Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 90

CHƯƠNG 1

Câu 1: Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lại chọn con đường cách
mạng vô sản? (p.2)
Câu 2: Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một tất yếu lịch sử? (p.5)
Câu 3: Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là Cương lĩnh
đúng đắn và sáng tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc tính giai cấp và tính Nhân
văn? (p.10)
Câu 4: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc (1930 – 1945)? (p.12)
Câu 5: Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945?
(p.16)
Câu 6: Phân tích những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng CSVN 2 – 1930? (p.18)
Câu 7: Nêu nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của cương lĩnh chính trị đầu tiên được hội
nghị thành lập Đảng (2/1930) thông qua? (p.22)

CHƯƠNG 2
Câu 1: Vì sao nói sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc”? (p.24)
Câu 2: Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 – 1954 là
kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính’’. (p.25)
Câu 3: Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là đại hội hoàn chỉnh Đường lối chiến
lược cách mạng hai miền Nam – Bắc? (p.29)
Câu 4: Hiệp định Paris (1973) là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm” và là cơ hội lớn
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ý kiến của Anh/chị về
nhận định trên? (p.32)
Câu 5: Đường lối và sự chỉ đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược và can thiệp Mỹ 1945 – 1954? (p.34)
Câu 6: Ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống pháp và can thiệp Mỹ 1945 – 1954? (p.38)

1
Câu 7: Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975? (p.40)
Câu 8: Đặc điểm, ý nghĩa thắng lợi và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975? (p.45)

Câu 9: Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc 1954 – 1975? (p.47)

CHƯƠNG 3
Câu 1: Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt
Nam? (p.48)
Câu 2: Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển mới về tư
duy lý luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng? (p.51)
Câu 3: So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ đổi
mới? (p.55)
Câu 4: Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò văn hóa trong phát triển bền vững đất nước?
(p.61)
Câu 5: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế? (p.64)
Câu 6: Nội dung Đường lối toàn diện của Đại hội VI (12/1986) và quá trình thực hiện? (p.
68)
Câu 7: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991
và năm 2011) (p.72)
Câu 8: Thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi
mới? (p.80)

CHƯƠNG I:
Câu 1: Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lại chọn con đường
cách mạng vô sản?
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới, đó là tìm
ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong kiến, khuynh hướng tư sản từng
bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta đi lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm

2
1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, đó là con đường cách
mạng vô sản.

Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách
mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho
dân tộc ta. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm
châu, và bước đầu có những nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm 1917,
Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực,
đồng thời mở ra một thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân
tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp
bức. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân
dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần
chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.

Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề.
Loài người căm ghét chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự
đem lại hòa bình tự do cho con người.

Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga. Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn: Người đánh giá cao tư
tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu
như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789) nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế
của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản
không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân
Việt Nam nói riêng. Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng mười nga
1917. Người rút ra kết luận: “trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách mạng
nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng

3
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt
chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và
áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về
cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị
của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày
càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai
lên đến đỉnh điểm.

Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ
dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ
nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên,
nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải
thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh
mới. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo
con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng
tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con
đường đó không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải
phóng dân tộc mới.

Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê
Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam về vấn đề thuộc địa trong
mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác
– Lê nin. Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người yêu nước trở
thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

4
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu
quê hương, đất nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở
thành động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước, và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của
mình cũng như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng
cho cả dân tộc.

Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.
Và thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt
Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và kháng chiến
chống Mỹ (1975) cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng
đi đúng đắn của dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất trong việc tìm ra và đặt nền tảng
cho cách mạng Việt Nam không ai khác, đó là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vĩ đại.

Câu 2: Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam là một tất yếu lịch sử?
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử hào hùng nhất, oanh liệt nhất
và vẻ vang nhất. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng
Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng
lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng
lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta
đã thoát khỏi ách nô lệ đứng lên làm chủ đất nước từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là thành công của công cuộc đổi
mới đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một
bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự
ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã và đang khẳng định được uy tín ngày càng vững chắc trên
trường quốc tế.

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy luật, của sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong

5
trào yêu nước Việt Nam; đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và
đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai
cấp công nhân nước ta đã trưởng thành “đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp công
nhân Việt Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến
thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản.

Tính tất yếu lịch sử:


− Từ hoàn cảnh lịch sử thế giới:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày
càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản, phạm trù cách
mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách mạng XHCN. Cùng với mâu
thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa
các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng.
Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Đặc
biệt là sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với
CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.

Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng
sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh
của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò tiên phong kể
từ sau khi Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3– 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập,
với khẩu hiệu "Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai
đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. “Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế
Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân
tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân”.

− Ảnh hưởng đến Việt Nam:


Những năm 50, 60 của TK XIX, Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược. Sau khi hoàn thành
việc xâm lược và bình định vũ p., thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy chính trị trên khắp đất
6
nước. Chúng đã ngang nhiên tiến hành những cuộc khai thác thuộc địanhằm khai thác tài
nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương
là chuyên chế về chính trị, kìm hãm về kinh tế, cái được chúng rêu rao là “sứ mạng khai hoá”
thực chất là khai thác thuộc địa bằng lưỡi lê, họng súng, giá treo cổ và hãm hiếp phụ nữ. Dưới
ách thống trị đó, mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội Việt Nam phong kiến cũ ngày
càng sâu sắc và gay gắt thêm.

Tiền đề lý luận và thực tiễn:


− Về lý luận: Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lí luận khoa học với tư cách là vũ
khí tư tưởng của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ
nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác –Lênin.
Chủ nghĩa Mác –Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra
đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc dấu tranh của giai cấp công
nhân chống áp bức, bóc lột. Kể từ khi chủ nghĩa Mác –Lênin được truyền bá vào Việt
Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
− Về thực tiễn: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời
dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị ở Việt Nam. Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách
kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu
sắc. Hình thành giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam, giai
cấp tư sản Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam. Chính sách thống trị của thực dân
Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Công nhân và tư
sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân
phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp và
phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn

7
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân
dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến, trong đó, mâu
thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược. Trước sự xâm luợc của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu
biểu trong thời kì này là: Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884.
Nghĩa quân Yên Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn,
thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918), các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống
Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành công. Thất bại của
các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không
đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc
ở Việt Nam.

Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước dưới sự
lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn
ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân
tộc đầu thế kỉ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh
đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện
pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc
lập. Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện pháp
bạo lực để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Đại biểu cho
xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã
hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối
nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.

Ngoài ra, trong thời kì này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh khác như:
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919);
Phong trào chống độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong
các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố, đòi cải cách tự do, dân chủ. Từ trong phong

8
trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm 1923); Đảng Thanh
niên (tháng 3/1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn
(năm 1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7/1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng;
Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12/1927). Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư
sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật
là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.

Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn
ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kì này đều hướng tới giành độc lập cho dân
tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc
thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ công hoà tư sản. Các phong
trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách;
với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách,
hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại. Một
số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò của mình
trong cuộc đấu tranh giành độc lập và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do
những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập
hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ
bản (công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong
trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX đã phản ánh địa vị
kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư sản trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh
sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.Mặc dù thất bại
nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phòng trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất vì độc
lập, tự do của dân tộc Việt Nam, và chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở
xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí
Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng
tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối,
về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với

9
một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và
năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.

Câu 3: Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là Cương
lĩnh đúng đắn và sáng tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc tính giai cấp
và tính Nhân văn?
Đường lối lãnh đạo là một trong những vấn đề chiến lược của mỗi Đảng cầm quyền. Xác định
được điều đó, ngay từ khi ra đời, tại hội nghị thành lập Đảng, các đại biểu đã thông qua Chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt, đó được coi như là cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ta. Mặc dù còn sơ lược, vắn tắt nhưng nó đã khẳng định tính đúng đắn sáng tạo
khoa học và trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách
mạng và đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay.

Tại thời điểm năm 1930: Tính đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh được thể hiện ở những
vấn đề sau:
− Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác–Lênin,
một hệ thống lí luận tiến bộ đúng đắn và khoa học.

Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư
sản dân quyền và Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế tiếp
nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh chủ trương: "làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Qua đó, ta thấy rằng:
ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt
Nam là kết hợp và gương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là
điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của lịch sử nước ta. Đồng
thời, chúng ta cũng thấy được sự vận dụng sáng tạo và hợp lí lí luận cách mạng không
ngừng của chủ nghĩa Mác–Lênin, Cương lĩnh khẳng định, nhiệm vụ của cách mạng tư
sản dân quyền ở nước ta là chống đế quốc và chống phong kiến. Điều này cũng thể
hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo thể hiện ở
chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác–Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ

10
yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt
Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải
hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra.
− Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên: Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc hơn vấn
đề đấu tranh giai cấp và chống phong kiến là đúng đắn và sáng tạo. Vì: Xã hội Việt
Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc giải quyết các mâu thuẫn
khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất.
− Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định, ngoài giai cấp công nhân, thì cách mạng
“phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức và trung nông để kéo họ về phe vô sản
giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa lộ rõ
mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho trung lập”. Như vậy, ngoài
công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, Cương lĩnh chủ trương
phải tranh thủ các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ các
loại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác
ngoài công nhân và nông dân, có một số bộ phận khác cũng có tinh thần yêu nước,
như: Tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước..., vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ
về phe cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng
dân tộc của Cương lĩnh, đều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn.
Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng: Cách mạng
muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính đảng của giai cấp
công nhân. Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới. Đây cũng là một nội dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Vì: giai
cấp tư sản ở các nước, trong thực tế đã cấu kết với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân dân các nước thuộc địa
phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản trên thế giới. Tóm lại Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng ta là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng
tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc.

11
Câu 4: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc (1930 – 1945)?
Thời kỳ 1930 – 1945, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là ĐCS với cương
lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở
ra từ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành
chính quyền đã diễn ra với 3 cao trào cách mạng có ba ý nghĩa như 3 cuộc diễn tập chuẩn bị
cho cuộc cách mạng tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân. Trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng có những vai trò quan trọng cụ thể như sau:

Thứ nhất, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy
ở chủ nghĩa Mác – Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường
lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội.

Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80
năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất
bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ
“Cần Vương” của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy
hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ
có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên
chủ nghĩa xã hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.

Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn
khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam: “không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong
phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu
được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình

12
đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hoà bình, hạnh phúc.
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh
liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân,
minh chứng ở đây chính là sự thành công của cuộc cách mạng tháng Tám và sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt
Nam – độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng
nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.

Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng 1930 – 1931,
đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Cao trào dân chủ 1936
– 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho cách mạng tháng tám. Cuộc vận động giải
phóng dân tộc 1939 – 1945 là cuộc diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám. Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa),
sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945, Đảng lãnh đạo
quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời
và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân
dân được chuẩn bị mọi mặt. Nhân dân Việt Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu
quốc, từ lâu đã sẵn sàng hy sinh để giành độc lập, quyết tâm chiến đấu.

Thứ ba, Đảng tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung gian đứng về phía cách mạng.

Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian có tầm quan
trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp trung gian không đóng vai trò đầu tàu quyết định trong
những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về phía cách mạng thì
nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công. Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách
mạnh không tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn
không thể làm cách mạng thắng lợi nhanh chóng được. Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung
gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn họ vào con đường đấu tranh chống Pháp – Nhật. Nhưng

13
từ khả năng đến hiện thực là cả một quá trình vận động. Chính sách của Đảng với tầng lớp
trung gian trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân
thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình
mà Đảng còn chân thành đoàn kết trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung
gian lập ra tổ chức của mình để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc.

Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945 các tầng lớp trung gian tham gia
phong trào cách mạng chống Nhật – Pháp vẫn chưa đông đảo. Sau đảo chính, nhiều nhân vật
trung gian vẫn trải qua một bước dao động ngắn rồi với mạnh dạn tham gia phong trào cứu
quốc một cách đông đảo. Một số đông quần chúng trung gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật
và bọn tay sai Đại Việt quốc gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật,
cứ thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng
thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính
phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có
thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chức Tân Việt Nam
hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng làm cho
nhiều người mắc lừa.

Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim “Thân
phận bù nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực
hành ít, hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là “bọc nhung cho ách Nhật và hùa
với giặc áp bức bóc lột nhân dân” và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật. Sự phê
bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi theo cách
mạng. Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của Đảng là đúng. Ngày
13/8/1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian nói chung đều theo cách
mạng.

Thứ tư, Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ,
phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.

14
Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đúng
đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn
cách mạng.

Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững
thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng
lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 – 19/5/1941)
đã có quyết định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận
Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát xít, giành
lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát xít Đức, Ý bại trận, phát xít Nhật sửa soạn đầu
hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và
nhắc nhở các đồng chí Trung ương: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn
trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược
gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây
dựng làm điều kiện cho bảo vệ.

Tóm lại, ĐCS VN được xem là nhân tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện sứ mệnh
lãnh đạo nhân dân giải phóng dân tộc. Qua thực tiễn chỉ đạo cách mạng từ năm 1930 – 1945,
Đảng ta đã thể hiện nắm vững Chủ nghĩa Mác, không những vận dụng một các sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam mà còn vận dụng một cách sáng tạo, khoa học trong những
thời kỳ khác nhau: thời kỳ cách mạng đi lên hoặc ngay trong cả những lúc cách mạng gặp khó
khăn, không những trong việc đề ra đường lối chính sách mà còn cả trong chỉ đạo thực tiễn
cuộc đấu tranh diễn ra từng giờ, từng ngày. Trên cơ sở nắm vững tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội của đất nước, Đảng ta đã kịp thời cụ thể hóa đường lối cách mạng của mình, đề ra
nhiệm vụ thích hợp cho từng thời kỳ.

15
Câu 5: Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945?
Thứ nhất: Tính chất của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng mang tính chất dân tộc dân chủ
nhân dân.

Khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng đất nước thoát khỏi sự đô hộ của các nước đế quốc, thực dân. Cách mạng tháng 8 năm
1945: Toàn dân không phân biệt tầng lớp, giai cấp, là công dân Việt Nam đều có quyền và
nghĩa vụ đánh đuổi đế quốc giành độc lập. Dân chủ nhân dân là sau khi giành được độc lập
dân tộc thì quyền lợi, nghĩa vụ của mọi công dân không phân biệt trí thức, công nhân, nông
dân đều có quyền bình đẳng như nhau; Thực hiện nghĩa vụ công dân và pháp luật của nhà
nước như nhau, được hưởng phúc lợi xã hội như nhau. Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Thứ hai: Ý nghĩa lịch sử.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là điển
hình của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cuộc cách mạng đó đã đánh đổ chế độ thuộc
địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật áp đặt trên đất nước ta kéo dài hơn 80 năm, lật nhào
chế độ phong kiến hàng ngàn năm. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc
lập. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước. Cách mạng Tháng Tám
thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự sụp đổ đầu tiên của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế
giới, là thắng lợi đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, cổ vũ mạnh
mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới.

Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự thắng lợi của đường lối cách mạng và vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao

16
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Kết luận: Cách mạng tháng Tám giành thắng lợi được diễn ra trong hoàn cảnh quốc tế và
trong nước có nhiều thuận lợi. Khi mà ở trên chiến trường quốc tế Hồng Quân Liên Xô giành
được những thắng lợi quan trọng, phát xít Đức gặp nhiều khó khăn và nhận lấy thất bại trên
chiến trường Châu Âu. Trong bối cảnh các nước đế quốc đang lăm le xâm chiếm nước ta cùng
với việc Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương càng tạo điều kiện để Đảng ta đưa
ra những quyết định quan trọng để chớp lấy thời cơ làm cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi. Cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra với những chiến thắng quan trọng ở các địa phương ở trên
cả nước. Với chiến thắng của cuộc Tổng khởi nghĩa đã tạo ra những ý nghĩa quan trọng đối
với lịch sử dân tộc nước nhà, mang lại những bài học kinh nghiệm quý báu về chiến lược,
sách lược của Đảng. Câu nói: “Dân tộc ta có lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền thống
quý báu của ta…” để chứng minh cho tinh thần yêu nước nồng nàn đó.

Thứ ba: Bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nổi bật là: Bài
học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác–Lênin,
được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch
sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp;
biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực
lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng
tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để
đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa
chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong
giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng

17
thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.

Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp
thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng
thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ
Trung ương Đảng tháng 3 – 1945 “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản
Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13 – 8 – 1945.

Câu 6: Phân tích những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng CSVN 2 – 1930?
Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu nước,
với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu nước đương thời, năm
1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua trải
nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng một cách rạch ròi: “dù màu da
có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc
lột”, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức
của Nguyễn Tất Thành – đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở lại nước
Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga, về V.I.Lênin.

Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất
lúc đó ở Pháp. Tháng 6/1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất họp ở Versailles, Tổng thống Mỹ Wooderow Wilson tuyên bố bảo đảm về quyền dân
tộc tự quyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt
Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An
Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày 18/6/1919. Nhóm người
Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần yêu nước ở Pháp, gồm: Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh,
Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Những yêu sách đó dù không
được Hội nghị đáp ứng nhưng sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và
Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.

18
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Những luận điểm của V.I.Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của
sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của
Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc
xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng
Xã hội Pháp tại thành phố Tua. Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc
tế III. Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản đã tuyên bố thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở
thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên
của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị
của Nguyễn Ái Quốc.

Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát,
tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam. Người chuẩn bị các điều kiện về tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
− Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước
thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó
sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân
đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,… Năm 1922,
Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc
được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý luận,
vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới
nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp
bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và
kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của
chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc
địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến
hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng
theo lý luận Mác – Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản

19
và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Năm 1927, Nguyễn
Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô
sản, lý luận Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
− Về chính trị: Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về
cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng
về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của
các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách
mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng
tới xây dựng nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân. Nguyễn Ái Quốc xác
định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng
vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách
mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
“chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần
tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Đối với các dân tộc thuộc địa,
Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông
đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi
cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng:
“công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn
cách mệnh của công nông”. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung
của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”.
− Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải
có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ
Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát động từ ngày 29 – 9 – 1928 đã góp

20
phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của
công nhân.
− Về tổ chức: Sau khi lựa chọn con đường cứu nước: con đường cách mạng vô sản cho
dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh
họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Vì vậy, sau một
thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng
11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) – nơi có đông người Việt Nam yêu
nước hoạt động để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2 –
1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng
sản đoàn. Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương
trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành
độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực
hiện chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ cức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kỳ bộ,
tỉnh bộ hay thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do
Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội,
truyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và phương hướng phát triển của cuộc vận động
giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách
mạng Việt Nam. Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn
Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số
thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Các
bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt
Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông
xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách
mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng
đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong. Đường
Cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của
cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên
cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những
điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện
rõ trong tác phẩm.

21
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ
sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ
sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên chưa phải là chính
đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp
công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức
trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng
về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt
động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân,
phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 –1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó
là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 7: Nêu nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của cương lĩnh chính trị đầu tiên được
hội nghị thành lập Đảng (2/1930) thông qua?
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có các nội dung chính:
− Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên
là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong
kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
− Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách
mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất
thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu
thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
− Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh đổ các di
tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tiền tư bổn và để thực hành thổ
địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương
hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau: “Có
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ
địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc
chủ nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản
dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. Giai cấp vô sản và nông
dân là hai động chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là
động lực chính và mạnh.
22
− Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi
của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh
trị đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu
mà trưởng thành”.
− Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng
về con đường “võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải lập tức
lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền
cho công nông”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân
theo khuôn phép nhà binh”.

Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản
Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản
Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa.

Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng.
Về cơ bản thống nhất với nội dung của Chính cương, sách lược vắn tắt của Hội nghị thành
lập Đảng tháng 2/1930. Tuy nhiên, Luận cương đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã
hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh
giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai
cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Nguyên nhân của những
hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng
của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế
Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trong thời gian đó. Những hạn chế của Đảng trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, giữa hai nhiệm vụ giải phóng
dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng như trong việc tập hợp lực lượng cách mạng còn tiếp
tục kéo dài trong nhiều năm sau.

Sau hội nghị Trung ương tháng 10/1930 Đảng đã có chủ trương mới. Ngày 18/11/1930
Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị Về vấn đề thành lập “Hội phản đế Đồng minh”,

23
là tổ chức mặt trận đầu tiên để tập hợp đoàn kết các giai cấp tầng lớp dân dân tộc, khẳng định
vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ý nghĩa của cương lĩnh: có tầm quan trọng rất to lớn. Là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo
lý luận Mác – Leenin vào thực tiễn của đất nước. Giải đáp đúng yêu cầu phát triển của xã hội
Việt Nam, yêu cầu thực tiễn của cách mạng là xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến phản
động để thay vào đó là một chế độ tiến bộ hơn bằng việc tập trung giải quyết hai mâu thuẫn
cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữ dân tộc ta và đế quốc Pháp, giữa nông dân với địa chủ
phong kiến.

Cương lĩnh đã đáp ứng được nguyện vọng cơ bản của cả dân tộc là độc lập, dân chủ, hạnh
phúc. Cương lĩnh đã phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của xã hội Việt Nam. Nó
không giống đường lối cách mạng dân chủ tư sản ở một nước độc lập hay một nước nửa thuộc
địa. Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã trả lời đúng những vấn đề cấp bách mà
phong trào cách mạng nước ta đặt ra. Nó là vũ khí sắc bén chống lại những tư tưởng và hành
động trái với chủ nghĩa Mác Lênin. Cương lĩnh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
đường lối mới của Đảng, dẫn đến thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh đã chứng tỏ rằng Đảng ta mới ra đời nhưng đã nhìn xuyên suốt được con đường
cách mạng Việt Nam là vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Vận dụng lý luận Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa đó là vấn đề độc lập dân tộc và ruộng
đất của nông dân. Nó đúng với thực tiễn Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
đế quốc Pháp và nông dân phong kiến.

CHƯƠNG 2
Câu 1: Vì sao nói sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc"?
Sau Cách mạng tháng 8, “ngàn cân treo sợi tóc” là tình hình của nước ta lúc đó. Chính phủ
lâm thời vừa thành lâp do Hồ Chủ tịch đứng đầu còn non trẻ. Quân Đồng minh đang ùn ùn
kéo vào nước ta với tư cách giải giáp quân Phát xít Nhật, nhưng thực tế là Pháp và Anh đang
lăm le quay lai xâm chiếm. Trong nước, những thành phần phản cách mang vẫn ra sức chống

24
phá chính quyền non trẻ. Phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng cũng đang kéo vào nước ta nhằm lật
đổ cách mang. Cả thù trong, giặc ngoài đều phải đối phó. Trong khi đó, ta vừa trải qua cuôc
chiến kéo dài, tổn thất, thiêt hại rất lớn về kinh tế – xã hôi. Ngân sách trống rỗng, mất mùa,
đói kém, các tê ̣nan xã hội tràn lan, hơn 90% người dân trong tình trạng mù chữ. Khó khăn lại
chồng chất khó khăn.

Nhưng Chính phủ lâm thời tuy mới thành lâp cũng đã tỏ rõ được sự khéo léo của mình trong
viêc giải quyết các thách thức lớn như vây. Ngày 6/1/1946, ta tiến hành Tổng tuyển cử trên cả
nước, bầu ra Quốc hôi và lâp Hiến pháp, phá đi âm mưu chia rẽ và lật đổ của kẻ thù. Tiếp đến
là chống “giăc đói” và “giặc dốt”. Quyên góp tiền, thức ăn, gạo, lập ̣ “Hũ gao cứu đói”, phát
động “Tuần lễ vàng”, tăng gia sản xuất. Toàn dân chung tay chia sẻ, đùm bọc nhau vượt qua
khó khăn. Chính phủ ký sắc lệnh “Bình dân học vụ”, mở các lớp phổ cập giáo dục cấp tốc cho
moi người, đẩy lùi nạn dốt.

Với giăc ngoại xâm, ta chủ trương hòa với Tưởng để tập trung chống Pháp ở miền Nam,
nhường cho chúng môt số quyền lợi kinh tế, chính trị. Đến ngày 6/3/1946, ta ký với Pháp
Hiêp định sơ bộ, chuyển sang hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước. Đến ngày 14/9, ta ký tiếp
Tam ước với Pháp, nhường tiếp một số quyền lơi để tập trung nguồn lực chuẩn bi ̣ kháng chiến
chống Pháp lâu dài. Nhờ vậy, ta có thể tránh đươc cả thù trong và giặc ngoài.

Có thể nói, những thách thức sau Cách mạng tháng 8 ngàn cân treo sợi tóc khi ấy thât sự vô
cũng khó khăn với môt Chính phủ mới, còn non trẻ của chúng ta. Thế nhưng, bằng đường lối
lanh đạo khéo léo, đúng đắn, cùng sự đoàn kết toàn dân, chúng ta đã vượt qua tất cả và tiếp
tuc giữ vững nền độc lâp, tự do cho dân tộc.

Câu 2: Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 –
1954) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa
vào sức mình là chính’’.
Đề có thể chứng minh được thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1946 –
1954 ) là kết kết quả của cuộc chiến tranh nhân nhân thì đường lối chiến tranh nhân dân là
một minh chứng rỏ ràng, đầy đủ nhất cho sự thắng lợi vẻ vang này.

25
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta (1946 – 1954) là một điển
hình về một dân tộc nhỏ bé có thể thắng một dân tộc lớn, một quân đội trang bị vũ khí kém
có thể thắng một đội quân xâm lược đông có trang bị tốt hơn. Đường lối chiến tranh nhân dân,
nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc rực sáng đã
dẫn dắt nhân dân ta làm nên thắng lợi vẻ vang. Đường lối đó là một mẫu mực về tính kiên
cường và tinh thần sáng tạo, những đức tính thuộc bản chất của đảng Mác – Lênin chân chính.

Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có những quan điểm cơ
bản là: Phát động và tổ chức toàn dân kháng chiến; kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt
trận: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; kháng chiến lâu dài; dựa vào sức mình
là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em,
của cả loài người tiến bộ. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin về chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc,
giữ nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các nước
anh em và của thế giới.

Đường lối đó giải quyết được khó khăn lớn nhất mà nhân dân ta phải vượt qua là: muốn giành
thắng lợi thì phải có sức mạnh hơn địch mà trong thời kỳ đầu của chiến tranh thì lực lượng vũ
trang của ta so với đội quân xâm lược chỉ như lạng với cân trên cán cân so sánh lực lượng.
Chủ trương kháng chiến toàn dân; kháng chiến toàn diện; đánh lâu dài, dựa vào sức mình là
chính là chủ trương điều khiển chiến tranh bằng sự vận dụng sáng tạo các quy luật của chiến
tranh chính nghĩa và nắm vững các quy luật của chiến tranh phi nghĩa; những quan điểm gốc
về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Sức mạnh của một cuộc cách mạng, của chiến tranh cách mạng là sức mạnh của nhân dân.
Nhân dân tạo ra mọi sức mạnh. Cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, giải phóng dân
tộc, nhân dân đều đứng dậy chiến đấu để bảo vệ quyền sống, quyền tự do của mình. Trong
cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, sức mạnh đó lại càng có tính quyết định. Vì Nhà nước
ta vừa mới được thành lập, còn rất non trẻ. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh có đường lối
đúng đắn nên đã tổ chức phát động được nhân dân đông đảo nhất, mạnh mẽ nhất trong lịch

26
sử dân tộc và có tính độc đáo sáng tạo của thời đại. Đó là cơ sở để cơ quan lãnh đạo kháng
chiến tổ chức chiến tranh nhân dân; huy động toàn dân đánh giặc.

Tuy nhiên cũng có cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, nhưng cơ quan lãnh đạo
chiến tranh không có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn và không có nghệ thuật
quân sự tài giỏi thì cũng không giành được thắng lợi. Nhân tố chính nghĩa trong thời đại ngày
nay có ý nghĩa rất lớn.

Lênin đã nói: “Không bao giờ người ta có thể đánh bại được một dân tộc trong đó bộ phận
lớn công nhân và nông dân do kinh nghiệm đã hiểu rằng và đã nghiệm thấy rằng họ bảo vệ
chính quyền của họ”. Phát động và tổ chức toàn dân đánh giặc là phát triển không ngừng cả
về số lượng và chất lượng của lực lượng, và từ đó có thể vận dụng nhiều phương thức đấu
tranh vô cùng phong phú, sinh động và có hiệu quả cao.

Quá trình kháng chiến diễn ra đúng như lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ đàn
ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước”. Đó là kết quả tuyệt vời về huy động lực lượng kháng chiến trong
lịch sử chống xâm lược của dân tộc ta.

Sức mạnh của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là sức mạnh dời non lấp biển. Kháng
chiến lâu dài nhưng tích cực tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu chiến lược của
chúng, tranh thủ giành thắng lợi trong thời gian nhanh nhất là tư tưởng chỉ đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thời gian dài, ngắn phụ thuộc vào so sánh lực lượng hai bên và tuỳ
thuộc vào tốc độ chuyển hóa so sánh lực lượng do nỗ lực chủ quan của ta quyết định; nghệ
thuật chỉ đạo chiến tranh có vai trò to lớn. Sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
trong suốt chín năm kháng chiến đã chứng minh điều đó.

Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích cực
tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi,

27
mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một
mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.

Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự
mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh
vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy cho được mọi
tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ
kháng chiến thắng lợi.

Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một
quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước
làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng
vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không có nghĩa là kéo
dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy
vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy
nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân
dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó,
để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc
tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn,
trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên.
Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành
một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Từ đó có thể thấy rằng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954) là
kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính’’.

28
Câu 3: Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là đại hội hoàn chỉnh Đường lối
chiến lược cách mạng hai miền Nam – Bắc?
Vì trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đại hội lần này là Đại
hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”.

Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn
trình bày, thảo luận và thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai
đoạn mới, thông qua Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lấn thứ nhất (1961 –
1965).

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết do Đại hội thông qua
về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới gồm những vấn để lớn sau:

*Về đường lối cách mạng chung trong cả nước: Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta,
Đại hội đã xác định cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới cùng lúc thực hiện hai chiến
lược cách mạng khác nhau: chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lược đó có mối quan hệ mật thiết
với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chiến lược cách mạng ở mỗi miền của đất
nước có vị trí và trách nhiệm riêng trong mục tiêu chung là hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng đã trở thành căn cứ địa cách mạng chung của cả nước.
Tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng cường về mọi mặt, tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, bảo đảm sự phát triển của cách mạng
trong cả nước.

Vì vậy, “cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với
sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân
dân ta”. Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện thống nhất nước nhà, cách mạng miền Nam “có tác dụng quyết định trực tiếp đối
vời sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”.

29
Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách mạng ở hai miền
đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc
Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ
quốc.

Từ những nhiệm vụ trên đây, Đại hội vạch ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong
thời ký mới là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân lộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.

*Về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp
phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Đại hội đề ra "Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên
quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài
Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ
ở miền Nam. thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chu và cải thiện đời sống nhân
dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân dân chủ, tích
cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của
nhân dân cả nước. Đó là quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam.

*Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc: Đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo luận tại Đại hội. Xuất phát từ các đặc điểm của
miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng

30
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định:
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt,
là một quá trình đấu tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ
nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá và kỹ thuật.

Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo
chính trị khẳng định: “Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội. xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững
mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe
xã hội chủ nghĩa bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.

Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội
chủ nghĩa là một nhiệm vụ cơ bản, trong đó, cải cạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ
công cuộc cải tạo nhằm tăng năng suất lao lộng, phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. nhằm xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội "Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc nước ta là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại,
kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện
đại và nông nghiệp hiện đại".

Đại hội xác định rằng, sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng, cho nên
Đảng cần phải tăng cường sự lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đối với cuộc đấu tranh nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Muốn thế, “phải nâng cao sức chiến đấu và
năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là phải tăng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên
phong của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng”.

31
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đánh dấu một bước phát triển mới của cách
mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Đại hội đã đề ra được đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nghị quyết của Đại hội
là nguồn ánh sáng mới, là cơ sở để toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối,
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng
miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.

Câu 4: Hiệp định Paris (1973) là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm” và là cơ hội
lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ý kiến của
Anh/chị về nhận định trên?
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình tại Việt Nam được ký vào ngày này,
cách đây 40 năm, là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của nhân dân Việt nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Hiệp định buộc Hoa kỳ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền
Nam Việt Nam, tạo tiền đề cho đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.

Hiệp định Paris năm 1973 do 4 bên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam), Hoa Kỳ và Việt nam Cộng hoà ký, tại Paris. Đây là kết quả của cuộc đàm
phán kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với hơn 200 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng,
là thắng lợi quan trọng, to lớn về nhiều mặt của nhân dân Việt Nam.

Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định: “Hội nghị và Hiệp định Paris là thắng lợi
tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Cuộc đàm phán
ở Paris là cuộc đấu trí, đấu bản lĩnh lâu dài, gian khổ nhưng rất hào hùng của ngoại giao Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; từ quyết định mang ý nghĩa chiến lược mở ra cục diện vừa
đánh vừa đàm đến những sách lược của ta trong suốt quá trình đàm phán công khai cũng như
bí mật và đến những nội dung của Hiệp định Paris đều thể hiện chính nghĩa sáng ngời của
cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam. Hiệp định Paris cũng là văn bản pháp lý

32
quốc tế lần đầu tiên trong đó Mỹ buộc phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và thống
nhất của dân tộc Việt Nam”.

Với Hiệp định Paris, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở
ra một giai đoạn mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho Ngụy nhào”, là tiền đề tiến lên giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Ông Trịnh Ngọc Thái, thành viên
đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris, cho biết: “Cuộc đàm phán Paris
về Việt Nam đã trở thành trung tâm chú ý của dư luận thế giới vì cuộc đấu tranh chính trị,
quân sự và ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là tâm điểm của những mâu thuẫn cơ bản
của thời đại lúc bấy giờ. Việc ký kết Hiệp định là sự tháo nút cho cuộc chiến tranh ác liệt và
lâu dài nhất trên thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai”.

Đàm phán Paris được đánh giá là cuộc đấu trí căng thẳng giữa 2 nền ngoại giao. Đó là nền
ngoại giao trên thế mạnh của Mỹ và nền ngoại giao nhân văn của Việt nam. Theo bà Nguyễn
Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris, phương châm ngoại giao “dĩ bất biến, ứng
vạn biến” mà Việt Nam áp dụng đã phát huy hiệu quả. “Đối với đàm phán Hiệp định Paris,
vấn đề Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam thì Mỹ phải chấm dứt xâm lược là nguyên tắc bất
biến. Theo đó, Mỹ phải rút quân ra khỏi Việt Nam không điều kiện, để đảm bảo cho độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Dĩ bất biến tức là chúng ta luôn giữ nguyên lập
trường đó. Còn “ứng vạn biến” là phải tuỳ thuộc tình hình. Lúc đầu chúng ta nêu ra là phải
giải quyết vấn đề quân sự, đồng thời giải quyết vấn đề về chính trị. Nhưng tới một lúc nào đó
chúng ta thấy rằng, vị thế của chúng ta trên chiến trường thuận lợi, thì chúng ta có thể đi thêm
nhiều bước khác. Đó chính là ứng vạn biến”.

Không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, Hiệp định Paris còn mang tính quốc tế khi góp phần
to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước của nhân dân Lào và Campuchia. Hiệp định cũng
góp phần mở ra một chương mới trong cục diện Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi
Đông Dương và Đông Nam Á; xu thế hoà bình, trung lập phát triển mạnh trong khu vực, mở
ra khả năng thiết lập một khu vực hoà bình, hữu nghị ổn định.

33
Hiệp định Paris 1973 cho thấy Việt Nam tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước
Xã hội chủ nghĩa, các nước thành viên Phong trào không liên kết và cả người dân Mỹ yêu
chuộng hòa bình, để hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm
lược. Điều này thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế, kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.

Ông Trịnh Ngọc Thái nhận định: “Trong lịch sử kháng chiến của các dân tộc, hầu như chưa
có 1 cuộc chiến đấu nào như ở Việt Nam lại có thể tạo dựng nên 1 phong trào, 1 mặt trận nhân
dân thế giới mạnh mẽ đoàn kết ủng hộ Việt Nam, trong đó có phong trào phản chiến ở ngay
nước Mỹ. Sức mạnh của dư luận đã trở thành sức ép đối với chính sách xâm lược của Mỹ, là
sự cổ vũ to lớn đối với nhân dân Việt Nam. Đây là 1 trong những sáng tạo để hình thành một
mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam”.

Hiệp định Paris đã để lại nhiều bài học lớn, trong đó bài học về ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền
dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên giá trị thời sự và thiết thực đối với các
quốc gia trong một thế giới đầy biến động. 40 năm qua, những giá trị của Hiệp định Paris
1973, vẫn mãi là mốc son của nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Câu 5: Đường lối và sự chỉ đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp Mỹ 1945 – 1954?
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay từ đầu cuộc
kháng chiến và không ngừng được bổ sung hoàn chỉnh trong quá trình tiến hành kháng chiến.

Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng: bắt đầu
từ bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (ngày 25 – 11 – 1945), tiếp đến là Công việc khẩn
cấp bây giờ (tháng 10 – 1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến ngày 12 – 12 – 1946 và Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19 – 12 – 1946). Giữa năm 1947,
Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết một loạt bài báo nhằm hướng dẫn việc thực hiện đường lối
của Đảng, những bài viết này được tập hợp thành cuốn sách Trường kỳ kháng chiến nhất định
thắng lợi, tác phẩm Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi đã thể hiện những quan điểm

34
cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng, đó là đưòng lối: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và
dựa vào sức mình là chính” đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi đến thắng lợi. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951) tổng kết 5 năm kháng chiến đã bổ
sung và phát triển đường lối kháng chiến khi kháng chiến đã phá thế bị bao vây và đế quốc
Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Về cơ bản, đường lối chung của cuộc
kháng chiến tập trung một số nội dung:

Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là sự kế
thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược,
giành thống nhất, độc lập hòan toàn.

Tính chất của cuộc kháng chiến: Đảng khẳng định đây là cuộc chiến tranh cách mạng của nhân
dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài. Là cuộc chiến vì tự
do, độc lập, dân chủ và hòa hình có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Đảng chủ
trương liên hiệp với dân tộc Pháp, đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do.
hoà bình.

Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở xác định
rõ đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến, đặc biệt,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951) đã chỉ rõ kẻ thù cụ thể
trước mắt của cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp, kẻ thù nguy hiểm là dế quốc Mỹ, kẻ thù
phụ là các thế lực phong kiến. Lúc này là phong kiến phản động, từ đó đề ra nhiệm vụ cơ bản
của cách mạng Việt Nam:

− Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc lập.
− Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân.
− Gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.

35
− Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công, nông. Lãnh đạo cách
mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Nông dân là bạn đồng minh “lớn mạnh và chắc
chắn” của giai cấp công nhân.
− Phương châm kháng chiến: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện
“kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”.

Trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, điều cốt lõi nhất và cơ bản nhất là chiến lược
toàn dân kháng chiến. Đảng tổ chức cả nước thành một mặt trận, tạo nên thế trận cả nước đánh
giặc, phát huy sức mạnh của toàn dân và khối đoàn kết toàn dân tộc tham gia kháng chiến với
những biện pháp đa dạng phong phú, phù hợp. Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang với ba
thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Từ chiến tranh du kích phát
triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp du kích chiến với vận động chiến.

Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến, Đảng chủ trương kháng chiến toàn
diện, tức là tiến hành tiến công địch trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá,
ngoại giao tạo thành sức mạnh tổng hợp.

+ Về chính trị, phải đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược, phải thống nhất toàn dân, làm
cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng vững chắc và rộng rãi. Phải củng cố chế độ cộng
hoà dân chủ, xây đựng bộ máy kháng chiến vững mạnh, cô lập kẻ thù, kéo thêm nhiều bạn,
làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta, chống lại thực dân
phản động Pháp. Coi trọng xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước và Mặt trận dân
tộc thống nhất vững mạnh. Thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành mặt trận Liên Việt (1951).

+ Về quân sự, triệt để dùng “du kích vận động chiến”, tiến công địch ở khắp nơi, vừa đánh
địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự. Xây dựng căn cứ địa kháng
chiến và hậu phương vững mạnh. Chủ động làm thất bại các kế hoạch chiến tranh lớn của
dịch, phối hợp chặt chẽ các chiến trường với sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất.

+ Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp về mọi mặt; ra sức phá kinh tế địch không cho
chúng thực hiện mưu đồ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Kinh tế kháng chiến về hình thức là

36
kinh tế chiến tranh, về nội dung là dân chủ mới, chú trọng phát triển nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp. Phát triển các thành phần kinh tế, từng bước thực hiện
chính sách ruộng đất đối với nông dân (giảm tô và cải cách ruộng dất). Phái triển kinh tế quốc
doanh, gây mầm cho chủ nghĩa xã hội.
+ Về văn hoá, thực hiện hai nhiệm vụ: xoá bỏ nền văn hoá nô dịch ngu dân, xâm lược của
thực dân Pháp và xây dựng nền văn hoá dân chủ mới, dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc hoá,
khoa học hoá, đại chúng hoá. Phát triển giáo dục, đào tạo các bậc phổ thong trung học chuyên
nghiệp và đại học. Tiến hành cải cách giáo dục. Phát triển văn học, nghệ thuật, coi văn nghệ
là một mặt trận và văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận này.

+ Về đấu tranh ngoại giao, triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân
dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ về mọi mặt trận các nước xã hội chủ nghĩa
nhất là Liên Xô, Trung Quốc.

Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta yếu nên Đảng
chủ trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực lượng, đồng thời tích cực tiêu
hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng sẽ dần có lợi cho và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh,
tiến tới đánh thắng thù. Song, Đảng khẳng định đánh lâu dài nhưng phải tạo thế chủ động phát
triển thế và lực, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định.

Dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân, vào đường lối đúng đắn của
Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hoà của đất nước, đồng thời ra sức tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.

Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự
truyền thống của dân tộc, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác
Lênin và kinh nghiệm nước ngoài vào điều kiện Việt Nam. Đường lối đó là ngọn cờ dẫn dắt
và là động lực chính trị tinh thần đưa quân và dân ta tiến lên chiến đấu và chiến thắng thực
dân Pháp xâm lược.

37
Với đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ ngày càng phát triển và giành thắng lợi vẻ vang. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng
cường, Nhà nước dân chủ nhân dân ngày càng vững mạnh, mặt trận Việt Minh, Liên Việt và
các đoàn thể cách mạng đã tập hợp rộng rãi khối đại đoàn kết dân tộc. Kinh tế, văn hóa, giáo
dục phát triển và có nhiều thành công. Ngoại giao từng bước phá thế bị bao vây, tranh thủ
được sự ủng hộ mọi mặt của bè bạn trên thế giới. Đặc biệt, trên mặt trận quân sự, quân đội và
nhân dân Việt Nam đẫ lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh lớn của thực dân Pháp,buộc
thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ, chấm đứt chiến tranh, rút quân Pháp về nước. Miền Bắc
hoàn toàn giải phóng, tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân vì mục tiêu giành độc lập, thắng lợi hoàn toàn.

Câu 6: Ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống pháp và can thiệp Mỹ 1945 – 1954?
Ý nghĩa lịch sử:
Đã bảo vệ và phát triển tốt nhất các thành quả của cuộc Cách mạng Tháng 8. Củng cố và phát
triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội. Mang
đến niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Thắng lợi của cuộc kháng
chiến đưa đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề về chính trị – xã hội quan trọng
để Đảng quyết định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hôi, xây dựng và bảo vệ vững chắc
miền Bắc thành hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử
quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân
tộc Việt Nam; có tính lan tỏa rộng lớn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc. Đã
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của quân đội nhà nghề có tìm lực quân sự
và kinh tế hùng mạnh với các trang bị vũ khí, công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại;
được điều hành bởi các nhà chính trị lão luyện, các tướng tá quân sự tài ba của Pháp – Mỹ.
Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, một nước thuộc địa nhỏ bé đã đánh

38
thắng một cường quốc thực dân, nó có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì hòa
bình, dân chủ và tiến bộ ở các châu lục Á, Phi, Mỹ Latinh.

Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng:


Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến
ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến kiến quốc”, kháng chiến toàn dân,
toàn diện, tự lực cánh sinh là chính. Tinh thần, khí phách đó đã khơi dậy và phát huy cao độ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn lực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân tập
trung vào nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ
trong suốt thời kỳ kháng chiến. Kết hợp sức mạnh nội lực của nhân dân Việt Nam với việc
tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi của quốc tế, phát huy có hiệu quả cao nhất sự ủng
hộ, giúp đỡ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ đối với cuộc kháng chiến.

Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữ hai nhiệm vụ cơ bản vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến. Kháng chiến toàn diện trên
các mặt trận, các lĩnh vực cả kinh tế, văn hóa, xã hội cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời
ưu tiên đẩy mạnh hoạt động quân sự đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết định. Kết hợp
nhuần nghuyễn hình ảnh các thức đấu tranh trên các mặt trận, lấy quân sự làm nòng cốt, lấy
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm chỗ dựa, nền tảng để củng cố, phát triển cơ sở hạ
tầng chính trị – xã hội vững chắc, phát huy hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo và tổ chức cuộc
kháng chiến của Đảng, Chính phủ trên thực tế.

Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng chiến phù
hợp với đặc thù của từng giai đoạn. Phát triển các loại hình chiến tranh đúng đắn, sáng tạo
phù hợp với đặc điểm cuộc kháng chiến và so sánh lực lượng ta địch, đó là loại hình chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Kết hợp chiến tranh chính qui với chiến tranh du kích ở
cả mặt trận chính diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở trường của ta
và cách đánh địch sáng tạo, linh hoạt kết hợp với chỉ đạo chiến thuật tác chiến linh hoạt, cơ
động, “đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng”, thắng từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định.

39
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm vụ chính
trị – quân sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy lực lượng vũ trang,
nhất là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân một cách đúng đắn, thích hợp. Xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trước hết và quan trọng nhất là về tư tưởng – chính trị, trở thành công
cụ chuyên chính sắc bén, tin cậy, làm mũi nhọn, nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa cho
toàn dân đánh giặc. Đảng và quân đội đã xây dựng thành công hình ảnh “ Bộ đội cụ Hồ” trong
kháng chiến; xây dựng Công an nhân dân, mang bản chất giai cấp và tính nhân dân sâu sắc,
công an là “ bạn dân” theo tư tưởng thân dân của HCM.

Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện
của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận. Xây dựng, bồi đắp hình
ảnh, uy tín của Đảng và Chính phủ phải bằng hành động thực tế, bằng sự nêu gương và vai
trò tiên phong của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình tổ chức cuộc
kháng chiến ở cả căn cứ địa – hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm. Hết sức chú trọng công
tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cao nhất, nhiều nhất mọi nguồn lực vật chất trong nhân
dân, phát huy cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân; củng cố lòng tin vững chắc của nhân
dân đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Câu 7: Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975?
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bền bỉ và anh dũng của nhân dân Việt Nam đã giành
được thắng lợi, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơnevơ (7 – 1954), công nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Thế nhưng, sau ngày Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ đã gạt thực dân Pháp, trực tiếp viện
trợ và giúp chính quyền Sài Gòn xây dựng quân đội, hòng biến miền Nam nước ta thành thuộc
địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chia cắt lâu dài Việt Nam, ngăn chặn ảnh hưởng của
CNXH xuống Đông Nam Á, răn đe phong trào giải phóng dân tộc đang trên đà phát triển. Đất
nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất

40
nước qua chặng đường dài 21 năm (1954 – 1975), với vô vàn gian khổ, hy sinh, khó khăn,
phức tạp.

Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ – một kẻ thù có tiềm lực mạnh
về kinh tế, quân sự đứng đầu phe chủ nghĩa đế quốc cùng với bè lũ tay sai, trên cơ sở đánh giá
đúng bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá lực lượng so sánh đôi bên với quan
điểm cách mạng và khoa học; bám sát diễn biến thực tế của tình hình chiến trường trong nước,
khu vực và thế giới; vững tin vào lòng yêu nước và sức mạnh to lớn của nhân dân, Đảng ta đã
đề ra đường lối chiến tranh nhân dân để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
tiến hành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Đường lối
ấy của Đảng không ngừng được bổ sung, ngày càng hoàn chỉnh, là nhân tố quyết định trực tiếp
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đường lối chiến tranh nhân dân trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn
chỉnh qua các Đại hội, Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị từ năm 1954
đến năm 1975.

Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc, đế quốc Mỹ đã từng bước thực
hiện âm mưu xâm lược nước ta. Trước tình hình đó, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa II (6 –
1954) Đảng ta đã xác định: Kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và đang
trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương là đế quốc Mỹ. Về sách lược cách
mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: Do tình hình mới, ta thay đổi phương
châm, chính sách và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước
mắt.

Đến tháng 9 năm 1954, Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính
sách mới của Đảng đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt
Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia
làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung. Trong
điều kiện đó, Hội nghị Trung ương 7 khóa II (3 – 1955) và Trung ương 8 khóa II (8 – 1955)
đã xác định phương hướng, nhiệm vụ của cuộc chiến tranh: “Muốn chống đế quốc Mỹ và tay

41
sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải
ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền
Nam”.

Tiếp đến Hội nghị Trung ương 13 khóa II (12 – 1957) của Đảng xác định đường lối tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất
nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”. Cuối năm 1958 đầu năm 1959, Mỹ
– Diệm tiến hành chính sách cai trị tàn bạo, phát xít hóa, đàn áp khốc liệt phong trào cách
mạng ở miền Nam. Thực tiễn đòi hỏi nhân dân miền Nam phải vùng lên đấu tranh với kẻ thù.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tổ chức Hội nghị Trung ương
15 (1 – 1959) họp bàn về cách mạng miền Nam. Nghị quyết phân tích rõ tính chất, mâu thuẫn
trong xã hội miền Nam. Từ đó, xác định rõ lực lượng cách mạng, kẻ thù, nhiệm vụ của cách
mạng miền Nam; xác định phương pháp cách mạng và con đường mới; dự kiến về khả năng
phát triển của tình hình, xây dựng mặt trận để tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng chống đế
quốc và tay sai, khẳng định sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam là yếu tố quyết
định giành thắng lợi của cách mạng miền Nam.

Đại hội đại biểu lần thứ III (9 – 1960), của Đảng diễn ra trong hoàn cảnh đất nước vẫn tạm
thời chia làm hai miền, mỗi miền có một chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc quá độ lên xã
hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến tới thống
nhất đất nước. Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng Việt Nam: “Tăng cường đoàn
kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”.

− Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ
chiến lược. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải

42
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống
nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
− Mục tiêu chiến lược: Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền
Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể
của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải
quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai
của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình, thống nhất Tổ quốc.

Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các nước chư hầu vào
miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân,
hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Hội nghị
Trung ương 11 (3 – 1965) và Hội nghị Trung ương 12 (12 – 1965) đã phân tích âm mưu, bản
chất của đế quốc Mỹ, đã đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, đi tới kết luận: Mặc dù
đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và
địch không thay đổi lớn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định quyết tâm và nhiệm vụ
chung của cả nước lúc này là: Kiên quyết giữ vững thế chiến lược tiến công, động viên lực
lượng cả nước, quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Tập trung lực
lượng cả nước, kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai trên chiến trường chính là miền Nam.

− Đối với chiến trường chính miền Nam, Nghị quyết xác định phương châm chiến lược
là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định
trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời hết sức tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc
tế.
− Đối với miền Bắc, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tích cực đề
phòng để đánh địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả
nước. Thực hiện chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh phá hoại. Động

43
viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện đắc lực cho cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam.

Trước những thất bại liên tiếp của địch trên chiến trường, Đảng ta chủ trương: Cùng với các
mũi tiến công quân sự và chính trị, cần mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao, nhằm tố cáo,
vạch trần thủ đoạn hòa bình kiểu lừa bịp của đế quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
13 (tháng 01 – 1967) quyết định triệt để tận dụng thời cơ, mở mặt trận ngoại giao, kết hợp
chặt chẽ với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị nhằm đưa cuộc kháng chiến lên bước
phát triển mới.

Sau khi Hiệp định Pari được ký (1 – 1973), địch tiến hành nhiều hoạt động lấn chiến và phá
hoại Hiệp định. Trước tình hình đó, tháng 7 – 1973, Hội nghị TW Đảng lần thứ 21, khoá III
họp và ra Nghị quyết lịch sử: “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”, Hội nghị xác định: “con đường của
cách mạng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, bất kể trong tình huống nào phải nắm
vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt”.

Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam (10 – 1974),
và Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 2) (từ ngày 8 – 12 – 1974 đến ngày 7 – 1 – 1975) chỉ rõ: Nắm
vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết
thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến
tới Tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.

Như vậy, đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954
– 1975) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Hội nghị và Đại hội
của Đảng từ năm 1954 đến năm 1975, đó là đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, và được tập trung trên những nội dung chủ yếu: Xác định mục
đích, đối tượng, nhiệm vụ chiến tranh là đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc; về chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp hai miền Nam Bắc
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và chủ trương tiến hành phương thức tiến
hành chiến tranh nhân dân với đặc trưng nổi bật kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân

44
sự và đấu tranh ngoại giao; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp
đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ;
tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy để giành thắng lợi cuối cùng, cả nước hòa bình,
thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối chiến tranh độc đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp
nhuần nhuyễn và vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc,
giữ nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các nước xã
hội chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp giành thắng
lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong thế kỷ XX.

Câu 8: Đặc điểm, ý nghĩa thắng lợi và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975?
Đặc điểm lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 -1975):
Sớm nhận rõ kẻ thù, đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, có chủ trương phù
hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể, đánh bại từng bước, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn

Giải quyết tốt mối quan hệ và đề ra đường lối chiến lược, nhiệm vụ cách mạng của hai miền
Nam, Bắc và nhiệm vụ cách mạng của cả nước, tạo ra sức mạnh to lớn để đánh thắng kẻ thù

Giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo, tăng cường đoàn
kết và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại.

Ý nghĩa thắng lợi:

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc 21 năm
chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm chống đế
quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
cho đất nước.

45
Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, mở ra
kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm
vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; làm tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực
cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc trên trường quốc
tế; nâng cao khí phách, niềm tự hào và để những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước
và giữ nước.

Làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc tiến công vào chủ nghĩa xã hội và
cách mạng thế giới; đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của
chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến lược chiến
tranh thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và tác động đến nội tình nước Mỹ; làm suy yếu trận
địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông
Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân
chủ và hòa bình thế giới.

Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua,
nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi
được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế
to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước như Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: là sự
toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.

Kinh nghiệm:

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh
toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.

Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và
chiến tranh nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp. Ba là, phải có công tác tổ
chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi ủy quân đội, thực hiện giành thắng
lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn. Bốn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây

46
dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả
nước, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.

Hạn chế của Đảng trong thực tiễn: có thời điểm đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch
chưa thật đầy đủ và còn có những biểu hiện nóng vội, chủ quan, duy ý chí trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Câu 9: Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc 1954 – 1975?

− Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc năm 1954 – 1975:

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay
vào xây dựng, khôi phục kinh tế – văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền
Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này
hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc.

Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh
nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới,
Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt
động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng,
thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy
cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh
thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân
ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình
trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn
bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự
kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

47
Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc
khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế – xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa
và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền
Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho
chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai
trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

Những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc năm 1954 – 1975:
− Những thành tựu cơ bản: Mặc dù miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 21 năm xong thời gian xây dựng thực
sự trong hòa bình chỉ có 8 năm, còn phần lớn thời gian trải qua hai cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ và khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh.Tuy vậy,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã đạt được những thành tựu rất đáng
tự hào.
− Thành tựu to lớn nhất và có ý nghĩa lịch sử nhất là: Đã xóa bỏ chế độ người bóc lột
người. Xác lập được một cách phổ biến chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình
thức: sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân. Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa đã giữ
được vị trí then chốt và có vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng một bước theo hướng tiến lên nền sản
xuất hiện đại. Cùng với công cuộc cải tạo và xây dựng nền kinh tế mới, cơ cấu giai cấp
xã hội miền Bắc cũng đã thay đổi căn bản. Các giai cấp bóc lột đã bị xóa bỏ. Nhân dân
lao động bao gồm công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa và các tầng
lớp lao động đã trở thành người chủ tập thể của chế độ mới. Đó là động lực to lớn trong
công cuộc xây dựng cuộc sống mới, là nguồn sức mạnh hùng hậu của hậu phương lớn.

CHƯƠNG 3:
Câu 1: Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng Sản
Việt Nam?

48
*Thời kì trước đổi mới: Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước
vào thời kỳ khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước:
cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu
đời sống và tích luỹ.

Tại Đại hội IV, Đảng đã có sự chuyển hướng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Từ chủ
trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được đề ra tại Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt
ra nhiệm vụ tập trung cao độ lực lượng cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát
triển vượt bậc về nông nghiệp. Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết
tình trạng thiếu lương thực, khai thác một cách triệt để hơn các nguồn lực trong nước, đồng
thời sẽ tạo ra được những điều kiện và tiền đề cần thiết cho những bước đi tiếp theo.

Trước sự yếu kém của nền kinh tế đất nước, tại Đại hội V năm 1982, Đảng đã có nhiều chủ
trương mới cả trong chiến lược phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất. Từ Đại hội III
năm 1960, Đảng luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.
Đến Đại hội V này, điều mới và quan trọng là Đảng đã xác định cụ thể nội dung và hình thức
công nghiệp hóa trong chặng đường đầu tiên. Đó là “tập trung phát triển mạnh mẽ nông
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên xã hội chủ
nghĩa”.

Sau hơn một thập kỷ nhận thấy rõ những hạn chế của cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao
cấp, nhưng phải tới Đại hội V Đảng mới có một chủ trương thực sự mang tính bước ngoặt để
xác lập một cơ chế quản lý mới về kinh tế thay cho cơ chế cũ. Đảng chủ trương “đổi mới chế
độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp,
khắc phục bằng được tình trạng bảo thủ, trì trệ, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phát huy động lực
làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật”.

Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 – 1985, một số ngành và nhiều địa phương
đã tiến hành những cuộc thử nghiệm, tìm tòi về cách làm ăn mới này nhằm khai thác khả năng
tiềm tàng của nền kinh tế phát triển sản xuất, cải tiến lưu thông, phân phối, đáp ứng nhu cầu
của đời sống nhân dân. Song, cho tới năm 1986 cơ chế tập trung quan liêu bao cấp về căn bản

49
chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính sách, cơ chế đã lỗi thời
chưa được thay đổi, một số thể chế quản lý mới còn chắp vá, không ăn khớp, thậm chí trái
ngược nhau.

Tuy vậy, với chủ trương đổi mới cơ chế quản lý này, Đảng đã đề ra được một phương hướng
quản lý mới có tính khả thi, thể hiện một sự chuyển biến đúng hướng trong quan hệ sản xuất
nói chung và trong việc tổ chức và quản lý sản xuất nói riêng. Đây tiếp tục là một khâu đột
phá mới để tiến tới sự đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế – xã hội.

*Thời kì đổi mới: Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng trong thời điểm
diễn ra Đại hội VI năm 1986. Đảng nghiêm khắc đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng đó, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa nắm vững và vận dụng
đúng quy luật khách quan.

Một bài học sâu sắc được Đảng rút ra tại Đại hội VI là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo những quy luật khách quan. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận
dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản
xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước
được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã
hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố”.

Trên tinh thần đó, và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại hội VI Đảng đã đề ra
chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy
không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật
phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác
định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.

Từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. Các
thành phần kinh tế đó là: Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực
tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó. Các thành phần kinh tế
khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn

50
bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều
hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một
bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác. Đảng khẳng định: chính
sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ đặ trưng nói trên mà đề ra những chủ trương
và biện pháp đúng đắn.

Tại Đại hội VII năm 1991, Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, đưa công
cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc. Trong lĩnh vực quan hệ sản xuất, Đảng
chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh
tế. Phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho
nhau trong nền kinh tế quốc dân. Những điều chỉnh của Đảng về quan hệ sản xuất tại Đại hội
VI đã tạo ra những hệ quả tất yếu của nó, đó là một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã dần hình thành. Sự hình thành
nền kinh tế đó ở nước ta trước hết là do sự đổi mới các quan hệ sở hữu.

So với 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, giai đoạn 1991 – 1996 này Đảng và Nhà
nước ta đã có những đổi mới đi vào chiều sâu của quan hệ sản xuất. Nhờ đó, nền sản xuất
nước ta đã có một quan hệ sản xuất tương đối phù hợp, do đó lực lượng sản xuất được giải
toả, tháo gỡ khỏi nhiều lực cản để phát triển.

Từ thực tiễn đó, tại Đại hội VIII năm 1996, Đảng ta nhận định: nước ta đã chuyển sang thời
kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là một nhận định cực
kỳ quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc đề ra phương hướng, nhiệm vụ sắp tới.

Tại Đại hội Đảng IX, Đảng tiếp tục chủ trương đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát
huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh,
tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước. Để nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế, Đảng đặc biệt chú trọng tới việc hoàn thiện các công cụ quản
lý vĩ mô, nhất là đối với kinh tế Nhà nước, Đảng nhấn mạnh việc phát huy vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, coi đó là động lực vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

51
Đảng đưa ra giải pháp: “Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với
những doanh nghiệp nhà nước không cần 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê. Các doanh
nghiệp loại nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ, sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh
nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện tốt các biện pháp trên”. Đây là một
giải pháp quan trọng, hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước, tăng cường huy động vốn tiềm tàng trong dân cư đầu tư vào doanh nghiệp, tập trung
được đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, thúc đẩy và huy động các
nguồn đầu tư trong nước. Thực hiện giải pháp này cũng có nghĩa là cần phải tích cực chuyển
giao, chuyển đổi một số công nghệ sản xuất và dịch vụ cho các thành phần kinh tế khác, do
đó đây là một bước đi cần phải hết sức thận trọng.

Câu 2: Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển mới
về tư duy lý luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng?
Đi lên chủ nghĩa xã hội là nguyện vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đây
là một quá trình cách mạng sâu sắc triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện thành công quá trình cách mạng
nói trên là phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường”
được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội
chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân
phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội
do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều
kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh, phúc”.

52
Với nền kinh tế thị trường thì Đảng đã sự nhìn nhận sự phát triển về tư duy như sau:

Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu
phát triển chung của nhân loại.

Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy, sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan
trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi,
các yếu tố thị trường như cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa,
phân bổ các nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao
động... phục vụ cho sản xuất và lưu thông. Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các
nguồn lự kinh tế. Trong một nền kinh tế, khi các nguồn lực kinh tế, được phân bổ bằng nguyên
tắc thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến
và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng
bản chất là đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua
quan hệ hàng hóa — tiền tệ. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường đều dựa trên cơ sở phân
công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, làm cho những
người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau.

Trao đổi mua bán hàng hóa là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên, kinh tế hàng
hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế hàng hóa ra đời từ
kinh tế tự nhiên, nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa với quy mô nhỏ bé,
kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Còn kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao,
đạt đến trình độ thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của người
sản xuất hàng hóa. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản
xuất xã hội hóa cao.

Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt
nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ

53
manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối
toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến cho không ít người nghĩ rằng,
kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị trường với tư cách là
kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại.

Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Kinh tế thị trường xét dưới góc độ "một kiểu tổ chức kinh tế" là phương thức tổ chức, vận
hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ
các nguồn lực kinh tế và điều tiết tốt mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường
chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản
thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội.
Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều
phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu, vừa
có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường không phải là phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và
tất nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến phủ định kinh tế thị trường.

Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, có thể
cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở
phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng
hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy
cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.

54
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết thừa kế và
khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước
ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương
tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí
là:

Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bàng, văn minh” giải phóng mạnh
mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm
nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát
nghèo và từng bước khá giả hơn.

Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân
và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh
tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nướ giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều
tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải đuợc dựa
trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát
triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Đồng

55
thời, để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.

Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí
này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh té thị
trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.

Câu 3: So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ
đổi mới.
Giống nhau:
− Về điểm giống qua báo cáo của Bộ Chính trị:
+ Một là, trước đây cũng như hiện nay Đảng ta đều quan niệm công nghiệp hoá là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Hai là, công nghiệp hoá đều nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất xã hội từ lao
động thủ công là chủ yếu sang lao động dùng máy móc, phương tiện kỹ thuật là phổ biến, xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, nâng cao đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân.

+ Ba là, từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất ưu việt của chế độ mới,
tạo ra hạ tầng cơ sở vững chắc cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

+ Bốn là, tiến hành công nghiệp hoá trước đây và hiện nay đều phải được thực hiện theo
hướng hiện đại hoá tuy có sự khác nhau về mức độ. Do sự phát triển rất nhanh chóng của
khoa học và công nghệ trong những thập kỷ gần đây, khái niệm hiện đại hoá luôn luôn được
bổ sung những nội dung mới với phạm vi bao quát nhiều mặt, từ sản xuất, kinh doanh đến
dịch vụ, quản lý. Những tiến bộ khoa học – công nghệ được coi là hiện đại cách đây vài thập
kỷ thì nhiều cái nay đã trở nên bình thường, cần được bổ sung, thậm chí lạc hậu, cần được
56
thay thế. Khái niệm hiện đại hoá mà chúng ta đề cập trong Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa
nhiệm kỳ khoá VII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này được hiểu theo ý nghĩa đó.

− Ngoài ra, còn có một số điểm giống như sau:


+ Thứ nhất, đường lối CNH của Đảng luôn nhấn mạnh đến yếu tố khoa học kỹ thuật công
nghệ (then chốt, quyết định) luôn xác định khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp, hướng
hoặc đề cập trực tiếp tới công nghệ tiên tiến, công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao nhưng những
gì đạt được trên thực tế lại cho thấy khoa học và công nghệ chưa được hiểu một cách đầy đủ,
thống nhất, xứng tầm.

Cơ chế, chính sách cho phép khoa học kỹ thuật công nghệ đóng góp vào sự phát triển nhanh
và bền vững của Tổ quốc còn hạn chế. Thứ hạng trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam
luôn rất thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả một số nước nhỏ về diện tích, không
nhiều về dân số trong khu vực: số lượng các bằng phát minh sáng chế được đăng ký, đội ngũ
các nhà khoa học, chất lượng nguồn nhân lực, bài báo khoa học đăng tạp chí quốc tế, các giải
thưởng danh giá khoa học thế giới đều rất ít.

Đặc biệt, sự hạn chế về nhận thức và kém hiệu quả trong thực hiện sẽ làm cho khoảng cách
chênh lệch phát triển của Tổ quốc chúng ta với nhiều quốc gia sẽ ngày càng xa hơn. Việt Nam
sẽ trở nên lạc hậu, sẽ bị gạt ra rìa trong xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ như ngày nay.

+ Thứ hai, CNH bằng con đường thích hợp để đưa Tổ quốc phát triển đạt trình độ cao về mọi
mặt là mạch tư duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khái
quát bước chuyển biến tư duy lý luận về CNH XHCN cho thấy một điều từ khi chủ trương
đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội tới nay, khát vọng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp
nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp phát triển, khoa học và kỹ thuật tiên tiến,
nhân dân có cuộc sống ấm no tự do và hạnh phúc, là mạch tư duy không bao giờ dứt trong
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những con đường để đạt được điều đó là
thông qua CNH XHCN thành công.

57
+ Thứ ba, khẳng định CNH có tính tất yếu và giữ vị trí nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ góc nhìn lịch sử có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, sự đánh giá của Đảng về tính tất yếu,
vị trí, vai trò, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói chung là tầm quan trọng của công cuộc
CNH đối với đất nước ta là khá nhất quán và xuyên suốt. CNH theo hướng hiện đại được coi
là nhiệm vụ trọng tâm để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp trong khoảng vài chục
năm.

+ Thứ tư, mục tiêu CNH có nhiều điểm giống nhau. Mục tiêu cơ bản của CNH luôn là thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với không ngừng cải thiện đời sống nhân dân và cải biến nước
ta thành một nước công nghiệp (chung một số điểm như: đảm bảo cơ sở vật chất – kỹ thuật,
cơ cấu kinh tế cho chủ nghĩa xã hội ; QHSX tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX;
mức sống vật chất và tinh thần cao; quốc phòng – an ninh vững chắc; dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, ấm no, tự do, hạnh phúc); để thực hiện mục tiêu chung đó, ở
mỗi thời kỳ thường xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được.

+ Thứ năm, mô hình CNH Việt Nam đều sử dụng kết hợp các ưu thế của nhiều mô hình khác
nhau, như một số đặc điểm của mô hình CNH cổ điển, phi cổ điển, CNH thay thế nhập khẩu,
CNH hướng vào xuất khẩu, CNH tư bản chủ nghĩa, CNH XHCN.

+ Ngoài ra: khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước chưa cao; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo bản chất và nội dung CNH hiện đại còn chậm; liên tục đổi mới tư duy để
hoàn thiện các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế trong quá trình thực hiện CNH Tổ
quốc.
Khác nhau:
− Theo Bộ chính trị: “Bên cạnh những điểm thống nhất nêu trên, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hiện nay có nhiều cái khác so với trước đây” mà một số điểm chính là:
+ Đường lối công nghiệp hoá trước đổi mới được tiến hành theo cơ chế cũ, tập trung quan
liêu, bao cấp; thực hiện kế hoạch hoá tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ở thời kỳ đổi mới,
chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo cơ chế mới, là cơ chế thị trường có sự
58
quản lý của Nhà nước. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng; thị trường phản ánh nhu cầu
xã hội, có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ
cấu kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.

+ Trước đổi mới, công nghiệp hoá thường được hiểu là việc của Nhà nước, thông qua khu vực
quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Trong đổi mới, nó là sự nghiệp của toàn dân với sự tham
gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước cũng linh hoạt hơn, bao gồm những doanh nghiệp mà
Nhà nước nắm một số cổ phần, khống chế tương đối hay tuyệt đối. Đồng thời thực hiện đa
dạng hoá và đan xen các loại hình sở hữu.

+ Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng
nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vàhội nhập kinh tế quốc tế. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn
lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất
yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện
đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường thế giới. Hội nhập
quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

+ Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện
công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế
hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện
bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.

+ Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên
đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới,
lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi

59
phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công
nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý
chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với pháttriển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn
đa dạng sinh học.

− Bên cạnh đó, còn có những điểm khác như:


+ Thứ nhất, về cách giải quyết mối quan hệ giữa phát triển LLSX và xây dựng QHSX XHCN
trong quá trình công nghiệp hóa: Đường lối CNH của Đảng chuyển từ CNH gắn với quan
niệm xây dựng QHSX XHCN đi trước một bước mở đường cho sự phát triển của LLSX,
chuyển sang thực hiện ưu tiên phát triển LLSX hiện đại, đồng thời xây dựng QHSX tiến bộ
phù hợp.

+ Thứ hai, về bước đi, tốc độ của công nghiệp hóa: thời kỳ đổi mới, Đảng xác định: quá trình
CNH phải được tiến hành từng bước phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ chưa thể đẩy
mạnh CNH, mà là tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH ở chặng đường tiếp theo (chủ trương
đẩy mạnh CNH từ Đại hội VIII – 1996); cơ cấu kinh tế hợp lý với từng thời đoạn; con đường
CNH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.

+ Tư duy CNH của Đảng thời đổi mới xác định: con đường CNH ở nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước
đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các
nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại và qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Như vậy, đường lối CNH chuyển từ CNH XHCN với cách làm nóng vội, bỏ qua các bước đi
trung gian cần thiết, đã chuyển sang thực hiện CNH vừa có bước đi tuần tự, giai đoạn trước
tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau theo trật tự tuyến tính, vừa cho phép phát triển
“rút ngắn” trên cơ sở đi tắt, đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về khoa học và công
nghệ của thế giới.

60
+ Thứ ba, xây dựng cơ cấu kinh tế (mối quan hệ giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ,
nông nghiệp, kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, sản xuất, phân phối, tiêu dùng); cơ chế
và mô hình nền kinh tế trong quá trình CNH. Từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế
công – nông nghiệp đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, hiện đại hoá để đưa
nước ta đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ cấu kinh tế công –
nông nghiệp và dịch vụ hiện đại. Từ nền kinh tế “khép kín”, “hướng nội”, quan hệ chỉ khép
kín trong hệ thống XHCN, chuyển sang thực hiện một nền kinh tế mở đa dạng, đa phương
phù hợp thông lệ quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu. Chuyển
từ CNH thực hiện trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang tuân
theo thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới thành một chỉnh thể hữu cơ,
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.

+ Thứ tư, CNH, HĐH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển nhanh, bền vững: Từ
quan niệm CNH cổ điển chuyển sang quan niệm CNH, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
tri thức, thực hiện các mục tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không làm tổn hại
đến khả năng phát triển trong tương lai (phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ tài nguyên môi
trường).

+ Ngoài ra, CNH còn có các đặc điểm được nhận thức rõ và nhấn mạnh hơn: Đẩy mạnh CNH,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Khoa học và công nghệ cũng là quốc
sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển kinh
tế tri thức.

Câu 4: Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất
nước?
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

61
*Các quan điểm chỉ đạo

Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế – xã hội. Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì
sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó phải giải quyết
hài hoà giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững và
lâu dài.

Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò của việc xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này vừa phải là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Mọi hoạt động kinh tế
phải đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế,
vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng thời, phải chú trọng khai thác văn hóa
như một nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế – xã hội, nhất là phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn hóa. Như vậy, văn hóa không phải là kết quả
thụ động của nền kinh tế mà là nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quan điểm này xác định phương hướng và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mà chúng ta
tập trung xây dựng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa phải
thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định tầm vóc, vị thế của văn hóa dân tộc
trong giao lưu và hợp tác quốc tế.

Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Quan điểm này nhấn mạnh đến tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta về đảm bảo tính thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở sự thống nhất về truyền thống yêu nước
và tinh thần đại đoàn kết của các dân tộc anh em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; thống nhất ở việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với việc

62
xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa; thống nhất ở ý chí và nguyện vọng chung của cộng
đồng các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Tính thống nhất là điều kiện để đảm bảo sự phát triển đa dạng của văn hóa các dân tộc trên
lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, trên đất nước ta có 54 dân tộc với các đặc trưng văn hóa khác
nhau. Các giá trị và các đặc trưng văn hóa đó bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, làm
phong phú cho nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất quốc gia.

Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong
đóđội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng
và phát triển sự nghiệp văn hóa.

Mọi người dân Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh đều có vinh dự, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ tham gia xây dựng và phát
triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.

Thứ năm, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Quan điểm này nhấn
mạnh tới phương pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nói: Văn hóa là một mặt trận, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt
động văn hóa phải là chiến sĩ trên mặt trận đó. “Mặt trận” là nơi đoàn kết thống nhất ý chí và
tình cảm của nhân dân, của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa vào
thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp đổi mới do Đảng đề ra. “Mặt trận” là nơi đấu tranh
chống lại cái xấu, cái ác và cái giả, khẳng định cái đúng, cái tốt và cái đẹp nhằm xây dựng
môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh.

Đồng thời, đây cũng là nơi để chống lại mưu toan phá hoại của kẻ thù, đặc biệt là âm mưu
“diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch quốc tế trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong

63
quá trình đó, “xây” phải đi đôi với “chống” và lấy “xây” làm trọng tâm. Quan điểm này cũng
nhấn mạnh đến tính đặc thù của việc xây dựng và phát triển văn hóa.

Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị mới
tích cực và tiến bộ, loại bỏ những yếu tố bảo thủ và lạc hậu trong nền văn hóa, làm cho các
giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn
minh, nhân bản là một quá trình đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và
cần phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan duy ý chí.

Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần phải nhận
thức sâu sắc rằng, sản phẩm văn hóa là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, hoàn toàn khác với
sản phẩm hàng hóa thông thường khác. Đây là phương tiện để biểu đạt đời sống tinh thần của
mỗi dân tộc. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội cần có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ và
phát triển nền văn hóa của dân tộc mình, chống nguy cơ bị đồng hóa về văn hóa.

Câu 5: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức sâu sắc
vị thế của Ðảng duy nhất cầm quyền. Theo đó, “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định: Ðảng
Cộng sản Việt Nam – Ðội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Ðảng Cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Ðảng và đảng
viên Ðảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Việc khẳng
định vai trò lãnh đạo của Ðảng là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, là vấn đề có tính nguyên

64
tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị – xã hội mà Việt
Nam đã lựa chọn.

Lịch sử Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ 20 đến nay đã đánh dấu nhiều mốc son chói
lọi, gắn liền với sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðó là các sự kiện dân tộc ta đứng
lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); vừa kháng chiến vừa
kiến quốc, thống nhất đất nước và nay đang thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sứ mệnh và vai trò của
Ðảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định ngay từ khi mới thành lập, được chỉ rõ trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.

Nhờ đó, “Ðảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại:
+ Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.

+ Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

+ Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại trong hơn 30 năm đổi mới càng khẳng định tầm vóc to lớn về vai trò lãnh
đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, cho đến nay, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống của nhân dân vẫn còn
nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện các Nghị
quyết của Ðảng hiệu quả chưa cao, chưa tạo được sự lan tỏa lớn. Nhiều cán bộ, đảng viên,
trong đó có lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa xác định rõ trách nhiệm và chưa thật sự gương
mẫu trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong, còn trục lợi, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực. Ðặc biệt, có cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu, đã vi phạm
nghiêm trọng kỷ luật của Ðảng, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân.

65
Ðể khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu chống phá của
các thế lực thù địch, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, hơn lúc nào hết Ðảng cần và phải nâng cao năng lực lãnh đạo của mình. Theo đó,
tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:

+ Một là, củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng, tiếp tục giành được sự ủng hộ tuyệt
đối của nhân dân. Theo quan điểm mác – xít, chính đảng là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp,
là tổ chức chính trị đại diện cho giai cấp và tập đoàn nhất định trong xã hội có giai cấp. Một
trong những chức năng cơ bản của chính đảng là phản ánh lợi ích, nguyện vọng và yêu cầu
của giai cấp, tầng lớp, tập đoàn nhất định. Do vậy, với Ðảng ta, trong quá trình củng cố và mở
rộng nền tảng xã hội của Ðảng thì vấn đề mấu chốt là Ðảng phải kiên định với chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đồng thời lấy đó làm cơ sở để
xây dựng nền tảng xã hội của Ðảng. Vì thế, Ðảng không chỉ phải làm tốt vai trò là người lãnh
đạo, mà còn phải làm tốt bổn phận “là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

Là một tổ chức lãnh đạo, Ðảng phải có đủ trí tuệ và bản lĩnh chính trị, đề ra đường lối, chủ
trương đúng đắn, vượt qua mọi khó khăn thử thách đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng
tiến lên; thực hiện trọn vẹn mục tiêu, lý tưởng Ðảng đã lựa chọn, xứng đáng với niềm tin
tưởng tuyệt đối của nhân dân. Là người “đày tớ”, Ðảng và từng cán bộ, đảng viên phải phụng
sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân vô điều kiện; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì
có hại cho dân phải hết sức tránh. Ðể có thể làm tốt cả hai phận sự ấy, mỗi đảng viên và cán
bộ của Ðảng phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng đối
với công tác dân vận trong tình hình mới” có ý nghĩa quan trọng với vai trò lãnh đạo của
Ðảng. Bởi, hơn bao giờ hết, mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng phải thực sự “hết lòng vì dân”,
mới được “dân hết lòng vì Ðảng”.

+ Hai là, phòng, chống triệt để những biểu hiện quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội
chủ nghĩa, kiêu ngạo cộng sản.

66
Ðối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, vai trò lãnh đạo được thể hiện bởi hiệu quả lãnh đạo Nhà
nước và toàn xã hội. Ðiều đó đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử, kể từ khi lãnh đạo
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội trước đây và công cuộc đổi mới,
phát triển đất nước hiện nay. Theo đó, vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước được xem
là trụ cột của cơ chế vận hành trong hệ thống chính trị; Ðảng lãnh đạo hệ thống chính trị nói
chung và Nhà nước nói riêng là nhân tố bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, với bản chất là pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh
hành vi các quan hệ xã hội và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

Cần khẳng định rằng, Ðảng Cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính
trị là nguyên tắc không thể thay đổi. Tuy nhiên, ngoài những mặt rất cơ bản, tích cực của một
đảng duy nhất cầm quyền, sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế nhất định, những nguy cơ
có thể xảy ra. Ðiều đó đã từng được V.I.Lênin cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối,
quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản khi Ðảng cầm quyền. Với Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Người đặc biệt chú ý nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng
viên ngay sau khi giành được chính quyền. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc
nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một đảng
cầm quyền.

Ðối với Ðảng ta hiện nay, các nguy cơ đó có thể bị ngăn ngừa, đẩy lùi, khắc phục bằng việc
từng bước đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
mà trước hết là dân chủ trong Ðảng, dân chủ trong các cơ quan quyền lực nhà nước và trong
toàn xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng quán triệt và thực hiện tốt chức trách và công
việc được giao, kiên quyết đấu tranh phòng, chống các biểu hiện: "Miệng thì nói dân chủ,
nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ
làm trái ngược với lợi ích của quần chúng”. Nếu lãnh đạo chỉ thiên về quyền lực “làm việc
theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm”, là đồng nghĩa với lãnh
đạo thiếu văn hóa. Văn hóa cầm quyền của Ðảng là phải “sao cho được lòng dân”, “Chính
phủ là công bộc của dân”.

67
+ Ba là, lãnh đạo thực hiện hiệu quả Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết.

Ðối với nước ta, tệ nạn tham nhũng và sự kém hiệu quả trong đấu tranh chống tệ nạn này có
nguyên nhân từ sự thiếu gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4, khóa XI chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Từ đó làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Ðảng, vào bản chất tốt đẹp của chế độ.

Trong bối cảnh hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh,
Ðiều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
gương mẫu thực hiện các quy định của Ban Bí thư, quy định của Bộ Chính trị, quy định của
Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương, xây dựng hình tượng cán bộ, đảng
viên trong sạch, liêm khiết; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao lập trường cách mạng, bản chất giai
cấp công nhân của Ðảng; ra sức học tập đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đẩy
mạnh đấu tranh chống tham nhũng dưới mọi hình thức; nêu cao tính đảng, tính gương mẫu
trong quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Ðó thực sự là
một mặt trận chiến đấu đầy cam go, phức tạp, không kém phần quyết liệt và có ý nghĩa quyết
định sự "mất, còn" đối với uy tín lãnh đạo của Ðảng, lòng tin của nhân dân đối với Ðảng.

Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đất nước đã vượt qua
tình trạng một nước nghèo, kém phát triển; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tăng trưởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những
nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Không ngừng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội. Thực hiện nhất quán và

68
thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao vị
thế của đất nước. Hiện nay, Ðảng tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Ðảng
đối với hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp
của toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng, tạo xung lực mới thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới và phát triển đất nước.

Câu 6: Nội dung Đường lối toàn diện của Đại hội VI (12/1986) và quá trình thực hiện.

− Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện.
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong bối cảnh cuộc
cách mạng khoa học – kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần
thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế
quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội. Lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng 300% năm 1985 lên 774%
năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ
biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước.

Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu,
nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 –
1986. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về
chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm,
khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.

Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên
nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ
của Đảng. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

69
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý,
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh,
kết hợp kế hoạch với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một
cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực-
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp
hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.

Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức
thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội.

Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế
là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại.

Đại hội VI nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có
hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.

70
Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, cần có
chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả năng
trong chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết
việc làm cho người lao động.

Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi
lĩnh vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức
khỏe của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.

Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng
kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo
vệ Tổ quốc.

Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của
nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân
tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và
trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và
hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới
công tác tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”;
tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của
quần chúng.

Sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ. Nhưng tình hình diễn biến phức
tạp, có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua: ba năm liền lạm pháp ở mức ba con số; đời
sống của những người hưởng lương và trợ cấp xã hội giảm sút mạnh; nhiều xí nghiệp quốc

71
doanh và hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp đình đốn, thua lỗ, sản xuất cầm chừng, thậm chí
phải đóng cửa; hàng chục vạn công nhân buộc phải rời xí nghiệp; hàng vạn giáo viên phải bỏ
nghề; những vụ đổ vỡ quỹ tín dụng xảy ra ở nhiều nơi. Những diễn biến quốc tế phức tạp tác
động xấu đến tình hình nước ta.

Trong hoàn cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, ra sức khắc
phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách,
từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống.

Đầu năm 1988 có nạn đói lớn ở nhiều vùng và lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng từ năm
1989 trở đi nước ta đã bắt đấu xuất khẩu được mỗi năm 1 – 1,5triệu tấn gạo; lạm phát giảm
dần, đến năm 1990 còn 67,4%. Việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn đạt những tiến bộ rõ
rệt. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước bước đầu hình thành. Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội
được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; hoạt động đối ngoại được mở rộng, đẩy
lùi tình trạng vị bao vây, cô lập. Công tác xây dựng Đảng có tiến bộ. Lòng tin của nhân dân
từng bước được khôi phục.

Tuy vậy, những kết quả đạt được còn hạn chế và chưa vững chắc, nhiều vấn đề bức xúc nảy
sinh. Đại hội VII của Đảng nhận định: Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng, nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội.

Câu 7: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991 và năm 2011)?
Quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm. Cương lĩnh năm 2011 có diễn
đạt mới về những thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là thắng
lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo
vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới. Cách diễn đạt mới
đảm bảo vừa trung thực với lịch sử, vừa cổ vũ niềm tự hào dân tộc và phù hợp với quan hệ
đối ngoại trong tình hình mới. Ngoài ra còn bổ sung ý nghĩa của những thành quả do các thắng
72
lợi trên mang lại và đánh giá tổng quát sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân, thái độ của Đảng
trước những sai lầm đó.

− Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới diễn biến phức tạp.

Về đặc điểm, xu thế chung: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá
trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những
hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh
cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp,
lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên, cạnh tranh quyết liệt về kinh tế tiếp
tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động
những vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định.

Đánh giá về chủ nghĩa xã hội: Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt những thành tựu
to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần
quan trọng vào cuộc đấu tranh hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. “Chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng
thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên
định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp
tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục”.

Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất công. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự
vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết
định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.

Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp
chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ
quyền dân tộc. Những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là gìn
giữ hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ về dân

73
số, phòng ngừa và đẩy lùi bệnh tật hiểm nghèo. Ở đây bổ sung hai vấn đề là chống khủng bố
và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Đặc điểm nổi bật hiện nay của thời đại là: các nước có chế độ chính trị và trình độ phát triển
khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân
tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển
và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. “Theo
quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

− Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản:

Cương lĩnh năm 2011 nêu rõ “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”.

Trong các đặc trưng, ngoài đặc trưng “Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
không đổi, Cương lĩnh năm 2011 có bổ sung hai đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Các đặc trưng khác diễn đạt
mới rõ hơn, không chỉ là thay đổi từ ngữ mà chứa đựng những nội dung mới, với ý nghĩa phù
hợp hơn với mục tiêu khi nước ta đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh, quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.

74
Sau khi chỉ rõ những thuận lợi cơ bản, Cương lĩnh năm 2011 xác định mục tiêu tổng quát khi
kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa
xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Mục tiêu đến giữa thế
kỷ XXI là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ tám phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh.

Cương lĩnh năm 2011 bổ sung cần nắm vững và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn: Quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ.

Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế,

75
bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được khuyến khích phát triển”.

Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp
lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các
ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công
nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm
phát triển hài hoà giữa các vùng, miền. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong
đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.

Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, là chủ thể phát triển. Xây dựng con người
Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ,
lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình
no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng,
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Coi phát triển giáo dục và đào tạo cùng
với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo
là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển

76
của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ
hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh
xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân học tập suốt đời.

Nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế
giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài đẩy
mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của cả
hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn
ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng
sạch, sản xuất và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo, thực hiện các giải pháp ứng
phó với biến đổi khí hậu và thảm hoạ thiên nhiên.

Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ; khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào
lao động; thiết lập hệ thống đồng bộ, đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội; hạn chế, tiến tới
đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới
tính và chất lượng dân số.

Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn
kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng. Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng
tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Xây dựng đội ngũ những
nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước
và dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan
tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào
định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật các
nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước. Thực hiện chính sách
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, gắn bó mật thiết với sự phát
triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

77
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống
tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số. Tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp
luật.

Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã
hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân
sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp tác
quốc tế về quốc phòng, an ninh. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân và
sự nghiệp quốc phòng, an ninh.

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của
đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm
dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ
gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo
đảm.

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền
lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong

78
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức
liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức
xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ
thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là
thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyên,
hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.

Về Đảng Cộng sản Việt Nam, bổ sung cách diễn đạt bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc.

Cương lĩnh năm 2011 tiếp tục khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to
lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi.

Cương lĩnh năm 2011 bổ sung, làm rõ phương thức lãnh đạo của Đảng: Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị,
đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động,
tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất

79
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng
lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính
trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng
cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Làm rõ quan hệ Đảng với nhân dân: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Về xây dựng Đảng: Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
và năng lực lãnh đạo.

Cương lĩnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về lý luận và thực tiễn, là sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam; thể hiện nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Cương lĩnh là cơ sở đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động của
toàn Đảng, toàn dân, là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt
Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi
Cương lĩnh này, Việt Nam nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh
phúc.

Câu 8: Thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp
đổi mới?
Công cuộc đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
diện, triệt để; là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việt Nam đã đã đạt được những thành tựu to lớn,

80
có ý nghĩa lịch sử. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém
cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Về thành tựu:
Thứ nhất, kinh tế tăng trưởng khá.
Thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát;
tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm nước có mức tăng
trưởng khá cao trên thế giới. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Môi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa
được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân năm là 7,5% và hai năm 2006-2010 tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm;
trong 10 năm 2001-2010 tăng trưởng 7,26% /năm, đạt mục tiêu chiến lược đã đề ra; GDP 5
năm 2011-2015 bình quân 5,9%; năm 2018 đạt 6,7%. Việt Nam là một trong những nước có
tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh so với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước
đang phát triển có thu nhập trung bình trên thế giới.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành và phát triển; thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được quan tâm xây dựng và từng bước
hoàn thiện. Tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
từng bước được thể chế hoá thành pháp luật, cơ chế, chính sách. Các hình thức sở hữu, thành
phần kinh tế và chế độ phân phối đã phát triển đa dạng, từng bước tuân thủ các quy luật của
kinh tế thị trường và phù hợp với điều kiện của đất nước. Các chủ thể kinh tế tự do kinh doanh
và cạnh tranh theo quy định của pháp luật, ngày càng phát huy vai trò tích cực trong nền kinh
tế quốc dân. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường đang hình thành, phát triển, cơ bản
đã có sự liên thông, gắn kết thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường quốc
tế. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường
thế giới.

Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đô thị được đầu tư xây dựng tăng lên đáng kể, nhất
là đường bộ, sân bay, bến cảng, cầu. Xây dựng các ngành công nghiệp hiện đại, dầu khí, điện

81
với các nhà máy thủy điện lớn Hòa Bình, Sơn La, Trị An, Tuyên Quang, Lai Châu và nhiều
nhà máy nhiệt điện.

Thứ hai, văn hóa – xã hội có bước phát triển.


Bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta
đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ thị về văn hóa nói chung; về giáo dục, đào tạo; khoa
học, công nghệ; báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật nói riêng. Những văn kiện đó đã thể
hiện bước tiến về nhận thức lý luận của Đảng về vẫn hóa. Bầu không khí xã hội dân chủ, cởi
mở hơn; dân trí được nâng cao; tính tích cực cá nhân và xã hội được phát huy. Những nhân tố
mới, giá trị mới của văn hóa, con người Việt Nam từng bước được định hình trong đời sống.
Quyền tự do sáng tạo, quảng bá văn hóa, văn học, nghệ thuật được tôn trọng; quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt tâm linh của nhân dân được quan tâm thực hiện. Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới” và các phong
trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa đạt được những kết quả tích cực. Nguồn lực của
Nhà nước, của xã hội đầu tư cho văn hóa được nâng lên; hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung
ương đến cơ sở được xây dựng, từng bước hoàn thiện và phát huy tác dụng. Giao lưu, hợp tác
và hội nhập quốc tế về văn hóa được mở rộng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa có tiến
bộ; các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách về văn hóa, con người từng bước được đổi mới,
hoàn thiện; đội ngũ làm công tác văn hóa có bước trưởng thành.

Việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Các chính sách về
lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mỗi năm bình quân tạo ra 1,5 – 1,6 triệu việc làm mới. Đã tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo
theo từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Chỉ số phát triển con
người tăng lên, từ 0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 100/177 nước tham gia xếp
hạng. Thu nhập thực tế sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Chênh lệch thu nhập giữa
thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm
2008. Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Đã hoàn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên
kỷ do Liên hợp quốc đề ra cho năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5 –

82
2%/năm. Tỷ lệ nghèo của cả nước năm 1993 là 58% đến năm 2018 còn khoảng 6%. Đến năm
2018, hơn 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới theo 19 tiêu chí Chính phủ đề ra. Việt Nam đã
đạt phổ cập trung học cơ sở. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp quốc
và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao. Chăm sóc sức khỏe nhân dân đã có nhiều tiến
bộ, coi trọng cả về xây dựng thể chế, y tế dự phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc, khám,
chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính sách ưu đãi người có công
đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Cả nước hiện có khoảng 8,8 triệu người có
công, chiếm khoảng 10% dân số, có khoảng 1,4 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện và đa dạng, ngày càng mở rộng và
hiệu quả.

Thứ ba, giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Phát triển và ngày càng hoàn thiện. Nhận thức ngày càng rõ hơn bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ biện chứng, không thể
tách rời; trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải đồng thời coi trọng
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Có xây dựng tốt mới tạo được sức mạnh cho bảo vệ Tổ quốc, có
bảo vệ tốt mới tạo được điều kiện thuận lợi cho xây dựng đất nước. Nhận thức về kết hợp chặt
chẽ nhiệm vụ kinh tế với quốc phòng; quốc phòng với an ninh và đối ngoại ngày càng đầy đủ,
toàn diện hơn. Đảng khẳng định: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt,
phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên. Nhận thức về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của
Đảng và quản lý của Nhà nước đôi với lực lượng vũ trang, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc ngày càng hoàn thiện. Nhận thức về đối ngoại quốc phòng và hội nhập quốc
tế về quốc phòng có sự phát triển.

Việc kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; xây dựng khu kinh tế – quốc phòng có chuyển biến quan trọng; nhất là kết quả về hoàn
thành phân giới, cắm mốc đường biên giới trên bộ, phân định ở Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc;
từng bước hoàn thiện việc phân giới, cắm mốc đường biên giới trên bộ với Lào, Campuchia.
Những kết quả nói trên góp phần nâng cao thê và lực của đất nước, tăng cường sức mạnh tổng
hợp bảo vệ Tổ quốc.

83
Thứ tư, đối ngoại đạt nhiều thành tựu mới.
Nhận thức chung của Đảng ta về thời đại, về thế giới và khu vực ngày càng rõ và đầy đủ hơn.
Từ định hướng coi “đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của
chính sách đối ngoại” từng bước chuyển sang đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối
ngoại. Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, là
“thành viên có trách nhiệm” của cộng đồng quốc tế. Đổi mới nhận thức về hợp tác và đấu
tranh, từ quan niệm về địch, ta, chuyển sang cách nhìn nhận có tính biện chứng về đối tác và
đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia-dân tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhận thức thực tế
hơn quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thông và quan hệ với các nước
láng giềng, khu vực, các nước lớn; đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. Từ “phá thế bị bao
vây, cấm vận” tiến đến “hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới”, và tiếp theo là “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện.

Đến năm 2018, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng số 193 nước thành
viên Liên hợp quốc. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, quan hệ đối tác toàn
diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp
ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và thế giới, phát huy vai
trò tích cực trong cộng đồng ASEAN. Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009. Ngày 7/6/2019, Đại hội đồng Liên hiệp quốc bầu
Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020 – 2021 với số
phiếu cao 192/193. Năm 1996, Việt Nam tham gia Diễn đàn kinh tế Á-Âu (ASEM). Ngày
14/11/1998, Việt Nam gia nhập tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC).
Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC năm 2006 và năm 2017.

Cùng với việc tăng cường ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại đảng và ngoại giao nhân
dân được mở rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa phương. Quan
hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố và có những bước
phát triển, ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Quan hệ Việt Nam – Campuchia được củng
cố và tăng cường về nhiều mặt. Quan hệ với Trung Quốc có những bước tiến triển, nhất là
trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Đã ký Hiệp định biên giới trên bộ Việt Nam – Trung Quốc

84
1999, phân giải cắm mốc xong trên thực địa toàn tuyến biên giới; phê chuẩn Hiệp định phân
định và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ.

Đảng đã nhận thức rõ hơn cơ chế vận hành của hệ thống chính trị ở nước ta là: “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, chú trọng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh, tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; thực
hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội.

Những thành tựu chủ yếu nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát
triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Những thành tựu trên đây là
do Đảng có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng đã nhận thức, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thông
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với
Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách
phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi. Đông
đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, thuận
lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp đổi mới được bạn
bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.

Về ý nghĩa lịch sử:


Qua gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng
được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Đời sống
nhân dân ngày càng nâng cao, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, văn

85
hóa xã hội không ngừng phát triển. Việt Nam đã vượt qua ngưỡng nước nghèo, chậm phát
triển trở thành nước có thu nhập trung bình; đang thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiểm soát
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý;
chủ dộng và tích cực hội nhập quốc tế.

Công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của tình hình nước ta, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại; có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, một
sự nghiệp thật sự sáng tạo của nhân dân ta; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Về kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sông còn. Quá
trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới, những khó khăn,
thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng tạo.

Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức
tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức
đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan

86
trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát
huy truyền thông dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế
phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích
của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.

Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi
mới. Đổi mới phải dựa vào nhân dân. Vì thế, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm
“dân là gốc”, phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành
quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cần phải phát huy quyền làm chủ, sức
sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống
đặc quyển, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vẩn đề do thực tiễn đật ra.

Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý

87
của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp
trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.

Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm phù
hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp sẽ gây mất ổn định, thậm chí
rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ
động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát
triển.

Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để đổi
mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực
tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường
lối đổi mới.

Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ
sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở sự phát triển; thực
hiện nói đi đôi với làm.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

Luôn luôn coi lợi ích quốc gia – dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần
kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh dân
tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc mạnh hơn, dựa trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào

88
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan
hệ mật thiết với nhân dân.

Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới. Tăng cường sự lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng;
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên tự
chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.

Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực
và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.

Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phát
huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới.

Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân lên từ
sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống
chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp
thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.

Với thành công của công cuộc đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng rõ hơn. Rõ hơn về mục tiêu mô hình chủ nghĩa xã hội;

89
rõ hơn về những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội, chặng đường, bước đi của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; rõ hơn về nội dung bỏ qua chủ nghĩa tư bản (bỏ qua việc thiết lập kiến
trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản) nhưng có thể kế thừa những thành
quả mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là kinh nghiệm tổ chức, quản
lý và sự phát triển của khoa học-công nghệ, đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đổi mới đã tạo thế và lực mới của đất nước.

Khẳng định đó của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (10/2016) cho thấy cơ sở vững chắc để
Việt Nam có thể phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng với lịch sử anh hùng, vẻ vang của
Đảng và dân tộc.

90

You might also like