Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 25

Đề cương Triết học:

Chương III:
Câu 1: Trình bày các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Thuận lợi/ khó khăn về
yếu tố người lao động ở Việt Nam hiện nay.
 Người lao động
 Tư liệu sản xuất :
- Tư liệu lao động: + Công cụ lao động
+ Phương tiện lao động
- Đối tượng lao động: + Có sẵn trong tự nhiên
+ Đã qua chế biến
- Thuận lợi: Việt Nam là nước có quy mô dân số lớn, tháp dân số tương đối trẻ v
à bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào nhất t
ừ trước đến nay. Tính đến hết năm 2017, dân số nước ta đạt 96,02 triệu người, tron
g đó nữ chiếm khoảng 48,94%. Gia tăng dân số trong những năm qua kéo theo gia
tăng về lực lượng lao động. Nhìn chung, mỗi năm Việt Nam có khoảng gần 1 triệu
người bước vào độ tuổi lao động, đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt
Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Ngư
ời lao động nước ta cần cù, sáng tạo, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp, thủ công nghiệp, có khả năng tiếp thu khoa học kĩ thuật. Chất lượng nguồ
n lao động đang được nâng cao.
- Khó khăn:
+) Một là, lao động phân bổ không đều giữa các vùng:
 Các vùng đất rộng có tỷ trọng lao động thấp (vùng trung du và miền núi phía Bắc
chỉ chiếm 13,8% lực lượng lao động, Tây Nguyên chiếm 6,5% lực lượng lao độn
g)
 Phân bổ lao động chưa tạo điều kiện phát huy lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho n
gười lao động và tác động tích cực đến sự di chuyển lao động từ các vùng nông th
ôn ra thành thị. Năm 2017, lực lượng lao động chủ yếu tập trung ở các vùng Đồng
bằng Sông Hồng (21,8%), Đồng bằng Sông Cửu Long (19,1%), Bắc Trung bộ và
Duyên hải miền Trung (21,6%), các vùng còn lại chiếm 17,2%.
+) Hai là, chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển:
 Nguồn cung lao động ở Việt Nam hiện nay luôn xảy ra tình trạng thiếu nghiêm tr
ọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số ngành dịch vụ (ngân hàng, tài
chính, thông tin viễn thông, du lịch…) và công nghiệp mới.
 Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phon
g lao động công nghiệp còn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp.
 Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về chiều cao,
cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ làm việc và
những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.
 Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra
của quá trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tậ
p huấn về kỷ luật lao động công nghiệp.
+) Ba là, còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động: Phần lớn lao độn
g di cư chỉ đăng ký tạm trú, không có hộ khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học tập, chữa b
ệnh... trình độ học vấn của lao động di cư thấp và phần đông chưa qua đào tạo nghề.

Câu 2: Phân tích quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ
của lực lượng sản xuất
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó
LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX.
- LLSX quyết định QHSX:
+ Sự vận động và phát triển của PTSX bắt đầu từ sự biến đổi của LLSX
+ LLSX là nội dung của PTSX, còn QHSX là hình thức của PTSX
=> LLSX nào thì QHSX ấy
+ Khi LLSX có sự thay đổi thì QHSX cũng phải thay đổi theo
+ Sự phù hợp của QHSX + trình độ phát triển của LLSX là đòi hỏi khách quan
của nền sản xuất
+ LLSX quyết định sự ra đời của một kiểu QHSX mới trong lịch sử, quyết định
đến nội dung và tính chất của QHSX.
- Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:
+ Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX sẽ hình thành hệ thống
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả
của nền sản xuất.
+ Sự tác động của QHSX đối với LLSX diễn ra theo hai chiều hướng: thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Sự tác động biện chứng giữa LLSX với QHSX làm cho lịch sử xã hội loài người
là lịch sử kế tiếp nhau của các PTSX từ thấp lên cao
+ Đặc điểm của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong
XHCN
- Ý nghĩa của phương pháp luận:
+ Phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát
triển lực lượng lao động và công cụ lao động.
+ Muốn xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải
xuất phát từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống
tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Câu 3: Các yếu tố cấu thành cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam
hiện nay.
- Cơ sở hạ tầng là:
 toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội
 trong sự vận động hiện thực của chúng
 hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
- Cấu trúc của cơ sở hạ tầng:
 Quan hệ sản xuất thống trị
 Quan hệ sản xuất tàn dư
 Quan hệ sản xuất mầm mống
- Cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay:
 Nhiều hình thức sở hữu khác nhau thậm chí đối lập nhau
 nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế
 thống nhất là nền kinh tế nhiều thành phần
 Vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước.
Câu 4: Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng
- Kiến trúc thượng tầng là:
+ toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã hội tương ứng
+ cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhất định.
- Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng những quan điểm tư tưởng chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học,… và những thiết chế xã hội tương
ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác.

Câu 5: Nêu vai trò của nhà nước ta trong việc ứng phó với đại dịch
Covid-19:

Câu 6: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
- Kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ chặt chẽ với cơ sở hạ tầng, cụ thể là:
A) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trong đó:
+ Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng
+ Nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ t
ầng.
+ Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù h
ợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.
“Mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải d
o sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó tạo thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịc
h sử tư tưởng của mỗi thời đại” - Ph.Ăng-ghen
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hi
ện ở chỗ: Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tần
g quyết định:
+ Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị t
hống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
+ Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện nh
ững đối kháng trong đời sống kinh tế.
+ Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học,
tôn giáo, v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ t
ầng quyết định.

- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở
chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng tha
y đổi theo.
“Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn
ít nhiều, nhanh chóng” - Karl Marx
+ Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng, những biến đổi tr
ong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi trong kiến trúc t
hượng tầng=> sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với sự biến
đổi của cơ sở hạ tầng.
+ Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có nguyên nhân
từ vai trò quyết định của kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của xã
hội.

- Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phù hợ
p với cơ sở hạ tầng, nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy m
óc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính đ
ộc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ
đối với cơ sở hạ tầng.
B) Sự tác động trở lại:
+Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, tuy n
hiên, mỗi yếu tố có vai trò không giống nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiề
u:
 Nếu kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với cơ sở hạ tầng thì thúc đẩ
y cơ sở hạ tầng phát triển.
 Nếu kiến trúc thượng tầng tác động ngược chiều với cơ sở hạ tầng thì kìm hã
m hay huỷ diệt cơ sở hạ tầng sinh ra nó.

Câu 7: Phân tích nguồn gốc và đặc trưng cơ bản của nhà nước theo quan
điểm Mác xít:
a. Nguồn gốc của nhà nước:
- Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước:
+ nguyên nhân sâu xa: Do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự
dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu
+ do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt và không thể điều hoà được
b. Bản chất của nhà nước:
- Nhà nước, về bản chất là:
+ một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế
+ nhắm bảo vệ trật tự hiện hành
+ đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác
- Nhà nước mang bản chất giai cấp
- Nhà nước - công cụ quyền lực chính trị đặc biệt của giai cấp thống trị.
c. Đặc trưng cơ bản của nhà nước:
- Thứ nhất, nhà nước là một tổ chức thực hiện:
+ sự quản lý dân cư theo lãnh thổ
+ để cai trị dân cư trong lãnh thổ đó.
- Thứ hai, tổ chức nhà nước là bộ máy quyền lực có tính cưỡng chế đối với
mọi thành viên trong xã hội
- Thứ ba, duy trì hệ thống thuế khoá để tăng cường và duy trì bộ máy cai
trị của mình

Câu 8: Trình bày các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội, nêu thuận lợi và
khó khăn của điều kiện tự nhiên/ hoàn cảnh địa lý đối với đời sống xã
hội của người dân Việt Nam hiện nay.
a. Khái niệm:
- Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và
các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội
b. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội:
+ Điều kiện tự nhiên – địa lý
+ Điều kiện dân số - dân cư
+ Phương thức sản xuất
- Điều kiện tự nhiên – địa lý: của cải tự nhiên, năng lượng tự nhiên, những
tác động của tự nhiên
=> yếu tố tất yếu, thường xuyên của sản xuất và đời sống, nhưng không quyết
định sự phát triển của tồn tại xã hội
- Điều kiện dân số - dân cư: số lượng dân cư, mật độ dân cư, tốc độ gia tăng
dân số,…
=> Điều kiện dân số - dân cư là yếu tố tất yếu, thường xuyên của sản xuất và đời
sống, nhưng không quyết định sự phát triển của tồn tại xã hội
- Phương thức sản xuất: là yếu tố quyết định sự phát triển của tồn tại xã
hội
 Thuận lợi & hạn chế ở vùng núi:
- Thuận lợi:
+ Khoáng sản: địa hình đồi núi tập trung nhiều loại khoáng sản có nguồn
gốc nội sinh: đồng, chì, thiếc,... nguồn gốc ngoại sinh: boxit, apatit, đá vôi,
… là nguyên liệu, nhiên liệu cho ngành công nghiệp
+ Rừng: Rừng giàu có về thành phần động vật, thực vật nhiều loại quý hiếm,
cao nguyên, thung lũng tạo điều kiện hình thành vùng chuyên canh cây công
nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế
biến, tiêu dùng
+ Đất trồng: đất vùng bán bình nguyên, trung du trồng cây công nghiệp, ăn
quả, lương thực
+ Thuỷ năng: sông ngòi có tiềm năng thuỷ điện lớn
+ Du lịch: miền núi có điều kiện để phát triển du lịch như tham quan nghỉ
dưỡng, sinh thái
- Hạn chế:
+ Địa hình đồi núi gây trở ngại cho dân sinh phát triển kinh tế - xã hội
+ Địa hình bị chia cắt mạnh lắm sông suối, hẻm vực, sườn dốc gây trở ngại
giao thông
+ Khai thác tài nguyên giao lưu kinh tế các vùng khó khăn
+ Thiên tai: mưa nhiều, độ dốc lớn, lũ nguồn, lũ quét, xói mòn,… các đứt
gãy sâu có nguy cơ động đất. Lốc, mưa đá, sương muối, rét hại tác hại lớn
đời sống dân cư, sản xuất,…
 Thuận lợi & hạn chế ở vùng biển:
- Thuận lợi:
+ Biển giàu tài nguyên sinh vật biển (cá, tôm, mực, san hô,…) thuận lợi cho
việc nuôi trồng, khai thác và đánh bắt thuỷ hải sản
+ Khoáng sản (dầu khí, khoáng sản kim loại, phi kim loại) giúp cho việc
khai thác và cung cấp nguồn nguyên liệu cho chế biển khoáng sản
+ Có nhiều bãi biển đẹp, dễ dàng phát triển các loại hình du lịch biển, đảo
+ Có nhiều vũng, vịnh… thuận lợi để phát triển nghề cá, khai thác và chế
biến khoáng sản
+ Tạo điều kiện cho phát triển giao thông vân tải biển…
+ Là cửa ngõ nối liên các đường vận tải biển thuận lợi cho việc giao lưu và
buôn bán với các nước khác trên thế giới
- Khó khăn:
+ Nhiều thiên tai: bão, nước biển dâng, sạt lở bờ biển ảnh hưởng đến đời
sống nhân dân
+ Nhiều khoáng sản ở vùng khó khai thác còn chưa thể khai thác được
+ Khó khăn trong việc giữ gìn chủ quyền biển đảo vì có đường bờ biển kéo
dài và nhiều đảo, quần đảo ngoài xa

Câu 9: Nêu tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội. Nêu 1 số hiện tượng lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội
hiện nay. Phân tích quan hệ biện chứng giữa YTXH và TTXH.
 Tính độc lập tương đối cuả ý thức xã hội:Ý thức xã hội bị tồn tại xã hội
quy định, song một khi ra đời thì ý thức xã hội có tính độc lập tương đối.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm sau:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
+ Ý thức xã hội thường phản ánh không kịp sự vận động, phát triển của tồn
tại xã hội và mất đi chậm hơn sau khi tồn tại xã hội sinh ra nó đã mất đi
+ Khi một giai cấp đã hết vai trò lịch sử thì hệ tư tưởng của nó không còn
khả năng phản ánh đúng đắn quy luật khách quan của sự vận động lịch
sử xã hội.
+ Tâm lí xã hội khi đã trở thành thói quen, tập quán, truyền thống,… sẽ
bám rễ tương đối bền vững trong đời sống tinh thần của xã hội
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do:
+ Hoạt động thực tiễn của con người rất phong phú, diễn ra với tốc độc
nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội.
+ Sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và tính bảo thủ của
các hình thái ý thức xã hội
+ Ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai
cấp trong xã hội. Những tư tưởng lạc hậu thường được các giai cấp, các lực
lượng phản tiến bộ lợi dụng lưu giữ và truyển bá nhằm chống lại các lực
lượng tiến bộ, cách mạng
+ Tính lạc hậu của ý thức xã hội làm cho tính chất cuộc đấu tranh tư
tưởng trở nên phức tạp hơn trong cuộc cách mạng trên lính vực văn hoá,
tư tưởng.
+ Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay phải thường xuyên tăng
cường công tác tư tưởng; kiên trì đấu tranh xoá bỏ các tàn dư tư tưởng, ý
thức lạc hậu. Phải kiên quyết đấu tranh làm cho thất bại các âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch về mặt tư tưởng, làm cho chủ nghĩa Mác –
Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần
xã hội.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa:
+ Các quan điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ cũng
dựa vào những tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó
+ Ý thức xã hội không phải bao giờ cũng phụ thuộc một cách máy móc
vào sự phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế
+ Trong các xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau sẽ kế thừa những
di sản khác nhau của những giai đoạn trước, tuỳ vai trò lịch sử của giai
cấp đó.
+ Quan điểm của triết học Mác – Lenin về tính kế thừa của ý thức xã hội có
ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng văn hoá tinh thần của dân tộc
ta hiện nay. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không phải có từ hư vô, mà từ:
 chính hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội
 phải biết kế thừa toàn bộ những tinh hoa tốt đẹp trong truyền thống dân
tộc và nhân loại để phát triển
- Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
+ Biểu hiện của tính tiên tiến (vượt trước) của ý thức xã hội là một bộ phận
những tư tưởng khoa học, tiên tiến có khả năng phản ánh sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai và hình thành các dự báo
khoa học.
+ Các dự báo khoa học có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người, hướng hoạt động của con người và của các giai cấp vào giải quyết
các nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống thực tiễn đặt ra
+ Ý thức xã hội có khả năng phản ánh vượt trước là do nó phản ánh đúng
những mối liên hệ khách quan, tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội. Đây
là cơ sở để xây dựng niềm tin vào những dự báo khoa học; đấu tranh khắc
phục các “niềm tin” hư ảo duy tâm và thái độ duy ý chí trong nhận thức,
hành động
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
+ Các hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo những cách
khác nhau, có vai trò khác nhau trong xã hội và chúng có sự tác động qua
lại với nhau
+ Vai trò của mỗi hình thái ý thức xã hội không giống nhau ở từng thời kì
lịch sử. Trong thế giới đương đại, ý thức chính trị ngày càng đóng vai trò
quan trọng và chi phối mạnh mẽ các hình thái ý thức khác
 1 số hiện tượng lạc hậu giữa YTXH và TTXH:
+ Trọng nam khinh nữ
+ Hủ tục…
 Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:Tồn tại xã
hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn
tại xã hội
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội về
+ nguồn gốc hình thành
+ nội dung tính chất
+ sự biến đổi của nó.
- Tồn tại xã hội là tính thứ nhất, ý thức xã hội là tính thứ hai. Ý thức xã hội là
cái phản ánh tồn tại xã hội, do vậy có tồn tại xã hội thì mới có ý thức xã
hội.
- Mỗi yếu tố của tồn tại xã hội có thể được các hình thái ý thức xã hội khác
nhau phản ánh từ các góc độ khác nhau theo những cách thức khác nhau
- Ở các giai đoạn lịch sử khác nhau của TTXH => những đặc điểm nội
dung của YTXH khác nhau
- Tồn tại xã hội quyết định tính chất của ý thức xã hội. Nếu TTXH không có
sự đối lập về địa vị, lợi ích giữa các tập đoàn người, các giai cấp thì tư
tưởng xã hội mang tính thuần nhất và không có đối kháng. Trong xã hội có
giai cấp thì YTXH luôn mang tính giai cấp sâu sắc
- Khi tồn tại xã hội thay đổi, đặc biệt là phương thức sản xuất thay đổi thì ý
thức xã hội sớm muộn phải thay đổi theo.
- YTXH phản ánh TTXH, chủ yếu là phản ánh PTSX vật chất, mà trực tiếp
là QHSX trong từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
- Ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội:
+ Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội do ý thức xã hội là sự phản ánh
tồn tại xã hội, nhưng một khi ra đời thì nó có tính độc lập tương đối
+ Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở tính kế thừa, tính
thường lạc hậu so với tồn tại xã hội, tính tiên tiến (vượt trước), sự tác động
lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội và sự tác động trở lại tồn tại xã hội.
+ Vai trò của ý thức xã hội với tồn tại xã hội được thực hiện qua hoạt động
thực tiễn của con người, của các giai cấp trong nhận thức và cải tạo xã hội
+ Tính chất và hiệu qủa của sự tác động trở lại này phụ thuộc vào những
điều kiện lịch sử cụ thể; vào trình độ phản ánh và sức lan toả của ý thức đối
với đời sống hiện thực; vai trò lịch sử của giai cấp đại diện cho tư tưởng đó
là tiến bộ hay phản động; mức độ truyền bá, thâm nhập của tư tưởng đó vào
quần chúng.
+ Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể diễn ra trên hai
chiều hướng, ý thức xã hội tiến bộ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển;
ngược lại, ý thức xã hội lạc hậu, phản động sẽ cản trở sự phát triển của xã
hội
 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có
một ý nghĩa quan trọng để giải thích một cách khoa học các hiện tượng
phức tạp của đời sống tinh thần, tư tưởng trong xã hội.
- Đây là cơ sở lí luận khoa học để nhận thức tầm quan trọng của cuộc
cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá ở Việt Nam hiệ nay.
- Chủ nghĩa Mác – Lenin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng phản ánh
đúng quy luật của lịch sử, là vũ khí lí luận của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động trong cuộc đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
- Trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay, cần tiếp tục phát triển và
truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng ta trong đời sống xã hội; đồng thời, kiên quyết đấu tranh
loại bỏ những tư tưởng sai lầm, phản động xâm nhập vào đời sống tinh thần
của nhân dân ta.

Câu 10: Nêu bản chất con người theo quan điểm Mác xít. Vận dụng
quan điểm đó vào việc phát huy vai trò con người trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
 Khái niệm con người:
- Con người là một sinh vật có tính xã hội ở một trình độ cao nhất của giới tự
nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các
thành tựu của văn minh và văn hoá.
 Bản chất con người:
1. Con người là thực thể sinh học – xã hội:
- Con người là kết quả của tự tiến hoá và phát triển lâu dài của giới tự nhiên
- Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người vì thế con người phải dựa vào
giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể
tồn tại và phát triển.
- Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội để nảy sinh
tính xã hội của họ, trong đó quan trọng nhất là lao động sản xuất
- Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao
tiếp xã hội với nhau
2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người:
- Phê phán quan niệm của Phoi – ơ – bắc coi con người là đối tượng cảm
tính, trừu tượng không có hoạt động thực tiễn, Mác khẳng định con người
vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm
của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con người
- Cũng là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con người
khác con vật không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi mà con người
còn là chủ thể của lịch sử.
1. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử:
- Xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã
hội như thế. Do vậy, phải xuất phát từ các quan hệ kinh tế để để lý giải các
hiện tượng lịch sử
- Khi các quan hệ xã hội biến đổi và phát triển thì bản chất con người cũng
biến đổi và phát triển theo (qua các hiện tượng kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao), cuộc sống con người ngày càng văn minh, hiện đại,…
- Con người tạo ra lịch sử một cách có ý thức
2. Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội:
- Đời sống xã hội của con người xét về bản chất là có tính thực tiễn. Mọi bí
ẩn liên quan đến con người chỉ có thể lý giải thông qua hoạt động thực tiễn
và hiểu biết về hoạt động thực tiễn của họ.
- Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người sống chủ yếu bằng phương
thức xã hội (Phương thức sản xuất), và chỉ tồn tại, phát triển nhờ các quan
hệ xã hội
- Xã hội là biểu hiện tổng số các mối quan hệ và liên hệ cá nhân, chỉ thông
qua các quan hệ xã hội con người mới hoàn thiện và phát triển bản tính con
người của mình.

Chương I:
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học là gì và vì sao đó là vấn đề cơ
bản của triết học
 Khái quát vấn đề cơ bản của triết học:
+ Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là
triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tốn tại”. Vấn đề cơ
bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt trả lời cho một câu hỏi lớn:
+ Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không?
 Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học:
+ Giải quyết mặt thứ nhất đã phân chia triết học thành hai trường phái:
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
+ Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức. Có ba hình thái của chủ nghĩa duy vật: chủ nghĩa duy
vật chất phác thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy
vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, ý thức, tinh thần là cái có trước, là cơ sở
cho sự tồn tại của thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức:
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm được gọi là nhất nguyên luận.
Ngoài ra, có một số học thuyết được gọi là nhị nguyên luận và đa nguyên
luận.
+ Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học phân chia thành các
lập trường triết học khác nhau: khả tri luận, bất khả tri và hoài nghi luận.
+ Khả tri luận: Các nhà triết học cho rằng, con người có thể nhận thức
được thế giới
+ Bất khả tri: các nhà triết học cho rằng, con người không thể nhận thức
được thế giới
+ Hoài nghi luận: các nhà triết học hoài nghi khả năng nhận thức của con
người.
 Vì sao:
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được gọi là vấn đề cơ bản của triết học
vì:
+ Mọi trào lưu triết học đều xoay quanh giải quyết vấn đề này
+ Giải quyết vấn đề này như thế nào nó quyết định giải quyết mọi vấn đề
khác trong phạm vi và đối tượng nghiên cứu của triết học

Chương II:
Câu 3 : Trình bày nguyên lí về mối liên hệ phổ biến trong phép
biện chứng duy vật và ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu nguyên lí này?
 Khái niệm mối liên hệ phổ biến:
- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến: Các nhà siêu hình không thừa
nhận mối liên hệ khách quan của các sự vật, hiện tượng; họ cho rằng các sự
vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời, cô đọng, tĩnh tại, cái này tồn tại
bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia; giữa chúng không có mối liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau. Nếu có liên hệ chỉ là ngẫu nhiên, bề ngoài.
- Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ dùng để
khái quát sự quy định, tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc và chuyển
hoá lẫn nhau giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng, hay giữa các sự vật
hiện tượng trong thế giới.
- Cơ sở khách quan của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của
thế giới; theo đó các sự vật, hiện tượng dù có đa dạng, phong phú và khác
nhau như thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể
khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất
 Tính chất của các mối liên hệ phổ biến:
- Tính khách quan của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Phép biện
chứng duy vật luôn khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác
động của bản thân thế giới vật chất. Tuy nhiên, phép biện chứng duy tâm
(kể cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan) cũng thừa nhận về mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, song họ đi tìm nguồn gốc, cơ sở của các
mối liên hệ ở lực lượng siêu nhiên hay ý thức, cảm giác của con người.
- Đối lập với phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật khẳng định
cơ sở khách quan của mối liên hệ phổ biến ở tính thống nhất vật chất của
thế giới. Nhờ có mối liên hệ mà các sự vật, hiện tượng được thể hiện, bộc
lộ các thuộc tính của mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật
chất khác. Tính khách quan của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
là thuộc tính vốn có không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện
tượng đều có mối liên hệ biện chứng tác động qua lại, quy định, phụ thuộc,
chuyển hoá lẫn nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau; không có sự vật, hiện
tượng nào tồn tại riêng rẽ, tách biệt. Mối liên hệ không những diễn ra ở mọi
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra
đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. Chẳng
hạn, mối liên hệ trong tự nhiên là mối liên hệ giữa động vật và thực vật,
mối liên hệ trong xã hội thể hiện sự tác động giữa kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội,… mối liên hệ trong tư duy là mối liên hệ giữa các giai đoạn
nhận thức trước và sau của một quá trình. Đồng thời còn có những mối liên
hệ con người chưa phát hiện ra được hoặc đã phát hiện ra nhưng chưa giải
thích được dưới góc độ khoa học.
- Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng. Thế giới vật chất đa dạng, nhiều vẻ, nảy sinh nhiều mối liên hệ như
mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa
các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong
những lĩnh vực rộng lớn của thế giới, có mối liên hệ riêng chỉ tác động
trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể; có mối liên hệ bên
trong, bên ngoài; có mối liên hệ nhân quả; có mối liên hệ trực tiếp và mối
liên hệ gián tiếp; có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên;
có mối liên hệ bản chất và không bản chất; có mối liên hệ chủ yếu và liên
hệ thứ yếu… chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa
các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có
hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong
mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức,
vai trò khác nhau.
- Việc phân loại mối liên hệ trên chỉ mang tính tương đối, tuỳ theo từng quan
hệ cụ thể, thậm chí các mối liên hệ có thể chuyển hoá cho nhau. Vì thế, khi
xem xét về các mối liên hệ chúng ta phải có tư duy và cách nhìn nhận linh
hoạt, không nên tuyệt đối hoá chúng. Chẳng hạn, có thể là cái chung trong
quan hệ này, nhưng lại trở thành cái riêng trong quan hệ khác; hay có thể là
cái ngẫu nhiên khi mới xuất hiện, nhưng nó lại trở thành cái tất nhiên về
sau này. Ví dụ, trao đổi hàng hoá giai đoạn cuối của thời kì công xã nguyên
thuỷ là ngẫu nhiên, nhưng đến những giai đoạn lịch sử sau đó lại trở thành
tất nhiên.
- Tính phức tạp của mối liên hệ của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng không chỉ mang tính đa dạng, nhiều vẻ,
nó còn thể hiện sự phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội. Tính phức tạp
trong mối quan hệ con người với con người trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, nghệ thuật… chúng đan chéo, ảnh hưởng qua lại và mang tính
đa chiều, nên việc nhận diện và phân biệt chúng là hết sức khó khăn.
 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra
nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong chỉnh thể thống
nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các
mối liên hệ của chúng; trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự
vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các
mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định,
nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong
quá khứ, hiện tại và dự báo tương lai của chúng. Nguyên tắc toàn diện đối
lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt
khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không
thấy mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh
tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ
nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau
vào một mối liên hệ phổ biến).
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cũng phải có
trọng tâm, trọng điểm, không dàn đều, một cách chung chung.
- Từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, còn rút
ra nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Sự vật, hiện tượng tồn tại, vận động và phát triển bao giờ cũng xảy ra
trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này được thể hiện ở
mỗi sự vật xét trong những điều kiện, hoàn cảnh, không gian và thời gian
khác nhau sẽ bộc lộ ra tính chất của mối liên hệ và sự phát triển cũng khác
nhau. Vì vậy, nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong
những mối liên hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu
hướng phát triển của sự vật hiện tượng. Cơ sở lí luận của nguyên tắc này là
không gian, thời gian với vận động của vật chất, là quan niệm chân lí là cụ
thể và chính nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.

Câu 4: Nêu vị trí và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất.
b. Phân tích quan hệ biện chứng thay đổi về lượng và thay đổi về chất
c. Trình bày khái niệm, nguyên nhân, khái quát từ đó đánh giá về vấn đề
môi trường của Việt Nam hiện nay
 Vị trí và vai trò của quy luật
+ Vị trí: là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
+ Vai trò: quy luật này chỉ ra cách thức, phương thức của sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng.
 Ý nghĩa phương pháp luận
+ Nhìn sự vật trong sự thống nhất giữa chất và lượng
+ Vì lượng đổi -> chất đổi nên chúng ta phải biết từng bước tích luỹ về
lượng -> để biến đổi về chất.
+ Chống tả khuynh: chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn, chưa tích luỹ
đủ về lượng đã vội thay đổi về chất
+ Chống hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, tích luỹ đủ về lượng nhưng không
dám thực hiện bước nhảy để thay đổi về chất.

A) Mối quan hệ biện chứng giữa chất với lượng


Thứ nhất, lượng đổi đến một giới hạn nhất định dẫn đến chất đổi
+ Mỗi sự vật, hiện tượng luôn là một thể thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Hai mặt này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế sự
vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ
nhất định
+ Độ dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng: là khoảng giới hạn mà
trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật, hiện
tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Cũng trong phạm vi độ này, chất và
lượng tác động lẫn nhau đã làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi bắt đầu
từ lượng (hoặc tăng hoặc giảm); nhưng chỉ khi lượng thay đổi đến giới hạn
nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về
lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả của sự thay đổi đó là sự vật, hiện
tượng cũ mất đi; sự vật, hiện tượng mới ra đời.
+ Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện
tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra
bước nhảy được gọi là điểm nút.
+ Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật,
hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là bước ngoặt cơ
bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi
về lượng; là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, hiện
tượng. Trong sự vật, hiện tượng mới, lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới,
lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động của sự vật, hiện tượng
diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo ra một
đường nút vô tận, làm cho sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
+ Các hình thức của bước nhảy. Việc thừa nhận có bước nhảy hay không
cũng là cơ sở để phân biệt quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình.
Tuỳ thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng; vào những mâu thuẫn vốn có của
chúng và điều kiện diễn ra sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng, người
ta chia ra nhiều hình thức bước nhảy. Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của
bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành: bước nhảy toàn bộ và bước nhảy
cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt, các
bộ phận, các yếu tố của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ là loại
bước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận của
sự vật, hiện tượng đó. Sự phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý
nghĩa tương đối, dù bước nhảy là toàn bộ hay cục bộ thì chúng cũng đều có
chung một điểm đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng. Căn cứ vào
thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó,
người ta chia bước nhảy thành: bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy làm cho chất của sự vật, hiện tượng biến
đổi mau chóng ở tất cả mọi bộ phận cơ bản của nó. Bước nhảy dần dần là
quá trình thay đổi về chất diễn ra do sự tích luỹ dần những yếu tố của chất
mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến
đổi chậm.
Thứ hai, chất mới ra đời lại quy định lượng mới phù hợp
+ Quy luật lượng đổi, chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi
dẫn đến chất đổi mà còn có chiều ngược lại khi chất mới đã ra đời, nó lại
tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất
với lượng; thể hiện ở chỗ sự tác động của chất mới cần phải tạo nên quy
mô, kích thước, trình độ, nhịp điệu, tốc độ,… mới phù hợp và thống nhất
với chất mới trong sự vật, hiện tượng mới. Sự thống nhất đó là điều kiện
để cho sự vật, hiện tượng tồn tại và phát triển. Trong quá trình vận động
và phát triển sự vật, hiện tượng lại có sự tích luỹ dẫn về lượng vượt quá
độ, đến điểm nút, thực hiện bước nhảy làm cho chất mới ra đời thay thế
chất cũ… cứ như vật sự vật, hiện tượng liên tục diễn ra và chi phối bởi
quy luật này, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng.
+ Tóm lại, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng
giữa chất với lượng. Sự thống nhất đó thể hiện: những thay đổi dần về
lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất thông qua bước
nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng
mới lại tiếp tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm
hãm nó. Qúa trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường
vận động liên tục trong đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi
dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về chất; rồi lại biến đổi dần dần về
lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế làm cho sự
vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lenin và rút ra ý nghĩa
 Định nghĩa của Lenin :
“Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
 Phân tích:
1. Thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là tồn tại
khách quan -> vật chất có trước ( tồn tại thực, không phụ thuộc vào cảm
giác của con người )
2. Vật chất là cái khi tác động vào giác quan của con người thì đem lại cảm
giác -> con người nhận thức được (chống lại thuyết bất khả tri)
3. Vật chất quyết định ý thức, con người có thể nhận thức được, chép lại,
chụp lại -> cảm giác, ý thức là cái có sau.
 Ý nghĩa:
1. Giải quyết 1 cách đúng đắn, triệt để cả 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học
2. Khắc phục được hạn chế duy vật cũ, bác bỏ CNDT, thuyết bất khả tri
3. Khắc phục được khủng hoảng, đem lại niềm tin trong khoa học tự nhiên,
mở đường cho sự phát triển của khoa học
4. Tạo tiền đề xây dựng quan điểm duy vật về xã hội và lịch sử loài người
5. Là cơ sở để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự liên minh giữa triết học
duy vật biện chứng với các khoa học cụ thể

Câu 2: Trình bày nguồn gốc cho sự ra đời của ý thức. Liên hệ
vai trò lao động đến sự phát triển ý thức của bản thân. Phân tích
bản chất và kết cấu của ý thức theo quan điểm của CNDV biện
chứng.
Nguồn gốc tự nhiên:
+ Bộ não người và thế giới khách quan được phản ánh vào bộ não người
chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
+ Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ não
người. Não người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chứng năng của
bộ não người. Như vậy: thứ nhất, không có bộ não người thì không thể ý
thức, cho nên máy móc không có ý thức; thứ hai, ý thức là sản phẩm của não
người, nhưng ý thức không được chiết xuất ra từ bộ não người như quan
niệm của trường phái duy vật tầm thường cho rằng não người tiết ra ý thức
giống như gan tiết ra mật. Vì vậy, mọi hoạt động được chỉ đạo bởi bộ óc
người vận hành bình thường đều là những hoạt động được chỉ đạo bởi ý
thức.
+ Ý thức không chỉ có nguồn gốc từ bộ não người, mà còn có nguồn gốc từ
thuộc tính phản ánh của vật chất. Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi
dạng vật chất. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở một hệ thống vật chất khác nhau trong quá trình tác động qua lại của
chúng.
+ Các kết cấu vật chất càng phát triển, hoàn thiện thì năng lực phản ảnh của
nó càng cao. Giới tự nhiên vô sinh có kết cấu vật chất đơn giản, do vậy trình
độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn. Giới tự
nhiên hữu sinh ra đời với kết cấu vật chất phức tạp hơn, do đó thuộc tính
phản ánh cũng phát triển lên một trình độ mới khác về chất so với giới tự
nhiên vô sinh. Đó là trình độ phản ánh sinh học trong các cơ thể sống có tính
định hướng, lựa chọn, giúp cho các cơ thể sống cũng bao gồm nhiều hình
thức cụ thể, cao – thấp khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thiện, đặc
điểm cấu trúc của các cơ quan chuyên trách làm chức năng phản ánh: ở giới
thực vật, là sự kích thích; ở động vật có hệ thần kinh là sự phản xạ; ở động
vật cấp cao có bộ óc là tâm lí.
+ Tâm lí động vật là trình độ phản ánh cao nhất của các loài động vật; tuy
nhiên, tâm lí động vật chưa phải là ý thức, mà đó vẫn là trình độ phản ánh
mang tính bản năng của các loài động vật bậc cao, xuất phát và bị chi phối
từ nhu cầu sinh lí tự nhiên, trực tiếp của cơ thể động vật.
+ Bộ não người có cấu trúc đặc biệt phát triển, là sản phẩm tiến hoá cao nhất
của giới tự nhiên; do vậy, có trình độ phản ánh cao nhất trong thế giới vật
chất, đó là phản ánh ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ
óc con người. Như vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của
con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội:
- Sự ra đời của ý thức không chỉ có nguồn gốc tự nhiên, mà còn do nguồn
gốc xã hội. Không phải cứ có thế giới khách quan và bộ óc người là có ý
thức. Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực
phản ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Con người không phải bẩm
sinh đã có ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài người, mà cơ bản là lao
động và ngôn ngữ, mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý
thức.
- Lao động:
+ Lao động giúp giải phóng hai chi trước của con người để thực hiện những
động tác tinh vi hơn, mặt khác cũng giúp con người có khả năng sáng tạo ra
công cụ lao động và sử dụng các công cụ ấy phục vụ mục đích sống của con
người. Việc sử dụng công cụ trong lao động giúp con người ngày càng tìm
được nhiều nguồn thức ăn hơn và có nhiều chất dinh dưỡng hơn. Mặt khác,
trong quá trình lao động, con người tìm ra lửa để nấu chín thức ăn khiến cơ
thể dễ hấp thụ hơn. Điều đó đã giúp cho bộ não con người ngày càng phát
triển, hoàn thiện hơn về mặt sinh học.
+ Ý thức hình thành không phải là quá trình con người tiếp nhận thụ động
các tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình, mà chủ yếu từ hoạt
động thực tiễn. Trong quá trình lao động, con người sử dụng công cụ lao
động tác động vào đối tượng hiện thực, khiến chúng bộc lộ những thuộc tính
ẩn náu thành những hiện tượng mà các giác quan có thể nhận biết được.
Thông qua các giác quan, hệ thần kinh, những hiện tượng ấy tác động vào
bộ não con người, hình thành nên tri thức về đối tượng. Trải qua quá trình
hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, với
nhiều loại đối tượng khác nhau mà phản ánh ý thức của con người đối với
thế giới đạt đến trình độ nhận thức lí tính và ngày càng sâu sắc, phong phú
hơn. Ý thức không hẳn là phản ánh tái tạo (phản ánh gương), mà chủ yếu là
sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Thông qua hoạt động thực tiễn,
những sáng tạo của tư duy được con người hiện thực hoá, tạo ra “giới tự
nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của bàn tay và khối óc con người.
- Ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động; bởi vì, lao động mang tính xã hội đã làm
nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong
xã hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm, trung tâm ngôn ngữ trong bộ óc con
người được hình thành và hoàn thiện dần. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật
chất mang nội dung ý thức, là công cụ thể hiện ý thức, tư tưởng.
+ Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với sự phát triển của ý
thức. Ngôn ngữ giúp con người diễn đạt khái quát, trừu tượng những thuộc
tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Cũng nhờ có ngôn ngữ mà con
người có thể trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm
phong phú mà xã hội đã tích luỹ được qua các thế hệ, thời kì lịch sử. Ý thức
là một hiện tượng có tính xã hội do đó không có phương tiện trao đổi xã hội
về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thế hình thành và phát triển được.
+ Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm
chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm
lí động vật thành ý thức con người.
 Ý nghĩa phương pháp luận: Không được tuyệt đối hoá mặt tự nhiên hay
mặt xã hội khi phân định nguồn gốc của ý thức. Nguồn gốc tự nhiên là
điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành,
tồn tại và phát triển. Nếu chỉ nhấn mạnh mặt tự nhiên mà quên đi mặt xã
hội, hoặc ngược lại chỉ nhấn mạnh mặt xã hội mà quên đi mặt tự nhiên
trong nguồn gốc của ý thức đều dẫn đến những quan niệm sai lầm, phiến
diện duy tâm chủ nghĩa hoặc duy vật siêu hình, không thể hiểu được thực
chất của hiện tượng ý thức, tinh thần của loài người nói chung, cũng như
của mỗi người nói riêng.

PHÂN TÍCH BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC THEO QUAN ĐIỂM
CNDVBC
A) Bản chất của ý thức:
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích
cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người.

- Thứ nhất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
+ Về mặt bản thể luận, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật
ở trong óc con người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật
chất luôn tồn tại cảm tính mà nó phản ánh. Thế giới khách quan là nguyên bản,
mang tính thứ nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là “hình ảnh” về thế giới đó, mang
tính thứ hai.
+ Về nội dung, ý thức phản ánh thế giới khách quan, nhưng thế giới đó đã được cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người (chịu tác động của các yếu tố
như: thể chất, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm
sống của chủ thể phản ánh). Cùng một đối tượng phản ánh, nhưng với các chủ thể
phản ánh khác nhau, thì kết quả phản ánh cũng rất khác nhau, có thể đúng đắn hoặc
sai lầm. Bên cạnh đó, sự phù hợp giữa kết quả phản ánh và đối tượng phản ánh chỉ
là tương đối, cho dù phản ánh chính xác đến đâu thì đó cũng chỉ là sự phản ánh gần
đúng, có xu hướng tiến dần đến khách thể.

- Thứ hai, ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo


+ Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động
thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có định
hướng, có mục đích rõ rệt. Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế
giới và qua đó chủ động khám phá không ngừng các đối tượng phản ánh.
+ Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể sáng tạo ra những tri thức mới
về sự vật; từ những cái có trên thực tế, ý thức sáng tạo ra những cái không có
trên thực tế (huyền thoại, truyền thuyết,…); ý thức có thể tiên đoán, dự báo
tương lai.
+ Ý thức không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thế giới, thông qua hoạt động
thực tiễn của con người, nó còn có khả năng cải tạo thế giới, sáng tạo ra
“thiên nhiên thứ hai” theo nhu cầu của con người.

- Thứ ba, ý thức mang bản chất xã hội


+ Ý thức không phải một hiện tượng tự nhiên thuần tuý, nó không chỉ có
nguồn gốc tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội. Người nào tách rời khỏi
đời sống xã hội của con người sẽ không thể có ý thức. Cũng vì vậy, ý thức
luôn mang bản chất xã hội.
+ Bản chất xã hội của ý thức thể hiện ở chỗ: Ý thức luôn là ý thức của con
người, mà mỗi con người luôn tồn tại trong một xã hội nhất định, cho nên ý
thức phát triển tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội.

B) Kết cấu của ý thức:


- Các lớp cấu trúc của ý thức:Khi xem xét từ góc độ cấu trúc hợp thành, ý
thức gồm nhiều yếu tố quan hệ mật thiết với nhau, trong đó các yếu tố cơ
bản là tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí.
+ Tri thức là thành tố cơ bản, cốt lõi nhất của ý thức. Muốn cải tạo được sự
vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó.
+ Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh
quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách
quan. Tình cảm tham gia và trở thành một trong các động lực quan trọng của
hoạt động con người.
 Sự hoà quyện giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn tạo niềm
tin mà tính bền vững của nó thôi thúc con người hoạt động vươn lên
trong mọi hoàn cảnh.
+ Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực của con người để vượt qua khó khăn
trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt chân lí và kết quả
mong muốn.

- Các cấp độ của ý thức: Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội
tâm con người, ý thức bao gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức,…
+ Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ
với ý thức về thế giới bên ngoài. Con người tự đánh giá năng lực và trình độ
hiểu biết của bản thân về thế giới, cũng như các quan điểm, tư tưởng, tình
cảm, nguyện vọng, hành vi, đạo đức và lợi ích của mình. Qua đó, xác định
đúng vị trí, mạnh yếu của mình; luôn làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh
hành vi của mình trong tác động qua lại với thế giới khách quan.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các
nhóm xã hội khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất, về
lợi ích và lí tưởng của mình.
+ Tiềm thức là những hoạt động tâm lí diễn ra bên ngoài sự kiềm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ
trước nhưng đã biến gần như thành bản năng. Do đó, tiềm thức có thể tự
động gây ra các hoạt động tâm lí và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm
soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ với loại hình tư
duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt động sẽ góp phần
giảm bớt sự quá tải của đầu óc, khi công việc lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm
bảo chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
+ Vô thức là những hiện tượng tâm lí không phải do lí trí điều khiển nằm
ngoài phạm vi của lí trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào
đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen,… trong
con người thông qua phản xạ vô điều kiện.
Vô thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham
muốn, giấc mơ, bị thôi miên, lỡ lời, nói nhịu,… Vô thức giúp giải toả những
ức chế của tinh thần, nhất là những ham muốn bản năng không được phép
bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng.
 Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”:
+ “Người máy thông minh”, “trí tuệ nhân tạo” không có ý thức như con
người. Máy móc chỉ là những kết cấu kĩ thuật do con người sáng tạo ra. Máy
móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó
 Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Cần phát triển con người toàn diện: Ý thức có vai trò hết sức to lớn. Nhờ
tính năng động, sáng tạo của ý thức, con người tạo ra “giới tự nhiên thứ hai”
in đậm dấu ấn của con người. Khẳng định vai trò to lớn của ý thức trong đời
sống hiện thực của con người, về thực chất, là khẳng định vai trò của con
người - chủ thể mang ý thức đó. Chính vì vậy, cần có thái độ đúng đối với
con người, quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn diện cả về thể chất
và về tinh thần. Cần đặc biệt quan tâm bồi dưỡng thế hệ trẻ có kiến thức,
nắm vững khoa học – công nghệ hiện đại, có tình cảm cách mạng trong sáng,
ý chí vươn lên xây dựng đất nước giàu mạnh.
Câu 5: Thực tiễn là gì? Tại sao nói thực tiễn là cơ sở, mục đích
của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lí.
 Phạm trù thực tiễn:
- Định nghĩa:
+ Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử -
xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến
bộ.
+ Từ quan niệm trên có thể thấy thực tiễn gồm những đặc trưng sau:
1. Thứ nhất, thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con
người mà chỉ là những hoạt động vật chất – cảm tính. Nghĩa là:
con người có thể quan sát trực quan các hoạt động này; là
những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật
chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất
để biến đổi nó. Nhận thức, do đó, không phải hoạt động thực
tiễn.
2. Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch
sử - xã hội của con người. Nghĩa là: thực tiễn là hoạt động chỉ
diễn ra trong xã hội, bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử
- xã hội cụ thể và hoạt động thực tiễn có trải qua các giai đoạn
lịch sử phát triển cụ thể của nó.
3. Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo
tự nhiên và xã hội phục vụ con người. Nghĩa là: thực tiễn
không phải là hoạt động bản năng, tự phát mà là hoạt động có
tính tự giác cao của con người; với hoạt động thực tiễn, con
người chủ động tác động cải tạo thế giới nhằm thoả mãn nhu
cầu của mình.
- Các hình thức của thực tiễn:
+ Thực tiễn bao gồm 3 hình thức cơ bản sau:
1. Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản
nhất, quan trọng nhất của loài người
2. Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác
cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế
xã hội,… tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho con người phát triển.
Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm: đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải
phóng dân tộc; đấu tranh cho hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh
cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội;…
3. Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của hoạt động
thực tiễn, bởi vì, trong hoạt động này, con người chủ động tạo ra những
điều kiện không có sẵn trong tự nhiên cũng như xã hội để tiến hành thực
nghiệm khoa học theo mục đích mà mình đã đề ra. Trên cơ sở đó, vận
dụng những thành tựu khoa học, kĩ thuật, công nghệ vào sản xuất vật
chất, vào cải tạo chính trị - xã hội phục vụ con người.
 Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức
+ Chính thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu cho nhận thức của con
người, tri thức của con người xét đến cùng đều được nảy sinh từ thực tiễn
+ Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển
của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.
+ Thực tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho
chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, trên cơ sở đó giúp quá trình
nhận thức của con người hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.
+ Hoạt động thực tiễn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc
mới hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức (chẳng hạn như kính hiển vi,
kính thiên văn, máy vi tính,… đã mở rộng khả năng của các khí quan nhận
thức của con người)
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức
+ Nhận thức bị quy định bởi những nhu cầu thực tiễn. Chính nhu cầu sản
xuất và cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải nhận thức thế giới xung
quanh. Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, chỉ đạo thực
tiễn. Nếu không vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc
 Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lí:
+ Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có
thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan. Dựa vào thực
tiễn, người ta có thể khẳng định được chân lí hoặc phủ định sai lầm nào đó
+ Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí vừa có tính tuyệt đối vừa có
tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ: thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để kiểm tra, khẳng định chân lí, bác bỏ sai lầm. Tính tương
đối thể hiện ở chỗ: thực tiễn có quá trình vận động, biến đổi, phát triển, do
đó, không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu
tượng nào đó của con người.

You might also like