Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

AISC MANUAL 14TH EDITION

Chap C. Tính toán sự ổn định của kết cấu


C1. Các yêu cầu ổn định chung
Sự ổn định phải được đảm bảo cho toàn bộ kết cấu và cho từng phần tử của nó. Phải xem xét
ảnh hưởng của tất cả các yếu tố sau đây đến độ ổn định của kết cấu và các phần tử của nó:
(a) các biến dạng uốn, cắt và biến dạng dọc trục, và tất cả các biến dạng thành phần và liên kết
khác góp phần gây ra chuyển vị của kết cấu;
(b) Tính đến hiệu ứng P-Δ và P-δ, tức là phương pháp phân tích bậc 2;
(c) các khiếm khuyết hình học của kết cấu do có sự dung sai giữa thiết kế và thực tế trong chế
tạo và lắp đặt
(d) Giảm độ cứng ở giai đoạn ngoài đàn hồi do sự xuất hiện của ứng suất dư;
(e) sự không chắc chắn về hệ thống, bộ phận, độ bền và độ cứng của mối nối.
Tất cả các hiệu ứng phụ thuộc vào tải trọng sẽ được tính toán ở mức tải tương ứng với tổ hợp
tải LRFD hoặc 1,6 lần tổ hợp tải ASD. Cho phép sử dụng bất kỳ phương pháp thiết kế hợp lý
nào để đảm bảo độ ổn định có tính đến tất cả các tác động được liệt kê; điều này bao gồm các
phương pháp được xác định trong Phần C1.1 và C1.2.
Lưu ý cho người dùng: Xem Phần chú thích C1 và Bảng C-C1.1 để biết giải thích về cách
đáp ứng các yêu cầu (a) đến (e) của Phần C1 trong các phương pháp thiết kế được liệt kê trong
Phần C1.1 và C1.2.
1. Phương pháp phân tích trực tiếp
Phương pháp phân tích trực tiếp trong thiết kế được phép áp dụng cho tất cả các kết cấu và có
thể dựa trên phân tích đàn hồi hoặc không đàn hồi. Khi thiết kế bằng phân tích đàn hồi, cường
độ yêu cầu(required strengths) phải được tính toán theo Mục C2 và tính toán cường độ khả
dụng(available strengths) theo Mục C3. Đối với thiết kế theo phương pháp phân tích nâng cao
phải đáp ứng quy định tại Mục 1.1 và Mục 1.2 hoặc 1.3 Phụ lục 1.
2. Phương pháp phân tích thay thế
Phương pháp chiều dài hiệu dụng và phương pháp phân tích bậc nhất, cả hai đều được xác
định trong Phụ lục 7, đều dựa trên phân tích đàn hồi và được phép thay thế cho phương pháp
phân tích trực tiếp đối với các kết cấu thỏa mãn các giới hạn quy định trong phụ lục đó.
C2. Tính toán cường độ yêu cầu
Đối với phương pháp phân tích trực tiếp trong thiết kế, cường độ yêu cầu của các bộ phận kết
cấu phải được xác định từ phân tích đàn hồi phù hợp với Mục C2.1. Việc phân tích phải bao
gồm việc xem xét các khiếm khuyết ban đầu theo Mục C2.2 và điều chỉnh độ cứng theo Mục
C2.3.
1. Yêu cầu phân tích chung
Việc phân tích kết cấu phải tuân theo các yêu cầu sau:
(a) Việc phân tích phải xem xét các biến dạng uốn, cắt và biến dạng dọc trục cũng như tất cả
các biến dạng thành phần và liên kết khác góp phần gây ra chuyển vị của kết cấu. Việc phân
tích phải kết hợp việc giảm tất cả độ cứng được coi là góp phần vào sự ổn định của kết cấu,
như quy định trong Phần C2.3.
(b) Phân tích phải là phân tích bậc hai xem xét cả ảnh hưởng P-Δ và P-δ, ngoại trừ việc cho
phép bỏ qua ảnh hưởng của P-δ đến phản ứng của kết cấu khi các điều kiện sau được thỏa
mãn:
(1) kết cấu chịu tải trọng lực chủ yếu thông qua các cột, tường hoặc khung thẳng đứng.
(2) tỷ lệ độ chuyển vị lớn nhất theo phân tích bậc 2 và độ chuyển vị lớn nhất theo phân tích
bậc 1 (cả hai được xác định theo các tổ hợp tải trọng LRFD hoặc 1,6 lần tổ hợp tải trọng ASD,
với độ cứng được điều chỉnh theo quy định tại Mục C2.3) ở tất cả các tầng đều bằng hoặc nhỏ
hơn hơn 1,7.
(3) không quá một phần ba tổng trọng lực tác dụng lên kết cấu được đỡ bởi các cột là một
phần của khung chịu mômen theo hướng chuyển vị đang xét. Trong mọi trường hợp, cần phải
xem xét hiệu ứng P-δ khi đánh giá từng bộ phận chịu nén và uốn.
Lưu ý người dùng: Phân tích bậc hai chỉ có P-Δ (phân tích bỏ qua ảnh hưởng của P-δ lên
phản ứng của kết cấu) được cho phép trong các điều kiện được liệt kê. Trong trường hợp này,
yêu cầu xét đến hiệu ứng P-δ trong đánh giá từng cấu kiện có thể được thỏa mãn bằng cách áp
dụng hệ số nhân B1 xác định tại Phụ lục 8 cho cường độ uốn yêu cầu của cấu kiện.
Được phép sử dụng phương pháp phân tích bậc hai gần đúng được cung cấp trong Phụ lục 8.
(c) Việc phân tích phải xem xét tất cả trọng lực và các tải trọng tác dụng khác có thể ảnh
hưởng đến độ ổn định của kết cấu
Lưu ý cho người dùng: Điều quan trọng là phải đưa vào phân tích tất cả các tải trọng trọng
lực, kể cả tải trọng lên các cột nghiêng và các bộ phận khác không thuộc hệ chịu lực ngang.
d) Đối với thiết kế bằng LRFD, việc phân tích bậc hai phải được thực hiện theo tổ hợp tải
LRFD. Đối với thiết kế của ASD, phân tích bậc hai phải được thực hiện dưới 1,6 lần tổ hợp tải
ASD và kết quả sẽ được chia cho 1,6 để đạt được cường độ yêu cầu của các bộ phận.
2. Xem xét những khiếm khuyết ban đầu của hệ thống
Ảnh hưởng của các khiếm khuyết ban đầu ở vị trí giao điểm của các cấu kiện đến độ ổn định
của kết cấu phải được tính đến bằng cách lập mô hình trực tiếp các khiếm khuyết này trong
phân tích như quy định tại Mục C2.2a hoặc bằng cách áp dụng các tải trọng giả định như quy
định tại Mục C2.2b.
Lưu ý người dùng: Các khiếm khuyết cần được xem xét trong phần này là các khiếm khuyết
ở vị trí giao điểm của các cấu kiện (khiếm khuyết của hệ thống). Trong các cấu trúc xây dựng
điển hình, sự không hoàn hảo quan trọng của loại này là độ lệch của cột. Không cần xem xét
độ không thẳng ban đầu của các bộ phận riêng lẻ (các bộ phận không hoàn hảo) trong phân
tích kết cấu khi sử dụng các quy định của phần này; nó được tính đến trong các điều khoản
thiết kế bộ phận chịu nén của Chương E và không cần phải xem xét rõ ràng trong phân tích
miễn là nó nằm trong giới hạn quy định trong Code of Standard Practice. Phụ lục 1, Mục 1.2
cung cấp phần mở rộng cho phương pháp phân tích trực tiếp bao gồm mô hình hóa các khiếm
khuyết của cấu kiện (độ không thẳng ban đầu) trong phân tích kết cấu.
2a. Mô hình hóa trực tiếp sự khiếm khuyết
Trong mọi trường hợp, được phép tính đến ảnh hưởng của các khiếm khuyết ban đầu của hệ
thống bằng cách đưa trực tiếp các khiếm khuyết vào phân tích. Kết cấu phải được phân tích
với các điểm giao nhau của các bộ phận bị chuyển vị khỏi vị trí ban đầu của chúng. Độ lớn
của chuyển vị ban đầu phải là lượng lớn nhất được xem xét trong thiết kế; mô hình chuyển vị
ban đầu phải sao cho có tác dụng gây mất ổn định lớn nhất.
Lưu ý cho người dùng: Các chuyển vị ban đầu có cấu hình tương tự như cả hai chuyển vị do
tải trọng và sự oàn dự kiến phải được xem xét khi mô hình hóa các khuyết tật. Độ lớn của
chuyển vị ban đầu phải là dựa trên dung sai cho phép của kết cấu, như được quy định trong
Code of Standard Practice hoặc các yêu cầu quản lý khác, hoặc dựa trên những khiếm khuyết
thực tế nếu biết.
Trong phân tích các kết cấu chịu tải trọng trọng lực chủ yếu thông qua các cột, tường hoặc
khung thẳng đứng danh nghĩa, trong đó tỷ số giữa độ chuyển vị theo phân tích bậc 2 lớn nhất
và độ chuyển vị theo phân tích bậc 1 lớn nhất (cả hai đều được xác định cho tổ hợp tải trọng
LRFD hoặc 1,6 lần tổ hợp tải trọng ASD, với độ cứng được điều chỉnh theo quy định tại Mục
C2.3) ở tất cả các tầng ≤ 1,7, cho phép đưa các khiếm khuyết ban đầu của hệ thống vào phân
tích các tổ hợp tải trọng chỉ có trọng lực và không được phép đưa vào phân tích các tổ hợp tải
trọng theo phương ngang (lateral loads).
2b. Sử dụng tải giả định để thể hiện sự khiếm khuyết
Đối với kết cấu chịu tải trọng trọng lực chủ yếu qua các cột, tường hoặc khung thẳng đứng
danh nghĩa, cho phép sử dụng tải trọng giả định để biểu diễn ảnh hưởng của các khuyết khiếm
hệ thống ban đầu tại vị trí giao điểm của các cấu kiện theo yêu cầu của phần này. Tải trọng giả
định phải được áp dụng cho mô hình kết cấu dựa trên hình dạng danh nghĩa của nó.
Lưu ý người dùng: Nói chung, khái niệm tải trọng giả định có thể áp dụng cho tất cả các loại
kết cấu và cho các khuyết điểm ở vị trí cả hai điểm giao nhau của các cấu kiện và các điểm
dọc theo các cấu kiện, ngoại trừ các yêu cầu cụ thể trong các Mục C2.2b(a) đến C2. 2b(d) chỉ
áp dụng cho loại cấu trúc cụ thể và loại khiếm khuyết của hệ thống được xác định ở đây
(a) Tải trọng giả định sẽ được áp dụng như tải trọng ngang ở mọi mức sàn. Các tải trọng giả
định sẽ cộng thêm vào các tải trọng ngang khác và phải được áp dụng trong tất cả các tổ hợp
tải trọng, ngoại trừ như được chỉ ra trong Mục C2.2b(d). Độ lớn của tải trọng giả định sẽ là:

(b) Tải trọng giả định ở mức sàn bất kỳ, Ni, sẽ được phân bổ trên mức đó theo cách tương tự
như tải trọng trọng lực ở mức đó. Tải trọng giả định phải được tác dụng theo hướng tạo ra hiệu
ứng mất ổn định lớn nhất.
Lưu ý người dùng: Việc sử dụng tải trọng giả định có thể dẫn đến lực cắt đế giả định bổ sung
(thường là nhỏ) trong kết cấu. Các phản lực ngang ở móng có thể đạt được bằng cách tác dụng
thêm một lực ngang ở đáy kết cấu, bằng và ngược hướng với tổng tất cả các tải trọng giả định,
phân bố giữa các phần tử chịu tải thẳng đứng theo cùng tỷ lệ với trọng lực được hỗ trợ bởi các
phần tử đó. Tải trọng giả định cũng có thể dẫn đến các hiệu ứng lật bổ sung, không phải là hư
cấu.
(c) Hệ số tải trọng danh nghĩa 0,002 trong Công thức C2-1 được dựa trên độ nghiêng cho phép
ban đầu của kết cấu so với phương thẳng đứng không quá 1/500; trong trường hợp độ nghiêng
ban đầu lớn hơn 1/500 thì cho phép điều chỉnh hệ số tải trọng giả định theo tỉ lệ đó.
Lưu ý người dùng: Độ lệch 1/500 thể hiện dung sai tối đa về độ thẳng của cột được quy định
trong Code of Standard Practice. Trong một số trường hợp, các dung sai được chỉ định khác,
chẳng hạn như các dung sai về vị trí mặt bằng của cột, sẽ ảnh hưởng và sẽ yêu cầu dung sai độ
thẳng chặt chẽ hơn.
(d) Đối với các kết cấu trong đó tỷ số độ chuyển vị ngang lớn nhất theo phân tích bậc 2 với
chuyển vị ngang lớn nhất theo phân tích bậc 1 (cả hai được xác định theo các tổ hợp tải trọng
theo LRFD hoặc 1,6 lần tổ hợp tải trọng theo ASD, với độ cứng được giảm theo quy định tại
Mục C2.3) ở tất cả các tầng là ≤ 1,7 thì cho phép áp dụng tải trọng giả định Ni với tổ hợp tải
trọng chỉ có tải trọng trọng lực và không được có những tải trọng theo phương ngang(lateral
loads.) khác.
3. Điều chỉnh độ cứng
Việc phân tích kết cấu để xác định cường độ yêu cầu của các bộ phận phải sử dụng độ cứng bị
giảm như sau:
(a) Hệ số 0,80 sẽ được áp dụng cho tất cả các độ cứng được coi là góp phần vào sự ổn định
của kết cấu. Cho phép áp dụng hệ số suy giảm này cho tất cả các độ cứng trong kết cấu.
Lưu ý người dùng: Trong một số trường hợp, việc áp dụng giảm độ cứng cho một số bộ phận
chứ không phải cho các bộ phận khác có thể dẫn đến biến dạng nhân tạo của kết cấu dưới tác
dụng của tải trọng và có thể xảy ra sự phân bố lại lực ngoài ý muốn. Điều này có thể tránh
được bằng cách áp dụng sự giảm cho tất cả các bộ phận, kể cả những bộ phận không đóng góp
vào sự ổn định của kết cấu.
(b) Hệ số bổ sung, τb, phải được áp dụng cho độ cứng uốn của tất cả các cấu kiện có độ cứng
uốn được coi là góp phần vào sự ổn định của kết cấu. Đối với các bộ phận không tổ

hợp(noncomposite members), τb phải được xác định như sau: (xem Phần I1.5 để biết định
nghĩa về τb cho các bộ phận tổ hợp(composite members).

Lưu ý người dùng: Tóm tắt lại, Phần (a) và (b) yêu cầu sử dụng 0,8τb lần độ cứng uốn đàn
hồi danh nghĩa và 0,8 lần độ cứng đàn hồi danh nghĩa khác cho các cấu kiện thép kết cấu trong
phân tích.
(c) Trong các kết cấu mà Mục C2.2b có thể áp dụng, thay vì sử dụng τb < 1,0 trong đó αPr/Pns
> 0,5, được phép sử dụng τb = 1,0 cho tất cả các thành phần không tổ hợp nếu tải trọng giả
định là 0,001αYi [trong đó Yi như được định nghĩa trong Mục C2.2b(a)] được áp dụng ở tất cả
các mức sàn, theo quy định tại Mục C2.2b(b), trong tất cả các tổ hợp tải trọng. Các tải trọng
giả định này sẽ được cộng thêm vào các tải trọng tổ hợp đó, nếu có, được sử dụng để tính đến
ảnh hưởng của các khiếm khuyết ban đầu ở vị trí các điểm giao nhau của các cấu kiện và
không phải tuân theo các quy định của Mục C2.2b(d).
(d) Khi các bộ phận bao gồm các vật liệu không phải là thép kết cấu được coi là góp phần vào
sự ổn định của kết cấu và các quy tắc quản lý cũng như thông số kỹ thuật đối với các vật liệu
khác yêu cầu giảm độ cứng nhiều hơn thì mức giảm độ cứng lớn hơn đó sẽ được áp dụng cho
các bộ phận đó.
C3. TÍNH TOÁN CƯỜNG ĐỘ KHẢ DỤNG
Đối với phương pháp phân tích trực tiếp, cường độ khả dụng của các cấu kiện và mối nối phải
được tính toán theo các quy định từ Chương D đến Chương K, nếu có, mà không xem xét
thêm đến độ ổn định tổng thể của kết cấu. Chiều dài có ích đối với oằn uốn của tất cả các cấu
kiện phải được lấy bằng chiều dài không giằng trừ khi giá trị nhỏ hơn được chứng minh bằng
phân tích hợp lý. Hệ giằng nhằm xác định chiều dài không giằng của các cấu kiện phải có đủ
độ cứng và độ bền để kiểm soát chuyển động của cấu kiện tại các điểm giằng.
Lưu ý người dùng: Các phương pháp thỏa mãn yêu cầu giằng này được nêu trong Phụ lục 6.
Các yêu cầu trong Phụ lục 6 không áp dụng cho giằng nằm trong thiết kế hệ chịu lực ngang
của kết cấu tổng thể.

You might also like