Professional Documents
Culture Documents
Aisc 360-16
Aisc 360-16
(b) Tải trọng giả định ở mức sàn bất kỳ, Ni, sẽ được phân bổ trên mức đó theo cách tương tự
như tải trọng trọng lực ở mức đó. Tải trọng giả định phải được tác dụng theo hướng tạo ra hiệu
ứng mất ổn định lớn nhất.
Lưu ý người dùng: Việc sử dụng tải trọng giả định có thể dẫn đến lực cắt đế giả định bổ sung
(thường là nhỏ) trong kết cấu. Các phản lực ngang ở móng có thể đạt được bằng cách tác dụng
thêm một lực ngang ở đáy kết cấu, bằng và ngược hướng với tổng tất cả các tải trọng giả định,
phân bố giữa các phần tử chịu tải thẳng đứng theo cùng tỷ lệ với trọng lực được hỗ trợ bởi các
phần tử đó. Tải trọng giả định cũng có thể dẫn đến các hiệu ứng lật bổ sung, không phải là hư
cấu.
(c) Hệ số tải trọng danh nghĩa 0,002 trong Công thức C2-1 được dựa trên độ nghiêng cho phép
ban đầu của kết cấu so với phương thẳng đứng không quá 1/500; trong trường hợp độ nghiêng
ban đầu lớn hơn 1/500 thì cho phép điều chỉnh hệ số tải trọng giả định theo tỉ lệ đó.
Lưu ý người dùng: Độ lệch 1/500 thể hiện dung sai tối đa về độ thẳng của cột được quy định
trong Code of Standard Practice. Trong một số trường hợp, các dung sai được chỉ định khác,
chẳng hạn như các dung sai về vị trí mặt bằng của cột, sẽ ảnh hưởng và sẽ yêu cầu dung sai độ
thẳng chặt chẽ hơn.
(d) Đối với các kết cấu trong đó tỷ số độ chuyển vị ngang lớn nhất theo phân tích bậc 2 với
chuyển vị ngang lớn nhất theo phân tích bậc 1 (cả hai được xác định theo các tổ hợp tải trọng
theo LRFD hoặc 1,6 lần tổ hợp tải trọng theo ASD, với độ cứng được giảm theo quy định tại
Mục C2.3) ở tất cả các tầng là ≤ 1,7 thì cho phép áp dụng tải trọng giả định Ni với tổ hợp tải
trọng chỉ có tải trọng trọng lực và không được có những tải trọng theo phương ngang(lateral
loads.) khác.
3. Điều chỉnh độ cứng
Việc phân tích kết cấu để xác định cường độ yêu cầu của các bộ phận phải sử dụng độ cứng bị
giảm như sau:
(a) Hệ số 0,80 sẽ được áp dụng cho tất cả các độ cứng được coi là góp phần vào sự ổn định
của kết cấu. Cho phép áp dụng hệ số suy giảm này cho tất cả các độ cứng trong kết cấu.
Lưu ý người dùng: Trong một số trường hợp, việc áp dụng giảm độ cứng cho một số bộ phận
chứ không phải cho các bộ phận khác có thể dẫn đến biến dạng nhân tạo của kết cấu dưới tác
dụng của tải trọng và có thể xảy ra sự phân bố lại lực ngoài ý muốn. Điều này có thể tránh
được bằng cách áp dụng sự giảm cho tất cả các bộ phận, kể cả những bộ phận không đóng góp
vào sự ổn định của kết cấu.
(b) Hệ số bổ sung, τb, phải được áp dụng cho độ cứng uốn của tất cả các cấu kiện có độ cứng
uốn được coi là góp phần vào sự ổn định của kết cấu. Đối với các bộ phận không tổ
hợp(noncomposite members), τb phải được xác định như sau: (xem Phần I1.5 để biết định
nghĩa về τb cho các bộ phận tổ hợp(composite members).
Lưu ý người dùng: Tóm tắt lại, Phần (a) và (b) yêu cầu sử dụng 0,8τb lần độ cứng uốn đàn
hồi danh nghĩa và 0,8 lần độ cứng đàn hồi danh nghĩa khác cho các cấu kiện thép kết cấu trong
phân tích.
(c) Trong các kết cấu mà Mục C2.2b có thể áp dụng, thay vì sử dụng τb < 1,0 trong đó αPr/Pns
> 0,5, được phép sử dụng τb = 1,0 cho tất cả các thành phần không tổ hợp nếu tải trọng giả
định là 0,001αYi [trong đó Yi như được định nghĩa trong Mục C2.2b(a)] được áp dụng ở tất cả
các mức sàn, theo quy định tại Mục C2.2b(b), trong tất cả các tổ hợp tải trọng. Các tải trọng
giả định này sẽ được cộng thêm vào các tải trọng tổ hợp đó, nếu có, được sử dụng để tính đến
ảnh hưởng của các khiếm khuyết ban đầu ở vị trí các điểm giao nhau của các cấu kiện và
không phải tuân theo các quy định của Mục C2.2b(d).
(d) Khi các bộ phận bao gồm các vật liệu không phải là thép kết cấu được coi là góp phần vào
sự ổn định của kết cấu và các quy tắc quản lý cũng như thông số kỹ thuật đối với các vật liệu
khác yêu cầu giảm độ cứng nhiều hơn thì mức giảm độ cứng lớn hơn đó sẽ được áp dụng cho
các bộ phận đó.
C3. TÍNH TOÁN CƯỜNG ĐỘ KHẢ DỤNG
Đối với phương pháp phân tích trực tiếp, cường độ khả dụng của các cấu kiện và mối nối phải
được tính toán theo các quy định từ Chương D đến Chương K, nếu có, mà không xem xét
thêm đến độ ổn định tổng thể của kết cấu. Chiều dài có ích đối với oằn uốn của tất cả các cấu
kiện phải được lấy bằng chiều dài không giằng trừ khi giá trị nhỏ hơn được chứng minh bằng
phân tích hợp lý. Hệ giằng nhằm xác định chiều dài không giằng của các cấu kiện phải có đủ
độ cứng và độ bền để kiểm soát chuyển động của cấu kiện tại các điểm giằng.
Lưu ý người dùng: Các phương pháp thỏa mãn yêu cầu giằng này được nêu trong Phụ lục 6.
Các yêu cầu trong Phụ lục 6 không áp dụng cho giằng nằm trong thiết kế hệ chịu lực ngang
của kết cấu tổng thể.