Professional Documents
Culture Documents
Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản sau WW2
Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản sau WW2
Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai
- Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản là nước thua trận, bị lực lượng Đồng Minh – đứng đầu là quân đội Mỹ chiếm
đóng và ép buộc Nhật Bản phải thực hiện một số cải cách lớn:
- Các chính sách của Joseph Dodge: cân bằng ngân sách, giải quyết lạm phát, quy định tỷ giá cố định giữa Yên Nhật và
USD (360 yên bằng 1 USD)
c) Tác động
- Lợi nhuận khổng lồ từ việc thu mua hàng hóa đặc biệt trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Đồng thời, kim ngạch xuất
khẩu và sản xuất công nghiệp cũng tăng lên nhanh chóng, biểu hiện ở việc gia tăng sản lượng nhanh chóng ở các ngành
sản xuất se sợi, bột giấy, phân bón, sản phẩm tiêu dùng…; lao động dư thừa có việc làm và sự hoạt động trở lại của các
nhà máy thiếu nguyên vật liệu.
- 1951: Các chỉ tiêu cơ bản như GNP, sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu đã bằng và vượt mức chiến tranh.
Bảng 2.1.1. Ngoại thương và sản xuất thời gian diễn ra chiến tranh Triều Tiên
- Thập niên 1960: tốc độ tăng trưởng GDP đều trên 10% một năm, ngoại trừ năm 1962 và năm 1965 tốc độ tăng GDP bị
sụt giảm.
Bảng 2.1.2 Tốc độ tăng trường GDP hàng năm (%, giá cố định năm 1965)
- 1970: Quy mô nền kinh tế Nhật Bản đứng thứ 2 thế giới (GDP là 393,41 tỉ USD), đứng sau Mỹ (1361,14 tỉ USD); trên
Đức (379,41 tỉ USD), Pháp (278,53 tỉ USD) và Anh (207,01 tỉ USD).
b) Cơ cấu kinh tế:
Bảng 2.1.3 Cơ cấu ngành kinh tế (%)
- Công nghiệp phát triển chế tạo phát triển, dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản
- Giai đoạn 1952-1968:
+ Nhóm ngành nông-lâm-ngư nghiệp chỉ còn chiếm 9,9% vào năm 1968, giảm 12,7% trong cơ cấu GDP so với năm
1952
+ Nhóm ngành công nghiệp tăng từ 31,35 lên 38,6% GDP.
- Ngành công nghiệp sản xuất chung: tốc độ tăng trưởng bình quân năm về sản xuất công nghiệp giai đoạn 1950-1960
và giai đoạn 1960-1969 lần lượt đạt 15,9% và 13,5%.
- Các ngành công nghiệp chế tạo: tăng trưởng với tốc độ cao. (Giai đoạn 1960-1968, giá trị sản lượng công nghiệp chế
biến tăng 260%, công nghiệp điện tử và hóa dầu tăng 3,4 lần; ngành chế tạo máy tăng 3,8 lần).
- Ngành công nghiệp ô tô: giai đoạn 1960-1967, Nhật Bản vươn lên vị trí thứ hai sau Mỹ về ngành chế tạo ô tô.Sản xuất
xe chở khách tăng từ 700.000 xe năm 1965 lên 2,61 triệu xe và 4,47 triệu xe lần lượt ở hai năm 1969 và 1973. Số xe ô tô
xuất khẩu cũng tăng từ 200.000 xe năm 1965 lên 840.000 xe năm 1969 và 2,09 triệu xe năm 1973.
- Ngành sản xuất máy tính điện tử: mới ra đời nhưng phát triển nhanh và trở thành ngành xuất khẩu. Trong giai đoạn
1965-1973, số lượng máy tính sản xuất tăng từ 4000 chiếc lên 450.000 chiếc (năm 1965) và hơn 10 triệu chiếc (năm
1973).
- Ngành nông nghiệp: số lao động nông nghiệp giảm 5,6 triệu người xuống còn 8,9 triệu người từ năm 1960 đến năm
1969 nhưng sản lượng và năng suất lao động tăng nhanh, đạt tổng giá trị sản lượng nông-lâm-ngư nghiệp là 9 tỷ USD năm
1969.
- Ngành dịch vụ: tốc độ tăng bình quân của khu vực này đạt 4%/năm từ năm 1955 đến năm 1970.
- Ngoại thương: Từ năm 1950 đến 1971, kim ngạch ngoại thương tăng từ 1,7 tỉ USD lên 43,6 tỉ USD. Đồng thời cơ cấu
hàng xuất khẩu có sự tăng tỷ trọng của các sản phẩm công nghiệp nặng như thép, máy móc, đồ điện tử, ô tô…
Bảng 2.1.5 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu (Đơn vị:%)
Năm Dệt Hóa chất Thép Kim loại Thiết bị Đài thu Ô tô Tàu thủy Máy Các sản
khác quang thanh, móc phẩm
học và TV, máy khác khác
văn ghi âm
phòng
1960 30,2 4,5 9,6 4,4 - 3,9 - 7,1 10,3 25,8
1970 12,5 6,4 14,7 5,0 3,8 7,9 6,9 7,3 20,4 15,2
Nguồn: Bộ Tài chính, Thống kê hải quan
- 1972: thu nhập tính theo đầu người của Nhật Bản ước tính đạt 2300 USD, cao ngang nước Anh và gần bằng một nửa
nước Mỹ
- Giáo trình Lịch sử kinh tế, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân
- Sách giáo khoa Lịch sử 12 và Lịch sử 12 nâng cao, NXB Giáo dục Việt Nam
- Kinh tế Nhật Bản sau thế chiến thứ 2 - Sự phát triển thần kỳ 2021 (luatvn.vn)