LUẬT SO SÁNH

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 55

LUẬT SO SÁNH

Chương 1. NHẬP MÔN LUẬT SO SÁNH


I. Khái niệm Luật so sánh

1. Định nghĩa Luật so sánh

a. Luật so sánh là gì?

- Luật so sánh (Comparative Law)

- Định nghĩa “luật so sánh” theo một học giả Việt Nam: “Luật so sánh là phương pháp để xem xét, nghiên
cứu, tiếp cận PL trên bình diện của sự giao lưu quốc tế.”

Nhận xét: ưu điểm là ngắn gọn; nhược điểm là cụm từ cuối “bình diện của sự giao lưu quốc tế” khó hiểu, đi
ngược lại với quan điểm của các học giả trên thế giới.

- Định nghĩa “luật so sánh” theo Michael Bogdan: “Luật so sánh bao gồm:

+ So sánh các HTPL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng;

+ Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt đã được xác định, chẳng hạn, giải thích nguồn gốc
của chúng, đánh giá những giải pháp được sử dụng trong các HTPL khác nhau, phân nhóm các HTPL
thành các dòng họ PL hoặc tìm kiếm những điểm cốt lõi chung của các HTPL;

+ Làm rõ những vấn đề mang tính phương pháp luận nảy sinh có liên quan đến các nhiệm vụ trên, bao
gồm cả những vấn đề có tính phương pháp luận liên quan đến việc nghiên cứu PL nước ngoài.”

Nhận xét: ưu điểm là nêu được đầy đủ các nội dung của LSS; nhược điểm là dài, phức tạp, mặc dù liệt kê chi
tiết nội dung nhưng không nêu rõ được bản chất của LSS.

b. Đặc điểm của Luật so sánh

- “Luật so sánh” không phải là một ngành luật hay lĩnh vực PL thực định trong HTPL quốc gia, tức là
“luật so sánh” không phải một hệ thống các QPPL điều chỉnh một lĩnh vực nhất định trong đời sống XH như
luật dân sự, luật hình sự, luật hôn nhân gia đình.

- “Luật so sánh” là một ngành khoa học pháp lý độc lập: bản chất của LSS, dựa trên các lập luận sau:

+ Việc thường xuyên so sánh các HTPL với nhau đã tạo ra một hệ thống tri thức độc lập với hệ thống tri
thức của các ngành khoa học độc lập khác.

+ Tương tự các ngành khoa học khác, nhất là KHXH, khi thực hiện so sánh có thể phát sinh ra ngành
khoa học độc lập. Ví dụ: bên cạnh ngành triết học có ngành triết học so sánh, bên cạnh ngành XH có ngành
XH so sánh…

+ Các học giả đã chứng minh được luật so sánh và phương pháp so sánh luật là hoàn toàn khác nhau.

=> không thể coi LSS là một phương pháp nghiên cứu mà phải coi đó là một ngành khoa học độc lập.

- Phạm vi nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng: căn cứ vào định nghĩa LSS của Micheal Bogdan:

+ So sánh các HTPL khác nhau để xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng: hiện nay
trên thế giới có hàng trăm HTPL (mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có ít nhất một HTPL, ở các quốc gia
liên bang thì mỗi bang lại có một HTPL riêng như Hoa Kỳ, Đức, Nga), mà không có hai HTPL nào trùng
hoàn toàn với nhau => số lượng đối tượng nghiên cứu là rất lớn.

+ Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt giữa các HTPL: trong mỗi HTPL đều có rất nhiều các
chế định, nguyên tắc, quy phạm => có rất nhiều nội dung để LSS nghiên cứu.

- Luật so sánh không đồng nhất với nghiên cứu PL nước ngoài: Trong quá trình nghiên cứu LSS, các nhà
nghiên cứu, các luật gia thường so sánh các HTPL của nước ngoài với HTPL của nước mình hoặc so sánh
pháp luật của các nước ngoài với nhau.

2. Đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh

- Mặc dù còn tranh luận về bản chất của LSS nhưng các học giả đều thừa nhận: “việc so sánh các HTPL
khác nhau nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của chúng” là nội dung cơ bản, chủ đạo của
các công trình LSS.

a. Khát quát các đối tượng nghiên cứu

- HTPL (Legal System): có 3 cách hiểu (cách sử dụng):

+ Tổng thể các QPPL của một quốc gia/ vùng lãnh thổ. Ví dụ: tổng thể các QPPL của Trung Quốc.

+ Tổng thể QPPL và thiết chế PL của một quốc gia/ vùng lãnh thổ. Ngoài các QPPL còn có các vấn đề
khác như mô hình tổ chức Tòa án của quốc gia đó, về hoạt động nghề nghiệp của luật sư, thẩm phán, công
chứng viên, công tố viên,…, về hoạt động đào tạo luật và đào tạo nghề luật.

+ PL của một nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ mà trong đó PL có điểm chung nhất định. Ví dụ: nhóm HTPL
các nước XHCN, nhóm HTPL các nước châu Âu lục địa.

=> Trong môn học này, sẽ hiểu HTPL theo cách hiểu thứ 2, tức là HTPL là tổng thể QPPL và thiết chế PL
của một quốc gia/ vùng lãnh thổ.

- Dòng họ PL (Legal Family): là HTPL của một nhóm quốc gia/ vùng lãnh thổ mà có những điểm chung
nhất định. Ví dụ: Dòng họ pháp luật Common Law, dòng họ pháp luật các nước XHCN,…

+ Thuật ngữ “Dòng họ PL” do Monstequier sáng tạo ra khi nghiên cứu các HTPL, sau đó Rene David sử
dụng rất nhiều trong các tác phẩm của mình.

+ Là nhóm HTPL có đặc điểm chung nhất định.

+ Trong đó xuất hiện HTPL gốc, HTPL bố mẹ. Ví dụ: HTPL của Anh được coi là HTPL gốc của dòng họ
pháp luật Common Law, HTPL của Pháp được coi là gốc là dòng họ PL Civil Law.

+ Thuật ngữ “Truyền thống pháp luật” (Legal Tradition) được sử dụng với nghĩa tương tự.

- Pháp luật quốc tế (PLQT): hiện nay vẫn còn tranh cãi giữa các học giả xem PLQT có phải là đối tượng
nghiên cứu của LSS không. Lý do vì PLQT thường là “đơn nhất”, không có 2 đối tượng PLQT để so sánh,
ví dụ công ước luật biển quốc tế là duy nhất. Tuy nhiên, vẫn có TH khi 1 quốc gia gia nhập 1 điều ước quốc
tế, thì quốc gia đó phải xem xét các quy định trong điều ước quốc tế đó có phù hợp, có mâu thuẫn với luật
quốc gia của mình không, tức là có sự so sánh.

Lưu ý:
 So sánh luật không phải là so sánh toàn bộ HTPL với nhau mà có thể chỉ so sánh một vấn đề nhỏ
hoặc rất nhỏ. Ví dụ: so sánh chế định bầu cử của Việt Nam với Pháp, so sánh chế định tài sản của
Việt Nam với Thái Lan.
 Chỉ là đối tượng của LSS khi đặt chúng trong mối tương quan so sánh.

b. Chế độ so sánh

- Chia hoạt động so sánh làm 2 cấp độ:

+ Cấp độ so sánh vĩ mô: đối tượng so sánh là những vấn đề mang tính cốt lõi, chủ đạo, khái quát.

+ Cấp độ so sánh vi mô: đối tượng so sánh là những vấn đề chi tiết, cụ thể.

- Việc phân chia này chỉ mang tính tương đối, thường phải kết hợp cả vĩ mô và vi mô trong từng công trình
nghiên cứu so sánh luật. Ví dụ: ở công trình so sánh luật cấp độ vĩ mô, cũng cần so sánh những đối tượng ở
cấp độ vi mô để minh họa cho so sánh đó.

Ví dụ:

 So sánh HTPL Việt Nam với HTPL Lào => vĩ mô.


 So sánh PL hình sự Trung Quốc với PL hình sự Nhật Bản => vi mô, vì phải so sánh từng chế định cụ
thể.
 So sánh dòng họ pháp luật XHCN và dòng họ pháp luật Civil Law => vĩ mô.
 So sánh chế định hợp đồng của PL Anh và PL Đức => vi mô.

3. Phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh

a. Các phương pháp nghiên cứu mà LSS sử dụng

- Có nhiều phương pháp nghiên cứu mà LSS sử dụng: so sánh, lịch sử, phân tích, tổng hợp, logic,…

- Phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu chủ đạo của ngành khoa học luật so sánh (đến mức
nhiều người lầm tưởng luật so sánh là phương pháp so sánh.

* Phân biệt Phương pháp so sánh luật và Luật so sánh:

Luật so sánh Phương pháp so sánh luật


- Là ngành khoa học độc lập. - Là một phương pháp nghiên cứu luật.
Bản - Sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó - Được áp dụng trong nhiều ngành
chất có phương pháp so sánh luật. khoa học khác, trong đó có ngành khoa
học luật so sánh.
- Tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa - Tìm ra điểm tương đồng và khác biệt
những đối tượng so sánh. giữa các đối tượng so sánh.
- Lý giải nguồn gốc của những điểm tương đồng và - Không cần lý giải.
khác biệt đó. - Không cần đánh giá.
Mục - Đánh giá các giải pháp pháp lý dành cho các đối
đích tượng so sánh. Ví dụ: khi so sánh chế định bầu cử
của Việt Nam với Hoa Kỳ, sẽ có phần đánh giá ưu,
nhược điểm của mỗi chế định bầu cử, đánh giá xem
liệu có thể áp dụng những ưu điểm của chế độ bầu cử
Hoa Kỳ vào Việt Nam không,…
Lưu ý:

 Để lý giải được, còn phải sử dụng phương pháp logic và phương pháp lịch sử.
 Để đánh giá được, có thể phải sử dụng phương pháp xã hội học.
=> đây là sự khác biệt lớn nhất của LSS và phương pháp so sánh luật.

b. Phương pháp so sánh (PPSS) trong LSS

- Nguyên lý chung khi sử dụng PPSS: các đối tượng so sánh phải tương đồng, tương ứng với nhau.

- Trong LSS phải tuân thủ nguyên lý đó => các đối tượng trong một công trình so sánh luật phải thực hiện
cùng chức năng.

c. Các bước của quá trình so sánh luật

Gồm 6 bước:

- B1. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu

+ Xác định vấn đề dự kiến nghiên cứu: đưa ra câu hỏi để nghiên cứu.

+ Xây dựng giả thuyết nghiên cứu: để định hướng chương trình đi theo hướng nào.

- B2. Lựa chọn đối tượng nghiên cứu: xác định cụ thể, rõ ràng đối tượng nghiên cứu, phải có thuộc tính pháp
lý tương ứng để so sánh.

- B3. Thu thập tài liệu tham khảo. Mục đích:

+ Để xem các học giả khác đã giải quyết vấn đề mình đặt ra như thế nào => đánh giá cách giải quyết của
họ, đưa ra những điểm đồng tình/không đồng tình với họ => đưa ra quan điểm, cách giải quyết của mình.

+ Để xem vấn đề mình đặt ra đã được các học giả khác giải quyết đến đâu, còn những phần nào chưa giải
quyết => tập trung vào những phần chưa được giải quyết.

=> Mục đích của việc thu thập tài liệu là để xác định hướng đi cụ thể của công trình nghiên cứu.

Lưu ý: Phải đánh giá mức độ tin cậy của tài liệu tham khảo dựa vào nguồn cung cấp tài liệu.

- B4. Xây dựng hệ thống tiêu chí so sánh

+ Mục đích: để công trình nghiên cứu được trọn vẹn, rõ ràng hơn. Lưu ý: tránh sử dụng thuật ngữ pháp lý
không đồng nhất giữa các quốc gia, các HTPL.

- B5. Viết báo cáo so sánh

+ Chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh trên cơ sở những tiêu chí đã đặt
ra ở B4. Lưu ý: cần trung thực, khách quan khi viết báo cáo, tránh áp đặt ý chí chủ quan của mình, tránh
tuân theo “mù quáng” quan điểm, ý kiến của học giả khác.

- B6. Đánh giá có phê phán kết quả so sánh

+ Giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng, khác biệt.

+ Phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm của các giải pháp pháp lý.

+ Nhận xét về hiệu quả của các giải pháp pháp lý.

Chú ý: Khác với B5 yêu cầu khách quan, thì ở B6, nhà nghiên cứu có thể đưa ra ý kiến chủ quan của mình.

Không nhất thiết phải thực hiện tất cả các bước, tùy theo mục đích nghiên cứu mà lựa chọn những
bước thực hiện cho phù hợp.
d. Một số điều cần lưu ý khi nghiên cứu PL nước ngoài

- Phải là so sánh các đối tượng của PL trong nước và PL nước ngoài hoặc của PL nước ngoài với nhau.

Ví dụ: So sánh Luật HS 1999 với Luật HS 2015: không phải đối tượng của LSS.

- Cần có những thông tin chính xác và đáng tin cậy về PL nước ngoài.

- Phải có thông tin cập nhật về PL nước ngoài.

- Nắm được các nguồn luật và sử dụng đúng các thuật ngữ pháp lý của nước ngoài.

e. Cơ sở để lý giải những điểm tương đồng và khác biệt của các HTPL

- Hệ thống chính trị và tư tưởng. Ví dụ: XHCN và hệ tư tưởng Mác – Lenin đề cao sở hữu chung, sở hữu
toàn dân; TBCN và hệ tư tưởng phương Tây đề cao sở hữu tư nhân.

- Sự phát triển của nền kinh tế. Ví dụ: HTPL của nước phát triển khác với HTPL của nước đang phát triển
hay nước chậm phát triển.

- Tôn giáo. Ví dụ: HTPL của quốc gia Hồi giáo khác với HTPL của quốc gia không Hồi giáo.

- Yếu tố lịch sử và địa lý.

+ Lịch sử. Ví dụ: các quốc gia từng là thuộc địa => chịu ảnh hưởng lớn của HTPL chính quốc.

+ Địa lý = vị trí + khí hậu. Ví dụ: PL về biển chỉ có ở những quốc gia có biển.

- Yếu tố về dân số: ảnh hưởng tới PL về hôn nhân và gia đình, an sinh XH.

- Tác động phối hợp của các biện pháp kiểm soát: liên quan đến PL về thuế, sở hữu trí tuệ,… của mỗi quốc
gia.

- Những yếu tố ngẫu nhiên: có những trường hợp HTPL của 2 quốc gia giống nhau (một phần) mà không
thuộc các yếu tố đã nêu trên.

II. Sự hình thành và phát triển của Luật so sánh

1. Sự hình thành và phát triển của LSS trên thế giới

a. Giai đoạn trước thế kỷ XIX

- Thời kỳ cổ đại (trước Công Nguyên)

+ Gồm Nhà nước Lưỡng Hà, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại.

+ Theo Rene David: “Việc so sánh các HTPL ở cạnh nhau về mặt địa lý là công việc đã có từ xa xưa như
chính khoa học pháp lý”.

+ Nhà nước Hy Lạp cổ đại: Plato với tác phẩm “Các luật lệ”, Aristot với tác phẩm “Chính trị”,
Theophrastus với tác phẩm “Về các luật lệ”, … trong đó so sánh PL của các thành bang Hy Lạp với nhau, từ
đó rút ra những quy định PL tốt nhất, tối ưu nhất.

+ Nhà nước La Mã cổ đại: các học giả La Mã cổ đại đã nghiên cứu và so sánh PL của các thành bang Hy
Lạp cổ đại với nhau và so sánh với tập quán của La Mã, từ đó rút ra những quy định được cho là tốt nhất, kết
quả là Luật 12 bảng ra đời.
=> ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện những mầm mống của luật so sánh.

Chú ý: Mới chỉ ở mức độ “mầm mống” của LSS chứ chưa phải là đã có LSS từ thời cổ đại. Vì những công
trình so sánh luật không được đưa vào thực tiễn ứng dụng, ví dụ Aristot viết tác phẩm “Chính trị” rất nổi
tiếng nhưng không đề nghị thành bang Hy Lạp cổ đại nào ứng dụng vào thực tiễn.

- Thời kỳ nhà nước đế quốc La Mã (thế kỷ I TCN – thế kỷ VI)

+ Do các luật gia, đặc biệt là các luật gia La Mã quan niệm Luật La Mã là luật phát triển nhất và cho rằng
PL nước ngoài là “rối rắm và ngớ ngẩn” => không cần phải nghiên cứu so sánh. Thực tế, tại thời điểm này
HTPL của nhà nước La Mã là phát triển nhất, tạo nền tảng xây dựng HTPL của hầu hết các quốc gia sau này.

+ Có một số học giả nghiên cứu so sánh Luật La Mã với luật nước ngoài, nhưng mục đích nghiên cứu của
họ lại là để phân tích những “ngớ ngẩn” của luật nước ngoài.

=> Luật so sánh không có cơ hội phát triển ở nhà nước La Mã.

- Thời kỳ trung cổ (thế kỷ VI – thế kỷ XIV)

+ Châu Âu rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng (“đêm trường trung cổ”), PL không được coi trọng => hầu
như không có sự nghiên cứu, phát triển PL.

+ Châu Âu lục địa tồn tại nhiều loại luật: luật La Mã, tập quán pháp, luật giáo hội, nhưng hầu như không
xuất hiện công trình so sánh nào. Các luật gia cho rằng Luật La Mã và Luật Giáo hội là những luật có hiệu
lực tuyệt đối và không có gì nghi ngờ.

+ Đến thế kỷ XIII, Anh là quốc gia đầu tiên xây dựng thống nhất HTPL của mình, trong khi các nước
châu Âu khác thì PL vẫn còn manh mún, chưa thành hệ thống. Khi đó xuất hiện một số học giả Anh quốc
tiến hành các công trình nghiên cứu so sánh PL Anh với PL Pháp (là “đối thủ” của nước Anh thời đó) nhưng
thiếu khách quan, phần lớn chỉ để chê bai PL Pháp và khẳng định sự tối ưu của PL Anh.

- Thời kỳ cận đại (thế kỷ XVII – XVIII, là thời kỳ ánh sáng và PL tự nhiên)

+ Các quốc gia đã dần ổn định, PL được quan tâm và phát triển.

+ Các luật gia chỉ tập trung nghiên cứu PL quốc gia, LSS hầu như không phát triển.

+ Tuy nhiên, có một số học giả, đặc biệt là Montesquier đề xuất các học giả cần thoát khỏi khuôn khổ
HTPL quốc gia, để đánh giá được giá trị đúng của HTPL. Montesquier đã sử dụng PPSS để phát triển các
bài giảng của mình => tạo nền móng cho LSS phát triển mạnh mẽ sau này.

b. Từ thế kỷ XIX – nay (một số học giả lấy mốc 1869 – nay, lấy mốc ra đời của Tạp chí LSS ở Pháp)

- Ngay từ đầu thế kỷ XIX, một số trường đại học ở Anh đã đưa môn LSS vào giảng dạy.

- Sự ra đời của một loạt các bộ luật của các quốc gia châu Âu, đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật thương mại
chung của Đức năm 1861, đều dựa trên việc so sánh luật của các quốc gia.

- Ngày càng nhiều học giả tập trung nghiên cứu LSS, dần dần, với tri thức tích lũy được, các giả nhận ra
rằng cần phải coi LSS là 1 môn khoa học độc lập.

- Luật so sánh phát triển mạnh mẽ dưới 2 hình thức:

+ Luật so sánh lập pháp: là quá trình theo dõi PL của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các VBPL
quốc gia.
+ Luật so sánh học thuật: là việc so sánh các HTPL khác nhau, đơn giản nhằm nâng cao hiểu biết về PL.

c. Sự phát triển của LSS ở khối các nước XHCN trước đây

- Trước những năm 50 của thế kỷ XX, LSS không có cơ hội phát triển.

- Sau khi khối các nước XHCN hình thành, LSS được thừa nhận và bắt đầu được quan tâm, tuy nhiên luật so
sánh có vị trí rất mờ nhạt, có rất ít công trình so sánh luật.

- Nguyên nhân:

+ Khách quan: bị cấm vận, mà nguồn luật thì chủ yếu ở các nước TBCN.

+ Chủ quan:

 Việc tìm hiểu về PL TBCN bị cấm đối với các luật gia XHCN
 Luật so sánh có phạm vi nghiên cứu chủ yếu là HTPL của các nước XHCN, mà các nước XHCN chủ
yếu sao chép luật của Liên bang Xô Viết => không có gì để so sánh.

2. Sự phát triển của LSS ở Việt Nam

- Thời kỳ phong kiến: rất mờ nhạt, mới chỉ có LSS lập pháp, tức là tiếp thu luật từ nước khác (chủ yếu từ
Trung Quốc) vào xây dựng luật. Ví dụ: Quốc triều hình luật tiếp thu PL nhà Đường, Bộ luật Gia Long gần
như sao chép hoàn toàn luật nhà Thanh.

- Thời kỳ 1945 – 1975:

+ Hầu như không có ở miền Bắc.

+ Miền Nam: LSS rất phát triển.

 Xuất hiện các học giả nổi tiếng về LSS như Tiến sỹ Ngô Bá Thanh (Tiến sỹ ở Pháp, là tiến sỹ về
LSS đầu tiên ở Việt Nam), Luật sư Vũ Văn Mẫu.
 Năm 1961, bộ Dân luật Nam Kỳ được xây dựng trên cơ sở luật so sánh.
 Miền Nam Việt Nam là thành viên của Hiệp hội Luật so sánh thế giới.

- Thời kỳ 1975 – 1986: hầu như không phát triển vì cả nước đang xây dựng XHCN.

- Thời kỳ 1986 – nay: đạt được nhiều thành tựu to lớn.

+ LSS lập pháp: xây dựng PL trên cơ sở học hỏi luật nước ngoài. Ví dụ: Luật HS 1999, luật DS 2015.

+ LSS học thuật:

 Xuất hiện nhiều học giả nghiên cứu luật so sánh như TS Nguyễn Kim Pháp, TS Vũ Thị Ánh Vân,
TS Võ Khánh Vinh, TS Nguyễn Thanh Tâm, …
 Xuất hiện các đơn vị tổ chức nghiên cứu luật so sánh như Phòng luật so sánh của Viện Nhà nước
và Pháp luật, Trung tâm luật so sánh của ĐH Quốc gia Hà Nội, Viện Luật so sánh – ĐH Luật Hà
Nội, …
 Môn học luật so sánh được đưa vào giảng dạy tại tất cả các cơ sở đào tạo luật.

III. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luật so sánh


1. Trang bị kiến thức văn hóa chung cho người nghiên cứu: khi thực hiện nghiên cứu LSS, các học giả
thường không chỉ nghiên cứu các QPPL, các thiết chế, … mà còn nghiên cứu vì sao các QPPL, các thiết chế,
… lại được xây dựng như thế, tức là biết được kiến thức về văn hóa của quốc gia đó.

2. Nâng cao hiểu biết về PL quốc gia:

- Bằng việc nghiên cứu LSS, các học giả có thể biết những quy định, thiết chế trong luật quốc gia mình có
nguồn gốc từ đâu, từ đó nắm được sâu hơn bản chất PL quốc gia mình.

- Bằng việc so sánh PL các quốc gia, nhà nghiên cứu sẽ có đánh giá khách quan về PL của nước mình so với
thế giới (chứ không bị tư tưởng chủ quan, coi PL nước mình là ưu việt hơn).

3. Hỗ trợ tìm kiếm mô hình PL lý tưởng: đánh giá được cái tốt, xấu, cái phù hợp nhất, lý tưởng nhất cho
HTPL quốc gia mình. Đây là ý nghĩa chính, quan trọng nhất của LSS.

4. Hỗ trợ tiến trình hòa hợp và nhất thể hóa PL:

- Hài hòa hóa PL: là việc làm cho PL của quốc gia dù khác nhau nhưng có thể “sống chung” với nhau.

- Nhất thể hóa PL: là việc đưa ra những quy định PL chung cho các quốc gia.

=> Nghiên cứu LSS giúp cho việc xây dựng và áp dụng luật quốc tế (cả công pháp quốc tế và tư pháp quốc
tế), tức là giúp cho việc xử lý được những xung đột PL giữa các quốc gia.

+ Việc nghiên cứu LSS giúp cho những nhà thương thuyết hiểu được sự tương đồng và khác biệt trong
HTPL của các nước liên quan => dễ dàng hơn cho việc xây dựng luật quốc tế.

+ Giúp cho việc đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia trong điều ước quốc tế.

+ Nghiên cứu LSS giúp rất nhiều cho việc xây dựng các quy định của luật quốc tế, vì thường sẽ bắt
nguồn từ một tập quán hay một quy định của một hay một số quốc gia cụ thể (chứ rất ít khi xây dựng từ
đầu).

5. Hỗ trợ thực hiện và áp dụng PL: khi giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài, việc hiểu biết LSS
(tức là hiểu biết PL nước ngoài trên cơ sở so sánh với luật nước mình) sẽ hỗ trợ rất nhiều cho những người
xét xử và những người liên quan.

IV. Sự phân nhóm các HTPL trên thế giới

1. Mục đích phân nhóm

- Nắm được sự tương đồng giữa các HTPL sẽ giúp nghiên cứu PL nước ngoài trở nên rõ ràng hơn.

- Số lượng HTPL trên thế giới rất nhiều, trên 200 HTPL => một học giả gần như không thể nghiên cứu chi
tiết từng HTPL => tìm ra những điểm tương đồng của các HTPL và sắp xếp chúng vào cùng một nhóm =>
khi so sánh các HTPL, chỉ cần chọn một HTPL điển hình của nhóm đó (mà không cần tìm hiểu lần lượt từng
HTPL).

- Mục đích chủ yếu của việc phân nhóm các HTPL trên thế giới nhằm mục đích sư phạm.

2. Tính tương đối của việc phân nhóm các HTPL trên thế giới

- Sử dụng những tiêu chí phân nhóm khác nhau sẽ cho ra kết quả phân nhóm khác nhau.

+ Rene David dựa vào 2 tiêu chí là hệ tư tưởng và kỹ thuật lập pháp => cho ra 4 nhóm:
 Nhóm PL Đức – La Mã (Rome – Giecmanh)
 Nhóm PL XHCN
 Nhóm PL dựa trên tôn giáo và truyền thống (những nước Hồi giáo, Phật giáo và 1 số nước châu
Phi)
 Nhóm PL Anh – Mỹ (Common Law)

+ Zwergert và Kotz sử dụng 5 tiêu chí => cho ra 8 nhóm PL.

- Mặc dù sử dụng những tiêu chí phân nhóm giống nhau nhưng tiến hành tại thời điểm khác nhau, sẽ cho ra
kết quả phân nhóm khác nhau. Chẳng hạn trường hợp phân nhóm theo 2 tiêu chí là hệ tư tưởng và kỹ thuật
lập pháp của Rene David được thực hiện vào những năm 60 của thế kỷ 20, kết quả cho ra 4 nhóm PL (như
đã nêu trên).

Đầu thế kỷ XXI, một học giả khác cũng sử dụng 2 tiêu chí là hệ tư tưởng và kỹ thuật lập pháp, nhưng cho ra
kết quả khác, chỉ có 3 nhóm là Civil Law, Common Law, nhóm PL dựa trên tôn giáo và truyền thống => vì
cuối thế kỷ XX khối XHCN đã sụp đổ => không còn tạo thành 1 dòng họ PL riêng như trước đây.

- Trong nhiều cách phân nhóm HTPL phổ biến, có một số HTPL khó xếp vào bất cứ nhóm nào trong số các
nhóm được phân chia. Ví dụ: HTPL của Việt Nam gồm các đặc điểm của cả Civil Law và Common Law,
HTPL của Malaysia là sự pha trộn của luật Hồi giáo và Common Law…

- Hệ quả: không thể khẳng định cách phân nhóm của học giả nào là chính xác nhất và không chính xác.

3. Các tiêu chí để phân nhóm

a. Sự thay đổi trong quan niệm sử dụng tiêu chí phân nhóm

- Trước đây, nhiều học giả LSS đã cố tìm ra tiêu chí duy nhất để phân chia các HTPL thành các nhóm. Ví
dụ: tiêu chí hệ thống kinh tế, hay tiêu chí nguồn gốc lịch sử của HTPL.

Tuy nhiên, đã không thể tìm ra tiêu chí duy nhất đó.

- Ngày nay, phần lớn các học giả đều cho rằng không thể có tiêu chí hoàn hảo, và để việc phân nhóm có ý
nghĩa, cần dựa vào một vài tiêu chí khác nhau.

Ví dụ: Nếu dùng tiêu chí hệ tư tưởng, có thể phân chia HTPL XHCN và HTPL TBCN, nhưng trong
PLTBCN có nước Anh theo Common Law, nước Pháp theo Civil Law => mục đích không đạt.

b. Các tiêu chí phân nhóm

4. Các cách phân nhóm điển hình


Chương 2. DÒNG HỌ PHÁP LUẬT CHÂU ÂU LỤC ĐỊA
- Có 3 tên gọi:

+ Dòng họ Civil Law: dòng họ PL dân luật, dòng họ PLDS.

Chú ý: Dù có thể “dịch nghĩa” của Civil Law là “dân luật” hay “dân sự” nhưng nếu sử dụng thuật ngữ “dòng
họ PL dân luật/sự” thì dễ gây hiểu nhầm dòng họ PL này chỉ có PLDS mà không có hình sự, hành chính…
=> sai về bản chất, vì thực tế dòng họ PL Civil Law chỉ coi trọng PLDS, ưu tiên pháp điển hóa PL dân sự
trước, nhưng vẫn đầy đủ PLHS, PLHC…

+ Dòng họ PL châu Âu lục địa: vì ra đời đầu tiên ở các quốc gia thuộc châu Âu lục địa, sau đó lan rộng ra
các quốc gia khác trên toàn thế giới.

+ Dòng họ PL thành văn: coi trọng pháp điển hóa PL (tức là PL thành văn) và trung tâm là PLDS, có
nguồn gốc từ thời La Mã.

Chú ý: Tên gọi này phân biệt với dòng họ PL Common Law (PL coi trọng án lệ).

- Chế định PL đặc thù: Luật nghĩa vụ, gồm 3 nội dung:

+ Hợp đồng.

+ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

+ Làm giàu bất chính.

I. Sự hình thành và phát triển của Civil Law

1. Ở châu Âu lục địa

a. Giai đoạn trước thế kỷ XI

- PL các nước châu Âu lục địa trước thế kỷ XI là sự tồn tại của nhiều loại PL khác nhau. Có 3 loại chính:

+ PL thành văn: luật La Mã.

+ Tập quán pháp: PL của các vùng, miền khác nhau.

+ Luật giáo hội: ra đời muộn hơn, xuất hiện vào thế kỷ VI, VII.

- Thời kỳ này PL còn đơn giản, có sự khác biệt giữa 2 tiểu giai đoạn:

+ Trước thế kỷ VII: gồm PL La Mã, tập quán địa phương.

+ Thế kỷ VII – thế kỷ X: tập quán địa phương, luật giáo hội (thời kỳ khủng hoảng toàn diện, gọi là “Đêm
trường trung cổ” với sự thống trị của luật tôn giáo).

- Dòng họ Civil Law được cấu thành từ luật La Mã, tập quán địa phương, luật giáo hội, và tư tưởng về PL tự
nhiên đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài và phức tạp. Nhưng nền tảng chính tạo nên dòng họ Civil
Law là luật La Mã.

* Về luật La Mã

- Có nhiều quan điểm về khái niệm luật La Mã:


+ Là bộ tổng luật do Hoàng đế Justinian ban hành (gọi là Corpus Juris Civilis) (đây là thời kỳ thịnh
vượng của đế quốc La Mã): bộ tổng luật đồ sộ nhất trong hơn 1000 năm tồn tại của nhà nước La Mã, là tập
hợp toàn bộ các quy định PL của nhà nước La Mã. Bộ tổng luật này không chỉ có hiệu lực trong thời hoàng
đế Justinian mà vẫn có hiệu lực trong các triều đại về sau của nhà nước La Mã. Không những thế, bộ luật
này có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các HTPL của nhân loại, rất nhiều quy tắc pháp lý, rất nhiều quy định
PL của các quốc gia sau này bắt nguồn từ bộ tổng luật này => chính vì tầm ảnh hưởng quá lớn của Corpus
Juris Civilis mà nhiều học giả đồng nhất luật La Mã với bộ tổng luật này.

+ Là Corpus Juris Civilis và các biến tướng của Corpus Juris Civilis.

+ Là toàn bộ các bộ luật La Mã từ thế kỷ V trước CN đến thế kỷ VI, VII: tức là toàn bộ các sản phẩm PL
của các triều đại La Mã. Chú ý: dù nhà nước La Mã tồn tại đến tận thế kỷ XV, tuy nhiên kể từ thế kỷ VI, VII
thì nhà nước La Mã đã suy yếu rất nhiều và không còn đưa ra được sản phẩm lập pháp nào đáng chú ý nữa.

Nhận xét: cách hiểu 1 và 2 không chính xác, cách thứ 3 mới được công nhận rộng rãi.

- Một số thành tố cơ bản của luật La Mã:

+ Thuật ngữ “luật La Mã” được dùng để chỉ toàn bộ khối lượng PL La Mã được ban hành trong hơn một
thiên niên kỷ (kéo dài từ năm 450 TCN đến thế kỷ VI, VII).

+ 3 thành tố cơ bản của luật La Mã:

 Luật 12 bảng
 Tác phẩm Institutes của Gaias
 Corpus Juris Civilis

b. Giai đoạn từ thế kỷ XI đến XVIII

- Từ thế kỷ XVIII, nền kinh tế châu Âu lục địa bắt đầu hồi phục và đi vào ổn định, khoa học bắt đầu phát
triển trở lại, trong đó có khoa học pháp lý. Cùng với sự phát triển của thương mại giữa các quốc gia => nhu
cầu xây dựng PL để điều chỉnh các MQH phát sinh

=> nhu cầu nghiên cứu PL phát triển, chủ yếu là nghiên cứu luật La Mã.

– Xuất hiện 5 trường phái nghiên cứu luật La Mã:

+ Trường phái các nhà bình chú (Glossators)

+ Trường phái các nhà bình luận (Commentators)

+ Trường phái nhân văn pháp lý (Legal Humanists)

+ Trường phái các nhà pháp điển hiện đại (Pandectist)

+ Trường phái pháp luật tự nhiên (Natural Law shool)

- Mỗi trường phái sử dụng phương pháp nghiên cứu khác nhau, đặt ra mục đích khác nhau.

=> Kết quả khác nhau và đóng góp cho PL châu Âu lục địa cũng khác nhau.

c. Giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII – nay

- Ở châu Âu từ cuối thế kỷ XVII – thế kỷ XIX là cuộc đại pháp điển hóa PL:
+ Bắt đầu với Bản tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789, đã đặt nền móng cho luật
Hiến pháp của Pháp và của tất cả các quốc gia trên thế giới sau này.

+ Nước Pháp đã pháp điển hóa thành khoảng 40 bộ luật, trong đó nổi bật là BLDS Napoleon 1804, Bộ
luật TTDS 1806, Bộ luật thương mại 1807, Bộ luật TTHS 1808, BLHS 1810, …

+ Đức cũng đã pháp điển hóa những bộ luật quan trọng, như Bộ luật thương mại 1866, BLHS1871, Bộ
luật TTHS 1877, Bộ luật TTDS 1877, BLDS 1896, …

+ Ảnh hưởng của cuộc đại pháp điển này là rất lớn đối với các thuộc địa của Pháp, Đức, và của các quốc
gia khác như Nhật, Hàn, Thái Lan, Hi Lạp, …

- So sánh cuộc pháp điển hóa này với các cuộc pháp điển hóa trước đó:

+ Bộ tổng luật Corpus Juris Civilis của Hoàng đế Justinian cũng là pháp điển hóa quy mô lớn, nhưng nó
vẫn chưa được coi là đại pháp điển hóa PL, vì quy mô chỉ trong phạm vi La Mã, so với quy mô với châu Âu
thì vẫn còn nhỏ bé. Về nội dung thì mới pháp điển hóa chủ yếu luật dân sự (luật tư), nếu có hình sự thì vẫn
cho là luật tư vì bảo vệ con người.

+ Còn cuộc đại pháp điển hóa PL ở châu Âu thì việc pháp điển hóa PL diễn ra trên tất cả các lĩnh vực:
dân sự, hình sự, hành chính, hành pháp,… và trên phạm vi rộng lớn (toàn bộ châu Âu).

- Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia đều thành công trong cuộc đại pháp điển hóa này. Ví dụ ở Phổ thì
PL về ruộng đất đã không thể được pháp điển.

- Nguyên nhân: để pháp điển hóa PL thành công:

+ Phải ở quốc gia lớn.

+ Phải được thực hiện bởi nhà cầm quyền anh minh, coi trọng luật pháp (ở Phổ, nhà vua Phổ đã đặt quá
nhiều lợi ích của nhà vua vào việc pháp điển => pháp điển thất bại)

- Ý nghĩa: đóng góp tích cực cho PL ở châu Âu lục địa: văn bản PL thành văn, tạo ra được đặc trưng riêng
cho PL châu Âu lục địa, tạo ra được tiếng vang, hình mẫu cho các quốc gia trên thế giới.

- Hạn chế: chính vì thành công quá lớn đó dẫn đến tạo ra tư duy không tích cực, tư duy quá tôn thờ PL thành
văn, vì dù kỹ thuật lập pháp có cao đến đâu thì cũng vẫn sẽ có thiếu sót hay lỗ hổng khi cho rằng nguồn của
PL chỉ có PL thành văn; ngoài ra việc coi thẩm phán chỉ là người áp dụng PL đã có sẵn đã làm mất đi sự
sáng tạo, chủ động của thẩm phán. (khác hẳn với vai trò rất lớn của thẩm phán ở dòng họ Common Law)

2. Sự mở rộng của dòng họ Civil Law sang châu Âu lục địa

a. Lý do mở rộng

- 2 lý do: cưỡng bức và tự nguyện

- Lý do cưỡng bức:

+ Thông qua quá trình mở rộng thuộc địa của các cường quốc ở châu Âu => áp đặt HTPL Civil Law cho
thuộc địa.

+ Các quốc gia thuộc địa dù đã được giải phóng nhưng tư duy làm luật đã ăn sâu vào tiềm thức, nên đã
xây dựng HTPL giống châu Âu lục địa. Điển hình là các quốc gia châu phi, Nam Mỹ, Indonexia,…
+ Việt Nam dù từng là thuộc địa nhưng không rơi vào trường hợp này, vì sau khi giải phóng Việt Nam đi
theo CNXH, chỉ vài năm sau giải phóng còn cho phép sử dụng một số điểm của luật châu Âu lục địa, và sau
đó đã thay thế gần như toàn bộ. Sau này (kể từ khi đổi mới) mới học hỏi từ tất cả các nước trên thế giới.

- Lý do tự nguyện:

+ Tự nguyện học hỏi văn minh pháp lý ở châu Âu lục địa: vì coi châu Âu lục địa là mô hình lý tưởng.

+ Ví dụ điển hình: Nhật Bản, HTPL Nhật Bản thuộc nhóm hỗn hợp, chịu ảnh hưởng của Civil Law từ
cuối thế kỷ XIX, trong cuộc cải cách Minh trị, theo đó cải tổ toàn bộ hệ thống PL theo HTPL của châu Âu
lục địa, chủ yếu từ Đức => HTPL của Nhật hoàn toàn mới (trước đó HTPL của Nhật chịu ảnh hưởng từ
Trung Quốc). Ví dụ như Hiến pháp, BLDS của Nhật Bản học hỏi từ BLDS Đức (có tham khảo BLDS Pháp,
Anh), dù được ban hành từ 1898 đến nay vẫn còn hiệu lực.

+ Ví dụ các quốc gia Ả rập cũng có HTPL là hỗn hợp luật Hồi giáo và Civil Law, lý do không phải vì đã
từng là thuộc địa, mà là trong quá trình giao thương với châu Âu, Civil Law dần ảnh hưởng sang (sự tương
đồng trong HTPL có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao thương giữa các quốc gia).

b. Quy mô mở rộng

- Châu Mỹ:

+ Có sự khác biệt giữa Bắc Mỹ và Nam Mỹ.

+ Bắc Mỹ đa phần là thuộc địa của Anh (chỉ có bang Lousiana, Quibek là thuộc địa của Pháp), đến nay:
Mỹ, Canada theo dòng Common Law, tuy nhiên PL của bang Lousiana, Quibek vẫn theo Civil Law (bằng
chứng là vẫn có BLDS đồ sộ như ở châu Âu lục địa).

+ Nam Mỹ chủ yếu là thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha => đều theo Civil Law.

- Châu Phi:

+ Bắc Phi: là thuộc địa của Pháp nên theo Civil Law, nhưng trước đó đã có luật Hồi giáo => duy trì cả
luật Hồi giáo + Civil Law (hỗn hợp).

+ Trung Phi: chưa có nền pháp lý nào => theo Civil Law.

+ Nam Phi: chịu sự ảnh hưởng của cả Anh và Pháp => hỗn hợp Civil law và Common law.

- Châu Á:

+ Hầu hết là hỗn hợp: như hỗn hợp giữa Civil law với PL XHCN (Trung Quốc, VN), hỗn hợp giữa Civil
law với Common law (Philippin), hỗn hợp Civil law với truyền thống Á Đông (Nhật Bản).

+ Riêng Indonexia là sự hỗn hợp của luật hồi giáo và Civil law.

II. Cấu trúc PL của dòng họ Civil Law

1. Cách phân chia PL

- Nói chung, Civil law đều chia thành công pháp và tư pháp. Đây là một đặc trưng của dòng họ Civil law
(các dòng họ PL khác không có).

(Ở VN thì chia thành các ngành luật, không có sự phân chia rõ ràng thành công pháp và tư pháp)

a. Nguồn gốc và mục đích phân chia công pháp – tư pháp


- Nguồn gốc: từ luật La Mã, quan niệm các QH tư và QH công không thể đặt trên cùng một bàn cân.

- Mục đích: khác với luật La Mã là bỏ QH công ra khỏi HTPL, dòng họ Civil law đã tách riêng QH công ra
khỏi QH tư.

Câu hỏi: Tại sao luật La Mã lại muốn loại bỏ QH công ra khỏi HTPL ?

Trả lời: Vì phạm vi áp dụng của luật công là chính quyền, tức là nếu ban hành thì sẽ ràng buộc chính mình
=> không muốn có những quy định ràng buộc chính mình.

Câu hỏi: Tại sao Civil law tách riêng QH công ra khỏi QH tư ?

Trả lời: Vì không thể gộp chung luật công và luật tư, hơn nữa là để xác định TA có thẩm quyền giải quyết vụ
việc cụ thể, trong các nước theo Civil law tồn tại hệ thống tòa hành chính (giải quyết QH công) và hệ thống
tòa tư pháp (giải quyết QH tư).

Chú ý: Trong lịch sử, nước Anh cũng có giai đoạn phân chia thành công pháp và tư pháp, nhưng chỉ với mục
đích để xác định được thủ tục tương ứng (và giai đoạn này cũng chỉ tồn tại rất ngắn).

b. Phân biệt công pháp và tư pháp

Công pháp Tư pháp


Đối tượng QH giữa cơ quan nhà nước với nhau, QH giữa cơ QH giữa người dân với nhau.
điều chỉnh quan nhà nước với người dân.
Mục đích Bảo vệ lợi ích công. Bảo vệ lợi ích tư nhân.
Phương Phương pháp mệnh lệnh. Phương pháp tự do thảo thuận ý chí
pháp điều của các bên tham gia.
chỉnh
Thể hiện tính bất bình đẳng giữa các chủ thể PL, Thể hiện sự bình đẳng của các chủ
trong đó CQNN (người có thẩm quyền) thường ra thể tham gia vào QHPL.
Tính chất
các quyết định mang tính mệnh lệnh và bên chủ thể
khác phải thi hành.
Các ngành Hiến pháp, Hành chính, Hình sự, Cán bộ công chức Dân sự, Thương mại, Lao động, Hôn
luật viên chức,… nhân gia đình,…
Quy phạm Thường mang tính tổng quát cao. Thường mang tính cụ thể, chi tiết.
PL
Đến thế kỷ XVII mới phát triển (khi xuất hiện Xuất hiện từ thời cổ đại (Hy Lạp cổ
Quá trình
trường phái PL tự nhiên trong đó đề cao quyền con đại, La Mã cổ đại).
phát triển
người, và CM tư sản liên tiếp thành công).

Câu hỏi: Vì sao chưa có quốc gia nào ban hành được bộ luật hành chính ở mức độ đồ sộ như BLDS ?

Trả lời: Vì đối tượng điều chỉnh của LHC là QH giữa CQNN với nhau, giữa CQNN với người dân => tức là
có liên quan mật thiết đến mô hình BMNN và hoạt động quản lý nhà nước, mặc dù hiện nay tình hình các
quốc gia hầu hết có sự ổn định, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn rất nhiều biến động, chưa thể có đươc sự ổn định
giống như QH tư => các quốc gia chưa thể ban hành được bộ LHC giống như BLDS.

2. Quy phạm PL và giải thích QPPL

- Quy phạm PL trong Civil law:

+ Nguồn: chủ yếu là PL thành văn (trong Common law chủ yếu là án lệ).

+ Chủ thể ban hành: nhà lập pháp (Common law là thẩm phán).
+ Tính chất:

 Là quy tắc xử sự chung cho nhiều chủ thể, nhiều tình huống (Common law thì chỉ điều chỉnh
MQH cụ thể, vì nằm trong bản án).
 Có tính dự liệu, khái quát cao => trừu tượng (trong Common law thì chi tiết, cụ thể, vì nằm trong
bản án) => cần phải có các văn bản hướng dẫn dưới luật để có thể được thi hành trong thực tế (do
đó chỉ có thuật ngữ “giải thích PL thành văn”, chứ không có thuật ngữ “giải thích án lệ”).

- Việt giải thích PL là thẩm quyền của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Tòa án (chủ yếu là Tòa án).

Ở Việt Nam, việc giải thích PL được giao cho nhiều cơ quan: Quốc hội, các CQ của Quốc hội, Chính phủ,
các CQ của Chính phủ, Tòa án, VKS).

- Trong luật La Mã, công pháp không được chú trọng phát triển, mới chỉ có luật Hình sự, tuy nhiên chỉ ở
khía cạnh trừng phạt người dân.

- Công pháp ở các nước thuộc dòng họ Civil law có mức độ phát triển không đồng đều và có mức độ hoàn
thiện thấp hơn tư pháp. Vì:

+ Tư pháp trong các nước thuộc dòng họ Civil law phát triển dựa trên sự kế thừa luật La Mã, mà tư pháp
của La Mã rất phát triển và đã đạt đến mức hoàn thiện, còn công pháp thì phải phát triển gần như từ đầu.

+ Công pháp phát triển dựa trên các quyền tự nhiên của con người, mà quyền con người mới chỉ bắt đầu
được chú trọng nghiên cứu từ thế kỷ XVII ở Hà Lan tại trường pháp nghiên cứu PL tự nhiên. Mà quyền con
người lại được quan niệm khác nhau ở mỗi quốc gia => công pháp có mức độ hoàn thiện khác nhau ở mỗi
nước. Ví dụ ở Pháp có hệ thống công pháp hoàn thiện hơn so với các nước Civil law khác.

III. Nguồn của các HTPL thuộc dòng họ Civil law

- Nguồn sơ cấp: đóng vai trò chính

+ Pháp luật thành văn.

+ Tập quán pháp.

+ Những nguyên tắc chung của PL.

- Nguồn thứ cấp:

+ Phán quyết của Tòa án.

+ Các học thuyết pháp lý.

Câu hỏi: Phân chia các nguồn thành sơ cấp, thứ cấp là dựa trên cơ sở nào?

Trả lời: Nguồn luật được xác định là cơ sở để thẩm phán dựa vào đó đưa ra phán quyết khi giải quyết vụ
việc, mà có nguồn luật => dựa trên tính ràng buộc của các nguồn luật (thứ tự ưu tiên sử dụng) được các
thẩm phán sử dụng trong giải quyết tranh chấp.

1. Pháp luật thành văn

a. Quy phạm PL

- Quan niệm về QPPL trong dòng họ Civil law: QPPL được coi là thành công khi nó được áp dụng để giải
quyết vụ việc trong thực tế.
- Tầm quan trọng của các QPPL: sau cuộc đại pháp điển rất thành công, các quốc gia thuộc dòng họ Civil
law đa tuyệt đối hóa, “thần thánh hóa” vai trò của PL thành văn, cho rằng chỉ cần sử dụng PL thành văn là
đủ để giải quyết tất cả các vụ việc trong xã hội. Tuy nhiên, càng về sau thì phát sinh những vụ việc mà PL
thành văn chưa kịp ban hành QPPL để điều chỉnh => cần phải sử dụng đến tập quán, các nguyên tắc chung
của PL, và thậm chí phải sử dụng đến cả các nguồn luật thứ cấp.

Câu hỏi: Vì sao PL thành văn không thể giải quyết được tất cả các vấn đề phát sinh trong thực tế ?

Trả lời: Vì các QHXH luôn phát sinh trước khi có PL thành văn điều chỉnh => cần phải sử dụng các nguồn
luật khác để điều chỉnh.

b. Hệ thống các văn bản PL

- Hiến pháp: thuộc về luật công trong dòng họ Civil law, có vị trí, vai trò khác nhau tại mỗi quốc gia. Khi
mới xuất hiện (thế kỷ XIX), có quốc gia coi Hiến pháp là một đạo luật thông thường; có quốc gia coi Hiến
pháp là đạo luật có vị trí cao hơn các đạo luật khác. Đến nay, hầu hết các quốc gia civil law đều coi Hiến
pháp là luật gốc, có vị trí cao hơn các luật thông thường => phải có cơ chế bảo hiến. Chú ý: bảo hiến chỉ đặt
ra ở quốc gia coi Hiến pháp có vị trí cao hơn các dạo luật thông thường; còn ở những quốc gia không có
hiến pháp, hoặc coi hiến pháp có vị trí như các đạo luật thông thường thì sẽ không đặt ra vấn đề bảo hiến).

Có 2 kiểu cơ chế bảo hiến:

+ Lập riêng một cơ quan để bảo vệ Hiến pháp => bảo hiến tập trung. Ví dụ: Tòa án Hiến pháp (Đức),
Hội đồng bảo hiến (Pháp)…

+ Trao cho một số cơ quan quyền bảo vệ Hiến pháp => bảo hiến phi tập trung. Ví dụ: trao việc bảo hiến
Hiến pháp cho toàn bộ hệ thống Tòa án (Mỹ).

+ Ở Việt Nam thì bảo hiến được thực hiện nửa tập trung và nửa phi tập trung: UBTVQH xem xét tính hợp
hiến của các văn bản PL, ngoài ra còn có các Cục trong các Bộ cũng có chức năng kiểm tra tính hợp hiến
của văn bản PL, thậm chí cơ quan báo chí cũng có quyền “tuýt còi” văn bản PL vi hiến.

- Điều ước quốc tế:

+ Hầu hết các nước Civil law đều đặt điều ước quốc tế ở vị trí thấp hơn hiến pháp nhưng cao hơn các đạo
luật khác.

+ Nếu mâu thuẫn với Hiến pháp: thực hiện bảo lưu điều ước quốc tế (tức là không thực hiện ĐƯQT), nếu
không thể bảo lưu thì không tham gia ĐƯQT đó.

+ Nếu mâu thuẫn với luật quốc gia: sẽ thực hiện sửa đổi luật quốc gia.

- Luật, bộ luật (Chú ý: về giá trị pháp lý thì Luật và Bộ luật là một, nhưng thông thường phạm vi điều
chỉnh của Bộ luật lớn hơn Luật; Bộ luật thường điều chỉnh nhiều QHXH, ví dụ Bộ luật dân sự, còn Luật
thường điều chỉnh một QHXH, ví dụ Luật hôn nhân gia đình, Luật lao động)

- Các loại văn bản PL khác: nghị định, thông tư. Chú ý: trên thế giới không có khái niệm “văn bản dưới
luật” (under law), mà dùng khái niệm văn bản ủy quyền (luật là do Quốc hội/ Nghị viện xây dựng và ban
hành, nhưng có những vấn đề cần chi tiết, cần chuyên môn sâu thì phải chuyển cho bộ, ngành chuyên môn
thực hiện => gọi là văn bản ủy quyền).

2. Tập quán pháp

- Mức độ áp dụng tập quán pháp khác nhau giữa các nước. Ví dụ:
+ Pháp: coi tập quán pháp là lỗi thời nên phạm vi áp dụng rất hạn chế, thường chỉ được sử dụng khi có sự
dẫn chiếu; hoặc một số trường hợp tập quán pháp được áp dụng đương nhiên (có thể trái PL).

+ Tây Ban Nha: nếu vấn đề nào đó đã có trong tập quán pháp thì sẽ không được quy định trong luật dân
sự.

+ Đức: coi trọng tập quán pháp.

- Vai trò: thông thường không vượt quá vai trò của PL thành văn (tức là chỉ sử dụng tập quán pháp khi PL
thành văn không quy định), trừ các TH đặc biệt (các TH PL chủ động không ban hành QPPL điều chỉnh, mà
yêu cầu sử dụng tập quán pháp để điều chỉnh).

3. Các nguyên tắc chung của PL

- Khái niệm: là những nguyên tắc pháp lý (có thể thành văn hoặc bất thành văn) được chấp nhận trong luật
quốc gia của hầu hết các nước.

- Nguồn gốc: Các nguyên tắc chung của PL có thể nằm ở bất kỳ đâu: trong văn bản PL quốc gia, điều ước
quốc tế, tập quán, phán quyết của tòa án, học thuyết pháp lý, … miễn là nó được thừa nhận và được áp dụng
rộng rãi.

- Các nguyên tắc chung của PL có sự ổn định nhất định. Một số nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong hầu
hết các HTPL trên thế giới. Ví dụ nguyên tắc một hành vi phạm tội không bị xét xử hai lần, một lần vi phạm
HC không được xử phạt hai lần, nguyên tắc một người chỉ coi là có tội khi có bản án có hiệu lực của Tòa án,

4. Phán quyết của Tòa án

- Về phương diện lý thuyết, các HTPL thuộc dòng họ Civil law không thừa nhận học thuyết Stare Decisis
(nguyên tắc tiền lệ pháp).

- Trên thực tế, vẫn là một nguồn luật bổ sung hữu hiệu và được áp dụng rộng rãi, tuy nhiên vẫn có nhiều giới
hạn về áp dụng tiền lệ pháp (so với các nước thuộc dòng họ Common law).

Chú ý: Ở Việt Nam, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán cũng nhằm để giải thích việc áp dụng PL, cũng có
vai trò gần giống như “án lệ”.

5. Các học thuyết pháp lý

- Trong quá khứ, các học thuyết pháp lý đã từng là nguồn chính của các HTPL ở châu Âu lục địa.

- Lý do coi học thuyết pháp lý là nguồn luật:

+ Các học thuyết sáng tạo ra các thuật ngữ pháp lý và những ý tưởng mà các nhà làm luật sử dụng.

+ Các học thuyết tạo ra phương pháp mà nhờ đó luật được hiểu và được giải thích.

- Vai trò của các học thuyết pháp lý tại các nước Civil law hiện nay: rất mờ nhạt.

IV. HTPL một số nước thuộc dòng họ Civil law

1. HTPL Pháp

a. Sơ lược quá trình phát triển HTPL Pháp

- Bối cảnh lịch sử:


+ Trước 1789 (trước cách mạng tư sản Pháp): HTPL Pháp là hỗn hợp của luật La Mã, tập quán Giec-
manh, tập quán địa phương, PL thành văn, luật giáo hội, tập quán thương mại.

+ Sau 1789: thực hiện pháp điển hóa để thống nhất PL trên toàn nước Pháp. Thành quả lớn nhất là ra đời
Bộ luật dân sự Napoleon 1804 (đến nay vẫn còn hiệu lực).

- Hoàn cảnh ra đời BLDS Napoleon 1804: được các các nhà thực hành luật (3 thẩm phán + 1 luật sư) soạn
thảo từ năm 1800, có hiệu lực từ 1804.

- Đặc điểm của BLDS Napoleon 1804:

+ Gắn liền với tên tuổi của Napoleon Bonaparte.

+ Có tính ổn định và hiệu lực lâu dài: có khoảng hơn 2000 điều, đến nay vẫn còn hơn 1000 điều còn hiệu
lực.

+ Đánh dấu sự phát triển của kỹ thuật lập pháp rất cao: logic, ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi, QPPL chi tiết
nhưng mềm dẻo, linh hoạt.

+ Chứa đựng 1 số quy định lạc hậu ngay từ khi ban hành. Ví dụ coi người phụ nữ khi lấy chồng thì bị coi
là mất NLHVDS; con ngoài giá thú bị hạn chế quyền.

+ Mang tính Đức nhiều hơn cả BLDS Đức.

+ Không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.

+ Phản ánh tư tưởng của cách mạng tư sản.

+ Xây dựng dựa trên nguyên tắc phi tôn giáo.

+ Thống nhất được các quan hệ từ dân sự cho đến chính trị.

Câu hỏi: Thời gian soạn thảo của BLDS Napoleon 1804 chỉ trong 4 năm là rất ngắn?

Trả lời: Ngắn vì khi soạn luật kế thừa được rất nhiều từ những quy định cũ. Khác với BLDS Đức có thời
gian soạn thảo 22 năm là do người Đức nghĩ ra những quy định hoàn toàn mới.

Câu hỏi: Tại sao nói BLDS Pháp lại có “tính Đức” hơn cả BLDS Đức?

Trả lời: Vì BLDS Pháp lấy rất nhiều tập quán Giec-manh của Đức, nên mang đậm tính Đức. Còn trong
BLDS Đức lại không đưa các tập quán Giec-manh vào nên ít có tính Đức.

- Nội dung của BLDS Napoleon gồm 3 phần:

+ Thiên mở đầu.

+ 3 quyền của Người, Tài sản và Thay đổi về sở hữu, Các phương thức xác lập QSH.

- Ý nghĩa:

+ Đối với Pháp: không chỉ có ý nghĩa về mặt PL mà còn có ý nghĩa về mặt văn hóa, được coi là bản
“Hiến pháp dân sự” của người Pháp ; ngoài ra bộ luật rất gần gũi với người dân, được coi là “sách gối đầu
giường” của mỗi người dân Pháp, thậm chí nhiều nhà văn còn học cách hành văn của bộ luật này.
+ Đối với thế giới: ảnh hưởng lớn đến PL nhiều quốc gia, như Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, các nước Đông
Phi, Bắc Phi, … Đặc biệt các nước Mỹ La-tinh chịu ảnh hưởng rất lớn. Cá biệt có Thụy Sỹ bê nguyên thành
luật nước mình. BLDS Napoleon 1804 được coi là bộ luật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.

b. Nguồn luật

c. Hệ thống TA Pháp

- Mô hình TA Pháp thường được gọi là mô hình kim tự tháp đôi. Đây là mô hình TA điển hình của việc
phân chia HTPL thành luật công và luật tư.

* Nhánh tòa tư pháp

- Gồm 2 nhóm:

+ Các tòa DS: Tòa DS sơ thẩm thẩm quyền hẹp, tòa DS sơ thẩm thẩm quyền rộng, tòa DS chuyên biệt.

+ Các tòa HS: Tòa vi cảnh, tòa tiểu hình, tòa HS chuyên biệt, tòa đại hình.

- Tòa DS sơ thẩm thẩm quyền hẹp:

+ Xử những vụ việc DS có giá trị tranh chấp tối đa 10.000 Eur. Đối với những vụ việc DS có giá trinh
tranh chấp dưới 4.000 Eur thì tòa này sẽ xét xử sơ thẩm và đồng thời là chung thẩm (không có phúc thẩm).

+ Thẩm phán không chuyên: không được đào tạo bài bản về nghề thẩm phán, không có chứng chỉ hành
nghề thẩm phán, chỉ hiểu biết PL và lĩnh vực xét xử.

- Tòa địa phương:

+ Được sinh ra nhằm giảm tải công việc cho Tòa DS sơ thẩm thẩm quyền hẹp.

+ Có chức năng tương tự Tòa DS sơ thẩm thẩm quyền hẹp.

+ Thẩm phán không chuyên.

+ Xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm.

- Tòa DS sơ thẩm thẩm quyền rộng:

+ Xử những vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp lớn hơn 10.000 Eur.

+ Thẩm phán chuyên nghiệp: được đào tạo bài bản, có chứng chỉ hành nghề thẩm phán.

- Tòa DS chuyên biệt:


+ Chuyên xét xử một số tranh chấp đặc biệt.

+ Gồm 3 tòa:

 Tòa thương mại


 Tòa lao động
 Tòa xét xử HĐ nông nghiệp

+ Thẩm phán: cả chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Ví dụ với tòa thương mại thì thẩm phán có thể
chỉ là thương nhân có hiểu biết PL; hoặc với tòa lao động thì thẩm phán có thể là chủ tịch 1 tập đoàn.

- Tòa vi cảnh:

+ Sơ thẩm các vụ án hình sự ít nghiêm trọng.

+ Thẩm phán không chuyên. Ví dụ: cảnh sát có thể làm thẩm phán.

- Tòa tiểu hình:

+ Sơ thẩm các vụ án HS nghiêm trọng.

+ Thẩm phán chuyên nghiệp.

- Tòa HS chuyên biệt:

+ Gồm 3 tòa:

 Tòa vị thành niên


 Tòa quân sự
 Tòa an ninh quốc gia

+ Thẩm phán chuyên nghiệp.

- Tòa đại hình:

+ Là dạng tòa ad-hoc (không thường trực), tổ chức 3 tháng 1 lần.

+ Chuyên xét xử sơ thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, thẩm phán chuyên nghiệp.

- Tòa tư pháp chuyên nghiệp:

+ Xét xử phúc thẩm các vụ án có kháng cáo, kháng nghị từ các tòa cấp dưới (6 tòa cấp dưới).

+ Thẩm phán chuyên nghiệp.

Câu hỏi: Tất cả các bản án sơ thẩm về vụ việc DS, vụ án HS ở Pháp đều phải chuyển qua Tòa tư pháp phúc
thẩm trước khi lên Tòa phá án.

Trả lời: Sai. Vì bản án của Tòa đại hình có thể kháng cáo, kháng nghị lên thẳng Tòa phá án mà không cần
phải qua Tòa tư pháp phúc thẩm.

- Tòa phá án: là TA cấp cao nhất của tư pháp (tương đương với Tòa án tối cao ở VN)

+ “Phá án” không phải là khám phá vụ án, mà là “phá bỏ, phá hủy” bản án.
+ Tòa phá án không trực tiếp xét xử vụ việc, mà chỉ xem xét các TA cấp dưới áp dụng luật nội dung, luật
hình thức có sai sót không, nếu phát hiện sai sót thì “phá hủy” bản án đó và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho
một TA khác cùng cấp để xét xử lại.

* Nhánh tòa hành chính:

- Tòa HC sơ thẩm:

+ Xét xử sơ thẩm các vụ việc hành chính theo phạm vi lãnh thổ.

+ Nếu có kháng cáo, kháng nghị sẽ chuyển lên cho Tòa hành chính phúc thẩm.

- Tòa HC chuyên biệt:

+ Gồm 4 tòa:

 Tòa kiểm toán


 Tòa kỷ luật ngân sách và tài chính
 Tòa dịch vụ y tế và XH
 Tòa giải quyết khiếu kiện của người tị nạn

+ Nếu có kháng cáo, kháng nghị thì sẽ chuyển thẳng lên Tham chính viện (chứ không phải qua Tòa HC
phúc thẩm).

+ Ngoại lệ: với Tòa kiểm toán thì có 3 cấp, trình tự là Tòa kiểm toán vùng (sơ thẩm) => Tòa kiểm toán
TW (phúc thẩm) => Tham chính viện.

- Tham chính viện: là TA cấp cao nhất của công pháp ( tương đương TATC ở Việt Nam)

+ Vừa là cơ quan tư pháp, vừa là cơ quan hành pháp của Chính phủ.

+ Cơ cấu tổ chức gồm có 6 ban: 5 ban giúp việc cho Chính phủ, 1 ban xét xử.

+ Người đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ.

+ Thẩm quyền: có thể trực tiếp xét xử vụ việc khi có kháng cáo, kháng nghị (khác với Tòa phá án).

+ Còn có chức năng là Cơ quan bảo hiến thứ hai sau Hội đồng bảo hiến, xem xét các quyết định HC, các
hành vi của Chính phủ có vi hiến không.

* Tòa xung đột PL

- Là tòa ad-hoc, có 2 trường hợp Tòa xung đột PL được thành lập:

+ Có một vụ việc mà cả Tòa tư pháp và tòa HC đều nhận là thẩm quyền xét xử của mình => tòa được lập
ra để xem xét vụ việc đó thuộc thẩm quyền xét xử của bên nào. Gọi là tranh chấp khẳng định, hay còn gọi là
xung đột tích cực.

+ Có một vụ việc mà cả Tòa tư pháp và Tòa HC đều không nhận thuộc thẩm quyền xét xử của mình =>
tòa được lập ra để xem xét vụ việc đó thuộc thẩm quyền xét xử của bên nào. Gọi là tranh chấp phủ định, hay
còn gọi là xung đột tiêu cực.

- Không xét xử trực tiếp vụ việc. Ngoại lệ: đối với vụ việc mà cả hai tòa xử cho ra hai bản án khác nhau, khi
đó Tòa xung đột PL sẽ xét xử.
- Cơ cấu thành viên: 9 người, trong đó 4 thành viên từ tòa tư pháp, 4 thành viên từ tòa HC, và Bộ trưởng bộ
tư pháp. Nhiệm kỳ của mỗi thành viên là 3 năm.

* Hội đồng bảo hiến Pháp

- Là cơ quan độc lập: tức là không thuộc nhánh Công pháp hay Tư pháp.

- Chức năng:

+ Xem tính hợp lệ của các cuộc bầu cử Tổng thống.

+ Xem sự phù hợp với Hiến pháp với các điều ước quốc tế mà Pháp tham gia.

+ Bảo hiến:

 Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước khi Nghị viện phê chuẩn (tức là chưa có hiệu lực).
 Từ 01/03/2010 (khi đạo luật cải tố Hiến pháp có hiệu lực) có thêm chức năng: xem xét các đạo
luật đã được Nghị viện phê chuẩn (tức là đã có hiệu lực).

Chú ý: việc xem xét tính hợp hiến phải xuất phát từ 1 vụ việc trên thực tế. Tức là phải xuất phát từ việc xét
xử 1 vụ việc cụ thể, thẩm phán nhận thấy VBPL áp dụng cho vụ việc đó có dấu hiệu vi hiến, khi đó thẩm
phán đó sẽ gửi đơn yêu cầu xem xét tính hợp hiến của VBPL đó lên lên tòa cao nhất của nhánh tòa đó (ví dụ
Tòa vi cảnh đang xét xử => gửi lên Tòa phá án; Tòa hành chính sơ thẩm đang xét xử => gửi lên Tham chính
viện).

- Cơ cấu thành viên: chia làm 2 nhóm:

+ Thành viên đương nhiên: là những cụm tổng thống Pháp (nếu không từ chối), có nhiệm kỳ suốt đời.

+ Thành viên không đương nhiên (do bổ nhiệm): gồm 9 người, trong đó 3 người do tổng thống bổ nhiệm,
3 người do chủ tịch thượng viện bổ nhiệm, 3 người do chủ tịch hạ viện bổ nhiệm. Có nhiệm kỳ 9 năm, cứ 3
năm lại thay mới luân phiên 3 người (để đảo bảo tính mới + tính kế thừa).

d. Đào tạo luật và nghề luật

- Đào tạo luật ở Pháp gồm 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: Đào tạo Cử nhân (đào tạo chung).

+ Giai đoạn 2: Đào tạo nghề: chia thành

 Đào tạo thẩm phán


 Đào tạo luật sư
 Đào tạo công chứng viên

- Đào tạo cử nhân:

+ Đối tượng: tốt nghiệp THPT, kiểm tra đầu vào khá đơn giản (khác hoàn toàn với Mỹ).

+ Nơi đào tạo: khoa luật trường ĐH Tổng hợp.

+ Thời gian: 3 năm.

+ Mục tiêu: khoa học luật (có kiến thức chuyên sâu về luật, nhưng không có mục tiêu hành nghề luật sau
khi tốt nghiệp cử nhân luật)
+ Chương trình học: khoa học đại cương, khoa học luật, luật thực định.

+ Nguồn học luật: chủ yếu là giáo trình, cũng có thêm án lệ (những không nhiều).

+ Phương pháp đào tạo: kết hợp cả phương pháp truyền thống (giảng viên nói – học viên ghi chép) và
hiện đại (thảo luận vấn đề, thuyết trình, hùng biện, … nhưng không nhiều như đào tạo luật ở Anh, Mỹ).

+ Kết thúc: nhận Bằng cử nhân luật.

- Sau khi có bằng cử nhân luật, sẽ trải qua một kỳ thi để được vào học một trong ba nghề: thẩm phán, luật
sư, công chứng viên.

- Đào tạo thẩm phán:

+ Nơi đào tạo:

 Với thẩm phán TA tư pháp; ĐH Booc-đô.


 Với thẩm phán TA HC: Học viện HC quốc gia Paris.

+ Quy trình: 31 tháng. Trong quá trình đào tạo được coi là thẩm phán tập sự và được trả lương.

+ Kết thúc: trải qua quá trình thử thách => được Hội đồng thẩm phán trung ương lựa chọn => trình Tổng
thống bổ nhiệm.

+ Nghề thẩm phán: nhiệm kỳ suốt đời, quy chế làm việc độc lập, ổn định (không bị thuyên chuyển nếu
không đồng ý), lương rất cao.

- Đào tạo luật sư:

+ Nơi đào tạo: Các trung tâm đào tạo nghiệp vụ quốc gia.

+ Quy trình đào tạo:

 1 năm học lý thuyết: kết quả được cấp Giấy chứng nhận khả năng hành nghề luật sư.
 2 năm thực tập (trong đó 6 tháng tại Trung tâm đào tạo nghiệp vụ, 12 tháng tại tòa án hoặc văn
phòng luật, 6 tháng tại văn phòng luật hoặc văn phòng công chứng): kết quả được cấp Chứng chỉ
hành nghề luật sư.

+ Kết thúc: được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư. Sau đó phải gia nhập vào một đoàn luật sư để có thể
hành nghề luật sư.

+ Ngoại lệ: những trường hợp không phải học nghề luật sư mà vẫn được hành nghề luật sư tại Pháp:

 Giáo sư luật, tiến sỹ luật, giảng viên luật, thẩm phán, công chứng viên.
 Người từ một nước là thành viên của EU đã có chứng chỉ hành nghề luật sư ở nước họ.
 Người không phải từ nước là thành viên EU nhưng có chứng chỉ hành nghề luật sư của nước đó
và đã vượt qua kỳ thi sát hạch do Trung tâm đào tạo nghiệp vụ quốc gia tổ chức.

+ Nghề luật sư tại Pháp được coi là nghề kinh doanh tự do: luật sư được tự do liên hệ với thân chủ, tự do
thỏa thuận thù lao với thân chủ (khác với Đức).

- Đào tạo công chứng viên:

+ Quy trình: học nghề + thực tập.


+ Kết thúc: được cấp Chứng chỉ hành nghề công chứng viên. Điểm đặc biệt tại Pháp là hàng năm đều có
sự hạn chế bổ nhiệm công chứng viên mới => có nhiều công chứng viên đã học xong nhưng chưa được bổ
nhiệm chính thức => làm trợ lý cho công chứng viên già để chờ được bổ nhiệm thay thế.

2. HTPL Đức

a. Sơ lược quá trình phát triển HTPL Đức

- Bối cảnh lịch sử:

+ Trước 1871 (trước thời điểm nước Đức thống nhất): HTPL giống Pháp, tức là luật hỗn hợp.

+ Sau 1871: sau khi thống nhất, nước Đức cũng bắt đầu thống nhất HTPL, được gọi là cuộc Đại pháp
điển PL tại Đức, và kết quả đã hình thành nhiều bộ luật quan trọng như BLDS Đức 1896, Bộ luật thương
mại Đức,..

* BLDS Đức 1896:

- Hoàn cảnh ra đời:

+ Soạn thảo từ 1874 – 1896, có hiệu lực năm 1900.

+ Do Hội đồng các giáo sư các trường ĐH của Đức soạn thảo (khác với BLDS Pháp do thẩm phán, luật
sư soạn thảo) => được gọi là “bộ luật của các giáo sư” (BLDS Pháp được gọi là “bộ luật của những người
dân”).

- Đặc điểm:

+ Ngôn ngữ trừu tượng, hàn lâm, uyên bác, khó hiểu (khác BLDS Pháp là gần gũi, dễ hiểu với người
dân).

+ Kết cấu hiện đại, logic (hơn so với BLDS Pháp): gồm quyển 1 nêu những khái niệm và quy định
chung; các quyển 2,3,4,5 nêu từng lĩnh vực riêng.

+ Là bộ luật của những khái niệm (khác với BLDS Pháp có rất ít khái niệm).

+ Tuy nhiên vẫn có nhiều quy định lạc hậu so với thời điểm ban hành (giống BLDS Pháp).

+ Không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện (giống BLDS Pháp).

+ Có tính ổn định, hiệu lực lâu dài: đến nay vẫn còn hiệu lực (giống BLDS Pháp).

- Nội dung: Quyển 1 là “phần chung“, quyển 2 là “luật nghĩa vụ”, quyển 3 là “luật sở hữu TS”, quyển 4 là
“luật gia đình”, quyển 5 là “luật thừa kế”.

* So sánh BLDSS Đức với BLDS Pháp:

- Giống nhau:

+ Đều có tính trường tồn: BLDS Đức ban hành năm 1900, BLDS Pháp ban hành năm 1804, đến nay vẫn
còn hiệu lực => có sự linh hoạt, thích ứng với những sự thay đổi của XH rất cao, đồng thời có kỹ thuật lập
pháp rất cao.

Mặc dù hiện nay các nội dung trong BLDS Pháp được thay đổi rất nhiều so với bản gốc 1804, nhưng người
Pháp vẫn giữ BLDS này, chỉ sửa đổi, bổ sung mà không thay bằng BLDS mới, lý do vì sự tự hào của người
Pháp đối với BLDS nước mình.
+ Đều có tầm ảnh hưởng lớn: không chỉ đối với Đức, Pháp mà còn đối với các quốc gia khác trên thế
giới tham khảo, học hỏi theo (thậm chí ghi chép).

+ Đều chịu ảnh hưởng từ luật cổ (luật La Mã, tập quán pháp, …) nhưng ở các mức độ khác nhau (BLDS
Pháp chịu ảnh hưởng từ luật cổ nhiều hơn).

+ Khi mới ra đời đều chứa đựng một số quy định lạc hậu: ví dụ trong BLDS Pháp 1804 quy định phụ nữ
sau khi lấy chồng sẽ bị coi là mất NLHVDS, cả BLDS Pháp 1804 vào BLDS Đức 1900 đều hạn chế nhiều
quyền của con ngoài giá thú so với con trong giá thú.

- Khác nhau:

BLDS Pháp BLDS Đức


Thời gian Rất ngắn, chỉ trong 4 năm. Khá dài, trong 22 năm.
soạn thảo
Người soạn Các luật gia, thẩm phán. Các giáo sư luật.
thảo
Bình dân, dễ hiểu. Hàn lâm, khó hiểu.
Được gọi là “bộ luật của người dân”. Được gọi là “bộ luật của giáo sư”.
Lý do chính là sự mâu thuẫn giữa các vùng, miền của
Đặc điểm Đức nên không thể “bê nguyên” các tập quán của các
về ngôn vùng miền vào BLDS, mà các giáo sư luật phải dày
ngữ công để tìm ra những cách diễn đạt khác với luật cổ.
=> Để người Đức thấy đây là luật mới, không phải của
vùng miền nào.
=> Tránh được mâu thuẫn.
Mức độ Cao. BLDS Pháp chịu ảnh hưởng của Thấp.
ảnh hưởng luật La Mã, luật Giáo hội, tập quán pháp.
từ luật cổ
Không có phần chung mà đi thẳng vào Hiện đại, có phần chung + các phần riêng.
Cấu trúc
các phần riêng.
Có tham vọng điều chỉnh tất cả các QH Không tham vọng, không gộp tất cả các luật tư vào
Tham vọng
của luật tư. Nhưng mục đích không đạt BLDS mà tách riêng thành các bộ luật khác nhau.
về phạm vi
được vì luật tư còn nhiều lĩnh vực
điều chỉnh
chuyên sâu.
b. Nguồn luật

- PL thành văn, tập quán pháp, những nguyên tắc PL chung, phán quyết của Tòa án, các học thuyết pháp lý.

c. Hệ thống Tòa án Đức

- Các tòa cấp bang và dưới bang: chỉ dừng ở mức phúc thẩm.

- Các tòa tối cao: thuộc cấp liên bang.


- Mặc dù nhìn sơ đồ có 6 nhánh (tính cả TA hiến pháp), nhưng 2 nhánh chính vẫn là nhánh Tư pháp (luật tư)
và nhánh Hành chính (luật công). Tuy nhiên hệ thống TA Đức không được coi là điển hình của Civil law (hệ
thống TA Pháp là điển hình của Civil law).

- Mặc dù Đức là Nhà nước liên bang như Mỹ, nhưng hệ thống TA Đức không thể hiện rõ tính liên bang như
ở Mỹ (ở Mỹ mỗi bang có một hệ thống TA của bang riêng từ sơ thẩm – phúc thẩm – tối cao, độc lập với
bang khác và độc lập với liên bang; trong khi hệ thống TA Đức ở cấp bang chỉ có cấp sơ thẩm, phúc thẩm,
còn TATC lại thuộc liên bang).

Câu hỏi: Trong HTTA Đức, TA tư pháp liên bang và TA tư pháp tối cao là một.

Trả lời: Nhận định ĐÚNG. Vì TA cấp bang của Đức chỉ đến cấp phúc thẩm, còn TA tối cao thuộc cấp liên
bang. Vì vậy có thể nói TA tư pháp liên bang và TA tư pháp tối cao đều có nghĩa như nhau.

* Nhánh Tòa tư pháp:

- Gồm 4 cấp Tòa:

+ Tòa Amsgericht (AG) là Tòa tư pháp cấp bang có thẩm quyền thấp nhất, xét xử những vụ kiện dân sự
nhỏ, các vi phạm hình sự nhỏ (vi cảnh).

+ Tòa Landgericht (LG): Tòa tư pháp cấp bang có thẩm quyền cao hơn AG, xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự và tranh chấp dân sự, xét xử phúc thẩm các bản án AG bị kháng cáo, kháng nghị.

+ Tòa Oberlandesgericht (OLG): là tòa tư pháp phúc thẩm, xét xử phúc thẩm các bản án của LG bị kháng
cáo, kháng nghị.

+ Tòa Liên bang Bundesgerichtshof (BGH): là tòa tư pháp cấp cao nhất, có chức năng tương tự như Tòa
phá án của Pháp.

- TA tư pháp sơ thẩm cấp 1:

+ Khác với Pháp, ở Đức là TA có thẩm quyền chung, gộp cả DS và HS.

+ Khác với Pháp, ở Đức không có tòa chuyên biệt.

- Tòa tư pháp tối cao:

+ Thẩm quyền: giống Tòa phá án của Pháp (không trực tiếp xét xử mà chỉ xem xét việc áp dụng lội dung
và luật hình thức có đúng không, nếu không đúng thì chuyển cho tòa án khác cùng cấp xét xử lại).

* Nhánh Tòa hành chính:

- Tòa hành chính tối cao liên bang: giống với Tham chính viện của Pháp, nhưng chỉ là cơ quan tư pháp (còn
Tham chính viện của Pháp thì vừa là cơ quan tư pháp, vừa là cơ quan chính phủ).

- Khác với Pháp, ở Đức thì Tòa hành chính tối cao không có chức năng bảo hiến.

- Khác với Pháp, ở Đức không có Tòa chuyên biệt bên trong tòa hành chính, mà tách hẳn ra ngoài gồm các
tòa bảo hiểm, tòa lao động, tòa tài chính.

- Được tổ chức thành 3 cấp. Riêng Tòa tài chính chỉ có 2 cấp.

* Tòa án hiến pháp Đức:


- Về cơ cấu cũng có đầy đủ các cấp tòa: TA hiến pháp sơ thẩm bang, TA hiến pháp phúc thẩm bang, TA hiến
pháp liên bang. Tuy nhiên TA hiến pháp bang không phải là cấp dưới của TA hiến pháp liên bang (khác với
các nhánh tư pháp, hành chính).

(Ở đây chỉ nghiên cứu Tòa án hiến pháp liên bang)

- Cơ cấu thành viên của TA hiến pháp liên bang:

+ Gồm 16 thẩm phán, trong đó 8 người do Thượng viện bổ nhiệm, 8 người do Hạ viện bổ nhiệm.

+ Nhiệm kỳ 12 năm (so với Pháp là 9 năm). Cá biệt: có trường hợp nhiệm kỳ nhiều hơn 12 năm, đó là
trường hợp 1 thành viên chết, bổ nhiệm người mới thay thế, người mới sẽ tiếp tục làm nốt nhiệm kỳ của
người cũ + nhiệm kỳ mới, nhưng tổng thời gian không quá 15 năm.

- Chức năng của tòa án hiến pháp liên bang: bảo vệ hiến pháp liên bang, gồm:

+ Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật chưa được phê chuẩn.

+ Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đã được phê chuẩn.

+ Xem xét tính hợp hiến của các quyết định hành chính, các hành vi của chính phủ (giống với Tham
chính viện của Pháp).

+ Việc xem xét không cần phải xuất phát từ một vụ việc cụ thể trên thực tế (khác với Pháp).

- Thẩm quyền của TA hiến pháp liên bang:

+ Quyền tuyên bố 1 đạo luật là vi hiến nếu đạo luật đó trái với Luật cơ bản (Điều 100, khoản 1 Luật cơ
bản).

+ Quyền giải thích Hiến pháp (Điều 93, khoản 1, ý 2 Luật cơ bản).

+ Quyền giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các CQNN ở Liên bang (Điều 93, K1, ý 1 Luật cơ bản).

+ Quyền giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa liên bang và tiểu bang (Điều 93, K1, ý 3 và ý 4 Luật cơ
bản).

* So sánh hệ thống TA Pháp và hệ thống TA Đức

HTTA Pháp HTTA Đức


Cơ quan bảo hiến
Tên gọi Hội đồng Hiến pháp. Tòa án Hiến pháp.
- Thành viên đương nnhieen: các cựu tổng thống - Chỉ có thành viên bổ nhiệm.
Pháp, nhiệm kỳ suốt đời. - Gồm 16 thẩm phán, trong đó 8 do thượng
- 9 thành viên bổ nhiệm: 3 do tổng thống, 3 do viện, 8 do hạ viện bầu (chỉ được bổ nhiệm 1
Thành viên thượng viện, 3 do hạ viện. nhiệm kỳ duy nhất, không được tái bổ
- Nhiệm kỳ 9 năm: chỉ được bổ nhiệm 1 nhiệm kỳ nhiệm).
duy nhất, không được tái bổ nhiệm, cứ 3 năm lại - Nhiệm kỳ 12 năm.
thay thế và bổ nhiệm mới 3 thẩm phán.
Chức năng - Xem xét các khiếu kiện liên quan đến bầu cử tổng - Bảo vệ hiến pháp: (được quy định trong
thống, nghị viện. Luật cơ bản của Đức)
- Đảm bảo các cuộc trưng cầu dân ý diễn ra đúng + Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật
luật. chưa được phê chuẩn.
- Xem xét sự phù hợp của Hiến pháp Pháp với điều + Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật
ước quốc tế mà Pháp tham gia. đã được phê chuẩn.
- Bảo vệ hiến pháp: + Xem xét tính hợp hiến của các quyết
+ Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước định HC, các hành vi của Chính phủ (giống
khi Nghị viện phê chuẩn (tức là chưa có hiệu lực). với Tham chính viện của Pháp).
+ Từ 01/03/2010 (khi đạo luật cải tố Hiến pháp có + Việc xem xét không cần phải xuất phát
hiệu lực) có thêm chức năng: xem xét các đạo luật từ một vụ việc cụ thể trên thực tế (khác với
đã được Nghị viện phê chuẩn (tức là đã có hiệu lực), Pháp).
nhưng với yêu cầu là phải gắn liền với 1 vụ việc cụ - Tòa án hiến pháp của Đức có toàn quyền
thể. bảo vệ hiến pháp.
- Hội đồng hiến pháp của Pháp phải chia sẻ quyền
bảo vệ hiến pháp Pháp với Tham chính viện (là cơ
quan bảo hiến thứ 2 của Pháp): Xem xét tính hợp
hiến của các quyết định hành chính, các hành vi của
chính phủ thuộc thẩm quyền của Tham chính viện.
- Quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến nếu
đạo luật đó trái với Luật cơ bản.
- Quyền giải thích Hiến pháp.
Thẩm
- Quyền giải quyết xung đột thẩm quyền
quyền
giữa các CQNN ở Liên bang.
- Quyền giải quyết tranh chấp thẩm quyền
giữa liên bang và tiểu bang.
Hệ thống tòa tư pháp
Giống:
- Đều có hệ thống tòa tư pháp (hệ thống TA có thẩm quyền chung) được tổ chức độc lập so với hệ
thống tòa hành chính => đây là đặc trưng của Civil law.
- Đều là CQ xét xử các vụ việc DS và HS.
- Tòa án cấp cao nhất đều chỉ xem xét về mặt áp dụng PL (tức là tuân thủ luật tố tụng) chứ không
xem xét về nội dung vụ việc, nếu phát hiện sai sót thì sẽ giao cho Tòa án khác cùng cấp vưới Tòa
án đã xét xử để xét xử lại => Tòa án tối cao ở Pháp, Đức không là CQ xét xử phúc thẩm.
- Gồm 3 cấp Tòa. - Gồm 4 cấp Tòa.
- Có các Tòa chuyên biệt (như Tòa lao động, Tòa - Không có các Tòa chuyên trách, mà tách
Cơ cấu tổ thương mại,…) nằm bên trong hệ thống tòa tư pháp. riêng khỏi hệ thống tòa tư pháp thành các hệ
chức thống tòa độc lập (hệ thống tòa lao động, hệ
thống tòa bảo hiểm XH, hệ thống tòa tài
chính).
- Tên gọi: Tòa phá án. - Tên gọi: Tòa tối cao liên bang.
- Thẩm quyền: hủy bản án của tòa cấp dưới nếu phát - Thẩm quyền:
Cấp tòa xét
hiện sai sót và giao cho TA khác cùng cấp xét xử lại. + Giống với Tòa phá án của Pháp.
xử cuối
+ Có thêm thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
cùng
những vụ việc liên quan đến thủ tục thu hồi
bằng sáng chế.
Hệ thống tòa hành chính
Vừa là CQ tư pháp, vừa là CQ hành chính => gọi là Là một nhánh tòa độc lập.
Vị trí, chức CQ “lưỡng tính”, thể hiện ở Tham chính viện, có 6
năng ban thì 5 ban là giúp việc cho Chính phủ Pháp, 1
ban là CQ xét xử.
Thẩm phán ở Tòa HC được đào tạo cùng với những
nhân sự của Chính phủ Pháp (tại học viện HC, chứ
Thẩm phán
không phải được đào tạo tại các khoa luật như ở các
tòa khác).
- Tên gọi: Tham chính viện. - Tên gọi: Tòa HC tối cao liên bang.
- Thẩm quyền: - Thẩm quyền:
+ Có thể trực tiếp xét xử lại vụ việc khi có kháng + Xem xét các bản án của Tòa cấp dưới bị
Cấp tòa xét
cáo, kháng nghị. kháng cáo, kháng nghị.
xử cuối
+ Bảo vệ Hiến pháp. + Nếu phát hiện sai sót thì hủy bỏ bản án
cùng
và yêu cầu tòa cấp dưới cùng cấp xét xử lại.
+ Trực tiếp xét xử một số vụ việc quan
trọng, có tầm ảnh hưởng đến quốc gia.
d. Đào tạo luật và nghề luật

- Gồm 2 giai đoạn, đào tạo liên tục và cùng trong một cơ sở (khác với Pháp).

* Giai đoạn 1: Đào tạo cử nhân


- Đối tượng: tốt nghiệp THPT.

- Nơi đào tạo: khoa luật ĐH tổng hợp.

- Thời gian: 3.5 đến 5 năm.

- Mục tiêu: khoa học luật.

- Chương trình: khoa học đại cương + khoa học luật + luật thực định.

- Học liệu: giáo trình + án lệ.

- Phương pháp đào tạo: truyền thống + hiện đại.

- Kết thúc: được cấp giấy chứng nhận hoàn thành giai đoạn 1 (khác với Pháp là bằng cử nhân luật).

* Giai đoạn 2: Đào tạo nghề

- Học chung một quy trình 3 năm:

+ Lý thuyết: 1 năm.

+ Thực tập: 2 năm, gồm 17 tháng chung (cụ thể 6 tháng tại TA, 4 tháng tại công ty luật, 3 tháng tại CQ
công tố, 4 tháng tại CQNN) và 7 tháng phân ngành (thực tập tại TA với thẩm phán/ công ty luật với luật sư/
văn phòng công chứng với công chứng viên).

+ Kết thúc: thi để lấy chứng chỉ.

- Với thẩm phán bang: nộp đơn lên Bộ Tư pháp bang => Bộ trưởng Bộ TP bang (hoặc Nghị viện bang) bổ
nhiệm làm thẩm phán thử việc => sau 5 năm (đã là công chức thì 2 năm) sẽ bổ nhiệm làm thẩm phán chính
thức.

- Với thẩm phán liên bang: do Bộ trưởng Bộ TP liên bang và Ủy ban tuyển chọn thẩm phán liên bang chọn

=> trình Tổng thống bổ nhiệm.

- Nhiệm kỳ của thẩm phán là suốt đời, làm việc độc lập chỉ tuân theo PL, lương cao (giống Pháp).

- Với luật sư: phải gia nhập đoàn luật sư, bị ràng buộc bởi quy chế của nhà nước (không được tự do hành
nghề như ở Pháp).

- Với công chứng viên: do bị hạn chế số lượng nên có thể chuyển sang làm luật sư (khác với Pháp).

Câu hỏi: Nhận định đúng – sai

1. Luật tư của HTPL các nước dòng họ Civil law được xây dựng trên cơ sở kế thừa luật tư La Mã.

=> Đúng.

2. Ở dòng họ Civil law, mức độ ảnh hưởng của luật La Mã đến luật công và luật tư là không giống nhau.

=> Đúng. Vì luật La Mã chỉ ảnh hưởng đến luật tư, luật công thời La Mã chưa phát triển.

3. Đối với các nước theo dòng họ PL Civil law, điều ước quốc tế có giá trị pháp lý cao hơn các đạo luật quốc
gia.
=> Sai. Vì hầu hết các nước theo civil law đều không đặt lợi ích quốc tế cao hơn lợi ích quốc gia, nên Hiến
pháp có giá trị pháp lý cao hơn điều ước quốc tế, và giá trị pháp lý của điều ước quốc tế cao hơn các đạo luật
khác của quốc gia. Ngoại trừ hai quốc gia là Pháp và Hà Lan coi điều ước quốc tế có giá trị cao hơn cả Hiến
pháp.

4. Mặc dù bị ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết tam quyền phân lập, Hội đồng bảo hiến của Pháp vẫn có thể
can thiệp vào hoạt động của Chính phủ bằng thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các hành vi của Chính
phủ.

=> Sai. Hội đồng bảo hiến Pháp chỉ có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật, còn Tham chính
viện mới có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến các hành vi của Chính phủ.

5. Tham chính viện là cơ quan bảo hiến thứ hai của Pháp.

=> Đúng. Tham chính viện mới có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến các hành vi của Chính phủ.

6. Tương tự TA có thẩm quyền chung, các TA chuyên biệt của Đức đều được tổ chức thành 3 cấp.

=> Sai. Vì TA tài chính chỉ được tổ chức thành 2 cấp.


Chương 3. DÒNG HỌ PHÁP LUẬT COMMON LAW
- Có nhiều tên gọi:

+ Dòng họ thông luật/ dòng họ PL chung: dòng họ Common law xuất phát từ Anh, tiền thân là một loại
PL được áp dụng chung trên toàn nước Anh từ thế kỷ XIII.

+ Dòng họ PL Anh – Mỹ: vì Anh, Mỹ là 2 quốc gia điển hình của dòng họ này.

+ Dòng họ PL Anglo – Saxon: Anglo và Saxon là các tộc người Đức cổ, đã xâm chiếm nước Anh và thay
thế cho người La Mã cai trị nước Anh, và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng HTPL Anh.

+ Dòng họ PL án lệ: để so sánh với PL thành văn của dòng họ Civil law.

Chú ý: “Common law” đa nghĩa:

 Ám chỉ hệ thống án lệ do TA Hoàng gia Anh ban hành. Án lệ do Tòa đại pháp ban hành gọi là equity.
 Ám chỉ án lệ của nước Anh bao gồm cả án lệ do TA Hoàng gia và Tòa đại pháp ban hành.
 Ám chỉ HTPL Anh.
 Ám chỉ dòng họ PL.

- Đặc điểm của dòng họ PL Common law:

+ Các HTPL đều chịu ảnh hưởng từ HTPL Anh.

+ Rất coi trọng án lệ: coi án lệ là nguồn luật cơ bản, sơ cấp.

+ Thẩm phán có vai trò quan trọng trong sáng tạo QPPL.

+ Không có sự phân chia PL thành luật công và luật tư. Mặc dù trong lịch sử nước Anh đã từng có thời kỳ
có sự phân chia HTPL thành luật công và luật tư, nhưng chỉ nhằm mục đích xác định các thủ tục tố tụng
tương ứng, chứ không nhằm mục đích như với Civil law.

Chú ý: sự phân chia thành luật công và luật tư là đặc điểm riêng của dòng họ Civil law, không có ở các dòng
họ PL khác.

+ Chế định PL đặc thù: chế định ủy thác (có nội dung tương tự nội dung Làm giàu bất chính của chế định
luật nghĩa vụ trong Civil law).

I. Sự hình thành và phát triển của dòng họ PL Common law

Lịch sử hình thành và phát triển dòng họ common law chính là lịch sử hình thành và phát triển HTPL Anh.

1. Sự hình thành

a. Giai đoạn trước năm 1066

Có 3 tiểu giai đoạn:

- Tiểu giai đoạn giữa thế kỷ I TCN trở về trước: nước Anh chỉ có người dân Anh bản địa (người Celtic),
không có PL và không có bộ máy nhà nước, QHXH được điều chỉnh bằng các tập quán.

- Tiểu giai đoạn thế kỷ I TCN đến thế kỷ IV: là thời kỳ hùng mạnh của đế quốc La Mã, người La Mã đã tràn
sang Anh cai trị người Celtic và đem theo văn hóa và PL La Mã, tuy nhiên thực tế chỉ ảnh hưởng được về
văn hóa, còn PL La Mã gần như không tác động đến người Anh bản địa. Lý do là vì người La Mã cho rằng
luật La Mã rất cao quý, PL La Mã chỉ dùng để với người La Mã chứ không áp dụng cho dân ngoại đạo
Celtic ==> do đó PL Anh sử dụng vẫn là tập quán của mình.

- Tiểu giai đoạn cuối thế kỷ IV đến 1066:

+ Đế quốc Tây La Mã sụp đổ năm 476, người La Mã ở Anh rút về nước. Khi đó ở Anh có 4 tộc người
Đức cổ thế chân người La Mã là Anglo, Saxon, Jute, Dane để cai trị Anh => PL Anh bắt đầu hình thành.

+ Từ thế kỷ V – VI: chủ yếu là tập quán pháp của người Celtic và 4 tộc người Đức cổ.

+ Thế kỷ VII: xuất hiện PL thành văn: nhà vua người Anglo-Saxon cho tập hợp các tập quán thành một
văn bản gồm 90 điều và ban hành để áp dụng. Tuy nhiên, luật áp dụng không thống nhất, vừa theo tập quán
pháp, vừa theo PL thành văn. Hoạt động xét xử được trao cho một cơ quan gọi là Tòa địa hạt, do người đứng
đầu một khu vực dân cư đứng ra xét xử (tương tự như “già làng”).

+ Thế kỷ X: xuất hiện Tòa phong kiến với người xét xử là các lãnh chúa địa phương.

b. Giai đoạn từ 1066 – cuối thế kỷ XIV

Có 2 giai đoạn:

* Tiểu giai đoạn tiếp tục áp dụng tập quán pháp:

- Bối cảnh lịch sử:

+ Năm 1066, người Norman (từ Pháp) do William đệ nhất dẫn đầu đánh bại tộc người Anglo Saxon, xây
dựng nhà nước tập quyền cát cứ, theo đó:

 Vua là lãnh chúa tối cao.


 Các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp: đều nằm trong tay Hội đồng cố vấn quốc vương.
 Phương thức bảo vệ ngai vàng vô cùng độc đáo: nhà vua chia đất cho các thuộc hạ để mua chuộc
lòng trung thành, số lượng đất chia cho mỗi thuộc hạ (gọi là lãnh chúa) đủ lớn để đảm bảo lòng
trung thành, nhưng cũng đủ nhỏ để đảm bảo không thể làm phản.

+ Các thành tựu:

 Đã lập được Sổ điền thổ vào năm 1086 để ghi chép ruộng đất, mục đích để quản lý và để thu thuế.
 Thành lập Hội đồng cố vấn quốc vương: ban đầu để giải quyết các vấn đề về tài chính, thuế cho
nhà vua => sau đó dần dần mang tính chất TA => và cuối cùng hình thành TA Hoàng gia (được
đặt tại Westminster) gồm 3 tòa là Tòa tài chính, Tòa thông thường (xử vụ việc dân sự), và Tòa
chính trị.

- Như vậy, trong giai đoạn này, hệ thống TA của Anh gồm: Tòa địa hạt, Tòa phong kiến, Tòa hoàng gia, Tòa
giáo hội (xét xử các giáo dân).

* Tiểu giai đoạn hình thành và sử dụng Common law:

- Hoàn cảnh ra đời:

+ Trước thế kỷ XII: việc giải quyết tranh chấp giữa những người dân thường với nhau do Tòa phong kiến,
Tòa địa hạt xét xử bằng cách sử dụng tập quán pháp, tuy nhiên vì tập quán của mỗi nơi lại khác nhau nên
dẫn đến vụ việc giống nhau lại cho ra nhiều kết quả xét xử khác nhau. Tòa hoàng gia lúc này chỉ xét xử
những vụ việc liên quan đến hoàng gia, không thụ lý vụ việc của dân thường. Việc này dẫn đến mâu thuẫn
xã hội phát sinh không được giải quyết.
+ Thế kỷ XII: nhà vua nhận thấy đơn thư khiếu nại của người dân gửi đến Tòa hoàng gia quá nhiều,
người dân không còn tin tưởng vào Tòa phong kiến và Tòa địa hạt => nhà vua yêu cầu Tòa hoàng gia buộc
thụ lý đơn của dân chúng. Bên cạnh đó, nhà vua còn yêu cầu các thẩm phán của Tòa hoàng gia đến các địa
phương để xét xử lưu động, các thẩm phán vẫn sử dụng tập quán pháp để xét xử. Sau khi xét xử xong, các
thẩm phán quay về Westminster chia sẻ những tập quán và cùng nhau lựa chọn những tập quán hay nhất để
đưa vào một cuốn sổ gọi là Tuyển tập án lệ.

+ Thế kỷ XIII: Common law ra đời từ thực tiễn xét xử lưu động của các thẩm phán của TA Hoàng gia
(tập quán pháp đã được án lệ hóa). Lúc này, các thẩm phán khi xét xử chỉ cần mở Tuyển tập án lệ và áp dụng
án lệ phù hợp. Tuyển tập án lệ này được gọi là “luật chung” (Common law) được áp dụng chung trên toàn
nước Anh.

Chú ý: cần phân biệt Common law với luật chung châu Âu lục địa (Jus Commune):

 Common law được ban hành bởi các thẩm phán TA Hoàng gia, được áp dụng trên phạm vi nước
Anh.
 Jus Commune được tập hợp bởi các giáo sư đại học thuộc trường phái các nhà bình chú (Glossators)
và trường phái các nhà bình luận (Commentators). Jus commune được áp dụng tại các nước châu Âu
lục địa trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV.

Câu hỏi: Common law khác biệt như thế nào đối với PL các nước châu Âu lục địa?

Trả lời: PL thành văn của các nước châu Âu lục địa được ban hành bởi CQ lập pháp, hành pháp. Còn
Common law do CQ tư pháp ban hành.

- Nguyên tắc “Stare Decisis”: nguyên tắc tiền lệ pháp, quy định các thẩm phán khi xét xử nếu thấy vụ việc
có tình tiết tương tự như với vụ việc trong QK thì có thể áp dụng cách giải quyết vụ việc trong quá khứ đó.

+ Trước thế kỷ XVIII: không bắt buộc phải áp dụng nguyên tắc Stare Decicis, tức là dù thấy vụ việc mình
đang xét xử có tình tiết giống với một án lệ trước đó thì thẩm phán không bắt buộc phải tuân theo án lệ đó.

+ Từ thế kỷ XVIII: bắt buộc phải tuân theo án lệ.

- Đặc điểm của Common law (chỉ ở Anh):

+ Gắn liền với hệ thống trát rất phức tạp. Trát là một mẫu đơn khởi kiện, tại Anh thời điểm này có tới
gần 100 loại trát cho mỗi loại vụ kiện, nếu chọn sai loại thì sẽ bị mất quyền khởi kiện.

+ Thủ tục tố tụng rất phức tạp ( trong các phiên tòa của Tòa hoàng gia): thẩm phán Tòa Hoàng gia rất coi
trọng chứng cứ, các phiên tòa luôn có bồi thẩm đoàn.

c. Giai đoạn từ thế kỷ XV – cuối thế kỷ XVIII (giai đoạn hình thành và phát triển equity)

- Nguyên nhân xuất hiện: do Common law đã bộc lộ nhiều hạn chế ở cả luật nội dung và luật hình thức.

+ Luật nội dung:

 Phán quyết của các thẩm phán Tòa hoàng gia không còn chính xác: lý do vì thẩm phán chỉ dựa
vào tuyển tập án lệ để ra phán quyết, nhưng đến thế kỷ XV các QHXH đã thay đổi rất nhiều so
với trước đó => hạn chế khi xét xử.
 Sự sáng tạo, linh hoạt của các thẩm phán Tòa Hoàng gia giảm sút: các thẩm phán Tòa hoàng gia
không còn sáng tạo ra các án lệ mới, mà chỉ áp dụng các án lệ cũ.
 Xuất hiện một số vụ việc không có án lệ, bị thẩm phán Tòa hoàng gia từ chối thụ lý với lý do là
chưa có trong Tuyển tập án lệ.

+ Luật hình thức:

 Nguyên đơn chỉ cần chọn sai trát là bị mất quyền khởi kiện: có đến gần 100 trát, người dân
thường không thể có kiến thức sâu sắc về PL => là quy định gây rất nhiều bức xúc trong dân
chúng.
 Xuất hiện nhiều vụ việc không có trát phù hợp: vì thiếu trát nên nguyên đơn không thể khởi kiện.
 Phiên tòa của Tòa hoàng gia sử dụng tiếng Pháp (là thứ ngôn ngữ dành cho giới quý tộc Anh thời
đó) nên gây khó khăn cho người dân.
 Chứng cứ giả gây ra kết quả xét xử không chính xác (vì các thẩm phán Tòa hoàng gia quá coi
trong chứng cứ).

=> Từ những hạn chế trên của Common law, dân chúng không còn tin tưởng vào TA Hoàng gia.

=> Chỉ còn lựa chọn duy nhất là khiếu kiện lên nhà vua.

=> Vua chỉ định một người thay mình xét xử, gọi là Đại pháp quan (nhà vua thường chọn một linh mục nhà
thờ là Đại pháp quan).

=> Đại pháp quan cần có bộ máy giúp việc, dần dần hình thành Tòa đại pháp. Khác với Tòa Hoàng gia sử
dụng Common law, Tòa đại pháp sử dụng equity (luật công bằng) trong xét xử.

Chú ý: Tòa Đại pháp không thay thế cho Tòa Hoàng gia mà cùng hoạt động song song với Tòa Hoàng gia.

* Về Tòa đại pháp

- Luật nội dung: Tòa đại pháp sử dụng equity, tức là xét xử dựa trên sự công bằng và lẽ phải, theo ý chí chủ
quan của Đại pháp quan.

- Luật hình thức: (tại Tòa Đại pháp thì luật nội dung được coi trọng hơn luật hình thức, ngược lại với Tòa
hoàng gia).

+ Không sử dụng hệ thống trái đồ sộ của Tòa hoàng gia, mà chỉ sử dụng một trát duy nhất là Trát triệu
tập.

+ Rất chú ý tới lời khai, tình tiết, chứ không chỉ chú trọng đến chứng cứ như ở Tòa hoàng gia.

+ Yếu tố tôn giáo được đưa vào trong các buổi xét xử: như việc trước khi lấy lời khai, thẩm phán yêu cầu
đương sự phải thề trên quyển kinh thánh (thề chỉ nói ra sự thật), sau khi tuyên một người có tội thì sẽ tiến
hành rửa tội. Lý do vì Đại pháp quan là một linh mục nhà thờ và hầu hết người dân Anh đều theo công giáo.

+ Không có bồi thẩm đoàn.

Lưu ý: equity ra đời cùng tồn tại song hành với Common law chứ không thay thế Common law => khiến
cho HTPL của Anh vô cùng phúc tạp.

* Sự phát triển của equity

- Thế kỷ XV: equity ra đời, thể hiện được sự mềm dẻo, linh hoạt.

- Thế kỷ XVI: xuất bản Tuyển tập equity, các thẩm phán cũng dần phụ thuộc vào Tuyển tập equity và dần
trở nên cứng nhắc (giống như Common law).
- Thế kỷ XVII: phán quyết của Tòa đại pháp đã không còn mang giá trị chung thẩm, có thể bị kháng cáo lên
Thượng nghị viện. Xuất hiện mâu thuẫn giữa Tòa hoàng gia và Tòa đại pháp: như việc Tòa hoàng gia đang
xét xử thì Tòa đại pháp lại ra quyết định yêu cầu đình chỉ việc xét xử đó; hoặc khi Tòa đại pháp đang xét xử
vụ án thì Tòa hoàng gia cũng ra quyết định đình chỉ vụ án => vì 2 Tòa hoàng gia và Tòa đại pháp là ngang
cấp nên mâu thuẫn không thể giải quyết => yêu cầu nhà vua phán xử (nhà vua thường sẽ “bênh” Tòa đại
pháp vì Đại pháp quan do nhà vua trực tiếp lựa chọn).

* Đóng góp của equity

- Đóng góp lớn nhất: giúp khai sinh ra chế định điển hình của dòng họ Common law hay là chế định ủy
thác (chế định điển hình của Civil law là luật nghĩa vụ).

* So sánh Common law và equity

- Common law do Tòa hoàng gia sáng lập, còn equity do Tòa đại pháp sáng lập.

- Cả hai loại luật này đều do CQ tư pháp (TA) sáng lập ra, đều dựa trên thực tiễn xét xử.

d. Giai đoạn từ thế kỷ XIX – nay (giai đoạn cải tổ HTPL Anh)

- Nguyên nhân cải tổ:

+ HTPL Anh quá phức tạp: vừa có Cmmon law, vừa có equity và 2 loại luật này mâu thuẫn với nhau, hệ
thống TA gồm Tòa địa hạt, Tòa phong kiến, Tòa hoàng gia, Tòa đại pháp, Tòa tôn giáo.

+ Đầu thế kỷ XIX, một học giả Anh tên Jeremy Bentham kêu gọi cải tổ HTPL Anh. Đến cuối thế kỷ XIX,
HTPL Anh đã có sự cải tổ mạnh mẽ, gọi là cuộc cải tổ HTPL Anh lần thứ nhất.

- Các thành tựu:

+ Về hệ thống TA:

 Ban hành Luật TATC 1873, trong đó sáp nhập Tòa hoàng gia và Tòa đại pháp thành TATC. TATC
gồm Tòa phúc thẩm và Tòa cấp cao. Tòa cấp cao gồm 3 tòa là Tòa nữ hoàng, Tòa đại pháp, Tòa
gia đình.
 Ban hành Luật thẩm quyền xét xử phúc thẩm 1876, trong đó thẩm quyền xét xử phúc thẩm cao
nhất thuộc về UB phúc thẩm thuộc Thượng nghị viện. Luật này có hiệu lực đến tận năm 2009.

Chú ý: như vậy mặc dù tên là TATC, nhưng lại không có thẩm quyền tối cao (mà thẩm quyền tối cao thuộc
về UB phúc thẩm của Thượng nghị viện).

 Từ 2009, Tòa tối cao mới có thẩm quyền tối cao (sau cuộc cải tổ HTPL Anh lần thứ hai diễn ra
từ 2005 đến 2009).

+ Về luật nội dung:

 Hợp nhất Common law và equity: các thẩm phán có thể tùy ý lựa chọn án lệ có nguồn gốc
Common law hay nguồn gốc equity).
 Tiến hành pháp điển hóa trong một số lĩnh vực (ở châu Âu lục địa pháp điển hóa toàn bộ HTPL).

+ Về luật hình thức: xóa bỏ trát, chỉ còn giữ lại trát triệu tập. Tuy nhiên tư duy về việc sử dụng trát vẫn
còn tồn tại cho đến tận ngày nay (như việc các luật sư ở Anh vẫn có xu hướng tự nhận mình hành nghề trong
lĩnh vực nào trên cơ sở phân chia các loại trát, các môn học trong chương trình đào tạo luật cũng vẫn được
thiết kế trên cơ sở phân chia các loại trát trước đây).
2. Sự mở rộng của Common law từ Anh ra các quốc gia khác

a. Con đường mở rộng

- Chỉ có một con đường duy nhất là ép buộc thông qua cưỡng bức thuộc địa (khác với Civil law có hai con
đường mở rộng là ép buộc và tự nguyện học hỏi).

b. Quy mô mở rộng

- Với quốc gia chưa có HTPL trước khi người Anh đến (xâm chiếm): tiếp nhận dễ dàng và HTPL sẽ rất
giống với Anh, điển hình như Úc, New Zealand.

- Với quốc gia đã có HTPL trước khi người Anh đến: có 2 TH:

+ Nếu HTPL của thuộc địa không cản trở chính sách cai trị của thực dân Anh: không bắt buộc xóa bỏ
HTPL cũ, chỉ đưa thêm một số quy định PL từ Anh => HTPL không giống Anh, ví dụ Nam Phi (trước theo
Civil law từ Hà Lan, sau khi người Anh đến thì trở thành hỗn hợp Civil law và Common law), Quebek (vẫn
giữ Civil law từ Pháp), Ấn Độ (vẫn giữ Luật tôn giáo + Common law).

+ Nếu HTPL của thuộc địa gây cản trở cho chính sách cai trị của Anh: bắt xóa bỏ HTPL đó và bắt buộc
tuân theo HTPL của Anh, đó là các trường hợp của Hồng Kông, Singapore.

II. Một số HTPL điển hình thuộc dòng họ Common law

1. HTPL vương quốc Anh

a. Khái quát về HTPL vương quốc Anh (UK)

- UK = England + Wales + Scotland + Northern Ireland. UK tên đầy đủ là Liên hiệp vương quốc Anh và Bắc
Ireland, gọi tắt là Vương quốc Anh.

- Đến thời điểm hiện tại trên toàn UK vẫn chưa thống nhất về mặt luật áp dụng và hệ thống TA:

+ Scotland đến cuối thế kỷ XIII vẫn là một quốc gia độc lập, năm 1292 bị Anh chiếm, sau đó lại giành
độc lập, rồi lại bị chiếm đóng => dân chúng Scotland mệt mỏi và đồng ý đi theo Pháp (là kẻ thù của Anh lúc
đó) và đồng thời xây dựng HTPL theo Civil law. Đến 1707, người Scotland đồng ý trở thành một bộ phận
của Vương quốc Anh. Tuy đã thành một phần của UK, nhưng Scotland vẫn giữ PL theo Civil law, và kết quả
là hiện tại HTPL của Scotland là hỗn hợp của Civil law và Common law.

+ Hệ thống TA: thế kỷ XIX có TATC, thẩm quyền xét xử cao nhất, ngoại trừ Scotland: hình sự theo 3 cấp
riêng của Scotland, chỉ dân sự mới theo các Tòa chung của UK.

b. Nguồn luật

* Án lệ

- Khái niệm: là bản án, cách giải thích, cách áp dụng PL của vụ việc tương tự trong quá khứ.

- Vai trò của thẩm phán: là người sáng tạo ra các QPPL thông qua các phán quyếtt bản án (khác với Civil
law, thẩm phán hay CQ tư pháp chỉ là người áp dụng PL, còn sáng tạo ra PL là CQ lập pháp và CQ hành
pháp).

- Nguyên tắc Stare Decisis (từ thế kỷ XIII): nguyên tắc tiền lệ pháp.

+ Nội dung:
 Các tòa cấp dưới phải tuân theo phán quyết của TA cấp trên: tòa cấp trên gồm: Tòa tối cao (trước
2009 là UB phúc thẩm của Thượng nghị viện), tòa phúc thẩm, tòa cấp cao.
 Tòa cấp trên cũng phải tuân thủ phán quyết của chính mình trong quá khứ (ngày nay chỉ còn đúng
đối với Tòa phúc thẩm, tức là Tòa tối cao và Tòa cấp cao có thể không phải tuân theo phán quyết
của chính mình trong quá khứ).

+ Không phải mọi bản án của TA cấp trên đều là án lệ, mà chỉ có những bản án được xuất bản mới trở
thành án lệ (trong Tuyển tập án lệ).

+ Các phần của bản án được coi là án lệ: gồm 2 phần

 Ratio Decidendi: chứa các quy phạm PL, nguyên tắc pháp lý để đưa ra phán quyết. Phần này có
giá trị ràng buộc đối với các thẩm phán áp dụng để xét xử sau này.
 Obiter Dictum: bình luận, nhận xét của thẩm phán để lý giải thêm. Phần này chỉ có giá trị tham
khảo.

+ Vị trí của án lệ: là nguồn luật sơ cấp, quan trọng. Các thẩm phán ở Anh áp dụng nguyên tắc Stare
Decicis rất nghiêm ngặt, đến mức cứng nhắc (khác với ở Mỹ cũng áp dụng Stare Decicis nhưng mềm dẻo và
linh hoạt).

Lưu ý:

 Chỉ bản án của TA cấp cao mới có thể trở thành án lệ (nếu được xuất bản).
 Bản án của Tòa HS trung ương, Tòa pháp quan, Tòa địa hạt không bao giờ trở thành án lệ.

* Pháp luật thành văn

- Xuất hiện đầu tiên ở Anh vào thế kỷ VII, gồm 90 điều, chủ yếu là tập quán pháp.

- Vị trí:

+ Trong QK: bị coi là viển vông, xa rời thực tế (chỉ coi trọng án lệ).

+ Hiện nay: vai trò của PL thành văn ngang với án lệ, thậm chí PL thành văn có thể hủy bỏ án lệ trong
quá khứ. Tuy nhiên trong thực tế ở Anh, khi sử dụng PL thành văn thì vẫn phải giải thích PL, và thẩm phán
vẫn thường phụ thuộc vào án lệ, vì trong án lệ có nêu cách giải thích PL.

- Phân loại:

+ VB do Nghị viện ban hành: luật, luật thống nhất, luật hệ thống hóa.

+ VB do Nghị viện ủy quyền ban hành: VB thi hành luật, luật lệ địa phương (ở VN gọi là VB dưới luật).

- Hiến pháp:

+ Nước Anh không có hiến pháp thành văn, mà chỉ có hiến pháp bất thành văn. Những quy định có bản
chất hiến pháp Anh được nêu rải rác tại nhiều nguồn luật: PL thành văn, án lệ, tập quán, đặc quyền hoàng
gia, … chứ không phải là một VB duy nhất được đề tên là hiến pháp Anh như ở các quốc gia khác.

+ Đạo luật Magna Carta 1215 (Đại Hiến chương) được coi Hiến pháp đầu tiên của Anh, trong đó có
những quy định về quyền con người rất tiến bộ như:

 Quyền bình đẳng trước công lý.


 Quyền được Tòa xét xử trước khi bị bỏ tù hoặc bị tước đoạt TS.
 Quyền không bị phạt tiền đến mức phá sản.
 Quyền không bị tước đoạt kế sinh nhai.

+ Sau đó các đạo luật quan trọng cũng được coi là thành phần của Hiến pháp Anh như Luật quyền con
người 1689, Luật kế vị ngai vàng 1701, Luật đình quyền giam giữ 1679, Luật hợp nhất với Scotland 1701,
Luật cộng đồng châu Âu.

+ Nếu có mâu thuẫn giữa các quy phạm mang bản chất hiến pháp với các quy phạm của các đạo luật
thông thường thì cái nào ra đời sau sẽ được áp dụng => Khác với các nước, giá trị pháp lý của các quy phạm
mang bản chất hiến pháp không cao hơn các quy phạm PL thông thường.

+ Ở Anh, không có cơ chế bảo vệ hiến pháp (vì hiến pháp không có giá trị cao hơn các đạo luật thông
thường).

So sánh cơ chế bảo vệ hiến pháp giữa các quốc gia:

 Pháp: Hội đồng bảo hiến, Tham chính viện.


 Đức: TA hiến pháp liên bang, TA hiến pháp bang.
 Anh: không có.
 Mỹ: không có TA hiến pháp riêng mà toàn bộ hệ thống TA đều có chức năng bảo vệ hiến pháp.

* Pháp luật của Liên minh châu Âu

- Gồm: PL thành văn, phán quyết của Tòa án châu Âu.

* Tập quán pháp

- Chỉ những tập quán có từ trước năm 1189 (kết thúc triều đại Henry II), được thừa nhận rộng rãi, không trái
với các tập quán pháp khác mới được coi là tập quán pháp, là nguồn luật (các tập quán ra đời sau 1189
không được coi là nguồn luật ở Anh).

- Vị trí:

+ Quá khứ: có vai trò quan trọng.

+ Hiện tại: vai trò ngày càng mờ nhạt so với án lệ và PL thành văn, lý do khác là hầu hết tập quán pháp
đã được đưa vào án lệ và PL thành văn.

* Tục lệ

- Là những thói quen trong đời sống sinh hoạt được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

- Ở Anh, tục lệ được coi là nguồn luật khi nó là thói quen trong sinh hoạt của Hoàng gia và Chính phủ Anh
(tức là các tục lệ trong đời sống của người dân thì không được coi là nguồn luật). Tục lệ được coi là nguồn
luật ở Anh cũng mang bản chất hiến pháp Anh.

Ví dụ: tục lệ quy định “nước Anh phải có Thủ tướng”, hoặc quy định “nhà vua Anh không được phép kết
hôn với người có đời sống tình ái phức tạp”. Đây là các quy định không tìm thấy trong bất kỳ văn bản nào,
nhưng vẫn được áp dụng trong thực tế. Chẳng hạn năm 1936 vua Edward VIII đã phải tuyên bố từ bỏ ngai
vàng để kết hôn với 1 phụ nữ đã có 2 đời chồng.

* Đặc quyền hoàng gia

- Là những quy định về đặc quyền dành riêng cho các thành viên của Hoàng gia Anh.
- Trong quá khứ đã từng là 1 nguồn luật quan trọng.

- Đến năm 1215, khi đạo luật Magna Carta (Đại hiến chương) ra đời thì các đặc quyền hoàng gia bị xem
nhẹ.

- Đến nay, đặc quyền hoàng gia chỉ còn mang tính hình thức, biểu tượng. Tuy nhiên đặc quyền hoàng gia
vẫn mang bản chất hiến pháp Anh.

Ví dụ: quy định nhà vua sẽ quyết định xem nước Anh có tham gia điều ước quốc tế hay không. Thực chất là
Chính phủ Anh, Nghị viện Anh đã quyết, và nhà vua chỉ ký tên để ra quyết định.

Ví dụ: quy định nhà vua Anh sở hữu tất cả số thiên nga trên các dòng sông, hồ nước tại Anh.

Ví dụ: quy định nhà vua Anh sở hữu tất cả công viên, đường sá, cầu cống tại London.

* Một số loại nguồn khác

- Lẽ phải (equity).

- Các nguyên tắc chung của PL.

- Các học thuyết pháp lý.

* Chế định ủy thác: là chế định đặc trưng của Common law.

- Chế định ủy thác được coi là thành tựu lớn nhất của Tòa đại pháp, của equity.

- Nguồn gốc chế định ủy thác:

+ Trong cuộc thập tự chinh lần thứ 3 (1190-1192), vua Anh Richard I đã dẫn quân đội Anh đến đáng
chiếm thánh địa Jerusalem. Đồng nghĩa với việc người lính Anh phải bỏ gia đình đi chinh chiến.

+ Trước khi lên đường chinh chiến, người lính Anh buộc phải giao đất đai, tài sản, gia đình cho người
khác để chăm sóc, giao hẹn đến khi họ trở về thì sẽ trả lại cho họ, hoặc nếu họ hy sinh thì sẽ trả lại khi con
cái họ trưởng thành ==> phải ủy thác bằng cách sang tên cho người khác.

+ Tuy nhiên khi đã sang tên thì theo luật sẽ không con sở hữu nữa => phát sinh mâu thuẫn => kiện lên tòa
=> Tòa đại pháp đã dựa vào lẽ công bằng (equity) để xét xử đảm bảo lợi ích cho người lính đi chinh chiến
=> hình thành những án lệ về ủy thác => dần dần hình thành chế định ủy thác đồ sộ, trở thành chế định đặc
trưng của dòng họ Common law.

c. Hệ thống Tòa án của Anh


- Tòa địa hạt: chủ yếu xét xử vụ việc DS, có nguồn gốc là Tòa địa phương do lãnh chúa phong kiến lập ra và
có thẩm phán không chuyên. Hiện nay, ở một số vùng nông thôn Anh, vẫn còn có các tòa địa hạt mà thẩm
phán không được đào tạo chuyên môn về luật, mà là những người có uy tín trong vùng được người tin tưởng
bầu làm thẩm phán. Còn ở khu vực thành thị thì Tòa địa hạt đều có các thẩm phán chuyên nghiệp.

- Tòa pháp quan: (giống Tòa tiểu hình) chủ yếu xét xử vụ việc HS, nhưng có thêm vụ việc về hôn nhân gia
đình.

- Tòa hình sự trung ương: giống Tòa đại hình.

- TA tối cao: mới chỉ thực sự là “tối cao” từ năm 2009 sau cuộc cải tổ HTPL Anh lần thứ 2 diễn ra từ năm
2005 (trước đó thẩm quyền tối cao thuộc về Ủy ban phúc thẩm của Thượng nghị viện)

- Nhận xét về hệ thống TA Anh: phức tạp, chồng chéo về thẩm quyền:

+ Từ tòa cấp thấp nhất đều có thể được kháng cáo, kháng nghị lên tòa cấp trên, hoặc lên thẳng tòa cấp cao
(tức là cho phép kháng cáo, kháng nghị vượt cấp).

+ Tòa pháp quan chuyên về HS, nhưng lại có 1 phần DS là các vụ việc hôn nhân gia đình (lẽ ra phải là
chức năng của tòa địa hạt) => chồng chéo về chức năng.

- Mặc dù sau cuộc cải tổ HTPL Anh lần thứ nhất (cuối thế kỷ XIX) thì Common law và equity đã được hợp
nhất, tuy nhiên không hòa tan với nhau. Lý do là vì các án lệ thuộc Common law và án lệ thuộc equity có
bản chất rất khác nhau: án lệ theo Common law chủ yếu dựa trên chứng cứ, còn án lệ theo equity dựa trên lẽ
phải và sự công bằng. Khi xét xử, các thẩm phán có thể lựa chọn án lệ theo Common law hay equity. Nhưng
nếu lựa chọn án lệ theo equity thì các đương sự phải đảm bảo sự trung thực trong lời khai, nếu trong quá
trình xét xử mà thẩm phán phát hiện ra đương sự không trung thực thì vụ việc không còn được xem xét theo
equity nữa, mà bắt buộc phải chuyển sang Common law.

d. Đào tạo luật và nghề luật

- Nghề luật sư chỉ phát triển mạnh ở những nước mà HTPL phức tạp, đến mức người dân thường khó có thể
hiểu được, phải nhờ đến sự trợ giúp của các luật sư.

- Nghề luật ở Anh phát triển mạnh từ thế kỷ XIII cùng với sự ra đời của Common law, khi đó áp dụng hệ
thống trát rất phức tạp. Để khởi kiện, bên nguyên đơn cần phải lựa chọn đúng trát, trát không chỉ đơn thuần
là mẫu đơn khởi kiện, mà còn có nội dung tóm tắt nội dung vụ việc, yêu cầu của nguyên đơn đối với vụ việc,
nếu dùng sai trát thì mất quyền khởi kiện => tức là rất phức tạp, phải có sự trợ giúp của luật sư.

- Sau khi hệ thống trát được loại bỏ, thì HTPL tại Anh cũng vẫn rất phức tạp => nhu cầu về luật sư rất lớn.

- Người Anh quan niệm nghề luật tại Anh chỉ có nghề luật sư (khác với các nước khác còn có thẩm phán,
công chứng viên, nhân viên pháp chế, …).

* Hành nghề luật

Có sự phân biệt về hành nghề giữa luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn:

Luật sư tranh tụng Luật sư tư vấn


Chuyên Chuyên sâu về một lĩnh vực cụ thể. Có chuyên môn rộng trong nhiều lĩnh vực
môn khác nhau.
Tham gia tranh tụng trực tiếp tại các phiên xét xử, Có quyền tiếp xúc trực tiếp, tiếp nhận các yêu
Quyền hạn/
nhưng không được liên hệ trực tiếp với khách cầu từ thân chủ, nhưng không được tham gia
Nghĩa vụ
hàng mà phải thông qua luật sư tư vấn. tranh tụng.
Công việc cụ Tham gia tranh tụng tại tòa. Cung cấp các dịch vụ pháp lý như tư vấn PL,
soạn thảo hợp đồng, viết đơn khởi kiện, thu
thể thập chứng cứ, … ngoại trừ tranh tụng tại
phiên tòa.
Được chọn một trong hai hình thức: Được chọn một trong hai hình thức:
Tổ chức
- Là luật sư tự do. - Là luật sư tự do.
hoạt động
- Thành lập văn phòng luật sư. - Mở công ty hợp danh về luật.
Quản lý Đoàn luật sư. Hội luật gia.
* Đào tạo luật

- Nhìn chung , đào tạo luật ở Anh giống Pháp và giống với VN, nhưng khác với Mỹ.

+ Ở Anh (giống ở Pháp, VN), đào tạo cử nhân luật tách biệt với đào tạo nghề luật; còn ở Mỹ thì đào tạo
luôn cả cử nhân luật và nghề luật.

+ Đầu vào: tương tự Pháp, chỉ cần tốt nghiệp PTTH, nhưng kỳ thi đầu vào yêu cầu rất cao. Còn ở Mỹ yêu
cầu phải có một bằng đại học trước rồi mới được học cử nhân luật.

Về thi tuyển đầu vào cử nhân luật, nói chung ở Pháp, Đức dễ hơn so với Anh, Mỹ.

- Mục tiêu đào tạo: giống với Pháp, Đức, mục tiêu là trang bị kiến thức về khoa học luật, mang tính hàn lâm.
Còn ở Mỹ mục tiêu đào tạo là nghề luật.

- Chương trình học: khoa học đại cương (chính trị, kinh tế, triết học), khoa học luật.

Khác với ở Mỹ chỉ học các môn luật, bỏ qua các môn đại cương (vì sinh viên luật tại Mỹ phải là người đã có
một bằng đại học nên đã được học các môn khoa học đại cương rồi).

- So sánh đào tạo luật ở Anh, Đức, Pháp và Mỹ:

Anh Pháp, Đức Mỹ


- Giáo sư giảng kiến thức. Giống với Anh, kết hợp Khác với Anh.
Phương pháp
- Phương pháp tình huống (seminar) dựa với phương pháp mới
đào tạo
trên án lệ. như thảo luận, seminar.
Coi trọng án lệ: ngoài giáo trình còn có
Học liệu Tuyển tập án lệ => sinh viên được tiếp
xúc thực tiễn ngay khi còn đang học.
Kết thúc 3 năm, được cấp bằng Cử nhân Không phải bằng cử
Bằng cấp luật. nhân luật, mà gọi là
Jurist Doctor.
* Đào tạo và hành nghề luật

- Quan niệm về nghề luật của Anh rất hẹp: trước kia chỉ có nghề luật sư tranh tụng, đến cuối thế kỷ XVIII
mới có nghề luật sư tư vấn, và đến thế kỷ XIX mới có thêm nghề thẩm phán.

Khác với Pháp, Đức có thẩm phán, luật sư, công chứng viên, công tố viên. Khác hẳn với ở Mỹ nơi mà nghề
luật rất rộng, ngoài các nghề ở Pháp, Đức, còn có thêm nghề giáo sư luật, trợ giúp pháp lý, nhân viên pháp
chế (ở các doanh nghiệp).

- Đào tạo nghề: ở các quốc gia khác, thường có chương trình đào tạo tương ứng với nghề luật cụ thể. Còn ở
Anh chỉ quan tâm đến quy chế đào tạo cho nghề luật sư.

- Ở Anh có chương trình đào tạo riêng cho luật sư tranh tụng, chương trình đào tạo riêng cho luật sư tư vấn.

- Lịch sử đào tạo nghề luật sư tranh tụng:


+ Trong QK, việc đào tạo nghề luật sư tranh tụng được tổ chức thông qua “các bữa ăn tối”, theo đó, các
luật sư đã có kinh nghiệm truyền lại các kinh nghiệm của mình cho các luật sư mới trong bữa ăn tối. Và sau
khoảng 8 bữa ăn tối thì luật sư mới được coi như đã hoàn thành khóa huấn luyện luật sư tranh tụng.

+ Hiện nay, mặc dù các cơ sở đào tạo luật sư tranh tụng đã có chương trình đào tạo bài bản, chính quy,
tuy nhiên việc đào tạo qua bữa ăn tối vẫn được duy trì tại một số nơi và vẫn được công nhận.

- Lịch sử đào tạo nghề luật sư tư vấn:

+ Đến cuối thế kỷ XVIII ở nước Anh mới có nghề luật sư tư vấn.

+ Đại học Oxford là nơi đầu tiên ở Anh đào tạo luật sư tư vấn, ban đầu chương trình đào tạo là khoa học
luật, chủ yếu là luật châu Âu lục địa, luật La Mã. Sau này mới có các Trung tâm đào tạo nghề luật sư tư vấn
do Hội luật gia Anh giám sát.

- Điều kiện để được học nghề luật sư ở Anh:

+ Phải có bằng Cử nhân luật.

+ Người không có bằng cử nhân luật nhưng đã có một bằng đại học khác và đã tham dự khóa học kéo dài
khoảng 1 năm để vượt qua kỳ thi sát hạch nghề nghiệp phổ thông (CPE).

+ Hoặc một người bất kỳ có thể học để lấy bằng diplom về luật (Graduate Diploma in law là bằng cao
hơn cử nhân luật nhưng thấp hơn thạc sỹ luật).

=> Đối tượng được đào tạo nghề luật tại Anh rất mở rộng, cho hầu hết mọi đối tượng (khác với Pháp, Đức,
Mỹ).

Đào tạo luật sư tranh tụng Đào tạo luật sư tư vấn


Cơ sở đào tạo do Đoàn luật sư cấp phép và Cơ sở đào tạo Hội luật gia cấp phép và giám sát
Nơi đào tạo
giám sát. để đảm bảo chất lượng đào tạo.
Học 1 năm lý thuyết về kỹ năng hành nghề Học 1 năm lý thuyết về kỹ năng hành nghề tại
tại cơ sở đào tạo => thi sát hạch => tập cơ sở đào tạo => thi
Thời gian đào
sự 1 năm => được cấp chứng chỉ hành sát hạch => tập sự ít nhất 2 năm => thi để lấy
tạo
nghề. chứng chỉ hành nghề.

- Trong thực tế, sau khi được cấp chứng chỉ hành nghề, cả luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn đều phải theo
học nghề cho luật sư chuyên nghiệp trong 2, 3 năm thì mới đủ tự tin hành nghề.

Câu hỏi: Vì sao thời gian đào tạo luật sư tư vấn lại dài hơn so với luật sư tranh tụng?

Trả lời: Vì liên quan đến sự phân chia nghề luật sư: luật sư tư vấn là người tiếp xúc với thân chủ, còn luật sư
tranh tụng không được tiếp xúc với thân chủ mà phải thông qua luật sư tư vấn. Vì vậy khi người dân gặp
vướng mắc, sẽ tìm đến luật sư tư vấn đầu tiên. Khi đó luật sư tư vấn phải giải quyết nhanh nhất vướng mắc
của người dân, tránh đưa ra tòa (để tránh tốn kém cho người dân và tránh quá tải cho TA) => đòi hỏi luật sư
tư vấn phải có trình độ cao, có kinh nghiệm dày dặn => cần đào tạo luật sư tư vấn dài hơn để tích lũy kỹ
năng và kinh nghiệm.

- Việc hành nghề của luật sư tư vấn:

+ Chỉ tư vấn ngoài tòa, còn khi đã đến tòa thì chỉ có luật sư tranh tụng.

+ Trước đây ranh giới hoạt động giữa luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng rất rõ ràng. Gần đây đã nới
lỏng: tại Tòa địa hạt và Tòa pháp quan có thể cho phép luật sư tư vấn tranh tụng tại tòa.
+ Theo truyền thống ở Anh, trước đây không có nghề thẩm phán, mà lựa chọn luật sư tranh tụng để bổ
nhiệm thẩm phán. Gần đây đã mở rộng sang có thể bổ nhiệm luật sư tư vấn làm thẩm phán.

- Nghề thẩm phán: năm 1966 mới có một cơ sở đào tạo các ứng viên làm thẩm phán. Đến đầu thế kỷ XXI đã
thay bằng Trường tư pháp (2002).

2. Hệ thống pháp luật Mỹ

a. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của HTPL Mỹ (quá trình Common law từ Anh du nhập vào
Mỹ)

- Thế kỷ XVI, người Anh bắt đầu di cư sang châu Mỹ, PL chưa được quan tâm vì dân cư thưa thớt, Nhà
nước chưa hình thành.

- Thế kỷ XVII, Anh thành lập các khu vực thuộc địa đầu tiên của Anh ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên Common law
không được chào đón:

+ Năm 1608, Hoàng gia Anh tuyên bố PL được áp dụng ở thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ là Common law
nhưng phải thay đổi linh hoạt cho phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Tuy nhiên kết quả không như mong
muốn: Common law không được tiếp nhận, dù đã có 13 khu vực thuộc địa là 13 bang đầu tiên của Mỹ áp
dụng.

+ Lý do:

 Cư dân Bắc Mỹ hầu hết là người Anh, vì chán chế độ hà khắc ở Anh mới di cư sang => không
muốn tiếp tục sống trong chế độ đó.
 Những luật gia am hiểu Common law di cư sang Bắc Mỹ chưa nhiều, việc đào tạo luật ở Bắc Mỹ
chưa phát triển => thiếu người am hiểu, mà Common law lại rất phức tạp => khó đưa vào thực
tiễn áp dụng.

+ Vậy khi đó các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ áp dụng luật nào?

Một số vùng áp dụng luật tôn giáo (thiên chúa giáo), tuy nhiên dần dần luật tôn giáo không được áp dụng
thống nhất vì hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các giám mục, không theo khuôn khổ thống nhất
=> nghĩ đến việc ban hành PL thành văn, tuy nhiên gặp khó khăn vì không có tư duy và kỹ thuật xây dựng
PL thành văn => những đạo luật ban đầu rất sơ sài, không đáp ứng thực tiễn.

- Đầu thế kỷ XVIII:

+ Kinh tế, chính trị dần ổn định và phát triển hơn => thương mại phát triển => cần PL để điều chỉnh, do
chưa có PL => áp dụng Common law của Anh.

+ Lý do người dân Bắc Mỹ chọn Common law mà không chọn Civil law vì thời điểm đó đế quốc Pháp
đang rất mạnh, lại đang đóng quân tại 2 bang là Lousiana và Quebek, đe dọa các thuộc địa của Anh => các
thuộc địa cần gắn kết => đã cùng nhau lựa chọn Common law.

Như vậy, đến đầu thế kỷ XVIII, người dân Bắc Mỹ đã chính thức lựa chọn Common law.

- Giữa thế kỷ XVIII:

+ Các thuộc địa giành được độc lập từ Anh, nước Mỹ ra đời (1776). Đã có luồng tư tưởng không muốn áp
dụng Common law mà quay sang áp dụng PL thành văn ở châu Âu lục địa, hơn nữa thời điểm này Pháp đã
trao trả 2 bang cho Mỹ, nên không còn lo ngại Pháp, dẫn đến muốn xóa bỏ Common law để áp dụng PL
thành văn.
+ Tuy nhiên, nỗ lực chuyển sang PL thành văn theo kiểu châu Âu lục địa bị phá sản, và nước Mỹ vẫn
theo Common law.

Nguyên nhân?

 Muốn xây dựng được HTPL thành văn thì phải có tư duy và kỹ thuật lập pháp, mà những thứ đó
chỉ có ở PL La Mã, PL châu Âu lục địa, trong khi ở Mỹ chỉ có tư duy án lệ => thay đổi tư duy là
điều rất khó khăn và cần rất nhiều thời gian.
 Mỹ vừa mới giành được độc lập, việc cấp bách là phải ban hành PL thống nhất => không có đủ
thời gian để chuyển sang PL thành văn => miễn cưỡng áp dụng Common law.

- Mặc dù vẫn áp dụng Common law của Anh, nhưng không dập khuôn mà thay đổi nhiều điểm của Common
law để phù hợp với thực tế nước Mỹ lúc bấy giờ, vì:

+ Người Mỹ đề cao quyền tự do của cá nhân, cởi mở hơn so với Anh.

+ Mô hình nhà nước khác với ở Anh.

+ Cấu trúc dân cư khác với ở Anh.

- Các học giả nhận xét về việc nước Mỹ tiếp nhận Common law từ Anh:

+ Mỹ chỉ tiếp nhận nếu những quy định đó không trái với Hiến pháp Mỹ, phù hợp với điều kiện chính trị,
tự nhiên của Mỹ.

+ Nếu chia HTPL Anh thành luật công và luật tư, thì nước Mỹ chủ yếu tiếp nhận luật tư (vì luật công luôn
gắn với hệ thống chính trị, mà mô hình nhà nước Mỹ khác với Anh).

+ Hiến pháp, luật hành chính, luật HS đều khác với Anh (luật HS ở Mỹ không khắt khe như ở Anh vì luật
HS Anh còn chịu ảnh hưởng từ thời phong kiến).

b. Đặc điểm của HTPL Mỹ ngày nay

- Nhà nước Mỹ gồm 50 bang, nhưng lại có 52 HTPL khác nhau:

50 HTPL bang, 1 HTPL liên bang, 1 HTPL của quận Clumbia (khu vực thủ đô)

- Mặc dù có nhiều HTPL nhưng lại không xảy ra chồng chéo. Lý do vì được tổ chức rất khoa học:

+ Phân chia theo lĩnh vực: tiểu bang và liên bang có sự phân chia thẩm quyền rõ ràng. Hầu hết các luật tư
do tiểu bang ban hành, như luật về hợp đồng, công ty, giao dịch, thừa kế, sở hữu, … Liên bang chủ yếu ban
hành các luật công và một số luật tư mang tầm quốc gia như luật hàng hải, phá sản, tiền tệ, thuế,…

+ Mỗi tiểu bang có HTPL riêng thuộc thẩm quyền của mình. Nếu luật liên bang không điều chỉnh đầy đủ
thì tiểu bang có quyền ban hành luật bổ sung những thiếu sót đó.

+ Các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của bang thì liên bang không được can thiệp, không được ban hành luật
điều chỉnh.

+ Luật bang nào chỉ được áp dụng trong phạm vi bang đó.

+ Các bang tôn trọng pháp luật của nhau.

c. Nguồn luật

- Gồm: án lệ, PL thành văn, các tác phẩm pháp lý của các học giả uy tín.
- Trong các nguồn luật thì án lệ là nguồn đặc trưng của HTPL Mỹ, hệ thống án lệ của Mỹ phong phú và đồ
sộ hơn của các nước khác thuộc dòng họ Common law rất nhiều.

Chú ý: Mỹ không có tập quán pháp, vì:

 Mỹ là quốc gia non trẻ, dân cư bản địa là người da đỏ đã bị đồng hóa theo người da trắng nên những
tập quán của người da đỏ không còn được áp dụng.
 Cư dân Mỹ đa sắc tộc, đến từ khắp nơi trên thế giới nên không thể áp dụng tập quán (vì chắc chắn sẽ
không thể có được sự đồng thuận chung, sẽ gây mâu thuẫn nếu áp dụng).
 Tuy nhiên PL Mỹ vẫn thừa nhận tập quán pháp, nhưng chỉ là những tập quán chung áp dụng trong
thương mại quốc tế.

* Án lệ

- Nhìn chung, việc áp dụng án lệ ở Mỹ cũng tương tự như việc áp dụng án lệ ở Anh, thẩm phán khi xét xử
cũng có những thói quen và những thẩm quyền tương tự như ở Anh:

+ Khi xét xử vụ việc, các thẩm phán cũng tìm đến án lệ đầu tiên.

+ Các TA ở Mỹ cũng tuân theo nguyên tắc tiền lệ pháp (Stare Decicis), nhưng linh hoạt, mềm dẻo hơn so
với Anh: khi xem xét án lệ trong quá khứ, thẩm phán tại Mỹ đặt sự quan tâm lên các chính sách của liên
bang, tiểu bang tại thời điểm xảy ra án lệ trong quá khứ đó, để xem án lệ đó có phù hợp để áp dụng cho hiện
tại => đây là đặc điểm rất tiến bộ trong việc áp dụng án lệ của Mỹ so với Anh, tạo ra sự chủ động, kích thích
sự sáng tạo của thẩm phán Mỹ => thẩm phán Mỹ rất thoải mái khi tạo ra án lệ mới cho những vụ việc cũ nếu
họ chứng minh được hoàn cảnh thay đổi, chính sách thay đổi, làm cho cách giải quyết cũ không còn phù
hợp.

- Án lệ ở Mỹ khác với án lệ ở Anh: nguyên tắc tiền lệ pháp ở Mỹ áp dụng với một vài giới hạn.

+ TATC liên bang và TATC bang không bị ràng buộc bởi các án lệ trước đó của chính mình (tức là có thể
đảo ngược lại tiền lệ pháp đã được thiết lập trước đó).

+ Mỗi bang đều có chủ quyền, nguyên tắc Stare Decicis chỉ hoạt động trong phạm vi hệ thống tòa án và
phạm vi thẩm quyền lập pháp của mỗi bang.

+ Tiền lệ pháp vẫn được các thẩm phán Mỹ trích dẫn, nhưng trong các bản án cũng dành nhiều chỗ cho
quan điểm của thẩm phán về chính sách chung.

- Nguyên tắc áp dụng án lệ:

+ Án lệ của bang nào chỉ được áp dụng ở bang đó.

+ Án lệ của liên bang chỉ được áp dụng ở liên bang.

+ Ngoại lệ: vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của bang, nhưng lại được chuyển lên tòa án liên bang xét
xử, liên bang không có luật để xét xử => thẩm phán liên bang sẽ buộc phải sử dụng PL của tiểu bang, trong
đó có án lệ của tiểu bang để xét xử.

- Xuất bản án lệ ở Mỹ:

+ Bản án của TATC liên bang, TATC bang, Tòa phúc thẩm có cơ hội trở thành án lệ.

+ Án lệ của TATC liên bang và TATC một số bang do chính các tòa này lựa chọn và xuất bản thành sách
(gọi là Reportors).
+ Hầu hết án lệ của các TA khác do các nhà xuất bản tư nhân xuất bản.

* PL thành văn

- Nước Mỹ đã sớm quan tâm phát triển PL thành văn ngay từ khi lập quốc (nước Anh đã xuất hiện PL thành
văn từ thế kỷ XIII nhưng không được quan tâm phát triển).

- Ngày nay, nhiều lĩnh vực PL, đặc biệt là những lĩnh vực mới đã được Mỹ pháp điển hó với tốc độ nhanh
chóng (thường chỉ vài tháng khi xuất hiện quan hệ PL mới).

- Vị trí của PL thành văn ở Mỹ: khi đã có PL thành văn điều chỉnh thì các thẩm phán sẽ ưu tiên sử dụng PL
thành văn, tuy nhiên khi cần giải thích PL thì các thẩm phán cũng lại tìm đến án lệ (giống Anh).

=> rất khó để xác định xem giữa PL thành văn và án lệ ở Anh, Mỹ, cái nào có hiệu lực vị trí cao hơn.

- HTPL thành văn của Mỹ gồm PL thành văn của liên bang và PL thành văn của các bang.

- Các VB PL thành văn gồm:

+ Hiến pháp Mỹ (Anh không có hiến pháp thành văn).

+ Bộ luật, đạo luật, và các văn bản dưới luật.

- Hiến pháp Mỹ được ban hành năm 1787, rất ngắn gọn (chỉ gồm 8 điều), đến nay vẫn còn hiệu lực. Ngoài ra
còn có Tuyên ngôn nhân quyền năm 1791.

- Chế định bảo vệ Hiến pháp:

+ Khác với Pháp, Đức có cơ quan chuyên trách bảo vệ hiến pháp, các cơ quan bảo hiến này hoạt động
độc lập, không nằm trong nhánh lập pháp, hành pháp, hay tư pháp. Ở Mỹ không có cơ quan chuyên trách
bảo vệ Hiến pháp, mà chức năng bảo hiến được giao cho tất cả các tòa án (tức là giao cho cơ quan tư pháp).

+ Tuy nhiên trong bản Hiến pháp 1787 không ghi điều trên. Có việc mọi TA Mỹ đều có chức năng bảo
hiến là xuất phát từ án lệ Marbury kiện Madison năm 1803: án lệ này đã dẫn với một nguyên tắc quan trọng
trong HTPL Mỹ: nếu 1 QPPL nào đó trái với Hiến pháp thì QPPL đó không được áp dụng trong tình huống
cụ thể (tức là đã trao cho hệ thống TA Mỹ xem xét một điều luật nào đó có hợp hiến không), chú ý là quy
phạm bị tuyên vi hiến đó chỉ không có giá trị đối với tình huống cụ thể mà TA đang xét xử, chứ không phải
không có giá trị pháp lý. Nếu các bên không đồng ý thì có thể khiếu kiện lên TATC liên bang để quyết định
QPPL đó có vi hiến hay không.

- Về thuật ngữ “bộ luật” tại Mỹ:

+ Theo nghĩa thông thường như ở các nước Civil law thì chỉ xuất hiện ở một vài khu vực, chủ yếu ở bang
Lusiana, ngày trước là thuộc địa của Pháp (theo Civil law, đến nay vẫn duy trì), sau được trao trả lại cho Mỹ.

+ Ở các bang khác và ở liên bang, thì thuật ngữ “bộ luật” dùng để chỉ tuyển tập các văn bản PL có liên
quan đến một lĩnh vực nào đó.

* Các tác phẩm pháp lý của các học giả có uy tín

- Là những cuốn sách dùng cho sinh viên, các chuyên gia luật: sử dụng bằng cách viện dẫn các quan điểm
của tác giả để làm giàu thêm cho phần lập luận của họ.

- Bản thân các tác phẩm này không phải là văn bản QPPL, nhưng thường xuyên được các luật sư, thẩm phán
viện dẫn để làm giàu thêm cho phần lập luận của họ.
=> đây là nguồn luật bổ trợ.

d. Hệ thống Tòa án Mỹ

- Là hệ thống TA kép: gồm Hệ thống TA liên bang, và hệ thống TA bang (tổng cộng 52 hệ thống TA).

- Các hệ thống TA có thẩm quyền độc lập:

+ Độc lập giữa các tiểu bang với nhau: vụ việc xảy ra ở bang nào thì bang đó có thẩm quyền, không phụ
thuộc vào công dân đó thuộc bang nào.

+ Độc lập giữa tiểu bang và liên bang:

 Nếu vi phạm PL của tiểu bang => thuộc thẩm quyền của tiểu bang.
 Nếu vi phạm PL của liên bang => thuộc thẩm quyền của liên bang.

e. Đào tạo luật và nghề luật

- Ở Mỹ không tách biệt đào tạo cử nhân luật và đào tạo nghề luật, mà đào tạo đan xen cử nhân luật và nghề
luật trong cùng một chương trình học, cùng một cơ sở đào tạo. (khác với Pháp, Đức, Anh, VN).

* Đào tạo luật

- Đào tạo luật ở Mỹ được coi là đào tạo sau ĐH, người tốt nghiệp 1 văn bằng ĐH rồi mới được xem xét đào
tạo luật. Vì Mỹ quan niệm bậc học ĐH là để tiếp thu những kiến thức nền tảng để phục vụ cho việc tiếp thu
những kiến thức pháp lý trong từng chuyên ngành hẹp. Ví dụ người muốn hành nghề luật sư trong lĩnh vực
kinh doanh thường có bằng về thương mại hoặc quản trị kinh doanh; người muốn hành nghề luật sư về thuế
thường có bằng về tài chính – ngân hàng; người muốn có bằng luật sư về môi trường thường có bằng về sinh
học – hóa học, …

- Quy trình chung cho đào tạo cử nhân và đào tạo nghề (cùng quy trình, cùng cơ sở đào tạo). Khác với Anh,
Pháp, Đức, VN tách biệt thành 2 giai đoạn.

- Mục tiêu đào tạo: ở Mỹ coi nghề luật là nghề đặc thù, nên mục tiêu là đào tạo ra những người thực sự có
khả năng hành nghề luật. Đào tạo luật ở Mỹ là đào tạo ra những luật sư có khả năng thắng kiện.

- Điều kiện tuyển sinh:

+ Đã có một bằng cử nhân.

+ Phải thực sự xuất sắc: đánh giá thông qua kết quả học tập (của văn bằng cử nhân đầu tiên), trải nghiệm,
thi đầu vào, bài phỏng vấn.

Khác với Anh, Pháp, Đức, VN là chỉ cần tốt nghiệp THPT.
- Chương trình đào tạo: các môn chuyên ngành, các môn kỹ năng (kỹ năng tìm và phân tích án lệ, kỹ năng
viết luận, kỹ năng bào chữa, kỹ năng tranh tụng, …). Chú ý: không có các môn đại cương vì đã được học
trong bằng cử nhân đầu tiên.

- Học liệu: giáo trình, các tác phẩm luật nổi tiếng, và quan trọng nhất là các tuyển tập án lệ.

- Phương pháp đào tạo:

+ Rất ít thuyết giảng.

+ Sử dụng chủ yếu những phương pháp nhằm tăng tính chủ động của học viên như:

 Phương pháp tình huống (case study): đưa ra tình huống thực tế để sinh viên phân tích.
 Phương pháp phiên tòa giả định (moot court): đưa ra 1 vụ việc cụ thể, chia lớp thành 3 nhóm: hội
đồng xét xử, bảo vệ cho nguyên đơn, bảo vệ cho bị đơn, các nhóm đưa ra các lập luận của mình.
 Phương pháp hùng biện (socratics): mỗi sinh viên sẽ nhận một vấn đề và thuyết trình trước lớp,
phải trình bày sao cho thuyết phục được người khác.
 Phương pháp văn phòng thực hành nghề luật (law clinics): sinh viên luật năm cuối thường lập đến
các Văn phòng thực hành nghề luật để tập sự, trực tiếp xử lý các vụ việc mà người dân nghèo đến
yêu cầu hỗ trợ (do chi phí thuê luật sư ở Mỹ rất đắt) với chi phí rất thấp hoặc miễn phí.

So sánh với phương pháp đào tạo luật ở Anh, Pháp, Đức, VN thì chủ yếu vẫn là phương pháp thuyết giảng
truyền thống.

- Bằng cấp: sau 3 năm sẽ được cấp bằng J.D (jurist doctor). Vị trí của J.D cao hơn bằng cử nhân, nhưng thấp
hơn bằng thạc sỹ.

Ở Mỹ vẫn có chương trình đào tạo thạc sỹ luật và tiến sỹ luật, nhưng chủ yếu chỉ dành cho người nước ngoài
đến Mỹ học luật. Còn với người Mỹ chỉ cần có bằng J.D là đã đủ để hành nghề luật.

* Nghề luật

- Ở Mỹ, quan niệm về nghề luật rất rộng, bao gồm không chỉ thẩm phán, luật sư, công chứng viên, công tố
viên, mà còn có cố vấn pháp lý, giáo sư luật, nhân viên pháp chế (trong doanh nghiệp), …

- Nghề luật sư:

+ Hầu hết những người có bằng J.D (jurist doctor) đều hành nghề luật sư. Một số ít làm cố vấn pháp lý,
nhân viên pháp chế, giảng dạy. Lý do: vì nhu cầu đối với luật sư ở Mỹ là rất cao. Phần lớn gia đình Mỹ có
luật sư riêng. Luật sư cũng là nghề có thu nhập rất cao ở Mỹ.

+ Điều kiện hành nghề: có bằng J.D, khoảng 1 nửa số bang ở Mỹ còn yêu phải trải qua một kỳ thi sát
hạch đoàn luật sư hoặc hội đồng thẩm phán bang đó tổ chức. Như vậy tức là một người dù đang là luật sư
nổi tiếng ở bang khác, nhưng nếu muốn hành nghề luật sư tại bang có yêu cầu thi sát hạch, thì anh ta vẫn
phải trải qua kỳ thi sát hạch thì mới được hành nghề luật sư tại bang đó.

+ Sự phân chia nghề nghiệp: không phân thành luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn như ở Anh, mà thường
phân chia theo lĩnh vực chuyên sâu như luât sư về gia đình, luật sư về phá sản, luật sư về hình sự, … Sự
phân chia này chỉ là sự phân chia trên thực tiễn hành nghề luật sư ở Mỹ, chứ không phải là sự phân chia do
PL quy định, không có việc luật sư về gia đình không được bào chữa cho vụ việc về thương mại.

- Nghề thẩm phán:

+ Có sự khác nhau giữa thẩm phán của TA liên bang và thẩm phán của TA bang:
Thẩm phán của TA bang Thẩm phán của TA liên bang
Có thể không yêu cầu kinh nghiệm hành nghề Luật sư hoặc giáo sư luật có kinh nghiệm.
Nguồn ứng viên
luật sư.
Chủ thể bổ nhiệm Thống đốc bang, một số bang tổ chức tuyển cử. Tổng thống Mỹ.
Nhiệm kỳ Có nhiệm kỳ. Suốt đời.
Câu hỏi:

1. Định nghĩa về LSS của Micheal Bogdan được nhiều học giả ủng hộ vì định nghĩa này đã thể hiện được
bản chất của LSS.

=> Sai. Định nghĩa của Micheal Bogdan tuy nêu được đầy đủ các nội dung của LSS nhưng lại không nêu rõ
được bản chất của luật so sánh là 1 ngành khoa học độc lập.

2. HTPL là tổng thể các QPPL của một quốc gia, vùng lãnh thổ là cách hiểu chính xác nhất về thuật ngữ này.

=> Sai. Có nhiều cách hiểu HTPL khác nhau (có 3 cách hiểu), việc sử dụng cách hiểu nào là tùy thuộc vào
mục đích nghiên cứu.

3. Rene David đã sáng tạo ra thuật ngữ “dòng họ PL” khi viết cuốn “Những HTPL chính trong thế giới
đương đại” vào thập niên 60 của thế kỷ XX.

=> Sai. Motesquire mới là người sáng tạo ra thuật ngữ “dòng họ PL” từ thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, thuật ngữ
này lại dược Rene David sử dụng trong tác phẩm “Những HTPL chính trong thế giới đương đại” vào thập
niên 60 của thế kỷ XX nhiều đến mức công chúng lầm tưởng Rene David là người sáng tạo ra thuật ngữ
“dòng họ PL”.

4. Khi xây dựng giả thuyết nghiên cứu cho một công trình so sánh luật bất kỳ, người nghiên cứu không nên
sử dụng các thuật ngữ pháp lý, khái niệm pháp lý.

=> Đúng. Vì công trình so sánh luật là so sánh luật giữa các quốc gia khác nhau, sẽ có những thuật ngữ pháp
lý, khái niệm pháp lý khác nhau => dễ gây nhầm lẫn nếu sử dụng.

5. Khi thực hiện các công trình so sánh luật, người nghiên cứu cần phải sử dụng văn bản PL mới nhất của
nước ngoài.

=> Sai. Vì tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. Ví dụ: so sánh BLDS Pháp và BLDS Đức khi mới ra đời thì
sẽ sử dụng 2 BLDS từ cuối thế kỷ XIX chứ không phải sử dụng 2 BLDS hiện hành.

6. Cách phân nhóm các HTPL của Rene David được nhiều học giả phương Tây đón nhận vì Rene David đã
sử dụng 2 tiêu chí chính xác nhất để phân nhóm.

=> Sai. Vì sự phân nhóm các HTPL trên thế giới chỉ là tương đối, nên không thể có tiêu chí phân nhóm
chính xác nhất.

7. Mặc dù đều nằm trong Bộ tổng luật của Hoàng đế Justinian nhưng chỉ có những phần chứa đựng các văn
bản QPPL mới có ý nghĩa ràng buộc đối với người dân La Mã.

=> Sai. Vì tất cả các bộ phận của Bộ tổng luật đều có ý nghĩa ràng buộc đối với người dân La Mã.

8. Từ thế kỷ XVI, mô hình nhà nước của các quốc gia châu Âu lục địa đã dần ổn định, vì vậy các quốc gia
này đã bắt đầu quan tâm phát triển các chế định thuộc lĩnh vực công pháp.

=> Sai. Việc các quốc gia châu Âu lục địa dần ổn định chỉ là góp phần thúc đẩy các quốc gia này phát triển
các chế định thuộc lĩnh vực công pháp, con nguyên nhân chính là nhờ các nhà nghiên cứu thuộc trường pháp
PL tự nhiên (đề cao các quyền con người là tự nhiên, vốn có) và sự thành công của các cuộc cách mạng tư
sản.

9. Chế định pháp lý điển hình của dòng họ Civil law là chế định luật nghĩa vụ, chế định này có nội dung
tương tự chế định ủy thác trong HTPL Anh.

=> Sai. Vì chế định ủy thác trong PL Anh có nội dung tương tự với phần “làm giàu bất chính” trong chế định
luật nghĩa vụ của Civil law (chứ không phải tương tự với toàn bộ chế định luật nghĩa vụ).

10. Ở các quốc gia thuộc dòng họ Civil law, việc các thẩm phán của TA cấp dưới học theo thẩm phán của
tTA cấp trên cho thấy án lệ được chính thức thừa nhận ở các quốc gia này.

=> Sai. Mặc dù có việc ở các quốc gia thuộc dòng họ Civil law, các thẩm phán của TA cấp dưới học theo
thẩm phán của TA cấp trên, nhưng án lệ vẫn chưa được chính thức thừa nhận, là vì nguyên tắc Tiền lệ pháp
(Stare Decicis) không được thừa nhận ở các quốc gia này.

11. Mặc dù Pháp và Đức cùng có HTPL thuộc dòng họ Civil law nhưng mức độ ảnh hưởng từ luật cổ đến
BLDS Pháp và BLDS Đức không giống nhau.

=> Đúng. Vì mức độ ảnh hưởng từ luật cổ đến BLDS Pháp cao hơn rất nhiều so với BLDS Đức (đến mức
BLDS Pháp được coi là “có tính Đức” hơn cả BLDS Đức).

Trong các luật tôn giáo trên thế giới thì luật Hồi giáo có tầm ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc nhất. Hiện nay
trên thế giới có khoảng 50 quốc gia có HTPL theo luật Hồi giáo.
Chương 4. DÒNG HỌ PHÁP LUẬT HỒI GIÁO
I. Khái niệm

- Đạo Hồi, tên gọi là Islam ra đời vào thế kỷ VII tại bán đảo Ả Rập. Islam có nghĩa là “tuân phục/tuân thủ”.
Tư tưởng trung tâm của đạo Hồi chỉ đơn giản là tuân phục hoàn toàn ý chí và luật lệ của thượng đến. Người
tuân phục thượng đế (tín đồ Hồi giáo) được gọi là muslim – người tuân phục.

Islam được truyền sang Trung Quốc chủ yếu được người dân tộc Hồi tiếp nhận, nên người Trung Quốc gọi
là đạo Hồi, sau VN cũng gọi là “đạo Hồi”.

- Các tín đồ Hồi giáo phải tuân theo giới luật đạo Hồi, gọi là Sharial – con đường của thượng đế.

- Luật hồi giáo không phải là HTPL gắn với nhà nước mà chỉ là một phần của Sharial (giới luật đạo Hồi).

=> khái niệm: Luật hồi giáo là một phần của các quy tắc giáo lý của đạo Hồi.

* Đặc điểm:

+ Thể hiện ý chí của thượng đế, gồm 2 bộ phận: học thuyết tôn giáo và luật thần thánh.

+ Mang tính ổn định và có tính mềm dẻo: mặc dù đã ra đời cách nay 1300 năm, nhưng luật Hồi giáo vẫn
còn phù hợp với các quốc gia hồi giáo hiện nay => cho thấy sự thích ứng của luật Hồi giáo rất cao với sự
phát triển của XH.

+ Chia hành vi con người thành 5 loại: bắt buộc phải làm, nên làm, làm cũng được không làm cũng được,
khiển trách, cấm.

+ Các quy định của luật Hồi giáo hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của nhà nước, không quyền
lực nào có thể thay đổi được luật Hồi giáo: luật Hồi giáo ra đời gắn với nhà tiên tri Mohammed, và đây là
nhà tiên tri duy nhất của đạo hồi (không có nhà tiên tri thứ 2).

+ Có phạm vi điều chỉnh rộng: điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống, điều chỉnh cả những vấn đề
rất “nhỏ, hẹp” như quan hệ trong gia đình, cho đến những quan hệ “vĩ mô” như việc đối nội, đối ngoại của
quốc gia, cả việc hợp tác quốc tế giữa các quốc gia => trong lịch sử đã có rất nhiều quốc gia chỉ sử dụng luật
Hồi giáo là HTPL của quốc gia => tức là luật Hồi giáo có thể tạo ra một HTPL hoàn chỉnh cho một quốc gia.

+ Có tính chất lỗi thời trong nhiều chế định, tính vụn vặt và thiếu hệ thống hóa: VD quy định cho phép
đàn ông có nhiều vợ.

- So sánh luật Hồi giáo với luật giáo hội ở châu Âu:

Luật hồi giáo Luật giáo hội


Giống: đều là hệ thống các quy định mang tính tôn giáo của những người theo đạo.
Là HTPL đầy đủ. Không phải là HTPL đầy đủ, chỉ là một phần của HTPL quốc gia.
Không phục vụ cho quyền lực Nhà nước. Phục vụ cho quyền lực Nhà nước.
Do Thượng đế đặt ra, không thể bị thay đổi. Do các giáo sỹ đặc ra (không phải do Chúa trời) và có thể bị thay
đổi.
2. Sự hình thành và phát triển của luật Hồi giáo

a. Giai đoạn luật Hồi giáo hình thành và phát triển ở Ả Rập (thế kỷ VII)

- Nhà tiên tri Mohammed (570 – 632) sinh ra trong một gia đình bình thường ở thành phố Mecca, bị mồ côi
cha mẹ từ nhỏ. Năm 25 tuổi, ông vào làm việc cho Khadija là một góa phụ giàu có và lớn hơn ông 15 tuổi,
sau đó ông kết hôn với Khadija và có cuộc sống dễ chịu => các học giả cho rằng chính nhờ việc lấy góa phụ
Khadija giàu có mà Mohammed có nhiều thời gian để suy ngẫm và sáng tạo ra đạo Hồi.

Năm 40 tuổi, Mohammed trong một lần dạo chơi thì gặp thiên thần Gabriel cho biết rằng Mohammed là
người được chọn để truyền dạy cho dân chúng các lời răn của thánh Alla, và thiên thần Gabriel đọc cho
Mohammed những lời dạy của thánh Alla. Sau đó Mohammed truyền lại những lời dạy của thượng đế cho
nhữn người xung quanh => được các học trò ghi lại và trở thành Kinh Koran.

- Năm 622 là năm đầu tiên của lịch Hồi giáo.

- Năm 632 Mohammed qua đời đột ngột, chưa kịp chỉ định người kế vị => thế giới hồi giáo bị phân chia
trong việc chọn người kế vị Mohammed, có 2 quan điểm:

+ Chọn người có tài, có uy tín => về sau hình thành dòng hồi giáo Sunni.

+ Chọn người thân thích của Mohammed => về sau hình thành dòng hồi giáo Shiite.

Ngày nay, chỉ có khoảng 10% người Hồi giáo theo dòng Shiite, nhưng đây là dòng hồi giáo có nhiều tín đồ
cực đoan, ủng hộ chính sách khủng bố.

b. Giai đoạn luật Hồi giáo bành trước ra nhiều khu vực khác trên thế giới (cuối thế kỷ VII – thế kỷ XVIII)

- Chỉ sau 1 thế kỷ kể từ khi ra đời, hồi giáo đã nhanh chóng bành trướng thành một đế quốc lớn nhất thế giới
lúc bấy giờ (đây cũng là thời kỳ đen tối của châu Âu).

- Sự lớn mạnh không ngừng của Hồi giáo đã góp phần chấm dứt sự tồn tại của đế quốc lớn nhất trong lịch sử
là đế quốc La Mã (thế kỷ XV).

c. Giai đoạn PL của các quốc gia Hồi giáo bị ảnh hưởng bởi PL của các nước châu Âu (cuối thế kỷ XVIII
– nay)

- Đạo hồi bị phân chia, sự liên kết yếu đi rõ rệt, sức bành trướng theo đó cũng giảm đi rõ rệt.

- Trong khi đó, các quốc gia châu Âu dần đi vào ổn định, cách mạng tư sản thành công ở nhiều nước, các
cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật ở châu Âu thành công, các phát kiến địa lý liên tiếp diễn ra => kinh tế,
quân sự của các quốc gia châu Âu phát triển và trở nên hùng mạnh => HTPL châu Âu được liên tục hoàn
thiện.

- Các cường quốc châu Âu xâm chiếm mở rộng lãnh thổ khắp thế giới, trong đó có sự xâm lược các quốc gia
Hồi giáo.

- Các giá trị dân chủ, quyền con người dần được nhận thức và đề cao => sự ưu việt của PL châu Âu so với
PL hồi giáo => PL châu Âu đẩy lùi PL hồi giáo, biến luật hồi giáo chỉ còn là một nguồn luật trong HTPL.

Đặc biệt ở Thổ Nhĩ Kỳ, PL châu Âu đã xóa bỏ hoàn toàn luật Hồi giáo và thay bằng PL châu Âu.

Ngay cả ở “thánh địa” Mecca và Medina, luật hồi giáo cũng không còn độc tôn mà đã có sự pha trộn với PL
của châu Âu.

- Tuy nhiên, không phải hồi giáo “đứng yên” hay “bị thu hẹp”, mà hồi giáo và luật hồi giáo vẫn liên tục mở
rộng, nhưng không phải bằng con đường chiến tranh xâm lược như trước, mà bằng con đường truyền giáo
hòa bình. Bằng chứng rõ ràng nhất là Indonexia: hồi giáo mới xuất hiện ở Indonexia từ thế kỷ XVIII những
đã nhanh chóng được chấp nhận và đến nay Indonexia là quốc gia hồi giáo lớn nhất thế giới.

3. Nguồn luật của luật Hồi giáo


- Có 4 loại nguồn:

+ Nguồn cơ bản: kinh Koran, Sunna.

+ Nguồn phụ trợ: Ijma, Qias.

- Những quy định quan trọng nhất của luật hồi giáo nằm trong kinh Koran và Sunna, là những văn bản ghi
chép lại lời dạy của thượng đế (thánh Alla) và nhà tiên tri Mohammed. Còn Ijma và Quias ra đời trong quá
trình thực tiễn áp dụng Kinh Koran và Sunna.

- Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng luật hồi giáo, thì các quy định trong Kinh Koran và Sunna chỉ mang tính
định hướng, nguyên tắc, còn thực tiễn các thẩm phán chủ yếu sử dụng các quy định trong Ijma và Qias.

a. Kinh Koran

- Là nguồn quan trọng nhất của luật Hồi giáo.

- Là cuốn kinh duy nhất của Hồi giáo (khác với các tôn giáo khác có nhiều cuốn kinh).

- Kinh Koran là cuốn kinh thánh của đạo Hồi được viết bằng tiếng Ả Rập, có nghĩa là “đọc lại”. Lý do là vì
kinh Koran được hình thành từ những gì mà Mohammed đọc lại những lời của thượng đế truyền cho ông.

- Cấu trúc: gồm 114 chương, chia thành các tiết với 6.237 đoạn thơ rất dễ thuộc, dễ nhớ => là một trong các
nguyên nhân khiến đạo Hồi có thể bành trướng dễ dàng. Tuy nhiên điểm hạn chế là lại làm cho các quy định
trong Kinh Koran rất dài dòng.

Tuy nhiên chỉ có 3% nội dung của Kinh Koran được coi là luật.

- Nội dung của Kinh Koran rất rộng, bao gồm luật gia đình, luật dân sự, luật hình sự, luật thương mại, … và
cả luật quốc tế.

b. Sunna

- Có nghĩa là “con đường quen đi”, là lối sống, cách hành xử trong cuộc đời của nhà tiên tri Mohammed.

- Sunna là nguồn quan trọng trong luật Hồi giáo chỉ sau kinh Koran.

- Sunna bao gồm những hành động cụ thể, những lời khuyên dạy hoặc cấm đoán trực tiếp từ Mohammed.

- Vai trò: sau khi Mohammed chết, vì không còn nhà tiên tri nào có thể liên lạc với thánh Alla để hỏi về
những vấn đề phát sinh trong thực tế nữa, mà Kinh Koran lại không nói đến hoặc nói không rõ ràng => vì
vậy người hồi giáo sẽ nhớ lại xem trước đây, lúc Mohammed còn sống, khi gặp tình huống đó thì
Mohammed sẽ hành xử như thế nào => tập hợp các hành xử của Mohammed trở thành Sunna.

Ví dụ: trong kinh Koran cấm tín đồ hồi giáo uống rượu, nhưng lại không nói nếu tín đồ hồi giáo uống rượu
thì sẽ xử phạt thế nào => có thể tìm thấy trong Sunna, đoạn kể lại Mohammed khi gặp tín đồ hồi giáo uống
rượu thì sẽ yêu cầu đánh roi người này => hình phạt sẽ là đánh roi.

c. Ijima

- Được sử dụng để giải thích các nguồn cơ bản.

- Ijma ra đời trên cơ sở thống nhất về quan điểm PL của các học giả pháp lý đạo Hồi cho những tình huống
mới: tức là Ijma giải thích các quy định trong Kinh Koran và Sunna trong thế giới hiện tại.

=> Ijima có nét tương tự “án lệ”.


- Những khái niệm và ý kiến trong Ijma thì không tìm thấy trong Kinh Koran và Sunna, nhưng vẫn tuân theo
các nguyên tắc chung của Kinh Koran và Sunna.

- Các thẩm phán và luật gia đều sử dụng Ijma để đưa ra các giải pháp cho các vấn đề của cuộc sống hiện đại.

d. Qias

- Thực chất là phương pháp suy luận tương tự để giải thích luật quy định trong kinh Koran và Sunna, nhằm
giải quyết những tình huống mới phát sinh trong thực tế.

- Bằng cách áp dụng Qias, các luật gia và thẩm phán có thể “kết hợp ý chí của thần thánh với lý trí của con
người”.

- Qias không tạo ra quy phạm mới mà chỉ tìm cách suy luận những quy phạm cũ (trong Kinh Koran và
Sunna) để giải quyết các tình huống mới.

Ví dụ: Kinh Koran cấm uống rượu, Qias có thể suy luận theo cách: quy định này cũng đồng thời cấm sử
dụng đồ uống có cồn, cấm sử dụng chất ma túy.

4. Sự thích ứng của luật Hồi giáo với thế giới hiện đại

- Ở một số quốc gia Hồi giáo, các CQ quyền lực nhà nước được phép tạo ra PL => vậy có trái với nguyên
tắc của đạo hồi là luật hải do thánh Alla tạo ra ?

Việc này vẫn được chấp nhận ở các quốc gia Hồi giáo, vì các tín đồ hồi giáo cho rằng các QHXH mới phát
sinh ngày càng nhiều, luật trong kinh Koran đã không còn đáp ứng được, mà nhà tiên tri Mohammed đã mất
từ lâu, lại không có nhà tiên tri thứ 2 => thánh Alla phải thông qua nhà nước để đưa ra PL giúp thánh Alla
quản lý đất nước hồi giáo => thánh Alla đồng ý cho nhà nước có thể ban hành một số quy định để hỗ trợ cho
luật mà thánh Alla đã truyền cho Mohammed.

- Áp dụng tập quán: mặc dù các quốc gia Hồi giáo không thừa nhận tập quán là nguồn luật, nhưng trong
thực tế họ vẫn thừa nhận các tập quán trong thương mại quốc tế là một nguồn luật, chỉ với điều kiện là các
tập quán này không trái với kinh Koran.

- Sử dụng các thủ thuật pháp lý để loại bỏ các quy định đã lạc hậu (là một hình thức “lách luật”).

Ví dụ: trong kinh Koran có quy định cấm cho vay lấy lãi => lách luật bằng cách: biến hợp đồng cho vay có
lãi bằng 2 hợp đồng mua bán tài sản. Như A cho B vay 100 đồng trong 1 năm và tiền lãi là 10 đồng, thì sẽ
thành 2 hợp đồng: A mua của B 1 tài sản trị giá 100 đồng, và sau 1 năm thì B mua lại chính tài sản đó với
giá 110 đồng.

II. PL của các quốc gia Hồi giáo

1. Khái quát

- Tôn giáo là bộ phận quan trọng trong HTPL của các quốc gia.

- Thể chế chính trị và PL của các quốc gia thuộc dòng họ PL Hồi giáo không giống nhau.

- Do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng của các truyền thống PL khác, từ thế kỷ XIX đến
nay, có 3 xu hướng phát triển ở các quốc gia:

+ Phương Tây hóa PL.

+ Pháp điển hóa PL.


+ Loại bỏ các quy định lạc hậu.

- PL thực định của các QG Hồi giáo thể hiện các đặc trưng:

+ Chịu ảnh hưởng của các nước phương Tây.

+ Chịu ảnh hưởng của đạo Hồi.

+ Cho phép các công dân lựa chọn luật Hồi giáo hoặc luật thực định để giải quyết tranh chấp.

- PL các quốc gia Hồi giáo được chia thành các nhóm như sau:

+ Nhóm quốc gia đã từng theo hệ thống XHCN: Albania, các nước Trung Á (Kazakhstan, Turkmenistan,
…) => do theo Mac-Lenin nên đạo hồi không phát triển => ảnh hưởng của đạo hồi rất hạn chế.

+ Nhóm quốc gia coi luật Hồi giáo là tối cao, nhà nước chỉ là thứ cấp: các quốc gia bán đảo Ả Rập (Ả
Rập Xê-út, Yemen, UAE, Oman, Quatar, …), Afghanistan, Pakistan.

+ Nhóm quốc gia trong đó luật Hồi giáo chỉ được dùng để điều chỉnh một số lĩnh vực (như quan hệ gia
đình, các tổ chức tôn giáo, chế độ ruộng đất), còn PL “hiện đại” được dùng để điều chỉnh những quan hệ
mới. Nhóm này gồm nhóm nhỏ:

 Nhóm quốc gia kết hợp luật hồi giáo với Common law: Malaixia, Nigeria, Bengale.
 Nhóm quốc gia kết hợp luật Hồi giáo với Civil law: Indonexia, Iran, các nước nói tiếng Ả Rập,
các nước châu Phi nói tiếng Pháp.

You might also like