó là niềm hạnh phúc con cái mạnh khỏe, cuộc sống ấm no và cảm thấy
ranh giới giữa vì bản thân và vì trách nhiệm dần mờ đi bởi họ đã tìm được
một niềm hạnh phúc khác. Suy nghĩ đó sẽ giúp họ từ bỏ được cuộc sống vị
kỷ của bản thân, suy nghĩ thoáng ra và làm được nhiều việc ý nghĩa hơn.

You might also like