Professional Documents
Culture Documents
3. Thực trạng phân phối thu nhập 2016-2021
3. Thực trạng phân phối thu nhập 2016-2021
Thực trạng phân phối thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2021
3.1. Phân phối thu nhập theo Thành thị - Nông thôn
Trong giai đoạn 2016 – 2021 về thực trạng phân phối thu nhập ở Việt nam,
được thông qua số liệu Bảng 3.1 thì hệ số Gini cho thấy bất bình đẳng thu nhập biến
động không nhiều, nằm trong khoảng 0,431 đến 0,374; và nằm trong ngưỡng an toàn,
hiệu quả, phù hợp cho mục tiêu tăng trưởng cao. Tại khu vực thành thị, người dân
bình đẳng và dễ dàng hơn trong tiếp cận các cơ hội phát triển về trình độ học vấn, kỹ
năng làm việc thông qua giáo dục nên bất bình đẳng về thu nhập luôn thấp hơn khu
vực nông thôn. Năm 2016 hệ số Gini ở khu vực thành thị là 0,391 giảm còn 0,335
năm 2021, chỉ số này tương ứng ở khu vực nông thôn là 0,408 và 0,374.
Điều đáng quan tâm ở đây là tốc độ gia tăng chênh lệch ở khu vực nông thôn lại cao
hơn so với khu vực thành thị. Giá đất đai tăng mạnh trong thời gian qua cùng với tình
trạng mất đất của người nông dân đã làm cho tình trạng chênh lệch thu nhập gia tăng
mạnh hơn ở khu vực này. Mặt khác, gia tăng chênh lệch ở khu vực nông thôn cũng có
thể do hiện tượng di cư tìm việc làm của lao động từ nông thôn ra thành thị. Điều này
đã góp phần làm tăng thu nhập và chi tiêu của những hộ nông thôn có người di cư ra
Bảng 3.1. Bất bình đẳng thu nhập thông qua hệ số GINI tại Việt Nam giai đoạn
2016-2021
2016 2018 2019 2020 2021
Cả nước 0.431 0,425 0.423 0,373 0,374
Thành thị - Nông thôn
Thành thị 0,391 0,373 0.373 0,325 0,335
Nông thôn 0,408 0,408 0.415 0,373 0,374
Nguồn: Tổng cục thống kê
3.2. Phân phối thu nhập của các vùng kinh tế
Tại các vùng miền do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, trình độ văn hóa,
trình độ sản xuất, kết cấu hạ tầng và trình độ dân trí, lợi thế so sánh…, những đặc
điểm đó làm cho sự phát triển của các vùng miền có sự khác biệt làm cho sự chênh
lệch về thu nhập cũng như bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư tại các vùng miền
khác nhau rõ rệt. Bảng 3.2 cho thấy, hệ số Gini ở tất cả các vùng kinh tế có những
biến động tăng giảm ở các năm khác nhau, nhưng đều có xu hướng giảm dần, khoảng
cách bất bình đẳng ngày càng được thu hẹp. So với các khu vực khác, Đông Nam Bộ
là khu vực kinh tế phát triển có tốc độ phát triển cao so với các khu vực còn lại, hệ số
Gini có tốc độ giảm mạnh so với các khu vực khác, khoảng cách về bất bình đẳng thu
nhập ở khu này ngày càng được thu hẹp. Hai vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là Trung du
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên cũng là hai vùng có hệ số Gini cao nhất so với cá
Bảng 3.2. Hệ số GINI của các vùng kinh tế giai đoạn 2016 -2021
3.3. Phân phối thu nhập theo thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng theo thành
thị - nông thôn
Theo số liệu Điều tra về mức sống vào năm 2021 của Tổng cục Thống kê, thu
nhập bình quân đầu người hàng tháng tại Việt Nam là 4.2 triệu đồng. So với năm
2020, mức thu nhập bình quân đầu người đã giảm đi 1% so với năm 2021, tương
Cụ thể năm 2021, mức thu nhập bình quân đầu người dành cho các cư dân ở khu vực
thành thị nằm ở mức gần 5.4 triệu đồng. Tuy nhiên, đối với các cư dân ở khu vực
nông thôn chỉ đạt mức 3.5 triệu đồng. Có thể thấy được mức thu nhập bình quân đầu
người ở khu vực thành thị hiện nay đang cao hơn khoảng 1,5 lần so với khu vực nông
thôn. Trước khi đại dịch COVID xảy ra năm 2019, mức thu nhập bình quân đầu người
hằng năm luôn ghi nhận chỉ số tăng qua từng năm. Nhưng trước những tác động tiêu
cực do đại dịch COVID gây ra, thu nhập đã giảm thiểu hơn và có xu hướng giảm
nhiều hơn đáng kể ở thành thị so với nông thôn. Cụ thể, mức thu nhập bình quân đầu
người dành cho các cư dân ở khu vực thành thị giảm hẳn 3.6%. Trong khi đó, mức thu
nhập bình quân đầu người dành cho các cư dân ở khu vực nông thôn không có sự thay
Biểu đồ 3.1. Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo thành thị, nông thôn
giai đoạn 2010 - 2021
Nguồn: Điều tra về mức sống vào năm 2021 của Tổng cục Thống kê
3.4. Phân phối thu nhập theo bình quân đầu người của các nhóm thu nhập
Theo bảng 3.3 thì cho dù thu nhập của nhóm hộ giàu nhất (nhóm gồm 20% dân
số giàu nhất – nhóm 5) năm 2020 có sự sụt giảm so với năm 2018, nhưng vẫn đang có
một khoảng cách rất lớn giữa nhóm thu nhập này với nhóm 1 (nhóm gồm 20% dân số
nghèo), cụ thể với mức thu nhập 9,108 triệu đồng/ người/ tháng năm 2020 thì thu nhập
của nhóm 5 vẫn cao gấp hơn 8 lần so với mức 1,139 triệu đồng/tháng/ người của
nhóm 1.
Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu người của các khu vực theo các nhóm thu nhập
(nghìn đồng)
Nhóm 1 Nhóm 5
Chung
Thành thị
Nông thôn
Đồng thời khi xem xét về thu nhập của các nhóm tại các khu vực cũng có sự phân hóa
rất rõ rệt. Tại khu vực thành thị sự phân hóa giàu nghèo giữa nhóm thu nhập thấp nhất
(nhóm 1) và thu nhập cao nhất (nhóm 5) giảm từ 7,6 lần năm 2016 xuống 7,2 lần năm
2018 và chỉ còn 5,3 lần năm 2020. Trong khi ở khu vực nông thôn khoảng cách giữa 2
nhóm đối tượng này là từ tăng từ 8,4 lần năm 2016 lên 9,6 lần năm 2018. Điều này
cho thấy đang có sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt của khu vực nông thôn so với khu vực
thành thị.
Từ đây có thể khẳng định trong những năm qua, thu nhập của các đối tượng dân
cư đã không ngừng tăng lên, tuy nhiên khoảng cách thu nhập giữa các nhóm ngày
càng xa, chênh lệch giàu nghèo cao đang là một thách thức lớn trong việc thực hiện
mục tiêu phát triển theo hướng đảm bảo công bằng thu nhập mà Việt Nam đã đặt ra.
Như vậy, thực trạng phân phối thu nhập của Việt Nam có sự bất bình đẳng thu nhập
gia tăng mức gia tăng không đáng kể, trong quá trình phát triển kinh tế là điều khó
tránh khỏi. Hơn nữa, Việt Nam nước nghèo bắt đầu bước vào công nghiệp hóa nên
cũng cần có chênh lệch để tạo động lực cho phát triển. Tuy vậy, việc xác định tỷ lệ
kiểm soát yêu cầu quan trọng không làm gia tăng bất bình đẳng xã hội đẩy lùi động
lực phát triển. Do cần phải xây dựng quan hệ phân phối thu nhập phù hợp để vừa đảm
bảo thúc đẩy tăng trưởng, vừa đảm bảo công xã hội.
3.5. So sánh phân phối thu nhập của Việt Nam với một số nước trong khu vực và
Biểu đồ 3.2. Chỉ số GINI của Việt Nam so với một nước Asean và trên thế giới
Xét hệ số GINI của Việt Nam so với 1 số nước trong khu vực Asean:
Nếu so sánh về bất bình đẳng thu nhập năm 2018 thì Malaysia có chỉ số Gini là 41 trở
thành quốc gia có bất bình đẳng thu nhập cao nhất trong khu vực Asean; Philippines
đứng thứ hai với 40,1. Việt Nam là một trong số các quốc gia ít bất bình đẳng về thu
nhập, chỉ số GINI ở mức 35,3, thấp nhất so với một số quốc gia trong khu vực Asean.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế tăng nhanh trong thời gian qua nhưng bất bình đẳng về thu
nhập không thay đổi, qua đó cho thấy cơ hội hưởng lợi ích từ tăng trưởng vẫn được
giữ vững trong một thời gian dài. Đây là một thành tựu quan trọng trong cải thiện bất
bình đẳng mà không phải quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp nào cũng đạt
được.
Xét hệ số GINI của Việt Nam so với 1 số nước trên thế giới khác:
So với các nước trên thế giới khác, thì tại Việt Nam, hệ số Gini dựa trên thu nhập bình
quân đầu người năm 2018 khá ổn định, ở mức vừa phải là 35,3% nằm trong mức độ
bất bình đẳng thu nhập thấp (<40%). Điều này cho thấy một mô hình tăng trưởng kinh
tế tương đối công bằng ở Việt Nam trong giai đoạn này. Tuy nhiên, hệ số Gini của
Việt Nam vẫn cao hơn của Hàn Quốc trong các nước đang xét trên thế giới.
Như vậy, căn cứ vào chỉ số so sánh trên về tình trạng bất bình đẳng ở Việt Nam so với
các nước trong khu vực và trên thế giới, mọi người đều có cảm giác yên tâm về thực
trạng phân phối trong xã hội vẫn được duy trì ở mức tương đối công bằng. Như thế,
tình trạng bất bình đẳng ở Việt Nam là chấp nhận được và chưa đáng lo ngại. Tuy
nhiên, điều đáng lo ngại là bất bình đẳng có khuynh hướng tăng lên và có thể đạt đến
mức báo động trong thời gian tới nếu không có nỗ lực ngăn chặn từ bây giờ.