Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 11

Câu 1: Nền sản xuất hàng hóa

Khái niệm nền sản xuất hàng hóa


Nền sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích
trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa có vai trò quan trọng, phù hợp với nền sản xuất lớn và phá vỡ sự bảo thủ, trì trệ,
khép kín của các hoạt động kinh tế.
Phân tích hai điều kiện tồn tại và phát triển nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình
thành và phát triển khi có các điều kiện sau:
-Một là, phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành,
nghề khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Khi phân công lao động xã hội đạt trình độ cao, tính chuyên môn hóa trong sản xuất ngày càng cao, dẫn đến 2 hệ quả.
Đầu tiên, phân công lao động dựa trên nguyên tắc chuyên môn hóa. Điều này thúc đẩy sản xuất phát triển, năng suất
lao động tăng lên, sản phẩm làm ra dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng của con người. Nhà sản xuất tiêu dùng không hết.
Và sản phẩm dư thừa lúc đó được đem ra trao đổi, mua bán. Thứ hai, phân công lao động xã hội khiến cho mỗi người
sản xuất chỉ làm ra được 1 hoặc một vài loại sản phẩm, trong khi đó nhu cầu thì lại cần nhiều sản phẩm. Vì vậy, họ
không thể tồn tại độc lập với nhau như trước được nữa mà phải phụ thuộc vào nhau. Chính điều đó làm con người
phải trao đổi, mua bán với nhau.
-Hai là, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các
chủ thể sản xuất là sự độc lập về sở hữu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh. Sự tách biệt này
làm cho giữa những người sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa.
Điều này tạo nên sự sòng phẳng, minh bạch trong hoạt động kinh tế.
Chỉ ra mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa
–Mâu thuẫn cơ bả n của nền sản xuất hàng hóa là sản xuất hàng hóa vừa có tính chất xã hội, vừa có tính chất tư nhân
hay còn gọi là mâu thuẫn giữa lao động xã hội và lao động cá biệt.
–Trước hết, sản xuất hàng hóa có tính chất xã hội bởi vì sản phẩm sản xuất ra để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã
hội. Hơn nữa, quá trình sản xuất ra 1 sản phẩm luôn là sự liên kết của nhiều nhà sản xuất.
–Tiếp theo, sản xuất hàng hóa có tính chất tư nhân, cá biệt bởi vì mỗi chủ thể sản xuất là độc lập, tự chủ. Do đó, ý chí
chủ quan của các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp, . . . sẽ chi phối các quá trình kinh tế, chi phối thị trường.
–Sự đối lập này tạo nên động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển, vì mỗi nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp đều
phải cố gắng tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Nêu các ưu thế của sản xuất hàng hóa
Ưu thế thứ nhất: SXHH (sản xuất hàng hóa) thúc đẩy phân công lao động xã hội, dẫn tới SX chuyên môn hóa sâu,
khiến cho năng suất lao động ngày càng cao và LLSX (lực lượng sản xuất) phát triển.
Ví dụ: Mỗi địa phương tập trung vào thế mạnh của mình rồi sản xuất ra các sản phẩm liên quan đến thế mạnh đó, . . .
Ưu thế thứ hai: nền sản xuất hàng hóa dựa trên tính cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy mọi doanh nghiệp. Từ đó gây
nên áp lực đổi mới công nghệ và phương pháp quản lý, dẫn tới phát huy sự năng động, sáng tạo của nguồn nhân lực.
Ưu thế thứ ba: Thúc đẩy các quốc gia hội nhập thị trường thế giới, tạo nên xu thế toàn cầu hóa. Từ đó tạo điều kiện
phát huy các lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
Ưu thế thứ tư: Thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, tạo nên sự giao lưu giữa các nền văn hóa. Điều này tạo
điều kiện tiếp thu các giá trị văn minh nhân loại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến.

1
Câu 2: Hai thuộc tính hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Trình bày thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hóa
–Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
–Giá trị sử dụng của hàng hóa là toàn bộ công năng, ích lợi của hàng hóa, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người
trên cả 2 mặt : Vật chất và tinh thần. Lưu ý rằng, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về tinh thần ngày càng quan trọng
hơn và giá trị sử dụng về tinh thần là yếu tố khiến cho hàng hóa có sức cạnh tranh.
–Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, luôn tồn tại cùng với xã hội loài người. Bên cạnh đó, giá trị sử dụng chỉ thể
hiện trong lĩnh vực tiêu dùng, chỉ khi nào con người sử dụng hàng hóa cho tiêu dùng thì giá trị đó mới phát huy tác
dụng. Hơn nữa, giá trị sử dụng mang trên mình một giá trị trao đổi. Ở đây, giá trị trao đổi là quan hệ về tỷ lệ về lượng
khi trao đổi hàng hóa cho nhau.
Ví dụ, khi 1 xe máy có thể đổi được 20 tấn thóc thì tỷ lệ 20/1 là giá trị trao đổi của xe máy lấy tấn thóc.
Phân tích cơ sở tạo nên giá trị hàng hóa là từ lao động của nhà sản xuất kết tinh trong hàng hóa, giá trị phản
ánh quan hệ giữa các nhà sản xuất
–Từ ví dụ trên, sở dĩ có tỷ lệ trao đổi là 20/1 là vì giá trị kinh tế của xe máy gấp 20 lần tấn thóc. Như vậy, phạm trù giá
trị được hình thành từ việc trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, con người cần xác định giá trị của
mỗi hàng hóa, để xác lập tỷ lệ trao đổi phù hợp.
–Để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa, ta cần có cơ sở. Đây phải là một cơ sở chung, một nền tảng chung, tồn tại
trong mọi hàng hóa. Vì cơ sở chung duy nhất của mọi hàng hóa đều là kết tinh lao động xã hội nên lao động là yếu tố
duy nhất tạo nên giá trị hàng hóa.
–Giá trị của hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Ở đây, phạm trù
giá trị của hàng hóa là 1 phạm trù lịch sử. Phạm trù giá trị được thể hiện trong lĩnh vực lưu thông, trao đổi, mua bán.
Giá trị là nội dung, giá cả là hình thức biểu diễn bằng tiền của giá trị.
–Giá trị hàng hóa phản ánh quan hệ giữa những nhà sản xuất với nhau, cụ thể là quan hệ trao đổi. Nếu như không nảy
sinh quan hệ trao đổi giữa nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác thì người ta cũng không đặt vấn đề về giá trị. Chính
sự trao đổi hàng hóa, buộc các nhà sản xuất phải xác định giá trị của hàng hóa, để từ đó xác lập tỷ lệ trao đổi cho phù
hợp.
Trình bày khái niệm lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
Lượng giá trị hàng hóa là lượng hao phí lao động xã hội để sản xuất ra hàng hóa đó. Do đó, lượng giá trị hàng hóa
được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Ở đây, thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa trong các điều kiện trung bình của xã hội, bao gồm mức độ thành thạo của người lao động là
trung bình, trình độ kĩ thuật, công nghệ, thiết bị là trung bình và mọi điều kiện khác là trung bình, không thuận lợi,
không bất lợi.
Có 3 nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa là năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ phức
tạp của lao động.
Năng suất lao động là phạm trù phản ánh khả năng, hiệu suất của quá trình lao động, nó được tính bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Do
đó, năng suất lao động tỷ lệ nghịch với giá trị 1 đơn vị sản phẩm và không ảnh hưởng đến giá trị tổng sản phẩm.
Cường độ lao động là phạm trù phản ánh mật độ làm việc trong một khoảng thời gian. Cường độ lao
động không ảnh hưởng đến giá trị của một đơn vị sản phẩm và tỷ lệ thuận với tổng sản phẩm.

2
Lao động gồm có 2 loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động không cần trải
qua đào tạo chuyên sâu, ví dụ như lao công, bán hàng rong, . . . Lao động phức tạp là lao động phải trải qua đào tạo
và tích lũy kinh nghiệm. Như vậy, ở cùng một thời gian làm việc, lao động phức tạp tạo nên lượng giá trị gấp bội
lần lao động giản đơn, ví dụ như kỹ sư, giảng viên, . . .

Câu 3: Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền


Chỉ ra nguồn gốc của tiền là do sự trao đổi hàng hóa, nên cần một hình thái đo lường giá trị

Trong lịch sử con người phát minh ra một thứ gọi là tiền vì cần phải có một hình thái làm đơn vị đo lường giá trị
của các hàng hóa khi trao đổi trên thị trường. Trong lịch sử, nhân loại phát kiến ra các hình thái đo lường giá trị
khác nhau, đi từ hình thái giản đơn hóa của giá trị đến hình thái tiến bộ nhất là hình thái tiền tệ.

Tóm lược 4 hình thái đo lường giá trị đã có trong lịch sử, từ hình thái giản đơn đến hình thái tiền tệ

–Hình thái giản đơn (ngẫu nhiên) của giá trị :Hình thái giản đơn của giá trị là hình thái đo lường giá trị dựa trên
sự trao đổi đơn nhất của 1 hàng hóa này lấy 1 hàng hóa khác. Như vậy, tự thân mỗi hàng hóa không thể nói lên giá
trị của mình. Do đó, cần phải có 1 hàng hóa khác đóng vai trò làm vật ngang giá. Ví dụ, 1 cái rìu đổi được 10 cân
gạo. Ở đây, thóc là vật ngang giá, đo lường giá trị của cái rìu.

Hình thái giản đơn của giá trị có đặc điểm là dựa trên trao đổi trực tiếp Hàng lấy Hàng (1 cái rìu đổi 10 cân gạo).
Bên cạnh đó, tỷ lệ trao đổi và hành vi trao đổi diễn ra ngẫu nhiên.

-Hình thái toàn bộ (mở rộng) của giá trị : Hình thái mở rộng của giá trị là hình thái đo lường giá trị dựa trên sự
trao đổi thường xuyên 1 loại hàng hóa này lấy nhiều loại hàng hóa khác. Ví dụ, ta có thể đổi 1 cái rìu lấy 10kg thóc
hoặc 5 con gà hoặc 3 mét vải hoặc 1 chỉ vàng. Ở đây, vật ngang giá của rìu được mở rộng ra nhiều thứ khác nhau.

Hình thái mở rộng của giá trị có đặc điểm là dựa trên trao đổi trực tiếp hàng đổi hàng (H − H’). Cùng với đó, mỗi
hàng hóa lại có nhiều vật ngang giá khác nhau.

-Hình thái chung của giá trị : Hình thái chung của giá trị là hình thái đo lường giá trị dựa trên việc cộng đồng đã
chọn 1 hàng hóa làm vật ngang giá chung cho mọi loại hàng hóa khác. Ví dụ 1 chỉ vàng bằng 10 cái rìu, bằng 10
kg thóc, bằng 2 con gà, bằng 3m vải (ở đây chỉ vàng là vật ngang giá chung).

Hình thái chung của giá trị dựa trên trao đổi qua trung gian là vật ngang giá chung (H − VNG chung − H’). Mỗi
cộng đồng lại có vật ngang giá chung khác nhau.

-Hình thái tiền tệ :Hình thái tiền tệ là hình thái đo lường giá trị dựa trên việc toàn xã hội thống nhất chọn 1 hàng
hóa đặc biệt làm vật ngang giá duy nhất cho mọi hàng hóa khác.

Nêu bản chất tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được chọn làm vật ngang giá duy nhất, nhấn mạnh phải gắn với
vàng

Tiền tệ có bản chất là một loại hàng hóa đặc biệt, được xã hội chọn làm vật ngang giá duy nhất, được sử dụng để
đo lường giá trị của mọi loại hàng hóa khác và làm phương tiện trao đổi.

Lịch sử nhân loại cho thấy, con người lựa chọn hàng hóa đặc biệt làm tiền tệ là VÀNG. Chúng có giá trị kinh tế
cao, giá trị sử dụng đa dạng, hữu ích, có giá trị không đổi theo thời gian và có thể lưu trữ trong một thời gian dài
mà không bị hỏng hóc. Chúng cũng dễ dàng nhận biết và khó làm giả được dựa vào màu sắc, độ dẻo, âm thanh khi
va chạm và khối lượng riêng của nó. Mặc dù vàng không phải là kim loại hiếm nhưng giá trị thẩm mỹ cao, được
nhiều người yêu thích, ưa chuộng nên chúng trở nên quý giá và có giá trị để trao đổi.
3
Trình bày 5 chức năng của tiền, chú ý nhấn mạnh một số chức năng phải gắn liền với tiền vàng, bạc

–Chức năng thước đo giá trị : Chức năng thước đo giá trị là chức năng gốc, gắn liền với sự ra đời của tiền tệ.
Chức năng này thể hiện ở việc xã hội dùng tiền tệ để làm đơn vị đo lường giá trị của mọi loại hàng hóa khác.

Vì mọi loại tiền của Nhà nước phát hành (USD, VNĐ,. . . ) đều bị mất giá do lạm phát nên không phải là đơn vị đo
lường ổn định. Do đó, khi đo lường, so sánh giá trị tài sản giữa các thời kỳ dài hạn, cần quy đổi theo đơn vị là
VÀNG, BẠC.

–Chức năng phương tiện cất trữ


Chức năng này thể hiện ở việc đưa tiền ra khỏi lưu thông, và cho vào dự trữ, nhằm duy trì giá trị tài sản. Vì mọi
loại tiền của Nhà nước phát hành đều bị mất giá do lạm phát nên tiền dùng để cất trữ phải là VÀNG, BẠC.

–Chức năng phương tiện lưu thông : Chức năng này thể hiện ở việc xã hội dùng tiền tệ làm phương tiện trung
gian trao đổi ( H − Tiền tệ − H’)

Vì tiền tệ chỉ là phương tiện trung gian trao đổi, nên việc sử dụng vàng sẽ dẫn đến lãng phí, bất tiện, nhà nước khó
kiểm soát nền kinh tế. Do đó, để thuận lợi hơn trong trao đổi và bớt lãng phí khi dùng vàng, bạc trong lưu thông và
để có thể kiểm soát nền kinh tế thuận tiện hơn, Nhà nước phát hành một loại chứng chỉ để dùng thay cho vàng, bạc
trong lưu thông. Tiền chứng chỉ là một hình thái chứng chỉ của giá trị (không phải của cải có giá trị thực), do Nhà
nước phát hành và được sử dụng trong lưu thông thay cho vàng, bạc.

–Chức năng phương tiện thanh toán: Chức năng này thể hiện ở việc con người sử dụng tiền để chi trả trực tiếp
cho các nghĩa vụ kinh tế của mình, thay cho việc trao đổi hiện vật. Tuy nhiên, việc sử dụng tiền thay cho trao đổi
có thể dẫn tới khả năng thanh toán chậm, mua bán chịu.

–Chức năng tiền tệ thế giới : Chức năng này thể hiện ở việc dùng tiền để thanh toán quốc tế. Đến thế kỷ 19, tiền
để thanh toán quốc tế vẫn phải là vàng, bạc. Hiện nay, trao đổi bằng tiền tệ thông qua hệ thống tỷ giá hối đoái

Câu 4: Vì sao tiền là hàng hóa đặc biệt

Nêu bản chất tiền tệ


Tiền về bản chất là một loại hàng hóa đặc biệt, là kết quả của quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng
hóa, tiền xuất hiện làm yếu tố ngang giá chung cho thế giới hàng hóa.

Con người thường dùng vàng, bạc làm vật ngang giá trong trao đổi vì chúng có giá trị cao và có giá trị sử
dụng đa dạng.

Tiền là một hàng hóa do lao động của con người tạo ra. Tiền phản ánh lao động xã hội và mối quan
hệ giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa

Bởi sự trao đổi hàng hóa, con người cần có một hình thái làm đơn vị đo lường giá trị. Trong lịch sử kéo dài
hàng nghìn năm, nhân loại phát kiến các hình thái đo lường giá trị khác nhau, trải qua 4 hình thái, cuối cùng xác
định hình thái tiền tệ là hình thái tối ưu.

Thứ nhất, trước khi tiền tệ được đem ra là vật ngang giá chung duy nhất cho mọi loại hàng hóa thì nó cũng là
một loại hàng hóa, cũng có giá trị sử dụng và giá trị. Thứ hai, khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội phát triển đến một trình độ nhất định, sản xuất trao đổi trở nên thường xuyên và thị trường mở rộng thì nhu
cầu của xã hội là cần có một vật ngang giá chung duy nhất để thuận tiện cho việc trao đổi, mua bán hàng hóa, vì

4
vậy mà một hoặc một số loại hàng hóa được tách ra làm tiền tệ. Do đó, tiền trực tiếp thể hiện lao động xã hội và
biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.

Tính chất đặc biệt của tiền, khác với hàng hóa thông thường
Tiền tệ có những chức năng đặc biệt mà không hàng hóa nào có được: là thước đo giá trị, là phương tiện lưu
thông, là phương tiện cất trữ, là phương tiện thanh toán, là tiền tệ thế giới. Thứ nhất, tiền tệ là vàng bạc có giá trị
sử dụng đa dạng, có giá trị kinh tế, thẩm mỹ cao được nhiều người ưa thích. Hơn nữa, vàng bạc có thể lưu trữ
trong một thời gian dài mà không bị hỏng hóc. Trong khi đó, đồng tiền do nhà nước phát hành thì lại bị mất giá
do lạm phát hay các loại hàng hóa khác thì lại không có khả năng giữ nguyên giá trị. Do đó, vàng bạc rất phù
hợp để trở thành thước đo giá trị và cũng như trở thành phương tiện lưu trữ. Mặc dù trong lưu thông, tiền chứng
chỉ thuận tiện hơn nhưng tiền cất trữ thì phải là vàng bạc. Không những vậy, tiền cũng có khả năng lưu thông và
làm phương tiện thanh toán. Cuối cùng, vàng bạc được cả thế giới coi như là vật ngang giá chung nên có thể thực
hiện chức năng thanh toán quốc tế.

5
Câu 5: Quy luật giá trị - Quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa.
Nội dung quy luật, thể hiện trên 2 lĩnh vực: Sản xuất và lưu thông.

– Nội dung quy luật giá trị: Sản xuất và lưu thông hàng hóa thì đều phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội để sản xuất ra hàng hóa (tức là dựa trên giá trị)

– Trong sản xuất, nhà sản xuất phải luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn
hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết (tức giá trị sản phẩm cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng giá trịthị
trường)

– Trong lưu thông, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa
trên giá trị cá biệt (giá cả vận động xoay quanh giá trị, giá trị quyết định giá cả).

Quan hệ giữa cung - cầu với giá cả và giá trị.

– Xét ngành có Cung < Cầu: Khi đó, giá cả tăng cao hơn giá trị, lợi nhuận tăng cao thu hút đầu tư
vào ngành. Lúc này, cung tăng và cạnh tranh cũng tăng dẫn đến giá cả giảm đi và cân bằng trở lạivới
giá trị.

– Xét ngành có Cung > Cầu: Khi đó, giá cả sẽ giảm xuống nhỏ hơn giá trị, lợi nhuận giảm khiến các
doanh nghiệp rời bỏ ngành. Lúc này, cung sẽ giảm và cạnh tranh cũng giảm nên giá cả sẽ tăng lênvà
cân bằng trở lại với giá trị.

– Xét ngành có cung = cầu, giá cả ổn định, cân bằng với giá trị. Đây là trường hợp lý tưởng nhưng
không phổ biến.

Vậy, quy luật Cung - Cầu xác định nên giá cả với mỗi điều kiện ngắn hạn của thị trường. Quy luật
giátrị điều tiết sự vận động giá cả trong tiến trình dài hạn của thị trường. Về tổng thể: GIÁ TRỊ quyết
địnhGIÁ CẢ.

Tác dụng của quy luật giá trị về kinh tế và xã hội.

– Điều tiết phân bổ đầu tư sản xuất vào các ngành có sự khan hiếm hàng hóa: Trong trường hợp
ngành thiếu hụt nguồn lực dẫn đến khan hiếm hàng hóa thì lợi nhuận thu được sẽ cao và lại thu hút
được sự đầu tư sản xuất. Ngược lại, ngành dôi dư nguồn lực thì hàng hóa tồn kho, thu lợi nhuận
thấp, các nhà đầu tư sẽ rời bỏ và chuyển đổi sang các ngành có lợi nhuận cao hơn.

– Điều tiết lưu thông hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao: Tại khu vực giá thấp diễn ra hiện
tượng dôi dư hàng hóa nên những người kinh doanh muốn luân chuyển hàng hóa của mình tới những
nơi giá cao, và ngược lại, tại nơi giá cao, hàng hóa khan hiếm nên thu hút các nguồn hàngtới với khu
vực này.

6
– Phân hóa những người sản xuất kinh doanh, làm gia tăng khoảng cách giai tầng: Trong quá trình
cạnh tranh, người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với mức haophí
cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có, thành giới chủ. Ngược lại,những
người có hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất kém, trình độ công nghệ lạc hậu,... sẽ dầnrơi vào
tình trạng thua lỗ, phá sản và phải đi làm thuê, bị giới chủ chèn ép.

Kết luận: Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ,
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất,
bảođảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có những tác động tích cực và tiêu cực diễn ra khách
quantrên thị trường. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.

Câu 6: Cơ chế thị trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị trường
Khái niệm

– Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế, trong đó nhu cầu của các chủ thể được
đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá cả và số lượng hàng hóa,
dịch vụ tương ứngvới trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.

– Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo yêu cầu
của các quyluật kinh tế.

– Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền
kinh tế hànghóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông
qua thị trường, chịu tácđộng, điều tiết bởi các quy luật khách quan của thị trường.

Có 4 chủ thể tham gia thị trường:

– Nhà sản xuất là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra thị trường nhằm
đáp ứngnhu cầu tiêu dùng của xã hội. Họ sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh
doanh và thu lợi nhuận. Nhưng bên cạnh lợi nhuận, họ còn có trách nghiệm cung cấp
hàng hóa, dịch vụ và không làm tổn hại đến sức khỏe, lợi ích của con người trong xã
hội.

– Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn
nhu cầu tiêudùng. Họ giữ vai trò định hướng sản xuất và quyết định sự phát triển bền
vững của người sản xuất.Lưu ý: Thực tế, một doanh nghiệp luôn đóng vai trò là 1 nhà sản
xuất và cũng là 1 người tiêu dùng.

7
– Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các chủ thể
sản xuất,tiêu dùng, hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Họ có vai trò kết nối, trao đổi thông
tin trong các quanhệ mua bán, làm sản xuất và tiêu dùng trở nên ăn khớp với nhau.(ví dụ:
môi giới chứng khoán, môigiới nhà đất,...)

– Nhà nước có thể tham gia vào thị trường với đầy đủ các vai trò: Nhà sản xuất, tiêu dùng
và cả chủthể trung gian. Tuy nhiên, nhà nước có một vai trò quan trọng hơn cả đó là kiến
tạo môi trường vĩmô.

Vai trò kiến tạo môi trường vĩ mô là vai trò chính của nhà nước trong thị trường. Nhà nước
sẽ thôngqua hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế, an sinh xã hội để vừa thực hiện chức
năng quản lí, tạolập một môi trường kinh tế tốt cho các chủ thể kinh tế phát huy sức sáng tạo
của họ; đồng thời khắc phụcnhững khuyết tật của thị trường, làm nền kinh tế thị trường hoạt
động hiệu quả.

Câu 14: Phân tích đặc điểm sự tập trung sản xuất và sự hình thành tổ chức độc quyền
Nguyên nhân dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền:

– Do sự cạnh tranh tự do: tư bản lớn ngày càng phát triển mạnh, trong khi đó tư bản nhỏ
ngày cànglàm ăn thua lỗ, phá sản. Vì vậy chỉ còn lại các nhà tư bản lớn cạnh tranh với nhau.
Từ đó đòi hỏi các nhà tư bản phải đầu tư chi phí lớn nhưng rủi ro cao, khó phân thắng
bại. Do sự cạnh tranh không có lợi, nên các tư bản lớn sẽ thỏa hiệp, liên minh với nhau
thao túng thị trường, từ đó tạo nên cáctổ chức độc quyền.

– Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là về khoa học kĩ thuật: Vì nhu cầu
ứng dụngkhoa học kĩ thuật vào sản xuất cần vốn lớn, nhưng thời gian hoàn vốn chậm và
rủi ro cao, nên từngnhà tư bản cá biệt khó đáp ứng được. Do đó các nhà tư bản phải đẩy
nhanh quá trình tích tụ và tậptrung sản xuất bằng việc liên minh, liên kết thành những
hãng có sức mạnh lớn hơn. Và đó là tiềnđề tạo nên các tổ chức độc quyền.

– Do khủng hoảng kinh tế: khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, mọi mặt của đời sống kinh tế
đều bị ảnhhưởng. Tư bản nhỏ với khả năng kinh tế kém, dễ bị phá sản. Còn các nhà tư
bản lớn cũng bị ảnh hưởng, thiệt hại nặng nề. Và để phục hồi sản xuất, các nhà tư bản
lớn cần liên minh lại với nhau. Thêm nữa sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành
đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, ra đời các tổ chức độc quyền.
Khái niệm tổ chức độc quyền (TCĐQ): Là liên minh các nhà tư bản với nhau dưới nhiều hình
thức khác nhau. Họ nắm giữ phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một số loại hàng
hóa. Họ có khả năng khống chế thị trường, định giá cả nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

8
Các hình thức tổ chức độc quyền:

– Cartel: tổ chức độc quyền thấp nhất, sơ khai nhất. Các thành viên thỏa thuận với nhau
về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán,... Các nhà tư bản
vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông hàng hóa. Do chỉ dựa trên sự thống nhất về đầu ra
tiêu thụ nên liên minh khó bền vững.

– Syndicate: hình thức độc quyền cao hơn, ổn định hơn Cartel. TCĐQ dựa trên sự thống
nhất về lưu thông (cả đầu vào lẫn đầu ra).Từng thành viên vẫn giữ độc lập về sản xuất,
việc đầu tư, mua bán sẽ do một ban quản trị chung điều phối.

– Trust: là TCĐQ dựa trên sự thống nhất cả lưu thông và sản xuất. Việc đầu tư các yếu
tố đầu vào, tiêu thụ đầu ra và tổ chức sản xuất sẽ do một bộ máy ban quản trị thống
nhất. Từng thành viên trở thành cổ đông, thu lợi nhuận theo cổ phần.

– Consortium: là TCĐQ có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên.
Đây là TCĐQ sản xuất đa ngành, có sức mạnh thao túng, chi phối nhiều lĩnh vực kinh
tế.

+Về kinh tế: có sự kết hợp giữa giới tư bản công nghiệp và giới tư bản ngân hàng.

+Về hình thức: bao hàm cả hình thức Trust và hình thức Syndicate.

Biểu hiện mới của TCĐQ Từ giữa thế kỉ XX, bên cạnh các mối liên kết theo chiều dọc và
ngang, còn phát triển liên kết mới- liên kết đa ngành, đa lĩnh vực thành các Conglomerate và
Concern khổng lồ.

– Về kinh tế: TCĐQ thống trị các ngành hàng, nhưng có sự phát triển hệ thống các doanh
nghiệp nhỏ đóng vai trò vệ tinh, gia công, thầu vụ...cho các TCĐQ.

- Về cơ chế thao túng: Xuất hiện trở lại hệ thống doanh nghiệp nhỏ, là nhà cung cấp, gia
công, đại lý cho các tổ chức độc quyền. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trên quy
mô lớn diễn ra đồng thời với quá trình phi tập trung sản xuất, và từ đó ngày càng xuất
hiện nhiều các tổ chức độc quyền vừa và nhỏ.

– Về hình thức: Xuất hiện 2 hình thức mới là Concern và Conglomerate

+Giống nhau: đều là TCĐQ đa ngành, thao túng thị trường quốc tế, là hãng đa quốc gia, xuyên
quốc gia.

+Khác nhau: Concern là TCĐQ đa ngành, mà các ngành có liên hệ về kỹ thuật. Conglomerate
là TCĐQ đa ngành, mà các ngành không cần có liên hệ về kỹ thuật. Mục đích chủ yếu của các

9
Conglomerate là thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán.
Câu 15:Phân tích đặc điểm xuất khẩu tư bản
Nguyên nhân hình thành:
–Tại các nước phát triển, tình trạng "tư bản thừa" làm nền kinh tế trong nước bão hòa, thị trường
bị các TCĐQ thao túng. Vì vậy nếu tiếp tục đầu tư trong nước sẽ không có hiệu quả, khó đạt
được lợi nhuận. Do đó, các nhà tư bản tìm kiếm các thị trường mới bằng việc đầu tư ra nước
ngoài để mang lại tỷ suất lợi nhuận cao.
–Trong lịch sử, nhiều nước tư bản lớn có thuộc địa, vì thế cần đầu tư sang các thuộc địa để khai
thác tài nguyên.
VD: Pháp xây dựng nhiều tuyến đường sắt, mở rộng đường bộ tại VN nhằm mục đích phục vụ
cho việc khai thác, vận chuyển tài nguyên lâu dài tại các đồn điền, hầm mỏ, cảng biển,...
Khái niệm xuất khẩu tư bản:
–Là việc đầu tư tư bản ra nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư (GTTD) và thực hiện giá trị
thặng dư ở nước ngoài, nhằm làm phương tiện để bóc lột giá trị thặng dư ở nước nhập khẩu.
–Phân biệt với xuất khẩu hàng hóa: là sản xuất GTTD ở trong nước, chỉ thực hiện GTTD ở
nước ngoài(tức là bán hàng để thu về Tư bản tiền tệ).
Các hình thức xuất khẩu tư bản (XKTB):
– Theo chủ thể xuất khẩu:
+Xuất khẩu tư bản của nhà nước: nhằm mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự
+Xuất khẩu tư nhân: nhằm mục đích lợi nhuận
– Theo cách thức đầu tư:
+XKTB trực tiếp (FDI): Nhà tư bản trực tiếp đầu tư vốn và thực hiện sản xuất kinh doanh.
+XKTB gián tiếp: là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, lãi suất, mua cổ
phần, trái phiếu, đầu tư chứng khoán ở nước ngoài, tài trợ vốn ODA,...
– Theo hình thức hoạt động: Bao gồm chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia, các
hoạt động tài chính, tín dụng của ngân hàng, chuyển giao công nghệ,...
Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản: Hướng xuất khẩu tư bản có sự thay đổi
– Về dòng vốn đầu tư:
+Trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém
phát triển.

+Gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển, do: các ngành
ở đây có hàm lượng khoa học-kỹ thuật cao và vốn lớn, nên đầu tư sẽ thu được lợi nhuận cao.

10
Trong khi đó các nước nhỏ chưa đủ điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, nên đầu tư, tiếp nhận
sản xuất có phần rủi ro và tỷ suất lợi nhuận không cao.

+Để tránh rào cản chính sách, giữa các nước lớn có thể đầu tư qua nước thứ 3.

-Về chính trị:Nước lớn tăng cường sử dụng XKTB của nhà nước và tư nhân để chi phối nền kinh
tế của các nước nhỏ. Từ đó nhờ ưu thế về vốn, công nghệ và thị trường, các nước lớn có khả năng
chi phối chính trị, văn hóa, xã hội.

+Chủ thể XKTB có sự thay đổi lớn: Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng to
lớn,xuất hiện thêm nhiều chủ thể XKTB từ các nước đang phát triển.

+Hình thức xuất khẩu TB rất đa dạng, sự đan xen với xuất khẩu hàng hóa ngày càng tăng. Sự
kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám,...
không ngừng tăng.

+Sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản dần được loại bỏ, thay vào đó
nguyên tắc hợp tác cùng có lợi được tôn trọng và đề cao

11

You might also like